Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On January 19, 2012
L?CH S? V??NG QU?C CHAMPAV??ng Qu?c Champa là m?t Qu?c gia ??c l?p, t?n t?i t? kho?ng th? k? th? 7 ??n n?m 1832 trên ph?n ??t nay thu?c mi?n Trung Vi?t Nam. C??ng v?c c?a Ch?m Pa lúc m? r?ng nh?t tr?i dài t? dãy núi Hoành S?n ? phía B?c cho ??n Bình Thu?n ? phía Nam và t? bi?n ?ông cho ??n t?n mi?n núi phía Tây c?a n??c Lào ngày nay. V?n hóa Ch?m Pa ch?u ?nh h??ng c?a v?n hóa Trung Qu?c, Campuchia và ?n ?? ?ã t?ng phát tri?n r?c r? v?i nh?ng ??nh cao là phong cách ??ng D??ng và phong cách M? S?n A1 mà nhi?u di tích ??n tháp và các công trình ?iêu kh?c ?á, ??c bi?t là các hi?n v?t có hình linga v?n còn t?n t?i cho ??n ngày nay cho th?y ?nh h??ng c?a ?n giáo và Ph?t giáo là hai tôn giáo chính c?a ch? nhân v??ng qu?c Ch?m Pa x?a.Ch?m Pa h?ng th?nh nh?t vào th? k? th? 9 và 10 và sau ?ó d?n d?n suy y?u d??i s?c ép Nam ti?n c?a ??i Vi?t t? phía B?c và các cu?c chi?n tranh v?i ?? qu?c Khmer. N?m 1471, Ch?m Pa ch?u th?t b?i n?ng n? tr??c ??i Vi?t và n??c Ch?m Pa th?ng nh?t ch?m d?t t?n t?i. Ph?n lãnh th? còn l?i c?a Ch?m Pa ti?p t?c b? các chúa Nguy?n thôn tính l?n h?i và ??n n?m 1832 toàn b? v??ng qu?c chính th?c b? sáp nh?p vào Vi?t Nam.T? th? k? th? 7 ??n th? k? th? 15, lãnh th? c?a v??ng qu?c Ch?m Pa có nhi?u bi?n ??ng v? biên gi?i phía b?c v?i ??i Vi?t. Lãnh th? Ch?m Pa ban ??u là vùng mà ngày nay bao g?m các t?nh t? Qu?ng Bình, Bình ??nh cho ??n Ninh Thu?n, Bình Thu?n[1]. ??n n?m 1069, vua Rudravarman (Ch? C?) c?a Ch?m Pa ?ã nh??ng ba châu ??a Lý (L? Ninh, Qu?ng Bình ngày nay), Ma Linh (B?n H?i, Qu?ng Tr? ngày nay) và B? Chính (các huy?n Qu?ng Tr?ch, B? Tr?ch, Tuyên Hòa t?nh Qu?ng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông c?a ??i Vi?t và lãnh th? Ch?m Pa ch? còn t? Th?a Thiên - Hu? ngày nay tr? xu?ng.[2] ??n n?m 1306, vua Jayasimhavarman III (Ch? Mân) nh??ng hai châu Ô, Lý cho nhà Tr?n. Nhà Tr?n ??i hai châu này thành hai châu Thu?n và châu Hóa nay là vùng t? Th?a Thiên – Hu? cho ??n ?à N?ng.[3] ??n n?m 1471, vua Lê Thánh Tông sau khi ?ánh b?i quân Chiêm và sáp nh?p ph?n l?n lãnh th? Chiêm ?ã xác l?p lãnh th? Chiêm ch? bao g?m các t?nh Phú Yên – Khánh Hòa và Ninh Thu?n – Bình Thu?n ngày nay.[4]V? phía Tây, tuy lãnh th? Ch?m Pa bao g?m c? Tây Nguyên và ?ôi khi còn m? r?ng sang t?n Lào ngày nay, nh?ng ng??i Ch?m v?n duy trì l?i s?ng c?a nh?ng ng??i ?i bi?n v?i các ho?t ??ng th??ng m?i ???ng bi?n, và ch? ??nh c? ? khu v?c ??ng b?ng ven bi?n mi?n Trung Vi?t Nam. N?m 1471, vua Lê Thánh Tông tách ph?n ??t thu?c Tây Nguyên ngày nay thành n??c Nam Bàn[5] và t? ?ây mi?n ??t này không còn thu?c c??ng v?c c?a Ch?m Pa.Các ??a khuV??ng qu?c Ch?m Pa trong l?ch s? bao g?m n?m ??a khu v?i tên g?i xu?t phát t? l?ch s? ?n ??. V? trí và lãnh th? c?a các khu v?c này nh? sau[1]:Indrapura: Trung tâm c?a ??a khu này là thành ph? Indrapura, ngày này n?m ? khu v?c ??ng D??ng, thu?c ??a ph?n huy?n Th?ng Bình, t?nh Qu?ng Nam ngày nay. "Thành ph? S? t?" Singhapura c?ng có th?i là trung tâm c?a ??a khu này, nay là Trà Ki?u, n?m g?n ?à N?ng và cách không xa thánh ??a M? S?n, n?i v?n còn nhi?u di tích ??n tháp c?a ng??i Ch?m. ??a khu này lúc m? r?ng nh?t bao g?m các t?nh Qu?ng Bình, Qu?ng Tr?, và Th?a Thiên–Hu? ngày nay. Amaravati: Nay là thành ph? ?à N?ng, t?nh Qu?ng Nam và Qu?ng Ngãi. Vijaya: Th? ph? c?ng là thành ph? cùng tên Vijaya mà trong sách s? c?a ng??i Vi?t g?i là Ph?t Th? (th?i Lý) hay Chà Bàn (th?i Lê) mà sách s? Vi?t vi?t nh?m thành ?? Bàn [6] n?m ? g?n Qui Nh?n thu?c t?nh Bình ??nh ngày nay. Lúc m? r?ng nh?t, ??a khu Vijaya ki?m soát toàn b? các t?nh Qu?ng Nam, Qu?ng Ngãi, Bình ??nh và Phú Yên ngày nay. Kauthara: Th? ph? là thành ph? Kauthara, nay là Nha Trang thu?c t?nh Khánh Hòa. Panduranga: Th? ph? là thành ph? Panduranga ngày nay là th? xã Phan Rang thu?c t?nh Ninh Thu?n. Panduranga là lãnh th? Ch?m Pa cu?i cùng b? sáp nh?p b?i ??i Vi?t và d??i th?i các chúa Nguy?n c?ng nh? ??u th?i Nguy?n ???c g?i là Thu?n Thành. Nhân kh?uNg??i Ch?m trong th?i v??ng qu?c Ch?m Pa l?ch s? bao g?m hai b? t?c chính là b? t?c D?a (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa). B? t?c D?a s?ng ? Amaravati và Vijaya trong khi b? t?c Cau s?ng ? Kauthara và Pandaranga. Hai b? t?c có nh?ng cách sinh ho?t và trang ph?c khác nhau và có nhi?u l?i ích xung ??t d?n ??n tranh ch?p th?m chí chi?n tranh. Nh?ng trong l?ch s? v??ng qu?c Ch?m Pa các m?i xung ??t này th??ng ???c gi?i quy?t ?? duy trì s? th?ng nh?t c?a ??t n??c thông qua hôn nhân.[7]Bên c?nh ng??i Ch?m, ch? nhân v??ng qu?c Ch?m Pa x?a còn có c? các t?c ng??i thi?u s? g?c Nam ??o và Mon-Khmer và ? phía B?c Ch?m Pa còn có c? ng??i Vi?t.Th? ch? chính tr?Các h?c gi? hi?n ??i quan ni?m th? ch? chính tr? và hành chính c?a v??ng qu?c Ch?m Pa theo hai thuy?t ??i l?p nhau. M?c dù các h?c gi? ??u th?ng nh?t vi?c v??ng qu?c Ch?m Pa b? chia nh? thành n?m ??a khu (Panduranga, Kauthara, Amaravati, Vijaya, Indrapura) ch?y t? Nam lên B?c d?c theo b? bi?n Vi?t Nam ngày nay và ???c th?ng nh?t b?i ngôn ng?, v?n hóa và di s?n chung. Tuy nhiên, các h?c gi? không th?ng nh?t vi?c n?m ??a khu này có cùng thu?c m?t th?c th? chính tr? ??n nh?t, hay là các ??a khu này hoàn toàn ??c l?p v?i nhau nh? là các ti?u qu?c. Nhi?u tác gi? quan ni?m Ch?m Pa là m?t liên bang bao g?m nhi?u ti?u qu?c, tuy có chính quy?n trung ??ng th?ng nh?t nh?ng các ti?u v??ng hoàn toàn t? quy?t cai tr? ti?u qu?c c?a mình. M?t th?c t? là không ph?i lúc nào các tài li?u l?ch s? c?ng phong phú ??i v?i m?i ??a khu ? t?t c? các giai ?o?n. Ví d?, vào th? k? th? 10, tài li?u v? Indrapura r?t phong phú trong khi ? th? k? th? 12 l?i r?t giàu tài li?u v? Vijaya; còn sau th? k? th? 15, tài li?u v? Panduranga r?t phong phú. M?t s? h?c gi? xem vi?c bi?n ??ng c?a các tài li?u l?ch s? trên là ph?n ánh vi?c di d?i c?a th? ?ô Ch?m Pa và quan ni?m Ch?m Pa n?u không ph?i là m?t th? ch? chính tr? ??n nh?t thì c?ng là m?t liên bang các ti?u qu?c và vi?c tài li?u phong phú chính minh ch?ng cho ?i?u này là th? ?ô c?a Ch?m Pa. Các h?c gi? nh?n th?y, th? k? th? 10 tài li?u v? Indrapura r?t phong phú, có l? xu?t phát t? lý do ?ây là th? ?ô c?a Ch?m Pa. Các h?c gi? khác không nh?t trí nh? v?y và cho r?ng Ch?m Pa ch?a bao gi? là m?t qu?c gia th?ng nh?t và không cho r?ng vi?c giàu c? li?u ? m?t giai ?o?n l?ch s? là c? s? ?? cho r?ng ?ó là th? ?ô c?a qu?c gia th?ng nh?t[8].v?n hóa ngh? thu?tV?n hóa Trung Qu?c, ?n ?? và Campuchia ??u có ?nh h??ng ??n v?n hóa Ch?m Pa. Ban ??u v?n hóa Ch?m Pa g?n v?i v?n hóa và truy?n th?ng tôn giáo Trung Qu?c, nh?ng t? th? k? th? 4 v??ng qu?c Phù Nam ? Campuchia và mi?n Nam Vi?t Nam ngày nay ?ã truy?n bá v?n minh ?n ?? vào xã h?i Ch?m. Ti?ng Ph?n tr? thành ngôn ng? h?c thu?t, và ?n giáo, ??c bi?t là Si-va giáo, tr? thành qu?c giáo. T? th? k? th? 10, các th??ng nhân ? R?p ?ã mang tôn giáo và v?n hóa ??o H?i vào khu v?c. Ch?m Pa có vai trò trung chuy?n quan tr?ng trên con ???ng h? tiêu t? v?nh Pec-xich t?i mi?n Nam Trung qu?c và sau này là con ???ng th??ng m?i trên bi?n c?a ng??i ? R?p, xu?t phát t? bán ??o ?ông D??ng - n?i xu?t kh?u tr?m h??ng. M?c dù gi?a Ch?m Pa và ?? qu?c Khmer luôn có chi?n tranh, nh?ng th??ng m?i và v?n hóa v?n ???c giao l?u v? c? hai phía. Hoàng gia c?a hai v??ng qu?c c?ng th??ng xuyên l?y l?n nhau. Ch?m Pa còn có quan h? th??ng m?i và v?n hóa v?i các ?? qu?c hùng m?nh trên bi?n nh? Srivijaya và sau này v?i Majapahit trên bán ??o Mã Lai.Giai ?o?n ngh? thu?t mi?n b?c: Th? k? 7 – th? k? 11T? th? k? th? 4, ng??i Ch?m pa ?ã xây d?ng ??n th? t?i M? S?n[9] nh?ng không còn t?i ngày nay. Các di tích ??n tháp còn l?i ???c phát hi?n có niên ??i s?m nh?t c?ng là vào n?a sau c?a th? k? th? 7. Các ngôi ??n tháp này thu?c th?i gian này cho ??n n?m 980 ??u thu?c cùng m?t giai ?o?n là giai ?o?n ngh? thu?t mi?n b?c. Các tháp thu?c giai ?o?n này ??u ??n gi?n, làm b?ng g?ch nung màu ??, có chân ?? là m?t kh?i hình ch? nh?t, các m?t tháp ??u có b? trí mi c?a ?n, tr? h??ng có c?a chính, trên ?ó có nhi?u hình ?i?u kh?c c?a các v? th?n. Mi c?a ???c ?? b?ng b? khung các tr? b? t??ng cao và h?p cùng các ??u c?t xòe ngang. C?ng chính các tr? b? t??ng này ?? vòm c?a. Trên vòm và trên các tr? b? t??ng có ch?m kh?c các phù ?iêu theo th?n tho?i ?n ??, v?i các ch?m kh?c t?p trung chính ? ??u c?t. Mái tháp th??ng g?m ba t?ng, m?i t?ng ??u có bao l?n nh? ? phía trên mi c?a. Bên trong tháp ??u có b? th? v?i hình ?nh tri?u ?ình theo ki?u ?n ??.Theo các tác gi? Philippe Stern (Ngh? thu?t Champa, 1942) and Jean Boisselier (?iêu kh?c Champa, 1963) ???c nhà s? h?c Jean-François Hubert t?ng h?p[10] thì có th? phân chia giai ?o?n này thành các phong cách sau:Phong cách M? S?n E1: Th? k? 7 - th? k? 8Phong cách ???c xác ??nh s?m nh?t là M? S?n E1. Phong cách th?i k? này ph?n ánh ?nh h??ng t? bên ngoài c?a v?n hóa ti?n Angkor và c? ngh? thu?t Dvaravati và mi?n Nam ?n ??[11].Tiêu bi?u cho phong cách M? S?n E 1 là ? b? th? bên trong tháp làm b?ng ?á cát k?t có hình d?ng linga t??ng tr?ng cho ng?n núi là nhà c?a th?n Si-va, xung quanh có ch?m các tu s? ?ang tu luy?n trong r?ng núi hay hang ??ng, v?i các hình d?ng nh? ?ang ch?i các lo?i nh?c c? khác nhau, ?ang giáo hóa cho các loài v?t và c? ?ang th? giãn. M?t công trình tiêu bi?u n?a là phù ?iêu ? trên l?i vào chính ch?m kh?c bu?i bình minh th?i ??i theo th?n tho?i ?n ??. Th?n Vishnu ?ang n?m ng? ? d??i ?áy bi?n, trên gi??ng là r?n th?n Sesha. M?t bông hoa sen t? t? m?c lên t? r?n c?a th?n. Th?n Brahma t? t? ??ng lên trong bông hoa sen ?ó ?? t?o ra c? v? tr? này[12][13].Phong cách ??ng D??ng: Th? k? 9 - th? k? 10Phong cách ??ng D??ng m? ??u b?ng các tháp Hòa Lai (n?a ??u th? k? 9) v?i các vòm c?a nhi?u m?i tròn v?i các tr? b? t??ng hình bát giác làm b?ng ?á cát k?t v?i các trang trí hình lá u?n cong. Sang ??ng D??ng (n?a sau th? k? th? 9) các trang trí chuy?n thành nh?ng hình hoa lá h??ng ra ngoài. Các tháp thu?c phong cách ??ng D??ng ??u có nh?ng hàng tr? b? t??ng và vòm c?a kh?e kh?n và có góc c?nh. ?ây c?ng là ?i?m khác bi?t gi?a phong cách ??ng D??ng và M? S?n. ??nh cao c?a phong cách là ki?n trúc m?t tu vi?n Ph?t giáo vào cu?i th? k? 9. B?c t??ng tu vi?n dài ??n m?t cây s? và có r?t nhi?u t??ng Ph?t. R?t ti?c là di tích ?ã b? phá h?y nh?ng nhi?u h?c gi? cho r?ng khi còn nguyên v?n, di tích này c?ng gi?ng nh? các tu vi?n Ph?t giáo ? mi?n B?c ?n ??. M?t s? hi?n v?t thu?c di tích còn ???c gi? l?i ? các b?o tàng cho th?y ?iêu kh?c th?i k? này có tính uy?n chuy?n, phong phú và th? hi?n nh?ng hình kh?c g?n g?i v?i chính ngu?i Ch?m h?n là nh?ng ?nh t??ng c?a các v? th?n. Các b?c t??ng có m?i và môi dày và không h? c??i[14]. Các ?? tài là ??c Ph?t, các v? s?, các h? pháp dvarapalas, b? tát Avalokiteshvara (Quán Th? Âm) và n? th?n tình th??ng Tara, ng??i ???c xem là v? c?a Avalokiteshvara[15].Phong cách M? S?n A1: Th? k? 10 - th? k? 11? phong cách này các tr? b? t??ng ??ng thành ?ôi m?t v?i b?c t??ng hình ng??i ? gi?a nh? trong tháp M? S?n A1. Các vòm c?a có hình dáng ph?c t?p nh?ng không ch?m kh?c. Thân tháp cao vút v?i các t?ng d?n thu nh? l?i. ?ây là th?i k? ch?u ?nh h??ng c?a Java và c?ng là th?i hoàng kim c?a Ch?m Pa[16]. Phong cách này ??t tên theo tòa tháp có cùng ký hi?u nh?ng do h?u qu? c?a chi?n tranh ??n nay không còn. Các tháp thu?c nhóm B, C và D trong khu di tích thánh ??a M? S?n c?ng thu?c phong cách này[17]. ??n th?i k? này, ??i ng??c v?i v? kh?e kho?n và có ph?n d? t?n c?a phong cách ??ng d??ng, phong cách M? S?n A 1 có tính ??ng, d??ng nh? ?ang nh?y múa, v?i v? ??p duyên dáng. Các v? công là các h?a ti?t ???c ?a chu?ng c?a các nhà ?iêu kh?c Ch?m th?i k? này. Bên c?nh ?ó các linh v?t c? trong cu?c s?ng th?c l?n t? th?n tho?i c?ng là m?t ch? ?? ???c ?a thích nh? voi, h?, garuda[18]:Th?n Indra: Th??ng ???c th? hi?n ? t? th? ng?i trên b? v?i tay c?m l??i t?m sét, chân x?p b?ng và m?t con voi là v?t c??i c?a th?n ?ang ph? ph?c.Bò Nan-din: Là v?t c??i c?a th?n Si-va th??ng th? hi?n d??i t? th? n?m và thu?c d?ng t??ng tròn. Ga-ru-da: Là linh v?t mà th?n Vis-nu th??ng c??i và là k? thù c?a r?n th?n Naga. Các phù ?iêu do v?y th??ng ch?m hình chim th?n Ga-ru-da ?ang nu?t ho?c d?m lên ho?c ??p r?n th?n Naga. S? t?: Th??ng là s? t? ??c ? t? th? ng?i v?i hai chân tr??c ??ng. Th?n Si-va: Th??ng ???c th? d??i hình t??ng linga, hay v?i ki?u tóc búi (jatanlinga) ho?c trang trí m?t ng??i (kosa). C?ng thu?c phong cách M? S?n A 1 này còn có c? các nhóm tháp ? Kh??ng M? và các di v?t ? Trà Ki?u. Các công trình Kh??ng M? n?m trong giai ?o?n chuy?n ti?p gi?a ??ng D??ng và M? S?n A1. ??ng th?i ch?u ?nh h??ng c?a Khmer và Java[19]. Nhi?u di v?t ?iêu kh?c c?a Trà Ki?u v?n ???c l?u gi? ? các vi?n b?o tàng ??c bi?t là b? th? Trà Ki?u. B? th? làm g?m b? ?á v?i phù ?iêu và m?t kh?i ligam. Các phù ?iêu ch?m các giai ?o?n khác nhau c?a cu?c ??i Krisna. ? m?i góc c?a b? th? có hình s? t? nâng ?? c? kh?i ki?n trúc n?ng bên trên[20]. C?ng thu?c phong cách Trà Ki?u còn có b? ?á ch?m v? công có hình vuông mà m?i m?t ??u có ch?m hình v? n? apsara ?ang nh?y múa và các nh?c công gandharva ?ang ch?i nh?c. B? ??t trên n?n có ch?m hình ??u s? t? và hình con makara.Giai ?o?n mi?n Nam: Sau th? k? 11 ??n th? k? 15Giai ?o?n này còn ???c g?i là phong cách Bình ??nh hay Tháp M?m. Kh?i ??u b?ng các tháp ? Chánh L? có phong cách chuy?n ti?p t? M? s?n A1 sang Tháp M?m[21]. M?t s? hi?n v?t ? Tháp M?m v?n còn dáng d?p cân ??i, nh? nhàng nh?ng ph?n l?n các ?iêu kh?c ?ã tr? nên thô v?i hình kh?i tròn mang tính b?n ??a d?n d?n chi?m l?nh kh?p các hình t??ng ?n giáo ? mi?n Nam. Các thi?t k? ki?n trúc v?i các ???ng nét s?c s?o nh?t là các ???ng tròn u?n l??n d?n d?n chuy?n sang phong cách m?nh m? v?i các hình kh?i ít ch?m tr? cho th?y ?n t??ng m?nh m? nh?ng d??ng nh? không còn nét tinh t? n?u so sánh v?i phong cách M? S?n A1. ? ?ây các vòm c?a thu l?i và vút lên thành hình m?i giáo. Các tháp nh? trên các t?ng bên trên cu?n tròn l?i thành các kh?i ??m nh?ng kh?e. Các tr? b? t??ng thu h?n vào trong t??ng thành m?t kh?i ph?ng. B? m?t tháp là các b?c t??ng v?i nh?ng ???ng gân s?ng. Ch? có các hình linh v?t là có th? so sánh ???c v?i phong cách tr??c[22]. Ch?m kh?c trong phong cách này ?i vào chi ti?t trang trí h?n là nhìn vào t?ng th? v? ??p và tính ??ng c?a hình t??ng. M?t trong các h?a ti?t c?a phong cách Tháp M?m là ch?m trên ?á m?t hàng các b? ng?c ph? n? xung quanh chân ?? c?a m?t b? th?. H?a ti?t này ?ã th?y ? Trà Ki?u nh?ng tr? thành ?i?n hình cho phong cách Tháp M?m và là m?t h?a ti?t ??c ?áo trong n?n ngh? thu?t ?ông Nam Á[23].Kinh t? xã h?iTrong khi có nhi?u công trình nghiên c?u v? ??i s?ng, ho?t ??ng kinh t? và c? c?u, t? ch?c và các m?t khác nhau c?a ng??i Ch?m hi?n ??i thì ch?a có nh?ng công trình nghiên c?u nh? v?y cho v??ng qu?c Ch?m Pa c?. Lý do c?ng th?t d? nh?n th?y vì nh?ng gì thu?c v? th??ng t?ng ki?n trúc là nh?ng th? khó còn l?i v?i th?i gian và s? li?u v? m?t v??ng qu?c có th?i ?ã d?ng n?n nh?ng ??n tháp r?c r? ch?y dài su?t ven bi?n mi?n Trung Vi?t nam ngày nay c?ng ch? còn qua các ph? tích.Qua các công trình nghiên c?u l?ch s?, các tác gi? cho r?ng n?n kinh t? Ch?m Pa x?a ch? y?u d?a vào các ho?t ??ng nông nghi?p, s?n xu?t ?? th? công và th??ng m?i. Các d?u v?t còn l?i ? mi?n Trung Vi?t Nam c?a nh?ng h? th?ng th?y l?i ph?c t?p và nh?ng gi?ng lúa có ch?t l??ng cao ??c tr?ng riêng c?a mi?n Trung ???c xem là các b?ng ch?ng c?a m?t n?n kinh t? nông nghi?p tr?ng lúa n??c ?ã phát tri?n cao[24].V??ng qu?c Ch?m Pa x?a có ???c v? trí thu?n l?i cho s? phát tri?n th??ng m?i ???ng bi?n. Các c?ng bi?n c?a v??ng qu?c là nh?ng ?i?m trung chuy?n giao l?u hàng hóa qu?c t? c?ng nh? ?? xu?t kh?u các s?n ph?m ch? y?u t? khai thác r?ng ? mi?n th??ng c?a các ??ng b?ng ven bi?n và Tây Nguyên. T? th? k? th? 10, các c?ng c?a Ch?m Pa ?ã ???c bi?t ??n nh? là nh?ng th??ng c?ng quan tr?ng trên Bi?n ?ông, n?m trên hành trình th??ng m?i ???ng bi?n gi?a ph??ng ?ông và ph??ng Tây v?n ???c g?i là "Con ???ng t? l?a trên bi?n".[24] Các s?n ph?m xu?t c?ng c?a Ch?m Pa là s?n ph?m c?a s?n xu?t ?? th? công nh? các ?? g?m s?, ??t nung và c? các s?n ph?m khai thác mi?n r?ng nh? s?ng tê, ngà voi, và ??c bi?t là tr?m h??ng, và c? c?a ho?t ??ng khai thác t? y?n trên các ??o ngoài kh?i.[24]Cho ??n nay, các công trình nghiên c?u dân t?c h?c và ?i?n dã c?ng nh? t?ng quan các nghiên c?u v? xã h?i ngu?i Ch?m ??u t?p trung vào ng??i Ch?m hi?n ??i. ??n nay ch?a có m?t công trình nghiên c?u l?ch s? nào, nh?t là các công trình d?a trên kh?o c?u v?n bia hay v?n t?ch c? c?a ng??i Ch?m cho ra các k?t lu?n khách quan có ch?ng c? v? xã h?i Ch?m Pa c?. M?t s? tác gi? ?? bù ??p cho s? thi?u h?t thông tin này và d?a trên n?n v?n hóa ?n hóa c?a ng??i Ch?m ??u trình bày xã h?i d??i d?ng các ??ng c?p (caste)[25] trong kinh V? ?à tr??c khi ?i vào kh?o c?u các di tích v?n hóa ngh? thu?t Ch?m Pa còn l?i. Theo ?ó, xã h?i V? ?à có b?n ??ng c?p, ??ng ??u là ??ng c?p giáo s? Brahman chuyên v? th? cúng, ti?p theo là ??ng c?p Ksatria t?c chi?n binh có nhi?m v? b?o v? các ??ng c?p kia[26]. Các h?c gi? hi?n ??i theo xu h??ng nghiên c?u th?c ch?ng ?ã t? ra dè d?t h?n và không ?? c?p gì t? ph??ng di?n nghiên c?u s? h?c, nh?t là t? các tài li?u v?n bia v? c? c?u xã h?i c?a Ch?m Pa c?. Các s? ki?n l?ch s?, nh? vi?c L?u K? Tông, m?t ng??i Vi?t ch? không ph?i ng??i Ch?m làm vua Ch?m Pa cho dù ch? có ba n?m (983-986)[27] r?i b? ng??i Ch?m ?o?t l?i v??ng v? c?ng ch?ng t? c? c?u xã h?i Ch?m Pa c? ph?c t?p h?n trong kinh V? ?à nhi?u. Tóm l?i, vi?c xem xã h?i Ch?m Pa c? là xã h?i V? ?à v?i b?n ??ng c?p nh? ? ?n ?? c? (hay n?m ??ng c?p v?i ??ng c?p th? n?m là ngo?i nhân[25]) c?n ???c nhìn nh?n r?t th?n tr?ng vì ch?a có công trình nghiên c?u nào t? c? li?u v?n kh?c Ch?m c? ch?ng minh.Nhi?u h?c gi? trong n??c[28] trên c? s? nghiên c?u ch? ?? m?u h? v?n còn t?n t?i c?a ng??i Ch?m hi?n nay và trên c? s? nghiên c?u c? th? các c?p linga-yoni, ??c bi?t là linga phân t?ng, c? linga phân làm ba t?ng th? trimutri (ba th? c?a Th??ng ??) và hai t?ng (linga và yoni - âm và d??ng[28]) ???c ??t trên b? ?á hình vuông có khe ?? n??c ch?y thoát ra chính là yoni ???c ??t bên d??i linga, thì cho r?ng ? xã h?i Ch?m c? vai trò c?a ng??i ph? n? trong xã h?i c?ng r?t to l?n. Tuy nhiên, c?ng gi?ng nh? ? trên, ??y m?i ch? là m?t suy lu?n ch? ch?a có các tài li?u v?n bia ch?ng minh và ch?a có công trình nghiên c?u l?ch s? d?a trên các v?n kh?c Ch?m c? nào ?? c?p ??n vi?c này.Và v?n ?? v? kinh t? và xã h?i c?a v??ng qu?c Ch?m Pa c? v?n còn ph?i ch? cho t?i khi có nh?ng ti?n b? v??t b?c h?n n?a c?a ngành nghiên c?u l?ch s? v?i nh?ng phát hi?n không ch? mang tính ??t phá mà còn ph?i ch? c? vào may m?n n?a v? các ngu?n th? t?ch c? m?i may ch?ng hé l? thêm cho chúng ta thông tin v? ph??ng di?n kinh t? và xã h?i c?a v??ng qu?c Ch?m Pa c?.Quá trình l?ch s?L?ch s? v??ng qu?c Ch?m Pa ???c khôi ph?c d?a trên ba ngu?n s? li?u chính[29]:Các di tích còn l?i bao g?m các công trình ??n tháp xây b?ng g?ch còn nguyên v?n c?ng nh? ?ã b? phá h?y và c? các công trình ch?m kh?c ?á; Các v?n b?n còn l?i b?ng ti?ng Ch?m và ti?ng Ph?n trên các bia và b? m?t các công trình b?ng ?á; Các sách s? c?a Vi?t Nam và Trung Qu?c, các v?n b?n ngo?i giao, và các v?n b?n khác liên quan còn l?i. Th?i ti?n s?Ng??i dân Ch?m Pa có ngu?n g?c Malayo-Polynesian di c? ??n ??t li?n ?ông Nam Á t? Borneo vào th?i ??i v?n hóa Sa Hu?nh ? th? k? th? 1 và th? 2 tr??c Công nguyên. Qua quan sát ?? ??t nung, ?? th? công và ?? tùy táng ?ã phát hi?n th?y có m?t s? chuy?n ??i liên t?c t? nh?ng ??a ?i?m kh?o c? nh? hang ??ng Niah ? Sarawak, ?ông Malaysia. Các ??a ?i?m v?n hóa Sa Hu?nh r?t phong phú ?? s?t trong khi n?n v?n hóa ?ông S?n cùng th?i k? ? mi?n B?c Vi?t Nam và các n?i khác trong khu v?c ?ông Nam Á l?i ch? y?u là ?? ??ng. Ngôn ng? Ch?m thu?c ng? h? Nam ??o (Austronesian).V?n hóa Sa Hu?nhV?n hóa Sa Hu?nh là xã h?i ti?n s? thu?c th?i ??i kim khí t?i khu v?c ven bi?n mi?n Trung Vi?t Nam. N?m 1909, ?ã phát hi?n kho?ng 200 l? b? chôn ? Sa Hu?nh, m?t làng ven bi?n ? nam Qu?ng Ngãi. T? ?ó ??n nay ?ã phát hi?n ???c r?t nhi?u hi?n v?t ? kho?ng 50 ??a ?i?m kh?o c?. Sa Hu?nh có ??c ?i?m v?n hóa th?i ??i ??ng Thau r?t ??c tr?ng v?i phong cách riêng th? hi?n qua các hi?n v?t nh? rìu, dao và ?? trang s?c. Vi?c ??nh tu?i theo ph??ng pháp phóng x? carbon ?ã x?p v?n hóa Sa Hu?nh ??ng th?i v?i v?n hóa ?ông S?n, t?c kho?ng thiên niên k? th? nh?t tr??c Công nguyên. Ng??i Ch?m b?t ??u c? trú t?i ??ng b?ng ven bi?n mi?n Trung Vi?t nam t? kho?ng n?m 200 sau công nguyên. Lúc này ng??i Ch?m ?ã ti?p thu các y?u t? c?a v?n hóa tôn giáo và chính tr? c?a ?n ??. Các nghiên c?u kh?o c? h?c c?a các tác gi? Vi?t Nam ?ã cho th?y ng??i Ch?m chính là h?u du? v? m?t ngôn ng? và v?n hóa c?a ng??i Sa Hu?nh c?. Các hi?n v?t kh?o c? c?a ng??i Sa Hu?nh ?ã cho th?y h? ?ã là nh?ng ng??i th? th? công r?t khéo tay và ?ã s?n xu?t ra nhi?u ?? trang s?c và v?t d?ng trang trí b?ng ?á và th?y tinh. Phong cách trang s?c Sa Hu?nh còn phát hi?n th?y ? Thái Lan, ?ài Loan và Philippines cho th?y h? ?ã buôn bán v?i các n??c láng gi?ng ? ?ông Nam Á c? b?ng ???ng bi?n và ???ng b?. Các nhà kh?o c? c?ng quan sát th?y các hi?n v?t b?ng s?t ?ã ???c ng??i Sa Hu?nh s? d?ng trong khi ng??i ?ông S?n láng gi?ng v?n còn ch? y?u s? d?ng ?? ??ng.Lâm ?pTheo s? li?u Trung Qu?c, v??ng qu?c Ch?m Pa ?ã ???c bi?t ??n ??u tiên là v??ng qu?c Lâm ?p b?t ??u t? n?m 192 ? khu v?c Hu? ngày nay, sau cu?c kh?i ngh?a c?a ng??i dân ??a ph??ng ch?ng l?i nhà Hán. Trong nhi?u th? k? sau ?ó, quân ??i Trung Qu?c ?ã nhi?u l?n c? g?ng chi?m l?i khu v?c này nh?ng không thành công[30].T? n??c láng gi?ng Phù Nam ? phía tây và nam, Lâm ?p nhanh chóng h?p thu n?n v?n minh ?n ??[31]. Các h?c gi? ?ã xác ??nh th?i ?i?m b?t ??u c?a Ch?m Pa là th? k? th? 4 sau Công nguyên, khi quá trình ?n hóa ?ang di?n ra. ?ây chính là giai ?o?n mà ng??i Ch?m ?ã b?t ??u có các v?n b?n mô t? trên ?á b?ng ch? Ph?n và b?ng ch? Ch?m, và h? ?ã có b? ch? cái hoàn ch?nh ?? ghi l?i ti?ng nói c?a ng??i Ch?m[32].V? vua ??u tiên ???c mô t? trong v?n bia là Bhadravarman, cai tr? t? n?m 349 ??n 361. ? thánh ??a M? S?n, vua Bhadravarman ?ã xây d?ng nên ngôi ??n th? th?n có tên là Bhadresvara, cái tên là s? k?t h?p gi?a tên c?a nhà vua và tên c?a th?n Shiva, v? th?n c?a các th?n trong ?n ?? giáo[33]. Vi?c th? vua nh? th? th?n, ch?ng h?n nh? th? v?i tên th?n Bhadresvara hay các tên khác v?n ti?p di?n trong các th? k? sau ?ó[34].Vào th?i Bhadravarman, kinh ?ô c?a Lâm ?p là kinh thành Simhapura ("thành ph? S? t?"), n?m ? d?c hai con sông và bao quanh b?i t??ng thành có chu vi dài ??n tám d?m. Theo ghi chép l?i c?a m?t ng??i Trung Qu?c thì ng??i Lâm ?p v?a ?a thích ca nh?c nh?ng c?ng l?i hi?u chi?n, và có "m?t sâu, m?i th?ng và cao, và tóc ?en và xo?n"[35].C?ng theo tài li?u Trung Qu?c, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm ?p n?m 529. Các tài li?u c?ng mô t? v? vua này ?ã cho khôi ph?c l?i ngôi ??n th? Bhadresvara sau m?t v? cháy. Sambhuvarman c?ng ?ã c? s? th?n sang c?ng tu? Trung Qu?c, và ?ã xâm l??c không thành ph?n ??t mà ngày nay là mi?n B?c Vi?t Nam[36]. N?m 605, t??ng L?u Ph??ng nhà Tùy xâm l??c Lâm ?p, và ?ã chi?n th?ng sau khi d? t??ng binh c?a Lâm ?p ??n và tiêu di?t t?i tr?n ??a mà tr??c ?ó ông ?ã cho ?ào nhi?u h? nh? và ph? c? lên[37]. Vào kho?ng nh?ng n?m 620, các vua Lâm ?p ?ã c? nhi?u s? th?n sang nhà ???ng và xin ???c làm n??c phiên thu?c c?a Trung Qu?c[38].Các tài li?u Trung Qu?c ghi nh?n cái ch?t c?a v? vua cu?i cùng c?a Lâm ?p là vào kho?ng n?m 756 sau Công nguyên. Sau ?ó trong m?t th?i gian dài, các sách s? Trung qu?c g?i Ch?m Pa là "Hoàn V??ng"[39]. Tài li?u Trung Qu?c s?m nh?t s? d?ng tên có d?ng "Ch?m Pa" là vào n?m 877, tuy nhiên, nh?ng cái tên nh? v?y ?ã ???c ng??i Ch?m s? d?ng mu?n nh?t là t? n?m 629, và ng??i Khmer ?ã dùng mu?n nh?t là t? n?m 657[40].th?i hoàng kimT? th? k? th? 7 ??n th? k? th? 10, ng??i Ch?m ki?m soát vi?c buôn bán h? tiêu và t? l?a gi?a Trung Qu?c, ?n ??, Indonesia, và ?? qu?c Abbassid ? Baghdad. Ng??i Ch?m còn b? sung thêm cho ngu?n thu nh?p c?a mình t? th??ng m?i, không ch? b?ng vi?c xu?t kh?u ngà voi và tr?m h??ng mà còn b?ng c? các ho?t ??ng c??p phá trên bi?n và các n??c láng gi?ng ven bi?n[41].Vào n?a cu?i th? k? th? 7, các ngôi ??n c?a hoàng gia b?t ??u ???c xây d?ng t?i M? S?n. Tôn giáo chính lúc này là th? th?n Shiva nh?ng các ngôi ??n c?ng th? c? th?n Vishnu. Các h?c gi? g?i phong cách ki?n trúc th?i k? này là phong cách M? S?n E1, ?? ch? các di tích ? M? S?n ?i?n hình theo phong cách này. Các công trình còn ??n nay c?a phong cách này bao g?m b? ?á hình linga ???c bi?t v?i tên g?i là b? ?á M? S?n E1 và ph?n trán t??ng có hình Brahma ???c sinh ra t? hoa sen n? t? r?n c?a th?n Vishnu ?ang ng?[42].Trong m?t v?n bia kh?c n?m 657 tìm th?y ? M? S?n, vua Prakasadharma, ng??i l?y hi?u là Vikrantavarman I, ?ã t? x?ng có bên ngo?i là h?u du? c?a Brahman Kaundinya và công chúa r?n Soma, ng??i theo truy?n thuy?t c?ng là th?y t? c?a ng??i Khmer. Chính v?n bia này ?ã cho th?y m?i quan h? v? v?n hóa và ch?ng t?c gi?a v??ng qu?c Ch?m Pa và ?? qu?c Khmer. Bia ???c kh?c nhân d?p vua cho d?ng t??ng ?ài, có l? là linga, cho th?n Shiva[43]. M?t v?n bia khác mô t? l?i c?u nguy?n chân thành c?a vua khi hi?n t? cho Shiva: ng??i là ngu?n kh?i th?y c?a s? k?t thúc v?nh vi?n s? s?ng, ?i?u r?t khó ??t ???c; mà b?n ch?t th?c s? n?m ngoài suy ngh? và l?i nói c?a con ng??i, tuy nhiên nh?ng ai mà ý ni?m t??ng ??ng v?i v? tr? thì hình thái c?a ng??i s? hi?n ra[44].
0 Rating 13.2k+ views 1 like 0 Comments
Read more
By: On September 19, 2014
L?CH S?-N?N V?N MINH CHAMPA Tr
0 Rating 9.7k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 2, 2017
?ôi nét v? ng??i Champa ? Ninh Thu?n Tr? các tôn giáo m?i du nh?p sau này v?i s? l??ng không l?n, ng??i Champa ? Ninh Thu?n hi?n nay theo hai tôn giáo chính là Bàlamôn (?n ?? giáo) và Bàni (H?i giáo b?n ??a hóa). Ngoài ra còn có m?t b? ph?n ng??i Champa theo ??o Islam nh?ng không nhi?u. Tên g?i thì nh? v?y, nh?ng, ?ã t? lâu, hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni t?n t?i ??c l?p, không có m?i quan h? v?i n??c ngoài , qua quá trình l?ch s?, c? hai tôn giáo này ?ã b? b?n ??a hóa, t?o cho mình m?t ki?u tôn giáo ??a ph??ng. Ng??i Champa theo ??o Bàlamôn có kho?ng 38.000 ng??i, c? trú ? 16 làng, trong ?ó có m?t làng s?ng xen c? Bàlamôn l?n Bàni (làng Phú Nhu?n). Ng??i Champa theo ??o Bàni có kho?ng 21.000 ng??i, c? trú ? 7 làng, trong ?ó có m?t s? làng s?ng xen c?  ng??i champa theo Bàni và ng??i Champa theo Islam. Ng??i Champa theo H?i giáo m?i (Islam) có kho?ng 2.000 ng??i, theo Công giáo và Tin lành kho?ng 700 ng??i. Qua quá trình ?i?n dã, nghiên c?u, chúng tôi th?y b?n thân ng??i Champa ? Ninh Thu?n không t? g?i là ng??i Champa theo ??o Bàlamôn hay ??o Bàni mà t? g?i ng??i Ch?m Bàlamôn là Ahier, ng??i Ch?m Bà ni là awal. Trong dân gian th??ng g?i ng??i theo Bàlamôn là “Ch?m”, ng??i Ch?m theo H?i giáo c? là Bìnì (Bàni), trong v?n h?c dân gian Champa có tr??ng ca “Cam – Bini” và tr??ng ca “Bini – Cam”. V? v?n ?? tên g?i th? nào cho ?úng ??i v?i ng??i Champa Bàlamôn là m?t v?n ?? khoa h?c c?n ???c ti?p t?c nghiên c?u k?. Theo chúng tôi, n?u ?ã g?i ng??i Champa theo H?i giáo b? b?n ??a hóa là Bàni, có ngh?a là H?i giáo du nh?p vào trong c?ng ??ng ng??i Champa t? sau th? k? X, ?ã bi?n thành m?t th? tôn giáo ??a ph??ng thì ph?i g?i ng??i Champa theo ??o Bàlamôn là “Ch?m Ahier” m?i ?úng. Qua nghiên c?u, chúng tôi th?y r?ng, ??o Bàlamôn có ngu?n g?c ?n ?? ?ã th?c s? tr? thành m?t th? tôn giáo ??a ph??ng. Tuy nhiên, các tài li?u khoa h?c t? x?a ??n nay ??u g?i là ng??i Ch?m Ahier là ng??i Ch?m Bàlamôn.   2-Ng??i Champa Bàlàmôn ? Ninh Thu?n  G?n 38.000 ng??i Champa Bàlamôn s?ng t?p trung ? 16 làng, ch? y?u là ? huy?n Ninh Ph??c và chia theo 3 khu v?c ??n tháp th? t?, ???c phân chia theo khu v?c c?ng ??ng tôn giáo. M?i khu v?c c?ng ??ng tôn giáo l?i có h? th?ng ch?c s?c ch?u trách nhi?m v? c?ng ??ng tín ?? c?a khu v?c mình cai qu?n. Hi?n nay ? Ninh Thu?n có 3 v? c? s? pô xà (Pô dhia – ch? Pô: ngài, th?n, v?, ??ng) ph? trách 3 khu v?c c?ng ??ng tín ?? và ch?u trách nhi?m cúng l? ? 3 khu v?c ??n tháp nh? sau: + Khu v?c tháp Pôrômê (Pô Rame – làng H?u Sanh) có 6 làng thu?c huy?n Ninh Ph??c g?m: H?u Sanh, Hi?u Thi?n, V? B?n, M? Nghi?p, Chung M?, Ph??c L?p,khu v?c này do c? s? pô xà Hán B?ng ph? trách. + Khu v?c ??n th? “m? x? s?”Pô In? N?gar(Pô In? N?gar – In? là m?,m?u,N?gar là x? s? – ? làng H?u ??c) g?m 3 làng H?u ??c, Nh? Bình và B?u Trúc,do c? s?  pô xà H?i Quý ph? trách. + Khu v?c tháp Pô Klongirai (Pô Klongirai – Phan Rang) có 7 làng g?m: Hi?u L?, Ch?t Th??ng, Phú Nhu?n, Hoài Trung, Ph??c ??ng và Thành ý do c? s? (Pô xà) V?n T? ph? trách. Ngoài ra, còn m?t khu v?c ??n Pô Bin Thuôn (Pô Bin Thu?r – thôn B?nh Ngh?a, xã Ph??ng H?i, huy?n Ninh H?i) ch? có m?t làng ng??i Champa theo Bàlàmôn nh?ng không có ch?c s?c Bàlamôn. M?i ho?t ??ng tôn giáo ??u do Ban phong t?c c?a làng ??m nhi?m. M?i khi có nh?ng nghi l? c?n ??n ch?c s?c Bà la môn làm ch? l? ??u ph?i m?i các ch?c s?c t? khu v?c tháp Pôklongirai. Vì v?y, có th? quy B?nh Ngh?a v? khu v?c tôn giáo c?a Tháp Pôklongirai . Ng??i Champa ? Ninh Thu?n còn g?i nh?ng ng??i theo ??o Bàlamôn là “CamJat”(??c là Ch?m r?t). Trong ti?ng Ch?m, ch? Jat có ngh?a là g?c, s? th?t. Ng??i Champa còn g?i ng??i Ch?m theo Bàlamôn là “Ch?m” (Cam, ?? phân bi?t v?i Bà Ni), và coi Ch?m Jat là Champa g?c. Bà la  môn giáo du nh?p vào Champa r?t s?m, tr?­?c khi l?p v?­?ng qu?c Lâm ?p, mu?n nh?t là ??u công nguyên và có th? còn tr??c ?ó n?a. B?n bia ký b?ng ch? Ph?n có niên ??i th? k? VII ?­??c tìm th?y ? Qu?ng Nam và Phú Yên ? tri?u ??i Bhadresvaravamin, ba trong b?n bia ký ?ó ghi nh?n lãnh ??a dành cho v? th?n này. Còn bia ký M? S?n thì nói ??n s? thành kính dành cho Mahesvara, Uma, Brahma, Vishnu. ??n th? k? th? VII, ?n ?? giáo mà ch? y?u là Shiva giáo ?ã tr? thành tôn giáo chính th?ng. T? ?ây hình thành khu di tích M? S?n. T? th?i Lâm ?p ??n Hoàn V­??ng (t? th? k? II ??n th? k? IX), ??o Bàlamôn ?ã hi?n di?n và luôn luôn ?­??c coi tr?ng. Các bia ký giai ?o?n này ??u ch?ng minh t?m quan tr?ng c?a Shiva: “?áng kính tr?ng h?n c? Brahma, Vishnu, Indra, Surya, Asura, h?n nh?ng v? Bà la môn và h?n nh?ng Rsi, các vua chúa”. Theo nhi?u nhà nghiên c?u Champa thì Bàlamôn giáo ?ã ??n Champa tr??c c? Ph?t giáo. S? gia D.Hall có nh?n xét nh?­ sau v? tôn giáo vào Champa: Bàlamôn giáo là tôn giáo c?a giai c?p quý t?c, nên không thu ???c l?p bình dân ??i chúng. T?p quán b?n x? v?n ti?p t?c phát tri?n song song v?i t?p quán ?n ??. Mãi ??n m?y th? k? sau, khi Ph?t giáo ti?u th?a Theravada và H?i giáo nh?p ??a và ???c truy?n bá nh?­ m?t tôn giáo bình dân, nh?ng ?nh h??ng ngo?i lai này m?i th?t s? va ch?m v?i n?p s?ng ng??i dân quê. ??n khi ?y, c? hai tôn giáo m?i hoà mình vào n?n v?n hóa b?n x? r?i bi?n th? sâu ??m… . Khi H?i giáo du nh?p vào Champa (kho?ng tr?­?c sau th? k? X), x?y ra quá trình c?nh tranh và xung ??t tôn giáo, gây m?t ?n ??nh trong m?t th?i gian dài gi?a n?i b? c?ng ??ng t?c ng??i Ch?m. Ng??i Ch?m theo H?i giáo Bàni b? coi là ng??i ngoài, th?m chí ng??i Ch?m cho r?ng, thà k?t hôn v?i ng??i khác dân t?c còn h?n là k?t hôn v?i ng?­?i Bàni. Có l? vì th? mà ng?­?i Ch?m Bàlamôn t? g?i là “Ch?m”. S? xung ??t tôn giáo kéo dài này ?ã kìm hãm s? phát tri?n, ?nh h??ng không nh? ??n th? l?c c?a Champa.  ?? dung hoà và ?oàn k?t hai tôn giáo, không rõ t? bao gi? và do ai kh?i x??ng, ng??i Ch?m ?ã v?n d?ng quan ni?m “nh?t th? l??ng h?p”, coi c?ng ??ng ng­??i Ch?m theo Bàlamôn là d?­?ng tính (Ahier), theo Bàni là âm tính (Awal). V?i quan ni?m nh?t th? l??ng h?p thì ng?­?i theo hai tôn giáo này tuy hai nh­?ng là m?t, g?n bó v?i nhau, trong âm có d?­?ng và trong d??ng có âm. Quan ni?m này ???c nh?t quán trong n?i dung c?ng nh? hình th?c nghi l?, trong c? trang ph?c các v? ch?c s?c c?a hai tôn giáo. Ng??i Ch?m Bàlamôn theo tín ng­??ng ?a th?n c?a ?n ?? giáo, còn ng??i Champa Bàni th? nh?t th?n là thánh Ala, ng??i Ch?m g?i là Pô Âu Loá và thiên s? Môhamét. Tuy nhiên, ng?­?i Champa Bàni ngày nay ?ã th? nh?ng v? th?n chung c?a c? c?ng ??ng ng??i Ch?m ? Ninh Thu?n nh?­ m? x? s? Pô In­? N?gar, Pô Yang – Am?  và các v? nhân th?n Ch?m. Ng??i Champa Bàlamôn ngày nay sinh s?ng ? hai t?nh Ninh Thu?n và Bình Thu?n. Ngoài 38.000 ng??i Champa ? Ninh Thu?n, hi?n còn có m?t b? ph?n kho?ng 15.000 ng??i s?ng ? huy?n B?c Bình, t?nh Bình Thu?n. V? c? b?n, v?n hóa c?a h? t??ng ??ng v?i v?n hóa c?a ng??i Champa Bàlamôn ? Ninh Thu?n. 3- H? th?ng ch? l? trong các nghi l? c?a ng??i Ch?m Bàlàmôn V?n hóa truy?n th?ng c?a ng??i Champa ch?a ??ng nhi?u t?ng l?p, trong ?ó có nh?ng l?p v?n hóa mang truy?n th?ng b?n ??a c?a c? dân nông nghi?p lúa n??c ?ông Nam á và v? sau, ng??i Champa ti?p nh?n các tôn giáo. Tr?i qua quá trình b?n ??a hóa, nh?ng l?p v?n hóa này ?ã hòa tr?n vào nhau và tr? thành v?n hóa truy?n th?ng chung c?a ng??i Champa. ??i v?i ng??i Champa Bàlàmôn, theo chúng tôi, m?c dù ?ã có m?t quá trình b?n ??a hóa lâu ??i, không còn ??m giáo lý, giáo lu?t, h? th?ng th?n linh c?ng ?ã “thay tên ??i h?” nh?ng d?u ?n Bàlamôn giáo v?n còn khá ??m trong l? nghi tín ng??ng c?a ng??i Champa Bàlàmôn, trong ?ó có h? th?ng ch? l?, bao g?m các th?y ch? l? dân gian và h? th?ng ch?c s?c, t?ng l? Pà x?. Theo th?ng kê c?a Trung tâm nghiên c?u v?n hóa Champa t?nh Ninh Thu?n, hi?n nay ng?­?i Champa có h?n m?t tr?m nghi l? ???c t? ch?c quanh n?m. H? th?ng nghi l? ?y di?n ra v?a phong phú v?a ph?c t?p. Trong ?ó, các th?y ch? l? dân gian và h? th?ng ch?c s?c tôn giáo ?óng m?t vài trò quan tr?ng. H? th?ng l? h?i dân gian c?a ng??i Champa Bàlàmôn r?t phong phú, ?a d?ng. Trong các nghi l? Champa ??u có s? pha tr?n gi?a l? th?c dân gian và nghi l? tôn giáo. Vì v?y, h? th?ng ch? l? c?ng có s? pha tr?n, nhi?u khi r?t khó phân bi?t: trong m?t s? nghi th?c mang tính tôn giáo l?i có s? tham gia c?a các ch?c s?c dân gian, trong m?t s? l? th?c dân gian l?i có s? tham gia c?a ch?c s?c tôn giáo.   4- Các “th?y” ch? l? dân gian Khác v?i ch?c s?c tôn giáo, các th?y ch? l? dân gian là nh?ng  ng?­?i không ch?u s? chi ph?i c?a tôn giáo. ?? tr? thành nh?ng ch? l? dân gian ??u ph?i tr?i qua l? tôn ch?c. Trong nh?ng nghi l? thu?c tín ng?­?ng nông nghi?p, ngoài s? tham gia ?i?u hành c?a các ch?c s?c tôn giáo ph?i có các ông th?y dân gian nh?­ ông cai ??p (Hamu la). Trong h? th?ng l? h?i Rija ph?i có s? tham gia c?a các ông “th?y v?” chuyên ?ánh tr?ng paran?­ng (M?duôn), th?y bóng múa lên ??ng, bà bóng dòng t?c ??ng th?i là ng?­?i gi? “chi?t a tâu” c?a dòng h?, bà bóng khu v?c tôn giáo. M?i dòng h? ??u ph?i có bà bóng cho riêng mình. Bà bóng dòng h? ???c tuy?n ch?n k? l­??ng, ph?i là ng??i có ??a v?, có hi?u bi?t, ??­?c v? n? trong dòng h?. L? tôn ch?c bà bóng th??ng ???c k?t h?p trong l? múa l?n (Rija praung), ???c th? hi?n rõ nh?t trong ?êm khai l? “Rija xoa”, bà bóng ph?i ch?u l? t?y u?, n?m ?? hóa thân, ??u thai và nh?p linh su?t ?êm. Trong l? này, bà bóng ph?i “h?c” múa (h?c t??ng tr?­ng, th?c ch?t là ?ã ph?i h?c các ?i?u múa bóng t? tr?­?c) do m?t ông th?y và bà bóng c? ch? b?o. Trong các nghi l? cúng c?u phúc, tr? tà ma, ch?a b?nh và trong nghi l? tang ma v.v… ph?i có ông th?y pháp (Gru tiap bhut) ho?c ông th?y cúng (Gru urang). Các ông th?y này ph?i h?c thu?c h? th?ng ma thu?t bùa chú và v?n t? t? r?t ph?c t?p và có m?t cu?c s?ng kiêng c? r?t nghiêm ng?t, có th?y còn tu kh? h?nh h?n c? các ch?c s?c tôn giáo. H? ???c bà con Ch?m kính tr?ng, v? n?, nhi?u ông th?y r?t “cao tay ?n”. Trong các th?y ch? l? dân gian, có m?t ??i ng? ngh? nhân tài gi?i và ??u có m?t trong các nghi l? Ch?m. Ông “th?y v?” (M?­duôn – ??c là m?­ tùn) v?a ?ánh tr?ng Paran?­ng v?a hát l?, ông kéo ?àn Kanhi (Kadhar – ??c là ka thành) và nh?ng ng?­?i hát l?, ngh? nhân ?ánh tr?ng ghi n?ng (On Toong- grù gin?n), ngh? nhân th?i kèn Saranai (On Yu). Trong l? tang ph?i có ông “h?ng” (On H?ng), là ng??i trang trí các nhà l?, nhà ho? táng và các hoa v?n, bi?u t??ng, bùa chú cho tín ng??ng dân gian. Theo s? li?u th?ng kê c?a Trung tâm nghiên c?u v?n hóa Ch?m Ninh Thu?n, hi?n nay ? Ninh Thu?n có 22 th?y cúng ?u?i tà ma (Gru tiap bhut, gru urang), 13 th?y kéo ?àn kanhi, 9 th?y bóng, 3 bà bóng khu v?c tôn giáo (Muk pajau), 36 “th?y v?” tr?ng Paran?ng. Ngoài ra, m?i dòng t?c l?i có m?t bà bóng (Muk Rija) cho riêng dòng h? mình. Trong l? nh?p kút, ông kéo ?àn kanhi và bà bóng (Muk pajau) luôn ?i c?p v?i nhau, nh?­ là m?t bi?u hi?n âm – d?­?ng. Ông kéo ?àn và bà bóng có hai c?p tr?­?ng và th?. M?t s? th?y ch? l? dân gian ph?i tr?i qua các l? th? ch?c nh?­ ông kéo ?àn chính (Kadhar gru – là ng?­?i ?ã ph?i tr?i qua l? “l?ng ?ao” trong nghi l? “t? trâu ?en” c?a dòng t?c). Bà bóng c?p tr??ng c?ng ph?i qua l? chém trâu và ph?i qua các nghi th?c t?y u?, nh?p linh trong l? Rija. T?t c? các ch?c s?c dân gian, m?i n?m ph?i hi?n t? cho th?n Pô âu Loá (Ppo aw loa) m?t con gà tr?ng. Ch? l? hi?n t? ph?i là m?t ch?c s?c Bàni. 5- H? th?ng ch?c s?c Bàlamôn  Nhi?u nhà nghiên c?u cho r?ng tôn giáo Bàlamôn hi?n nay ? ng??i Ch?m không còn h?i ?? nh?ng y?u t? c?a m?t tôn giáo chính th?ng, h? th?ng giáo lý, giáo lu?t, h? th?ng giáo ch? và tín ?? không rõ ràng và ng­??i Ch?m theo ??o Bàlàmôn không t? g?i mình là ng­??i Ch?m Bàlamôn mà g?i là Ch?m Ahiêr. Nh?ng, m?c dù ?ã b? b?n ??a hóa khá m?nh, ch?c s?c, t?ng l? Bàlamôn và nhi?m v? c?a h? v?n ???c duy trì m?t cách có h? th?ng. Trong Bàlamôn giáo: “??ng c?p Bàlamôn là ??ng c?p cao nh?t, ???c sinh ra t? mi?ng Sanura (Manu) “Bàlamôn ???c coi là th?n trên m?t ??t”, ch? trì ch?m lo vi?c cúng bái, thao túng ??i s?ng tinh th?n th?i c? ??i và trung th? k?”. Hi?n nay, các t?ng l? pà x? (passeh) v?n n?m gi? ph?n h?n c?a c?ng ??ng ng??i Ch?m Bàlamôn. Xã h?i Bàlamôn v?n là xã h?i phân bi?t ??ng c?p, ???c hình thành nên ?? b?o v? cho quy?n l?i c?a ??ng c?p tu s? Bàlamôn. Trong xã h?i c?a ng??i Champa Bàlamôn hi?n nay, tuy s? phân bi?t ??ng c?p ?ã b? phai m? nh?­ng qua nghiên c?u nghi l? tang ma c?a ng??i Champa Bàlàmôn, chúng tôi th?y s? phân bi?t ?y v?n t?n t?i. ?ó là s? phân bi?t ??ng c?p theo dòng t?c. M?t dòng t?c tr?­?c ?ây thu?c ??ng c?p nào thì nay v?n b? quy ??nh nghi l? tang ma theo hình th?c c?a ??ng c?p ?ó. ??ng c?p cao nh?t v?n là ??ng c?p c?a t?ng l? Bàlamôn. C? c?u và thi?t ch? xã h?i Champa tr?­?c ?ây ?ã t?ng chi ph?i b?n t?ng l?p xã h?i theo giáo lý Bàlamôn. Theo l?i v?n bia M? S?n thì d?­?i ??i vua Jaya Indravarman (1088) xã h?i Ch?m có b?n ??ng c?p theo h? th?ng ??ng c?p Bàlamôn ?n ?? nh? sau:.   -Brahman:T?ng l?p tu s?, t?ng l? Bàlamôn -Ksyattriya:T?ng l?p quý t?c, v??ng phái, võ s?. -Vaicya:T?ng l?p bình dân.Sudra: Cùng ?inh, nô l?.Ngày nay, trong xã h?i Champa v?n còn phân bi?t các ??ng c?p nh? trên nh?ng tên g?i có khác. -??ng c?p tu s? Bàlamôn:Hal?w j?n­?ng -??ng c?p quý t?c:Takai gai. - ??ng c?p bình dân:Bal liwa p?nliua, kuliT -??ng c?p nô l?, tôi t?:Halun hal?k, halun klor. Trong h? th?ng ch?c s?c Bàlamôn có hai t?ng l?p, h? th?ng các ch?c s?c tu s? pà x? (passeh) và các ch?c s?c dân gian. Tu s? pà x? là nh?ng ch?c s?c tôn giáo Bàlamôn. T?ng l?p này có ??a v? cao nh?t trong xã h?i, ???c coi là nh?ng ng??i trí th?c, h? bi?t ch? Ch?m, l?u gi? các sách c? Ch?m qui ??nh v? các nghi th?c hành l?, hi?u bi?t t?p t?c, truy?n bá và th?c hi?n các nghi th?c tôn giáo. V? m?t xã h?i, h? thu?c t?ng l?p quí t?c c?. Tu s? pà x? ?­??c duy trì trong xã h?i Ch?m theo t?c “cha truy?n con n?i”. Nh?ng ng??i không thu?c dòng dõi ch?c s?c thì dù có gi?i m?y c?ng không ??­?c vào hàng ng? này. ?ây là m?t d?u ?n ??m nét c?a giáo lý Bàlamôn c? ??i ?n ?? còn ??ng l?i trong c?ng ??ng ng?­?i Ch?m Bàlamôn ? Ninh Thu?n. H? th?ng tu s? pà x? ???c s?p x?p theo 5 c?p t? th?p ??n cao nh?­ sau: C?p th?p nh?t là th?y passeh ?ung akau. ?ây là ch?c s?c m?i nh?p môn, ph?i h?c ch? Ch?m, h?c các giáo lý, giáo lu?t và b?t ??u ?? tóc dài, búi tó.C?p th? hai là th?y passeh Liah. Là th?y pà x? khi h?i ?? ?i?u ki?n ???c làm l? phong ch?c t?  passeh ?ung a kau lên.C?p th? ba là passeh Pahu?h (Pahóa – th?y cho ?n), ???c làm l? phong ch?c t? passeh Liah lên, ph?i là ng??i có thâm niên, và là ng??i duy nh?t ??­?c làm “l? cho ?n” trong tang ma.C?p th? t?­ là th?y passeh Tapah. ?ây là nh?ng tu s? ?ã ??t ??n ?? thoát t?c, ph?i qua nh?ng ?i?u ki?n r?t kh?t khe m?i ???c phong ch?c và ph?i tr?i qua ba giai ?o?n: Tapahkatat, Tapahka?a và Tapahka?ôi. (?ây là ch?c danh phó c? s?­. Khi ch?n ng?­?i ?? phong ch?c c? s?, tr?­?c h?t ph?i ch?n Tapahka?ôi).Cao nh?t là ch?c c? s?­ Podhia (Pôxà). ?ây là ng??i có quy?n t?i cao trong tôn giáo Bàlamôn. ? t?nh Ninh Thu?n chia làm ba khu v?c tôn giáo Bàlamôn nên bao gi? c?ng ch? có ba th?y Pôxà. Các v? c? s?­ cho bi?t, tr??c ?ây, tuy chia ba khu v?c tôn giáo nh?ng v? c? s?­ c?a khu v?c tháp Pô Klongirai là l?n nh?t, g?i là c? s? Grù Hunh (thu?c d??ng), là ng?­?i quy?t ??nh các l? phong ch?c pà x?, ông th?y Grù Hunh không ???c tr?c ti?p ?i làm các ch? l? mà ch? ? nhà tu h?nh và ch? ??o, là ng?­?i quy?t ??nh ngày tháng, gi? gi?c và quy trình làm l?. Ông c? s?­ khu v?c ??n Pô In­ N?­gar g?i là Grù B?ng xài(thu?c âm) là ng?­?i do ông Grù hunh phân công th?c hi?n các nghi l?, tr? l? nh?p kút. Ông c? s? khu v?c tháp Pô Rômê g?i là Grù At?m, là ng?­?i ??­?c làm ch? các l? nh?p kút. Nh?­ng ngày nay, nh?ng quy ??nh trên ?ây không còn hi?u l?c n?a.?? nh?p vào hàng ng? pà x? và lên ??n ch?c c? s?­, ph?i th?c hi?n ?? các l? tôn ch?c nh? sau:-L? nh?p ??o (dung akau), g?i là l? xông mi?ng h?c ch? Champa-L? lên c?p pà x? liah, giai ?o?n h?c kinh k? và h?c các nghi th?c hành l?.-L? tôn ch?c tu s? chính th?c (puah)-L? tôn ch?c c? s? ho?c phó c? s?­ (popaik ho?c podhia).Hi?n nay, ??n các làng Champa Bàlamôn có th? nh?n bi?t ???c ??i ng? ch?c s?c pà x?. B?i vì h? luôn ph?i mang trang ph?c ch?c s?c c?a mình và t? th?y passeh Pahu?h tr? lên ?i ?âu c?ng mang theo cây g?y th?n. Trang ph?c và ?? trang s?c c?a các th?y khác nhau theo t?ng c?p pà x?, nh­?ng có nh?ng ?i?m chung là tóc dài búi tó, vì trong quan ni?m âm – d??ng Ch?m, tôn giáo Bàlamôn là Ahier thu?c d­??ng, nh?ng theo thuy?t trong d??ng có âm, các th?y pà x? v?a là ?àn bà (?? tóc), l?i ?eo bi?u t?­?ng c?a ?àn ông (d??ng). Tôn giáo Bàni là Awal thu?c âm nh?ng ông th?y Char l?i c?o tr?c ??u và ?eo bi?u t?­?ng yoni (âm). Trên ??u các ch?c s?c Bàni luôn ??i nón b?c v?i màu tr?ng, có vành r?ng t??ng tr?­ng cho b?u tr?i, không bao gi? ?i gi?y, ch? ?i dép nh?a ho?c ?i chân ??t. Ngày x­a các th?y th??ng ?i lo?i dép c? làm b?ng da trâu. Tu s? pà x? Bàlamôn ???c quy?n l?y v?, sinh con nh?­ng ph?i tuân th? theo nh?ng quy t?c r?t kh?t khe. ?? tu hành, các th?y ph?i kiêng c? r?t nhi?u th?: -Không ???c ?n th?t nh?ng con v?t ?? ra con. -Không ?n th?t nh?ng con v?t g?n v?i truy?n thuy?t,truy?n c? Champa và tín ng?­?ng th? súc v?t nh?­ l?­?n,?ch,giông,cá trê,th?,ho?ng,không ?n nh?ng con v?t ch?t y?u,ch?t do b? th??ng,không ???c ?n nh?ng lo?i hoa qu? nh? chu?i h?t,?u ??,??u h?t,qu? sung,bí ?ao,rau sam,rau d?n. - Không u?ng các lo?i n??c có ch?t lên men,khi ?ang hành l? ch? ???c u?ng r??u t?­?ng tr?ng. -Không ??­?c ??n d? các nghi l? thu?c“cõi s?ng”nh?­ l? sinh ??,l? c??i,l? múa(Rija).Khi ?i ti?u ti?n ph?i vén váy ng?i x?m nh? ?àn bà(b?i các th?y thu?c âm),khi ?i ??i ti?n ph?i c?i áo trùm ??u. – ?i t?m ph?i xem ngày.Ngày r?m,m?ng m?t theo âm l?ch,ngày th? hai,th? sáu trong tu?n không ???c ng? v?i v?.Tr?­?c khi ?n,tr?­?c khi ng? ??u ph?i ??c kinh. – Khi ng? không ???c quay ??u h?­?ng nam vì ng?­?i Ch?m Bàlamôn coi h??ng nam là “h??ng ch?t” nên khi có ng?­?i ch?t ph?i ??t thi hài ng??i ch?t quay ??u h??ng nam. Ng??c l?i, các ch?c s?c H?i giáo Bàni kiêng không quay ??u h??ng b?c. Ngoài ra, các th?y pà x? còn ph?i kiêng c? r?t nhi?u ? nh?ng l?nh v?c khác. Trong phòng ? c?a các th?y luôn có chi?t (gi?) ??ng r?t nhi?u các sách vi?t b?ng ch? Ch?m c? h­??ng d?n các qui trình hành l?, các bài v?n kh?n, hình v? các bùa, các câu th?n chú và bàn t? cúng th?n. M?i l?n hành l?, ph?i làm l? cúng h? chi?t sách. Tu s? pà x? m?c s?c ph?c riêng màu tr?ng, búi tóc ? ??nh ??u. S? phân bi?t các c?p pà x? d?a vào hoa v?n th? c?m ?ính trên váy và kh?n. Hi?n nay tu s? pà x? ? c?ng ??ng Ch?m Bàlamôn có 37 v?. Trong ?ó có ba v? c? s? pô xà cai qu?n ba khu v?c tín ?? và ??m trách các nghi l? c?a ba khu v?c ??n tháp. N?u m?t c? s?­ ? khu v?c nào qua ??i thì ? ?ó ch?n m?t phó c? s? lên thay th?, nh?ng ph?i ???c s? ??ng tình c?a c?ng ??ng ng?­?i Ch?m ? khu v?c ?ó.Trong các nghi l? vòng ??i c?ng nh?­ trong các nghi l? cúng bái, luôn có s? hi?n di?n c?a các ch?c s?c t?ng l? Bàlamôn và các th?y cúng, th?y pháp, các ngh? nhân kéo ?àn, ?ánh tr?ng, hát l?, ông bóng, bà bóng. Nh?ng ng??i này ??u ?­??c g?i là các th?y ch? l?, ???c phân công, phân nhi?m m?t cách rõ ràng, bài b?n. Tr??c khi hành l? ??u ph?i làm l? th?c t?y u? cúng th?n linh.H? th?ng ch?c s?c và các th?y ch? l? dân gian ???c chia làm n?m thành ph?n nh?­ sau: 1.Các t?ng l? pà x?, g?m 5 c?p b?c (nh? ?ã nêu ? trên). 2.Th?y kéo ?àn kanhi (kadhar) và bà bóng khu v?c tôn giáo (muk pajau) 3.Ông “th?y v?” tr?ng paran­?ng (m­duôn); ông th?y múa bóng (on kaing) 4.Th?y cúng (gru urang); th?y pháp (grù tiao pbuh) 5.Nh?ng th?y hát kh?n, ??c th? dân gian (on dauh). Trong s? các th?y trên, ch? có các t?ng l? pà x? b?t bu?c ph?i m?c trang ph?c riêng theo c?p b?c ch?c s?c c?a mình và luôn ph?i mang g?y th?n. Các th?y ch? l? dân gian khi hành l? ??u ph?i m?c trang ph?c truy?n th?ng, kh?n qu?n ??u luôn th?t nút v? phía bên ph?i ??u.V?i nh?ng gì trình bày ? trên, chúng tôi th?y, m?c dù ng?­?i Ch?m Bàlamôn ?ã t? r?t lâu không ti?p xúc v?i ??o Bàlamôn trên th? gi?i, t?ng l?p tu s? Bàlamôn ?ã có nhi?u bi?n ??i nh?ng v? c?t lõi ??ng c?p, v? s? n?i truy?n dòng dõi, s? tu luy?n, s? kính tr?ng c?a tín ??, v? nhi?m v? t? t? c?a h? v?n có nhi?u ?i?m t?n t?i nh­ th?i k? Bàlamôn c? ??i: ? th?i k? Ph?n th?­, ?ã xu?t hi?n gia t?c Bàlamôn t? t? truy?n ??i. “Phu?c Vê?a g?i h? là “th?n c?a nhân gian”. H? không ??n thu?n là ng­??i ch? ??o tôn giáo, c?ng là giai t?ng trí th?c ???ng th?i. H? ­h??ng th? các lo?i ??c quy?n: nh?n c?a b? thí, ?­??c mi?n s?u thu?, khi ph?m t?i n?ng có th? ???c mi?n t?i ch?t, b?n thân h? và v? con và bò c?a h? ??u ???c công chúng kính l? Th?c tr?ng v? ch? l? trong các nghi l? c?a ng??i Ch?m Bà là môn Trong giai ?o?n phát tri?n, giao l?u, hòa nh?p hi?n nay, tôn giáo Bàlàmôn ?ang g?p nhi?u khó kh?n trong vi?c duy trì l? nghi tín ng??ng. M?t trong nh?ng nguyên nhân c? b?n là th?c tr?ng v? vi?c duy trì h? th?ng ch? l? dân gian và các ch?c s?c Bàlàmôn. Th?c tr?ng v? các th?y ch? l? dân gian Theo nhu c?u c?a h? th?ng nghi l? dày ??c quanh n?m c?a ng??i Ch?m Bàlàmôn, n?u không có s? k? th?a, ??i ng? các ông th?y ngày càng thi?u v?ng.M?t s? trí th?c ng??i Ch?m cho r?ng hi?n nay v?i s? l??ng 22 th?y cúng ?u?i tà ma (Gru tiap bhut, gru urang), 13 th?y kéo ?àn kanhi, 9 th?y bóng, 3 bà bóng khu v?c tôn giáo (Muk pajau), 36 “th?y v?” tr?ng Paran?ng trong c?ng ??ng 38.000 ng??i Ch?m theo Bàlàmôn là không ??. ??n th?i ?i?m di?n ra ??ng lo?t các l? nghi nông nghi?p và các nghi l? c?ng ??ng, nghi l? dòng t?c, các th?y ph?i “ch?y xô” r?t v?t v?. Vì v?y, vi?c truy?n d?y ngh? là vi?c làm th??ng xuyên. M?c dù các th?y ch? l? dân gian không b?t bu?c ph?i cha truy?n con n?i nh? các t?ng l?, nh?ng th??ng vi?c này v?n di?n ra trong các gia ?ình Ch?m, vi?c cha truy?n ngh? làm ch? l? cho con v?n là ph? bi?n. Tuy nhiên, ?? tr? thành m?t ông th?y, Ngoài nh?ng tiêu chu?n v? ??o ??c, có gia ?ình tr?n v?n (m?t v? m?t ch?ng và có con), ng??i h?c ph?i th?t s? yêu ngh?, có tâm ??c và ngoài ra ph?i có n?ng khi?u. Mu?n tr? thành m?t ông Ka thành (Kadhar) kéo ?àn ka nhi hay ông v? tr?ng Paran?ng (M?duon), ng??i h?c ph?i có n?ng khi?u âm nh?c và ph?i có gi?ng hát t?t, mu?n tr? thành m?t ông th?y cúng ph?i h?c thu?c hàng tr?m hình v? bùa phép và hàng tr?m bài hát cúng l?, mu?n tr? thành  m?t ông H?ng (h?ng) chuyên trang trí l? tang ph?i có n?ng khiêú v? h?i h?a và c?ng ph?i h?c các bài cúng kh?n xin v? hoa v?n, bùa phép, mu?n tr? thành ông bóng, bà bóng, ngoài nh?ng tiêu chu?n kh?t khe v? ??o ??c, còn ph?i có n?ng khiêú múa và n?ng l?c ti?p xúc v?i th?n linh v.v…Tâm lý chung hi?n nay c?a thanh niên Ch?m, nh?t là s? có h?c v?n là không mu?n tr? thành nh?ng ông th?y cúng, th?y pháp. Bên c?nh ?ó, v?n ?? thù lao, ?ãi ng? cho s? ng??i tham gia làm ch? l? không rõ ràng, ?a s? là trông ??i vào s? h?o tâm c?a các gia ?ình làm l?, d?n ??n m?t tâm lý không tho?i mái. ?ây là m?t trong nh?ng khó kh?n mà c?ng ??ng ng??i Ch?m Bàlàmôn ?ang ph?i ??i phó. N?u c?ng ??ng ng??i Ch?m không có bi?n pháp kh?c ph?c, s? thi?u v?ng ??i ng? làm ch? l? s? d?n ??n s? th?t truy?n c?a m?t lo?i hình ngh? ch?a ??ng phong t?c t?p quán, l? nghi tín ng??ng Ch?m, d?n ??n s? ??n gi?n hoá các nghi l? truy?n th?ng, t? ?ó d?n ??n s? th?t truy?n, mai m?t các y?u t? v?n hóa truy?n th?ng c?a ng??i Ch?m Bàlàmôn.  Th?c tr?ng v? h? th?ng ch?c s?c tôn giáo Bà là môn Dân t?c Champa v?n có m?t n?n v?n hóa c? truy?n phong phú, ?a d?ng ???c hình thành t? lâu ??i. N?n v?n hóa ?y là s? ch?n l?c, k? th?a, hoà tr?n gi?a nh?ng y?u t? n?i sinh và nh?ng y?u t? ngo?i sinh. Ng??i Champa Bàlàmôn ???c coi là “Ch?m g?c” và trên th?c t? ?ang là nh?ng ch? nhân l?u gi? v?n v?n hóa truy?n th?ng ?y. Chính các tôn giáo phong phú, ?a d?ng ?ã góp ph?n t?o nên s?c thái v?n hóa Champa. Nh?ng l? nghi, tín ng??ng cùng v?i ni?m tin có tính ch?t tôn giáo Bàlàmôn ?ang là c? s? quan tr?ng ?? b?o t?n nh?ng giá tr? v?n hóa truy?n th?ng. N?u nh?ng l? nghi, tín ng??ng và ni?m tin ?y m?t ?i, ch?c ch?n kéo theo s? m?t mát s?c thái v?n hóa truy?n th?ng. Trong giai ?o?n phát tri?n, giao l?u, hòa nh?p hi?n nay, v?n hóa c? truy?n th?ng các dân t?c ?ang nhanh chóng b? mai m?t. V?n hóa c? truy?n c?a ng??i Champa Bàlàmôn c?ng không n?m ngoài qu? ??o ?y. Nh?ng tôn giáo trong c?ng ??ng ng­??i champa hôm nay, trong ?ó có ??o Bàlàmôn, ?ang có nh?ng th?c tr?ng c?n ph?i gi?i quy?t. ?ó là:Do s? thi?u m?t h?i ??ng ch?c s?c th?ng nh?t và s? chia khu v?c tôn giáo nên trong n?i b? m?i tôn giáo, gi?a các tôn giáo và c?ng ??ng ng?­?i Champa có nhi?u ?i?m không th?ng nh?t, d?n ??n nh?ng mâu thu?n mà cho ??n nay ch?­a gi?i quy?t ???c. ?? ti?n hành các l? h?i c?n có l?ch pháp th?ng nh?t nh?ng mâu thu?n v? l?ch pháp gi?a các vùng Ch?m ?ang là v?n ?? nan gi?i. Th?m chí, có vùng l?ch chênh nhau ??n 2 tháng trong n?m. S? thi?u th?ng nh?t v? l?ch pháp gây ra r?t nhi?u ?i?u phi?n toái, tr??c h?t là nghi l? c?ng ??ng, sau ?ó là các nghi l? t?c h? và gia ?ình. Trong khi n?i này ?ang là ngày kiêng c? thì n?i khác l?i là ngày t?t và t? ch?c l? c­??i, dù quan h? m?t thi?t ??n ?âu, là bà con h? hàng c?ng không dám ??n d?. Hàng n?m, vào d?p l? h?i Katê, các v? ch?c s?c Bàlamôn các vùng l?i ph?i ng?i l?i h?p ?? th?ng nh?t l?ch, nhi?u khi tr? thành nh?ng cu?c tranh lu?n, cãi vã gay g?t.Trong n?i b? tôn giáo Bà la môn th?­?ng x?y ra s? tranh ch?p ch?c c? s? (Po dhia). ?ã t? xa x?­a, ng??i Ch?m Bàlamôn chia ra ba khu v?c tôn giáo theo ba khu v?c ??n tháp, m?i khu v?c tôn giáo ch? có duy nh?t m?t v? c? s­? tr? trì, riêng phó c? s? thì có t? 2 v? tr? lên. Thông th??ng, khi c? s?­ m?t ?i thì phó c? th? nh?t – ng??i tu hành lâu n?m, có trình ??, hi?u bi?t kinh k?, giáo lý, bi?t các nghi th?c hành l?, có ??o ??c, ??y ?? v? ch?ng, gia ?ình yên ?n và có dòng dõi t?ng l? thì ???c k? v? c? s?. Nh?­ng nhi?u tr?­?ng h?p c?nh tranh ?ã x?y ra trong nh?ng n?m 1972, 1993 mà nguyên nhân là ch?a có s? th?ng nh?t v? vi?c l?a ch?n C? s? gi?a các làng Ch?m. S? tranh ch?p c? s? ? ?ây không ph?i là v?n ?? tranh giành quy?n l?i cá nhân c? s? mà do các khu v?c tôn giáo tranh giành cho khu v?c mình. Các cu?c tranh ch?p ?ã lôi kéo nhi?u ng??i tham gia gây m?t ?n ??nh xã h?i, ?nh h??ng ??n ??i s?ng tín ng??ng, an ninh chính tr? c?a c?ng ??ng Ch?m và chính quy?n ph?i can thi?p theo lu?t pháp, trên c? s? v?n ??ng bà con bàn b?c ?? ch?n ra cho mình v? c? s?­ ?? duy trì sinh ho?t tín ng??ng. Phía tôn giáo Bàni c?ng th?­?ng x?y ra nh?ng v? tranh ch?p s? c? nh? nh?ng n?m 1960, n?m 1998. Nh?ng th?c tr?ng v? tôn giáo tín ng??ng champa ?ang là nh?ng kìm hãm s? phát tri?n.M?t th?c tr?ng khác l?i mâu thu?n v?i th?c tr?ng tranh ch?p nói trên là v?i xu h??ng phát tri?n hi?n nay, càng ngày càng ít ng??i mu?n ??m nh?n nhi?m v? n?m gi? ph?n h?n này. ??c bi?t là nh?ng ch?c th?p h?n c? s? l?i càng ít ng??i mu?n làm. L?p tr? hi?n nay, trong ?ó có các th? h? con cháu các ch?c s?c pà x? ?ã không còn m?n mòi v?i truy?n th?ng cha truy?n con n?i nh? tr??c ?ây n?a. Nhi?u ng??i ?ã h?c hành ?? ??t và ?i làm các ngành ngh? trong xã h?i, có nh?ng ng??i ?ã tr? thành cán b? khoa h?c, cán b? qu?n lý c?a Nhà n??c. Vì v?y, nguy c? thi?u v?ng các ch? l? dân gian và các ch?c s?c tôn giáo c?a c?ng ??ng ng??i Ch?m Bàlàmôn trong m?t t??ng lai g?n là m?t th?c tr?ng c?n gi?i quy?t. Chúng tôi cho r?ng, ?ây là m?t v?n ?? c?t lõi trong vi?c b?o l?u v?n hóa truy?n th?ng c?a ng??i Ch?m nói chung, c?a ng??i Ch?m Bà là môn nói riêng.Hi?n nay ? vùng ??ng bào Champa ?ang di?n ra s? tranh giành ?nh h?­?ng tôn giáo và lôi kéo tín ?? gi?a ng??i Ch?m Bàni và Ch?m Islam là m?t v?n n?n th?­?ng xuyên x?y ra (ch? y?u ? nh?ng làng Ch?m có tín ?? hai tôn giáo cùng sinh s?ng nh? ? làng Ph?­?c Nh?n và V?n Lâm) mà cho ??n nay v?n ch?­a gi?i quy?t ???c. Vì v?y, c?n có nh?ng gi?i pháp c?p bách ?? duy trì, phát tri?n các ho?t ??ng c?a tôn giáo Champa, trong ?ó có v?n ?? duy trì h? th?ng các th?y ch? l? dân gian và các ch?c s?c tôn giáo. Ng??i dân Champa có ngu?n g?c là ti?n thân Malayo-Polynesian  tr??c Công nguyên. Qua quan sát ?? ??t nung, ?? th? công và ?? tùy táng ?ã phát hi?n th?y có m?t s? chuy?n ??i liên t?c t? nh?ng ??a ?i?m kh?o c? nh? ??o h?i nam,sa hu?nh,óc eo,hang ??ng Niah ? Sarawak, ?ông Malaysia. Các ??a ?i?m v?n hóa Sa Hu?nh r?t phong phú ?? s?t trong khi n?n v?n hóa ?ông S?n cùng th?i k? ? mi?n B?c Vi?t Nam và các n?i khác trong khu v?c ?ông Nam Á l?i ch? y?u là ?? ??ng. Ngôn ng? Ch?m thu?c ng? h? Na ??o Austronesian  V?n hóa Sa Hu?nh là xã h?i ti?n s? thu?c th?i ??i kim khí t?i khu v?c ven bi?n mi?n Trung Vi?t Nam. N?m 1909, ?ã phát hi?n kho?ng 200 l? ???c chôn ? Sa Hu?nh, m?t làng ven bi?n ? nam Qu?ng ngãi. T? ?ó ??n nay ?ã phát hi?n ???c r?t nhi?u hi?n v?t ? kho?ng 50 ??a ?i?m kh?o c?. Sa Hu?nh có ??c ?i?m v?n hóa th?i ??i ??ng Thau r?t ??c tr?ng v?i phong cách riêng th? hi?n qua các hi?n v?t nh? rìu, dao và ?? trang s?c. Vi?c ??nh tu?i theo ph??ng pháp phóng x? carbon ?ã x?p v?n hóa Sa Hu?nh ??ng th?i v?i v?n hóa ?ông S?n, t?c kho?ng thiên niên k? th? nh?t tr??c Công nguyên. Ng??i Ch?m b?t ??u c? trú t?i ??ng b?ng ven bi?n mi?n Trung Vi?t nam t? kho?ng n?m 200 công nguyên. Lúc này ng??i Ch?m ?ã ti?p thu các y?u t? c?a v?n hóa tôn giáo và chính tr? c?a ?n ??. Các nghiên c?u kh?o c? h?c c?a các tác gi? Vi?t Nam ?ã cho th?y ng??i Ch?m chính là h?u du? v? m?t ngôn ng? và v?n hóa c?a ng??i Sa Hu?nh c?. Các hi?n v?t kh?o c? c?a ng??i Sa Hu?nh ?ã cho th?y h? ?ã là nh?ng ng??i th? th? công r?t khéo tay và ?ã s?n xu?t ra nhi?u ?? trang s?c và v?t d?ng trang trí b?ng ?á và th?y tinh. Phong cách trang s?c Sa Hu?nh còn phát hi?n th?y ? Thái Lan, ?ài Loan và Philippine cho th?y h? ?ã buôn bán v?i các n??c láng gi?ng ? ?ông Nam Á c? b?ng ???ng bi?n và ???ng b?. Các nhà kh?o c? c?ng quan sát th?y các hi?n v?t b?ng s?t ?ã ???c ng??i Sa Hu?nh s? d?ng trong khi ng??i ?ông S?n láng gi?ng v?n còn ch? y?u s? d?ng ?? ??ng.  Tr??c khi l?p qu?c :Lâm ?p Theo s? li?u Trung Qu?c, v??ng qu?c Ch?m Pa ?ã ???c bi?t ??n ??u tiên là v??ng qu?c Lâm ?p b?t ??u t? n?m 192 ? khu v?c Hu? ngày nay, sau cu?c kh?i ngh?a c?a ng??i dân ??a ph??ng ch?ng l?i nhà Hán. Trong nhi?u th? k? sau ?ó, quân ??i Trung Qu?c ?ã nhi?u l?n c? g?ng chi?m l?i khu v?c này nh?ng không thành công. T? n??c láng gi?ng Phù Nam ? phía tây và nam, Lâm ?p nhanh chóng h?p thu n?n v?n minh ?n ??. Các h?c gi? ?ã xác ??nh th?i ?i?m b?t ??u c?a Ch?m Pa là th? k? th? 4 Công nguyên, khi quá trình ?n hóa ?ang di?n ra. ?ây chính là giai ?o?n mà ng??i Champa ?ã b?t ??u có các v?n b?n mô t? trên ?á b?ng ch? Ph?n và b?ng ch? Champa, và h? ?ã có b? ch? cái hoàn ch?nh ?? ghi l?i ti?ng nói c?a ng??i Ch?m. V? vua ??u tiên ???c mô t? trong v?n bia là Bhadravarman ,  cai tr? t? n?m 349 ??n 361. ? thánh ??a m? S?n, vua Bhadravarman ?ã xây d?ng nên ngôi ??n th? th?n có tên là Bhadresvara, cái tên là s? k?t h?p gi?a tên c?a nhà vua và tên c?a th?n Shiva, v? th?n c?a các th?n trong ?n ?? giáo. Vi?c th? vua nh? th? th?n, ch?ng h?n nh? th? v?i tên th?n Bhadresvara hay các tên khác v?n ti?p di?n trong các th? k? sau ?óVào th?i Bhadravarman, kinh ?ô c?a Lâm ?p là kinh thành Simhapura ("thành ph? S? t?"), n?m ? d?c hai con sông và bao quanh b?i t??ng thành có chu vi dài ??n tám d?m. Theo ghi chép l?i c?a m?t ng??i Trung Qu?c thì ng??i Lâm ?p v?a ?a thích ca nh?c nh?ng c?ng l?i hi?u chi?n, và có "m?t sâu, m?i th?ng và cao, và tóc ?en và xo?n.C?ng theo tài li?u Trung Qu?c, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm ?p n?m 529. Các tài li?u c?ng mô t? v? vua này ?ã cho khôi ph?c l?i ngôi ??n th? Bhadresvara sau m?t v? cháy. Sambhuvarman c?ng ?ã c? s? th?n sang c?ng tu? Trung Qu?c, và ?ã xâm l??c không thành ph?n ??t mà ngày nay là mi?n B?c Vi?t Nam. N?m 605, t??ng L?u Ph??ng nhà Tùy xâm l??c Lâm ?p, và ?ã chi?n th?ng sau khi d? t??ng binh c?a Lâm ?p ??n và tiêu di?t t?i tr?n ??a mà tr??c ?ó ông ?ã cho ?ào nhi?u h? nh? và ph? c? lên. Vào kho?ng nh?ng n?m 620, các vua Lâm ?p ?ã c? nhi?u s? th?n sang nhà ???ng và xin ???c làm n??c phiên thu?c c?a Trung Qu?c.Các tài li?u Trung Qu?c ghi nh?n cái ch?t c?a v? vua cu?i cùng c?a Lâm ?p là vào kho?ng n?m 756 Công nguyên. Sau ?ó trong m?t th?i gian dài, các sách s? Trung qu?c g?i Champa là "Hoàn V??ng. Tài li?u Trung Qu?c s?m nh?t s? d?ng tên có d?ng "Champa" là vào n?m 877, tuy nhiên, nh?ng cái tên nh? v?y ?ã ???c ng??i Champa s? d?ng mu?n nh?t là t? n?m 629, và ng??i Khmer ?ã dùng mu?n nh?t là t? n?m 657.                                                                                                                              saigon city 07/07/2007                                                                                                                                Thanh Trà Ngu?n: Champatra.blogspot.com
0 Rating 6.2k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 28, 2012
CHUYÊN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA CHĂMPA, PHÙ NAM DÀNH CHO K32 CỬ NHÂN LỊCH SỬ Số ĐVHT: 2 (30 tiết) * Mục đớch, yêu cầu: - Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nguồn gốc và quá tŕnh lịch sử, văn hóa của Vương quốc Chămpa và vương quốc Phù Nam, những thành tựu, thành tố của văn hóa Chămpa, Phù Nam, vị trí của nó trong tiến tŕnh lịch sử văn hóa Việt Nam. A. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. Cuối thế kỷ XIX, những khám phá của khảo cổ học và việc tiếp xúc với bi kư ChamPa đă gây nên sự chú ư của các nhà nghiên cứu về lịch sử ChamPa và những lĩnh vực khác liên quan đến lịch sử. Thư mục của P.D.Lafont và của Lương Ninh (1992) đă cho biết con sè Ưt nhất là hơn 1000 tài liệu. Những học giả người Pháp là những người đầu tiên nghiên cứu lĩnh vực này. Có thể kể đến những nhà nghiên cứu xuất sắc trong các kĩnh vực khác nhau. Abel Bergaigne, E.Aymonier, L.Finot nghiên cứu về văn bia; E.M Durand nghiên cứu về dân téc học; về khảo cổ học có J.Y.Claeys và về nghệ thuật có H.Parmentier, và sau ông là Ph.Stern, Jean Boisselier…Trong lĩnh vực lịch sử, năm 1911, G.Maspero xuất bản cuốn Vương quốc cổ ChamPa. Đây là tác phẩm duy nhất viết về lịch sử ChamPa từ đầu cho đến năm 1471. G.Maspero viết lịch sử ChamPa theo vương triều, trong đó ông có đề cập đến những xung đột quân sự giữa ChamPa với các nước xung quanh như là một biểu hiện về tính hiếu chiến của người Chàm, mà ông giải thích là do những hạn chế về điều kiện tự nhiên. Có thể nói đây là một tài liệu có giá trị cao về mặt tư liệu, đặt nền móng cho việc nghiên cứu lịch sử ChamPa. Sau G.Maspero, J.Leuba viết Một vương quốc đă bị diệt vong – người Chàm và dân téc Chàm. Tác giả dựng lại lịch sử ChamPa và chủ yếu là lịch sử quan hệ để tŕnh bày quá tŕnh điệt vong của vương quốc cổ này. Một cách lư giải c̣n phiến diện, nhưng cũng chính v́ vậy mà tác phẩm chỉ đề cập đến những quan hệ về chiến tranh mà chủ yếu là quan hệ chiến tranh giữa ChamPa với Trung Quốc và Đại Việt. Năm 1944, G.Codes đề cập đến lịch sử ChamPa trong khuôn khổ của một tác phẩm viết chung về lịch sử cổ đại ở các nước Viễn Đông chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ên Độ. Ba năm sau, R.Stein công bố những nghiên cứu của ḿnh về thời kỳ đầu của ChamPa qua tác phẩm Nước Lâm Êp, vị trí và sự đóng góp của nó vào sự h́nh thành ChamPa và các quan hệ của nó với Trung Quốc. Trong đó, Stein đă tŕnh bày sự h́nh thành của Lâm Êp (Lin Yi) cổ đại và “sự tiến triển từ Lâm Êp đến ChamPa”, phân tích và chứng minh cả về mặt lịch sử  và về mặt ngôn ngữ. Sự nghiên cứu này đwocj bổ xung vào năm 1958 bởi Wang GungWu trong công tŕnh Nghiên cứu  về lịch sử cổ đại của con đường thương mại Trung Hoa ở biển Nam Trung Quốc. Có thể coi đây là tác phẩm đầu tiên đề cập đến con đường thương mại của Lâm Êp trong những thế kỷ đầu công nguyên. Ở Việt Nam, nghiên cứu về ChamPa không c̣n là một vấn đề mới mẻ. Đă có nhiều thế hệ học giả quan tâm nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực khảo cổ học. Hai thập niên cuối của thế kỷ XX, việc nghiên cứu di tích văn hoá vật chất đă đạt được những thành tựu đáng kể. Thông báo hàng năm của Viện Khảo cổ học luôn có những báo cáo mới, những kết quả nghiên cứu mới. Đây có thể coi nh­ là những tài liệu gốc, mang tính cập nhật cao được sử dụng trong Luận văn. Việc nghiên cứu ChamPa dưới góc độ dân téc học, nghệ thuật, văn hoá cũng đă đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Các công tŕnh nghiên cứu như Văn hoá ChamPa của Ngô văn Doanh, Văn hoá Chăm của Phan Xuân Biên và các cộng sự, Du khảo Văn hoá Chăm của Ngô Văn Doanh…đă trở nên khá quen thuộc.           Tại hội nghị ChamPa tổ chức tại Coopenhagen (23 tháng 5 năm 1987), trong báo cáo của ḿnh, B.P.Lafont đă nêu tóm tắt một số quan điểm của ông về mối quan hệ giữa ChamPa và các nước Đông Nam á. Nhiều mối quan hệ trên các lĩnh vực đă được ông đề cập tới và gợi ra những vấn đề thó vị, những hướng nghiên cứu theo chủ đề này. Tuy nhiên, dường như ông có phần cực đoan khi đánh giá quan hệ giữa ChamPa với Đại Việt chỉ đơn thuần là quan hệ chiến tranh và dẫn đến sự triệt tiêu về mặt văn hoá .           Anthony Reid cũng bàn đến vấn đề “ChamPa trong hệ thống thương mại biển Đông Nam á”, đề xuất một thể chế chính trị đa trung tâm ở ChamPa giống nh­ các vương quốc của người Nam Đảo vùng hải đảo. C̣n K.Hall th́ dành chương VII trong công tŕnh nghiên cứu của ḿnh là Thương mại biển và t́nh trạng phát triển của Đông Nam á cổ đại, thống kê những sản phẩm thương mại của ChamPa trong thư tịch cổ Trung Quốc và nhấn mạnh tầm quan trọng của vị trí bờ biển ChamPa đối với nền ngoại thương khu vực. Ngoài ra, dùa trên cơ sở sử liệu Trung Quốc và Việt Nam viết về tính hiếu chiến, giỏi thuyền chiến, thường xuyên cướp bóc Đại Việt từ đường biển của người Chàm, K.Hall c̣n cho rằng ở ChamPa cả nông nghiệp và mậu dịch đều không làm cho vương quốc giàu lên được, v́ thế mà vương quyền phải dùa trên hoạt động cướp bóc, và ông gọi ChamPa là một “quốc gia hải tặc”.                             CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ VƯƠNG QUỐC CHAMPA (Từ đầu cho đến thế kỷ XV)   I. Điều kiện tự nhiên miền Trung Việt Nam.           Xứ sở: Đất đai của Campa (Chiêm thành) xưa gồm từ Hoành Sơn (Quảng B́nh) đến B́nh Thuận. Đất hẹp, một mặt dựa vào dăy Trường Sơn, một mặt tiếp giáp bờ. Bờ bé lởm chởm, cú ớt đồng bằng. Vương quốc cỏ này có tên chữ Phạn là Nagara Campơ (Vương quốc Chiêm thành). Campơ là tên một loài hoa (và cây) thường thường là trắng, rất thơm. Trong Ấn Độ cổ đại, tờn đú chỉ một quốc gia ở vào quận Bhagalpua ngày nay. Theo phân vùng địa lư của nhà địa lư học Lê Bá Thảo, miền Trung Việt Nam (hay Trung bộ), tính từ Bắc Thanh Hoá đến Nam Phan Thiết, dài hơn 1500km. Diện tích toàn lănh thổ bằng 96.366 km2, 3/4  lănh thổ là núi rừng           Tảng nền địa-văn hoá miền Trung không hoàn toàn trùng với lănh thổ địa lư. Xét về văn hoá Khảo cổ học, từ trước sau Công nguyên, Thanh Nghệ Tĩnh thuộc không gian văn hoá Đông Sơn, không gian văn hoá Việt cổ. Theo các nhà nghiên cứu th́ B́nh-Trị-Thiên là khu đệm giữa văn hoá Đông Sơn và văn hoá Sa Huỳnh giai đoạn trước công nguyên rồi giữa văn hoá Việt và văn hoá Chăm thiên niên kỷ đầu Công nguyên.           Dưới góc độ địa-văn hoá, địa h́nh miền Trung hẹp chiều ngang Tây-Đông với giới hạn Trường Sơn Nam -Tây, biển khơi-Đông. NƠu mô h́nh hoá địa thế này chúng ta sẽ có một trục dọc hẹp được phân cách và nối nhau bởi những đèo, nhánh núi chạy cắt ngang từ dăy Trường Sơn trải dài theo chiều dọc[1]. Xét về mặt kiến tạo địa lư, vùng đất của vương quốc cổ ChamPa xưa có thể được chia ra làm bốn khu vực chính tương đương với bốn đồng bằng lớn: 1. Khu vực đồng bằng B́nh-Trị-Thiên; 2. Khu vực đồng bằng Nam-Ngăi-Định; 3. Khu vực đồng bằng Phú Yên-Khánh Hoà và 4. Khu vực đồng bằng Ninh Thuận-B́nh Thuận. Mỗi khu vực địa lư trên đều có những nét vừa rất chung và cũng vừa rất riêng cả về kiến tạo địa h́nh, địa lư lẫn khí hậu.                Ở phía bắc sau những bầu, phá và các cồn cát là một loạt những đồng bằng dài và hẹp của ba tỉnh: Quảng B́nh, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Trong đó, đồng bằng Thừa Thiên là đồng bằng rộng nhất trong vùng B́nh-Trị-Thiên (với diện tích khoảng 900km vuông).           Từ Nam đèo Hải Vân cho tới giáp với Phú Yên là cả một chuỗi đồng bằng lớn nhỏ nối đuôi nhau chạy từ Bắc xuống Nam – vùng đồng bằng Nam-Ngăi-Định. Hầu hết những đồng bằng lớn ở đây, xét về mặt kiến tạo, đều là những vùng biển cũ được phù xa sông và phù sa biển bồi đắp nên. Nếu tính từ bắc vào, đồng bằng đầu tiên mở ra ngay phía Nam Hải Vân là đồng bằng Quảng Nam nằm chẹt vào giữa hai khối núi lớn Hải Vân và Ngọc Linh. Vùng đồng bằng rộng lớn này vốn là một vùng biển cũ, được h́nh thành lên do nước biển rút, do vận động nâng lên của dăy Trường Sơn Nam và do phù sa bồi của sông Thu Bồn. Đồng bằng Quảng Nam mở rộng ra cả vùng cửa sông Hội An về phía biển và vùng sông Tam Kỳ ở phía Nam.           Vùng đồi nói sau lưng đồng bằng Quảng Nam không chỉ không hoang vu, cằn cỗi mà lại rộng lớn và ph́ nhiêu. Những đồi núi ở đây không quá cao (từ 200m đến 600m), có sườn thoai thoải và những thung lũng rộng được cấu tạo bằng phù sa cổ và phù sa mới           Tiếp ngay sau đồng bằng Quảng Nam là vùng đồng bằng Quảng Ngăi rộng chừng 1200km vuông, bao gồm các thung lũng sông Trà Bồng, Sông Trà Khúc và sông Vệ. Vùng đồi núi phía Tây của Quảng Ngăi cũng rất trù phú và có nhiều loại cây quư. Đặc biệt là vùng Trà Bồng có những rừng quế tự nhiên từ lâu đă nổi tiếng trong và ngoài nước[2].           Vùng B́nh Định cũng là vùng đất được cấu thành từ những đồng bằng kế tiếp nhau từ Bắc xuống Nam, và phân cách nhau bởi những khối núi. Đất phù sa của đồng bằng B́nh Định không chỉ màu mỡ mà c̣n được cả một mạng lưới sông ng̣i cung cấp nước. V́ thế đất đai ở đây rất phù hợp cho việc trồng lúa, mía, lạc, khoai dừa. C̣n vùng đồi núi phía Tây khá bằng phẳng và tươi tốt trù phú           Vùng đất Nam-Ngăi-Định c̣n có một vùng biển sâu nhiều cá và những cảng biển lớn, thuận tiện cho thuyền bè qua lại giao lưu, buôn bán. Tất cả những điều kiện tự nhiên ưu đăi đó từ xưa đă biến vùng đất này thành noi giàu có, cư dân đông đúc[3].           Từ phía Nam của tỉnh B́nh Định, dăy núi Trường Sơn tiến dần ra sát biển, khép vùng đồng bằng Nam-Ngăi-Định lại. Sau khối núi đèo Cù Mông, đất đai lại mở rộng ra thành đồng bằng Phú Yên trù phú. Về mặt địa h́nh, đồng bằng Phú Yên được hợp thành từ hai đồng bằng chính là: đồng bằng Tuy An ở phía Bắc có ḍng sông Cái chảy qua, và đồng bằng Tuy Hoà ở phía Nam có ḍng sông Ba (sông Đà Rằng) bồi đắp nên. ở phía Nam của các đồng bằng Phú Yên là một dải đồng bằng thuộc tỉnh Khánh Hoà, với đồng bằng Ninh Hoà, đồng bằng Nha Trang, đồng bằng Ba Ng̣i… Mặc dầu đất đai và khí hậu ở vùng Phú Yên, Khánh Hoà không thật thích hợp lắm cho việc canh tác nông nghiệp, nhưng vùng đất này lại được thiên nhiên ưu đăi cho có nhiều sản vật quư hiếm như cá biển, chim yến, cây trái, các loại gỗ quư, trong đó đặc biệt là trầm hương…Không phải ngẫu nhiên mà Khánh Hoà xưa được mệnh danh là xứ Trầm hương.           Khu đồng bằng cuối cùng của miền Trung và cũng là vùng đất cực Nam của vương quốc Champa cổ là vùng đồng bằng khô hạn Ninh Thuận – B́nh Thuận. Nơi đây có những đồng bằng nhỏ hẹp và khô cằn hơn so với các vùng khác, như đồng bằng Phan Rang, đồng bằng Tuy Phong (Ninh Thuận), đồng bằng Phan Rí (B́nh Thuận).           Mặc dầu có những thay đổi Ưt nhiều cả về cảnh quan địa lư lẫn khí hậu từ vùng này sang vùng khác, dải đồng bằng miền Trung từ đèo Ngang ở phía Bắc đến ṃi Kê Gà ở phía Nam vẫn có những nét chung, thống nhất của một khu vực địa lư. Đặc điểm nổi bật đầu tiên về kiến tạo địa h́nh và cảnh quan địa lư của miền đất này là sự gắn bó mật thiết với hai yếu tố núi và biển: Dăy Trường Sơn ở phía Tây và biển Đông ở phía Đông. Các đồng bằng không lớn và kế tiếp nhau chạy dài từ Bắc xuống Nam giữa một bên là núi với một bên là biển. ở nhiều nơi, ngay trên đồng bằng cũng rải rác lô nhô đồi và núi. C̣n dăy Trường Sơn th́ có lúc chạy ra tới sát biển làm cho các đồng bằng bị thu hẹp lại hoặc phân tách các đồng bằng ra với nhau. Cả một vùng biển dài không chỉ tác động đến khí hậu mà c̣n ảnh hưởng đến việc h́nh thành ra nhiều dạng địa h́nh đặc biệt ở miền Trung như các cồn cát duyên hải, các băi phu sa biển, vông và phá. Đặc điểm lớn thứ hai của vùng đồng bằng miền Trung là địa h́nh thiên nhiên của các ḍng sông ngắn. Do tính chất địa h́nh núi và biển gần như nằm sát nhau, các con sông ở đây đều ngắn, đều chủ yếu chảy theo hướng Tây-Đông từ núi xuống biển, và mỗi con sông đều là một hệ thống riêng rẽ. Những con sông này, cùng với đường bờ biển cao và khúc khuỷu ở miền Trung đă tạo thành những vịnh - cảng là nơi đậu thuyền rất tốt. Bờ biển miền Trung lồi lơm, ngoài bờ là những đảo, cụm đảo được h́nh thành trong quá tŕnh tạo sơn như: Ḥn Gió (Quảng B́nh), đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lư Sơn-Cù Lao Ré (Quảng Ngăi), Ḥn Tre (Khánh Hoà), Phú Quư (Ninh-B́nh Thuận)…Những đảo này một mặt là b́nh phong ngăn chặn săng gió biển Đông, mặt khác chúng c̣n là tuyến đầu trong quá tŕnh giao thoa văn hoá khu vực và quốc tế, nối Đông Nam Á lục địa với Đông Nam Á hải đảo, nối Bắc-Nam và Đông-Tây.           Mặc dù từ Bắc vào Nam, khí hậu có Ưt nhiều thay đổi qua các khu vực, nhưng về cơ bản, khí hậu miền Trung vẫn là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng Èm mưa nhiều, phù hợp với sự phát triển của nhiều loại động thực vật, và thuận lợi cho việc sinh sống của con người.           Chính đặc điểm địa h́nh và khí hậu đó đă tạo nên cả một thảm thực vật gần như thống nhất suốt dải đất miền Trung: thảm rừng phi lao, rừng thưa lá trên cát và đồi trọc ven biển, trảng cỏ thứ sinh, rừng kín thứ sinh. Dọc miền núi ở Trung Bộ ngày nay vẫn c̣n nhiều rừng có  nhiều loại gỗ quư Trên tảng nền môi sinh như vậy của miền Trung Việt Nam, đă từng tồn tại trong lịch sử những n̉n văn hoá rực rỡ, mà dấu Ên vật chất vẫn c̣n tồn tại đến ngày nay. Cư dân Sa Huỳnh đă có cái nh́n về biển, giao lưu xa và chặt chẽ với miền cao nguyên Thượng Lào-Ḳ Rạt và miền hải đảo Thái B́nh Dương, giao lưu với cư dân Đông Sơn và dân Đồng Nai theo cả đường bộ và đường ven biển.[4] Cũng trên chính mảnh đất Êy, đă từng chứng kiến sự ra đời và phát triển của một trong những vương quốc ra đời sớm nhất, có thời gian tồn tại lâu dài nhất trong lịch sử cổ trung đại Đông Nam Á, đó là vương quốc Champa. Người Chàm cổ đă xây dựng được một cơ cấu kinh tế tổng hợp bao hàm nghề nông trồng lúa nước (hai mùa) dâu tằm – tám lứa kén/năm – bông và vải nhuộm nhiều màu, hoa màu, nghề rừng – khai thác lâm thổ sản: gỗ quư, quế, trầm hương…nghề thủ công: rèn sắt, dệt vải, lụa, chế tạo đồ thuỷ tinh, đá ngọc, khai khoáng (nhất là mỏ vàng) và làm đồ mĩ nghệ vàng bạc – phát triển nghề buôn bán đường biển và đường sông, đường núi. Cơ cấu kinh tế tổng hợp của Champa là sự kế tục và sự phát huy trên một tŕnh độ cao với một chất lượng mới cái cơ cấu có sẵn của phức hệ văn hoá Sa Huỳnh[5].   II. Mét số vấn đề về lịch sử vương quốc Champa. 1. Xứ sở, thực vật, động vật và dân cư Xứ sở: Đất đai của Campa (Chiêm thành) xưa gồm từ Hoành Sơn (Quảng B́nh) đến B́nh Thuận. Đất hẹp, một mặt dựa vào dăy Trường Sơn, một mặt tiếp giáp bờ. Bờ bé lởm chởm, cú ớt đồng bằng. Vương quốc cỏ này có tên chữ Phạn là Nagara Campơ (Vương quốc Chiêm thành). Campơ là tên một loài hoa (và cây) thường thường là trắng, rất thơm. Trong Ấn Độ cổ đại, tờn đú chỉ một quốc gia ở vào quận Bhagalpua ngày nay. Cái tên Campờ này được thấy ghi lần đầu tiên ở trên bia tại Mễ sơn của vua Cambhuvarman (Phạm Phàn Chí) sống vào năm629 công nguyên. Người ngoại quốc viết tờn đú bằng cách phiên âm mỗi người một khác: Mares Polo viết là Cyamba. Odoric de Pordenone viết là Campe. Aymonier viết là Tchampa, Beryaine viết là Campa, Finol và Maspero viết là Champa. Người Trung Quốc gọi bằng nhiều danh hiệu: Lâm ấp  Hoàn vương và Chiêm thành (Chiêm là phiên âm chữ Campa). Ta gọi theo Trung Quốc, thường gọi là Chăm. Thực vật: Trồng lúa, đụa, dưa hấu, kê, vừng, đay, ngô, hồ tiêu, cam, chuối, dừa, sen, cọ, gồi, dơu, bụng. Gỗ mun, đinh hương, bạch đàn, long năo, hồi hương, ḷ hội, mây, tre. Khoáng vật: vàng có nhiều (ở mỏ, trong ḍng sông), bạc, đồng, sắt, thiếc đều nhiều; ngọc lưu li, hổ phách (đồ cống); đá bồ tát (đá mài mịn); san hô, ngọc trai. Động vật: nhiều voi thuần dưỡng, ngà, tê giác, hổ, khỉ, tinh tinh (vượn), công, vẹt lông trắng (cống). Ḅ: đầu tiên không có ngựa, sau vua Trung Quốc tặng cho ngựa, mới gây giống.
0 Rating 6.1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
V??ng qu?c Champa hình thành và phát tri?n trên d?i ??t mi?n Trung Vi?t Nam và m?t ph?n Cao nguyên Tr??ng S?n (L??ng Ninh : 3). C? s? v?t ch?t c?a v??ng qu?c Champa là t? v?n hóa Sa Hu?nh  và n?n nông nghi?p tr?ng lúa n??c n?i ti?ng trong khu v?c ?ông Nam Á. Ngay t? nguyên s?, Champa là qu?c gia ?a t?c ng??i. S? ra ??i c?a v??ng qu?c Champa vào cu?i th? k? th? II là k?t qu? c?a s? h?p nh?t c?a hai b? l?c l?n. ?ó là b? l?c Cau (Kramuka Vamsa) và b? l?c D?a (Nakirela Vamsa). B? l?c Cau c? trú ? khu v?c Nam Champa tr?i dài t? Bình ??nh ??n ??ng Nai còn b? l?c D?a sinh s?ng ? B?c Champa kéo dài t? Bình ??nh ra ??n Qu?ng Bình ngày nay. Nh? nh?ng khám phá c?a Kh?o c? h?c, qua bia kí vi?t b?ng ch? Ph?n cho bi?t v? m?t tri?u vua ??u tiên c?a qu?c gia này mà ng??i sáng l?p có tôn hi?u là Sri Mara. Bia c?ng nói lên ?nh h??ng r?t rõ r?t c?a v?n hóa ?n ??, vai trò c?a các t?ng l?  ?n ?? ??i v?i s? phát tri?n tôn giáo, và có th? kinh t?, xã h?i c?a qu?c gia này n?a (Hu?nh Công Bá :100). T? ngày ra ??i, v??ng qu?c Champa ?ã ch?u ?nh h??ng sâu s?c n?n v?n minh ?n ??. Quá trình hình thành m?t qu?c gia ?a t?c ng??i, v?i t? cách là m?t qu?c gia ??c l?p Champa liên t?c b? ?e d?a t? các qu?c gia láng gi?ng. M?i khi hùng m?nh, các qu?c gia xung quanh th??ng ?em quân  sang gây chi?n  ?? c??p bóc và chi?m l?n ??t ?ai, ??t n?n cai tr? trên lãnh th? Champa. Th? k? th? III, Champa ?ã chú ý xây d?ng b? máy chính quy?n, quân ??i, l?y dãy Hoành S?n làm c??ng gi?i phía B?c, xây d?ng thành Khu Túc ?? phòng ng? (Linh Ninh:18). Do v? trí ??a lí g?n v?i Trung Qu?c, m?t qu?c gia l?n m?nh có n?n v?n hóa khác v?i Champa. Nên gi?a hai qu?c gia này, th??ng xuyên x?y ra chi?n s? vì m?c ?ích c??p bóc và ??ng hóa v?n hóa. Vùng ??t phía B?c c?a Champa t? ?èo H?i Vân ??n ?èo Hoành S?n mà Ph?m V?n ?em quân chi?m ???c t? th? k? III cho ??n cu?i nhà Tùy (??u th? k? VII) v?n là vùng ??t th??ng xuyên x?y ra chi?n s? gi?a Champa v?i Trung Qu?c. N?m 446, th? s? Giao Châu là ?àn Hòa Chi ?ã ?em quân ?ánh Champa c??p ?o?t  nhi?u c?a c?i  và ??t phá c? kinh ?ô. ??n n?m 605, t??ng L?u Ph??ng nhà Tùy  l?i t?n công Champa l?n n?a (Hà Bích Liên:33). S? th?ng nh?t c?a Champa còn l?ng l?o do ?i?u ki?n giao l?u ?i l?i gi?a các vùng trong v??ng qu?c còn r?t khó kh?n và trong m?t tình tr?ng phân tán quy?n l?c khó tránh kh?i gi?a B?c và Nam Champa ( Hà Bích Liên : 34). Nh?ng t? th? k? VII, v??ng qu?c Champa ?ã tr? thành m?t qu?c gia hùng m?nh, n?m quy?n cai tr? trên m?t lãnh th? r?ng l?n. V??ng qu?c chia thành 5 khu v?c hành chính hay ti?u v??ng qu?c là : Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Nhi?u s? li?u c?ng ?ã t?ng ch?ng minh r?ng Champa không ph?i là m?t v??ng qu?c có m?t th? ch? chính tr? “Trung ??ng t?p quy?n” nh? ng??i ta th??ng hi?u l?m, nh?ng là m?t qu?c gia liên bang. M?i ti?u v??ng qu?c có m?t th? ch? chính tr? t? tr? và có quy?n li khai ra kh?i liên bang Champa ?? xây d?ng l?y m?t v??ng qu?c ??c l?p riêng bi?t. Champa b?t ??u dùng chính sách h?u ngh? ?? bang giao v?i các n??c láng gi?ng.  V??ng qu?c này ?ã nhi?u l?n g?i nh?ng quà c?ng ch? h?u c?ng nh? phái b? ngo?i giao sang Trung Qu?c và ti?p t?c phát tri?n ch??ng trình trao ??i kinh t? và tôn giáo v?i c??ng qu?c này. Chính nh?ng chuy?n du hành c?a nhi?u nhà tu s? Ph?t giáo t? Trung Qu?c sang ?n ?? th??ng hay ghé qua h?i c?ng Champa là nguyên nhân chính y?u có s? hi?n di?n c?a ??o Ph?t ??i th?a trong v??ng qu?c này. ??i v?i Cambodia, Champa luôn luôn coi v??ng qu?c này m?t qu?c gia láng gi?ng anh em (Po Dharma). Quan h? gi?a Champa và Cambodia ngày càng thân thi?t, khi m?t ông hoàng Ch?m sang làm phò mã n??c Bhavapura (Chân L?p), không ch? có quan h? hôn nhân mà còn có quan h? v?n hóa. B?i th? mà trong ki?n trúc xây d?ng ??n tháp Champa ? M? S?n E1 có cái vòm c?a ch?u ?nh h??ng khá rõ  c?a Prei Khmeng ( kho?ng gi?a th? k? VIII) c?a Chân L?p. Ng??c l?i, ng??i Champa c?ng ?em kinh nghi?m làm g?ch, xây g?ch ph? bi?n l?i cho ng??i Khmer và còn giúp ng??i Khmer xây d?ng tháp Prasat Damrei Krap n?m 802 ( L??ng Ninh:33). Riêng Vi?t Nam, th?i ?i?m này còn b? s? th?ng tr? c?a Trung Qu?c nên không có quan h? v? m?c ngo?i giao nh?ng v?n có s? trao ??i, ?i l?i gi?a ng??i dân khu v?c chung ???ng biên gi?i. Th? k? th? VIII, m?t s? ki?n l?n x?y ra ??i v?i Champa. ?ó là vi?c chuy?n kinh ?ô vào mi?n Nam vào Rajapura, t?c Virapura ? phía Nam ?èo C? mà không th?y do tranh ch?p, xung ??t nào. Còn mi?n B?c d??ng nh? ???c ??c quy?n quan h? v?i n??c ngoài, tr? thành vùng qu?n c? ?ông ?úc m?i  Sinhapura, tr? thành Trà Ki?u v?i ki?n trúc ??n tháp và nh?ng phù ?iêu ?á vào hàng ??p nh?t c?a ng??i Ch?m (L??ng Ninh:33-34). Trong các n?m 774 và n?m 787, Champa hai l?n b? ng??i Java t?n công, c??p bóc c?a c?i châu báu và tàn phá ??n ?ài. Nh?ng sau ?ó, Champa ?ã ph?c h?i ???c s?c m?nh và còn ?em quân ?ánh Chân L?p, khi?n vua n??c này vì lo ??i phó mà ch?m làm l? ??ng quang (Hu?nh Công Bá:104). Xung ??t quân s? x?y ra trong th?i kì v??ng tri?u mi?n Nam gi?a Java – Champa là l?n ??u và c?ng là l?n duy nh?t duy nh?t trong l?ch s? quan h? c?a hai n??c n??c này. Giai ?o?n cu?i và nh?ng th? k? sau ?ó m?i quan h? này càng ngày càng  tr? nên thân thi?n Bia kí Java ?ã l?u ý ??n s? có m?t c?a ng??i Ch?m vào nh?ng n?m 762, n?m 831 Saka (N?m 840, 902 công l?ch) trong hoàng cung c?a Kuti ? ?ông Java. Nhi?u nhà buôn ng??i Champa c?ng ?ã có m?t ? Champa ( Hà Bích Liên:45). Th? k? IX, Champa liên t?c x?y ra tình tr?ng ??u tranh trong n?i b? qu?c, nh?ng do yêu c?u ?n ??nh ?? phát tri?n  và m? r?ng quan h? ngo?i giao v?i bên ngoài hòa bình ???c l?p l?i, ??t n??c ???c th?ng nh?t. M?t nét n?i b?t trong giai ?o?n này là s? phát tri?n c?a Ph?t giáo, d? nhiên s? x?y ra quá trình c?nh tranh v?i Bàlamôn giáo, s? c?nh tranh này th? hi?n qua vi?c xây d?ng các công trình tôn giáo. Vua Champa ?ã chú tâm r?t nhi?u ??n công trình xây c?t các ??n ?ài Ph?t giáo ? ??ng D??ng hay các ??n ?ài Bàlamôn giáo ? M? S?n ( theo Po Dharma). N?i b? Champa di?n ra s? phân chia quy?n l?c d?n ??n vi?c d?i ?ô t? Panduranga ? mi?n Nam ??n Indrapura ( Thành ph? c?a th?n Indra – Th?n ??ng ??u c?a các th?n). ??a ?i?m kinh ?ô m?i là làng ??ng D??ng trên b? sông Ly Ly – M?t nhánh sông Thu B?n cách Trà Ki?u kho?ng 15km v? phía ?ông  Nam. D??i v??ng tri?u ??ng D??ng ( còn g?i là v??ng tri?u Ph?t Giáo ), ??o Ph?t phát tri?n r?t m?nh, tuy r?ng ?n ?? giáo v?n không b? bài xích (Hà Bích Liên:106). V??ng tri?u Indrapura r?t th?nh tr? th? hi?n ? ch? nhi?u công trình giáo ???c xây d?ng, quân s? ???c trang b? t?t. Champa ?ã 3 l?n t?n công An Nam ( vào n?m 861, 862, 865). Champa ?ã làm phá s?n ý chí xâm l??c c?a vua Chân L?p là Yasovarman vào nh?ng n?m 889-890, gây thi?t h?i l?n cho Chân L?p. Th? k? X, khi ??i Vi?t d?n thoát kh?i s? kìm k?p c?a Trung Qu?c, chính sách cai tr? c?a các  tri?u ??i Trung Qu?c ?ã ?? l?i m?t gánh n?ng l?n cho ??i Vi?t trong v?n ?? khôi ph?c, xây d?ng, t? ch?c l?i ??i s?ng kinh t?, xã h?i. ?? gi?i quy?t v?n n?n  trên, ??i Vi?t t?ng c??ng xây d?ng b? máy chính quy?n Trung ??ng, ban hành nh?ng chính sách m?i  thúc ??y s?c s?n xu?t c?a ??t n??c, kh?ng ??nh s? t?n t?i c?a mình và b?t ??u ti?n hành chi?n tranh v?i n??c láng gi?ng m?t m?t ?? c??p bóc, xâm l?n, m?t khác ?? th? uy. N?u nh? tr??c ?ây, nh?ng r?n n?t trong quan h? Champa ch? ??i m?t v?i cu?c t?n công c?a Cambodia, ??n ?ây l?i thêm ??i Vi?t ?ang l?n m?nh nhanh ch?ng. Do ??i Vi?t và Champa phát tri?n theo ý th?c chính tr? khác nhau, d?n ??n vi?c ?ng x? quy?n l?i gi?a hai giai c?p và dân t?c không gi?ng nhau, nên k?t qu? th??ng gi?i quy?t b?ng xung ??t quân s?. Cu?c chi?n tranh m?nh ???c y?u thua là m?t lu?t t?t y?u trong l?ch s? th? gi?i c? trung ??i. S? th?nh v??ng c?a kinh ?ô ánh sáng Indrapura tr? thành mi?ng m?i ngon cho c?n khát ??i Vi?t mu?n bành tr??ng v? ph??ng Nam. Cu?c chi?n tranh luôn nóng b?ng ? vùng giáp gianh ???ng biên gi?i hai n??c. ?? chu?n b? cho cu?c ch?ng tr? lâu dài, Champa ti?n hành xây d?ng m?t kinh ?ô m?i ? Vijaya (Bình ??nh) ??n n?m 1000 cho d?i toàn b? tri?u ?ình ? Indrapura (Qu?ng Nam) v? Vijaya.  Vì kinh ?ô m?i có ???ng biên gi?i cách xa v?i ??i Vi?t.  M?c khác, khi chi?n s? x?y ra s? có s? h? tr? nhanh ch?ng t? ti?u qu?c Panduranga và các t?c ng??i ? dãy Tr??ng S?n  th?n ph?c Champa ?? ?ng c?u nguy c?p. Th? k? XI, n?m k?p gi?a hai n??c l?n ?ang trên ?à phát tri?n, t? th? k? XI-XIII, Champa chao ??o trong quan h? tay ba gi?a Cambodia và ??i Vi?t. Champa v?a ch? ??ng v?a b? ??ng gây chi?n, v?a theo l?i v?a ch?ng c? hai. Quan h? ph?c t?p này th??ng ?i cùng v?i nh?ng bi?n ??ng v? chính tr? và xu h??ng phân li?t trong v??ng qu?c ( Hà Bích Liên:72). M?c dù các vua c?a th?i kì ??u Vijaya ?ã có c? g?ng ?? th?ng nh?t ??t n??c, nh?ng ta v?n th?y s? th?ng nh?t còn b?p bênh, ch?a th?t v?ng ch?c. S? phân li?t trong n??c g?n nh? luôn x?y ra cùng v?i s? xung ??t bên ngoài lãnh th?. N?i tình qu? th?t ch?a ?? m?nh, nh?ng m?c khác ?ó c?ng là h?u qu? tr?c ti?p c?a nh?ng xung ??t chính tr?, lãnh th? th??ng xuyên x?y ra v?i các n??c láng gi?ng ( Hà Bích Liên:73). N?m 1044, vua ??i Vi?t là Lý Thánh Tông d?n ??u m?t ?oàn quân hùng m?nh sang xâm chi?m Vijaya ( ?? Bàn) ?ã ??t phá th? ?ô ?? Bàn và gi?t ch?t vua Champa là S? ??u trong tr?n chi?n. H?n m??i n?m sau, quan h? hai n??c tr? l?i bình th??ng hóa, Champa th??ng xuyên phái b? ??n ??i Vi?t ?? t?ng nh?ng c?ng ph?m và trao ??i v?n hóa. ??n n?m 1069, m?t s? b?t ng? l?n ??n v?i Champa. Vua Lý Thánh Tông h? chi?u thân chinh Champa không rõ lí do v?ng ch?c. Cu?c hành quân vi?n chinh này do Lý Th??ng Ki?t c?m ??u ?ã ?ánh th?ng và kinh ?ô Vijaya ?ã gi?t r?t nhi?u quân và dân Champa. Vua Champa theo tên g?i c?a ??i Vi?t là Ch? C? b? b?t s?ng. ?? ???c t? do Ch? C? ph?i cam k?t th?n ph?c và c?t m?t ph?n lãnh th? cho ??i Vi?t. ?ó là ph?n ??t B? Chính, ??a Lí, Ma Linh ( t?c vùng Qu?ng Tr? ??n Hu? ngày nay). Tình hình b?t ?n chính tr? trong n??c ch?a gi?i quy?t d?t ?i?m, Champa l?i có chi?n s? v?i Cambodia và ??i Vi?t. Do v?y, mà v? th? Champa ?ang suy vi d?n, ph?i ch?p nh?n ngh?a v? c?ng n?p v?i Trung Qu?c nay l?i thêm ??i Vi?t. ?ây là nh?ng gánh n?ng l?n cho m?t ??t n??c ??t không r?ng ng??i không ?ông, tr? l?c này làm c?n tr? b??c phát tri?n c?a Champa trong các v??ng tri?u v? sau th?y rõ ràng. Th? k? XII, m?i bang giao gi?a Champa v?i Cambodia t? thân thi?t, tin c?y tr? nên x?u ?i tr?m tr?ng, hai qu?c gia cùng ch?u ?nh h??ng Hindu giáo ?ã gi?i quy?t nh?ng nghi k? b?ng cu?c chi?n tranh huynh ?? tàn khóc. N?m 1132, liên minh quân s? Cambodia – Champa ph?i h?p cùng nhau t?n công ??i Vi?t. Tr??c s?c ph?n kháng m?nh li?t, cu?c t?n công nhanh ch?ng b? ??y lùi. Sau s? th?t b?i này, quan h? Champa-Cambodia b? r?n n?t t? h?i, vì s? nghi ng? l?n nhau d?n ??n hi?m khích, xung ??t khó gi?i hòa. N?m 1145, vua Cambodia là Suryavarman II ?em quân quay l?ng ?ánh chi?m kinh ?ô Vijaya c?a Champa (Hà Bích Liên:198). Sau ?ó, ??t n?n cai tr? ? Champa luôn. Tr??c s? ph?n b?i tr?ng tr?n, nhân dân Champa liên t?c n?i d?y ch?ng l?i s? ?ô h? c?a ngo?i bang và gi?i phóng ??t n??c. N?m 1177, Jaya Indravarman IV c?a Champa ?ã tr? ??a b?ng cu?c nghinh chi?n b?ng quân s? vào kinh ?ô tráng l? Angkor, gi?t ch?t vua Chân L?p t?i tr?n và chi?m ?óng trong vòng 4 n?m tr?i. N?m 1190, vua Champa là Jaya Varman IV ti?p t?c ??a quân tr? l?i khiêu khích Chân L?p, l?p t?c vua Chân L?p ?em quân t?n công vào t?n kinh thành Vijaya b?t s?ng vua Champa ?em v? n??c. Sau ?ó, ??a ng??i thân tín lên n?m quy?n ? Champa. ?i?u này, ?ã làm nhân dân Champa ph?n n? b?ng cu?c kháng chi?n liên t?c trong hai n?m m?i th?ng nh?t l?i ???c ??t n??c. Th? k? XIII, cu?c tranh ch?p n?i b? Champa l?i dâng cao t?t ??nh vì quy?n l?c. Ti?u qu?c Panduranga sau khi ?u?i Chân L?p gi?i phóng ??t n??c, ?ã ti?n hành th?ng nh?t l?i ??t n??c và quy?t ??nh x?ng v??ng ? Vijaya ph?n ??i quy?t li?t, ??a ??n vi?c c?u vi?n tr? c?a Chân L?p. L?i d?ng c? h?i này Cambodia l?i chi ph?i sâu s?c n?i tình c?a Champa. H?n th? n?a, còn ph?i h?p v?i nhau kéo quân sang ?ánh ??i Vi?t. N?m 1220, Chân L?p rút quân kh?i Champa vì b? s? uy hi?p t? phía Xiêm La ( Thailand). K? t? ?ó, hai qu?c gia Hindu giáo ch?m d?t luôn s? xung ??t v?i nhau, tr? l?i quan h? bình th??ng. Tuy nhiên c?nh yên bình ch?ng bao lâu Champa l?i ??i m?t v?i k? thù hùng m?nh h?n, nguy c? m?t n??c luôn b? ?e d?a b?i ?oàn quân vi?n chinh Nguyên-Mông. N?m 1257, quân Nguyên Mông b? ch?ng ??ng trên lãnh th? ??i Vi?t. Nên quy?t ??nh chuy?n h??ng t?n công vào Champa. ??i Vi?t không nh?ng c? tuy?t m?i yêu sách c?a quân Nguyên Mông trong vi?c m??n ???ng ?i và cung c?p l??ng th?c ?? th?c hi?n ý ?? ?ánh chi?m Champa mà còn ti?p vi?n cho Champa 2 v?n quân và 500 chi?n thuy?n ?? ch?ng Mông C?. N?m 1282, quân Mông C? theo ???ng bi?n ti?n công vào kinh ?ô Vijaya, Champa ?ã th?c hi?n chi?n thu?t “ V??n không nhà tr?ng” rút quân vào vùng r?ng núi ?? phòng ng? chi?n ??u, khi?n cho ?oàn quân vi?n chinh b? kh?n ??n vì thi?u l??ng th?c. Hai n?m ch? ??i mà không giao chi?n quân Mông C? vì thi?u th?n l??ng th?c nên t? rút quân kh?i Champa. Trong nh?ng n?m kháng chi?n ch?ng quân Nguyên Mông (1282-1284) quan h? hai qu?c gia láng gi?ng ??i Vi?t-Champa tr? nên bình th??ng hóa, m?i r?n n?t  tr??c ?ây ???c hàn g?n h?t s?c ng?c nhiên. M?i bang giao tr? nên t?t ??p sau chi?n th?ng quân Nguyên Mông. N?m 1285 thái t? Harijit lên ngôi vua l?y hi?u là Jaya Sinhavarman IV ( Lê Vinh Qu?c : 59). S? sách Vi?t Nam g?i là Ch? Mân. Ông là ng??i tài gi?i có công l?n trong vi?c làm phá s?n âm m?u xâm l??c c?a quân Nguyên Mông. Ch? Mân ?ã ki?n thi?t l?i ??t n??c thi hành nhi?u chính sách ngo?i giao khôn khéo, c?i m?, k?t thân v?i các qu?c gia láng gi?ng. Trong n??c, Ch? Mân ??y m?nh s? liên h? v?i các t?c ng??i ? Tr??ng S?n Tây Nguyên v?n th?n ph?c Champa, th?c hi?n vi?c m? r?ng lãnh th? v? phía Tây. ??t n?n cai tr? ??n t?n Tây Nguyên, lãnh th? Champa v??n r?ng ??n ??ng Nai. Ho?t ??ng kinh t? trên c?ng bi?n tr? l?i th?i kì sôi ??ng, nh?n nh?p, thu hút nhi?u tàu buôn ? các n??c ?ông Nam Á ??n buôn bán. Ngoài n??c, Ch? Mân luôn t? ra hòa hi?u v?i ??i Vi?t và các qu?c gia h?i ??o. ??c bi?t, trong và sau cu?c liên minh quân s? ?ánh b?i quân Nguyên Mông. V?i Cambodia không h? có cu?c xung ??t, khiêu khích nào x?y ra, v?i Java càng g?n bó ch?t ch?  qua cu?c hôn nhân gi?a Ch? Mân v?i hoàng h?u Tapasi c?a Java. Champa th?i Ch? Mân là giai ?o?n th?nh tr? và yên bình nh?t trong l?ch s? Champa. Th? k? XIV, cu?c kháng chi?n ch?ng Nguyên Mông thành công, nh?ng Champa b? m?t m?t ph?n lãnh th? khá quan tr?ng ? B?c Champa. ?ó là vùng Châu Ô, Châu Lý  ( t?c khu v?c Th?a Thiên Hu? ngày nay ) vào n?m 1306. Nguyên nhân t? cu?c bang giao chính tr? l? th??ng gi?a ??i Vi?t và Champa. Vua Tr?n Nhân Tông sau g?n m?t n?m du ngo?n ? Champa, khi v? n??c ?ã b?ng lòng cho con gái mình là Tr?n Huy?n Trân sang làm dâu ? x? Champa. Ch? Mân t?ng nh?n vi?n binh c?a Tr?n Nhân Tông trong cu?c kháng chi?n ch?ng Nguyên Mông, nay tr? thành chàng r? c?a ??i Vi?t. ?ây là cu?c hôn nhân ??u tiên trong l?ch s? Champa và ??i Vi?t. ??ng sau s? thân tình là m?t kho?ng t?i mênh mông ch?a ai làm rõ ???c. Th?i gian ? x? s? Champa công chúa Huy?n Trân r?t ???c ân s?ng c?a hoàng ?? Champa, nàng ???c ?u ái ??a lên ngôi ???ng kim hoàng hoàng h?u. Tuy nhiên, thiên tình s? này ch?ng kéo dài bao lâu, m?t n?m sau cái ch?t ??t ng?t c?a c?a hoàng ?? Champa mà không ai hi?u n?i lí do, ?ã làm s?ng l?i v?t th??ng r?n n?t v?n có trong quan h? Champa-??i Vi?t. Ph?i ch?ng nó có s? liên quan ??n Công chúa Huy?n Trân ? S? xu?t hi?n c?a bà nh? là gián ?i?p ?ã mua chu?c thành công m?t s? quý t?c Champa và gây m?t s? chia r? l?n trong tri?u ?ình Champa. Nói cách khác, ch? m?u cho cái ch?t c?a Ch? Mân chính là Tr?n Nhân Tông. Vì ông ?ã nh?n th?y ???c m?i hi?m h?a có th? ??n t? Champa, nên ông ?ã phòng ng?a s?c m?nh c?a Champa trong t??ng lai. Gi? s?, m?t Champa b?t tay v?i Trung Qu?c, Cambodia và các qu?c ??o khác t?o nên m?t s?c m?nh t?ng h?p ?ánh vào ??i Vi?t thì h? qu? s? nh? th? nào. Và th?t s?, Trung Qu?c luôn mu?n l?i d?ng Champa ?? kìm k?p ??i Vi?t. Bên c?nh ?ó, ??i Vi?t nh? bé không th? bàng tr??ng lên phía B?c n?i, ch? còn cách ?ánh xu?ng phía Nam v?a tìm ???c ngu?n s?ng v?a v?a t?o ???c th? rút lui an toàn khi b? Trung Qu?c t?n công. Vì v?y, cái ch?t c?a Ch? Mân là do ý t??ng c?a Tr?n Nhân Tông cho dù ông ?ã rút kh?i tri?u chính ?? làm ch?c Thái th??ng hoàng. Tr?n Huy?n Trân ch? th?c thi m?nh l?nh mà thôi ! Qu? th?t, Champa ?ã ch?u nhi?u m?t mát l?n sau cái ch?t c?a hoàng ?? Ch? Mân. T? ?ó, quan h? ??i Vi?t-Champa b? tr??t d?c tr?m tr?ng, nh?ng cu?c chi?n tranh ?òi l?i ??t ?ai liên t?c di?n ra. Thêm vào ?ó, Champa c?ng ?ang b? m?t d?n s? liên h? v?i các qu?c ??o. Philippine ?ã liên h? tr?c ti?p v?i Trung Qu?c  không còn qua lãnh h?i Champa. Cambodia thì ?ang r?i ren v?i cu?c kháng chi?n v?i Ayuthaya c?a Thailand nên không có liên h? nhi?u v?i Champa. Tuy v?y, t? n?m 1360, làn s?ng chóng ??i Vi?t di?n ra m?nh m?. V?i s? xu?t hi?n c?a Ch? B?ng Nga. Hai qu?c gia ?ã x?y ra chi?n s? trong su?t 30 n?m, ?ã h?n 15 l?n Champa ?ánh ??i Vi?t, 3 l?n phá nát kinh ?ô Th?ng Long và gi?t ch?t c? vua ??i Vi?t là Tr?n Du? Tông. Vi?c Ch? B?ng Nga ch? ??ng ti?n công ??i Vi?t là mu?n giành l?i ph?n lãnh th? Champa ?ã b? m?t tr??c ?ây. M?c dù, tài ch? huy quân s? ki?t su?t ?ã nhi?u l?n khi?n ??i Vi?t b? kinh ?ô ch?y tr?n.  Nh?ng quá trình huy ??ng nhân v?t l?c cho cu?c chi?n quá dài và k?t cu?c b?t thành Champa ?ã b? m?t uy tín r?t nhi?u trong khu v?c. ??c bi?t là s? suy thoái c?a n?n kinh t?, s? phai m? c?a v?n hóa Hindu giáo ?ã ??a xã h?i Champa r?i vào tình tr?ng kh?ng ho?ng nghiêm tr?ng. ???c th? th?ng, các tri?u ??i Vi?t Nam không ng?ng th?c hi?n chính sách xâm l?n ??t ?ai, tranh giành ngu?n l?i t? nhiên, t?ng b??c ??y lùi Champa v? ph??ng Nam m?i khi có ?i?u ki?n. Th? k? XV, sau m?t th?i gian làm quan ?n l??ng nhà Tr?n, H? Quý Ly ?ã t?ng b??c ???c th?ng quan ti?n ch?c, r?i giành luôn ngôi vua c?a nhà Tr?n. H? Quý Ly m?c dù thi hành nhi?u chính sách thân thi?n v?i nhà Minh (Trung Qu?c). Riêng v?i Champa, H? Quý Ly th??ng d?n s?c gây chi?n ?? th? uy. Tr??c th? b? t?n công, vua Champa là Ba ?ích Lai ( Indravarman V) ph?i ch?p nh?n nh??ng vùng ??t Chiêm ?ông và C? L?y  ?? ???c Hi?p ??nh ?ình chi?n. Nh? th?, sau n?m 1404 c??ng gi?i Champa ch? còn t? Bình ??nh tr? vào. Vùng Amaravati  v?i thánh ??a tôn nghiêm và c? ?ô ?ã thu?c quy?n ki?m soát c?a ??i Vi?t (Hà Bích Liên:108). N?m 1414, th?a lúc Lê L?i và nhà Minh ?ang nghinh chi?n, Champa l?n l??t thu h?i l?i ???c vùng ??t ?ã b? m?t th?i H? Quý Ly. Indravarman V ( Ba ?ích Lai) ??c bi?t chú tâm ??n vùng ??t Cao nguyên trung ph?n và ??ng Nai ?? phát tri?n ??t n??c. Vì nh?ng liên h? v?i th? gi?i Hindu giáo ?ã phai m? h?n. Indravarman V n? l?c tìm cách huy ??ng m?i ngu?n l?c kinh t?, xã h?i ?? ki?n thi?t l?i tri?u chính, ng?n ng?a nh?ng xung ??t v?i ??i Vi?t. N?m 1467, có s? th?n Champa sang ??i Vi?t xin s?c phong và trong s? sách Vi?t Nam ghi tên vua m?i c?a Champa là B? ?i?n. Ông có thái ?? hòa hi?u v?i qu?c gia láng gi?ng. Nh?ng sau ?ó, phái ??i l?p trong tri?u ?ình Champa ?ã giành l?i v??ng quy?n b?ng cách l?t ?? B? ?i?n ??a ng??i khác lên thay là Bàn La Trà Toàn. Ng??c h?n v?i vua ti?n nhi?m, Bàn La Trà Toàn có ý th?c rõ ràng v? c??ng v?c lãnh th? nên phát ??ng quân s? ?ánh vào ??i Vi?t ? nh?ng vùng ??t Champa b? m?t vào th?i Ch? Mân ?? ?òi l?i. Hành ??ng ?ó, b? phía ??i Vi?t lên án m?nh m? “ là ng??i hung b?o, làm b?y, d?i th?n ng??c dân, l?i kêu ng?o t? cho mình là gi?i, kinh r? làm nh?c s? th?n c?a ??i Vi?t, xâm nhi?u dân biên gi?i”nh?ng không ph?i ch? có th? . Hi?n t??ng Bàn La Trà Toàn có l? còn kh?i l?i c? s? ki?n Ch? B?ng Nga, nh?c l?i m?t m?i lo ng?i không d?t v? nh?ng cu?c chi?n tranh s? n? ra. ?áp l?i hành ??ng, vua Lê Thánh Tông ?ã quy?t ??nh th?c hi?n m?t cu?c vi?n chinh quân s? v?i quy mô l?n ?ánh th?ng vào kinh ?ô Vijaya c?a Champa.  N?m 1471, vua Lê ?ích thân ?em 26 v?n quân ?i ?ánh Champa. Tr?n ?ánh toàn th?ng, chi?m ???c kinh ?ô Vijaya b?t ???c vua Bàn La Trà Toàn. M?t viên t??ng Ch?m là B? Trì Trì ch?y vào Phan Rang, t? l?p làm vua và xin s?c phong. Nhà Lê ?ã ch?p nh?n. Vua Lê ?ã chi?m l?i Chiêm ??ng và C? L?y và l?y thêm ph?n lãnh th? m?i là Vijaya sáp nh?p vào, l?p thành m?t ??o m?i g?i là Qu?ng Nam (bao g?m Qu?ng Nam, Qu?ng Ngãi, Bình ??nh ngày nay). V??ng tri?u Vijaya ??n nay ch?m d?t ( L??ng Ninh:114). T? ?ó v? sau, các v??ng tri?u Champa không bao gi? ??t ???c s? h?ng th?nh nh? Vijaya t?ng t?n t?i. Xã h?i Champa b? s?p ?? toàn di?n v? c? ch? t? ch?c qu?n lí xã h?i theo mô th?c Hindu giáo, nhi?u b??c chuy?n c?a xã h?i di?n ra theo m?t xu h??ng m?i. ?ó là s? tr?i d?y c?a t? t??ng Islam giáo ngày càng m?nh lên. Th? k? XVI-XVII, s? m? r?ng lãnh th? c?a ??i Vi?t trên vùng lãnh th? Champa ???c thi?t l?p v?ng ch?c. ??c bi?t t? cha con Nguy?n Hoàng và Nguy?n Phúc Nguyên. Kinh t? c?a chúa Nguy?n ? ?àng Trong t?o s? thu hút c?a tàu buôn n??c ngoài ??n r?t nhi?u, vô hình chung ?ã giành luôn nh?ng b?n hàng ??n t? vùng vi?n ?ông v?i Champa và ?ã t?o thành m?t s?c c?nh tranh khá gây g?t. Tuy v?y, chính nh?ng m?i quan h? buôn bán trên vùng bi?n t? do ngoài s? ki?m soát c?a qu?c v??ng Champa ?ã v?y g?i nh?ng tàu buôn t? Bruney, Bunta, Java… vào c?ng Champa ( Hà Bích Liên:121). Ng??c l?i nh?ng tàu buôn Champa c?ng ??n Malaysia và Indonesia th??ng xuyên. ?i?u này s? gi?i thích t?i sao Islam ???c duy trì và phát tri?n ? Champa. Do không ch?p nh?n s? có m?t ngày càng nhi?u ng??i Vi?t trên lãnh th? Champa, Po Nit (1603-1613) ??ng lên ch?ng l?i s? ?ô h? c?a ng??i Vi?t ? Phú Yên, cu?c kháng chi?n b?t thành.  Chúa Nguy?n xung luôn vùng ??t Phú Yên làm dinh Tr?n Biên. Tuy nhiên, ng??i Ch?m v?n bám tr? l?i vùng ??t c?a t? tiên, ngày nay h? ???c nh?n d?ng qua nét v?n hóa Ch?m và t?c danh Ch?m H’Re, Ch?m H’Roi. Xung ??t Nam B?c tri?u và n?i chi?n Tr?nh-Nguy?n kéo dài ?ã ph?n nào làm cho s?c m?nh c?a ??i Vi?t suy nh??c, gi?m chi ph?i ??n n?i tình Champa. Nh? ?ó, Champa có th?i gian hòa bình ?? ?n ??nh t? ch?c l?i c? c?u kinh t?, v?n hóa, xã h?i. H?n 45 n?m n?i chi?n x?y ra ? ??i Vi?t c?ng là lúc Champa t?ng b??c ???c h?i ph?c v? kinh t?, do ???c t? do phát tri?n trong hòa bình. Và Po Rome ?ã xu?t hi?n nh? m?t hi?n t??ng m?i l? v?i bao huy?n tho?i trong l?ch s? Champa. Vua Po Rome chuyên tâm vào  ki?n thi?t l?i ??t n??c, chú tâm phát tri?n kinh t?, xã h?i. Ti?n hành xây d?ng h? th?ng th?y l?i ?? ph?c v? n??c t??i tiêu trong nông nghi?p, v?i công trình ??p n??c Maren ???c s? d?ng ??n t?n bây gi?. H?n th? n?a, Vua Po Rome ?ã xu?t s?c trong vi?c n?i l?i s? liên h? v?i các t?c ng??i ? Cao Nguyên Trung Ph?n qua cu?c hôn nhân v?i con gái c?a m?t tù tr??ng ng??i E?ê ( Ra?ê), nh?m m?c ?ích t?o s? g?n k?t ch?t ch? ng??i Ch?m ? ??ng B?ng và ng??i Ch?m vùng Cao Nguyên ( bao g?m các t?c ng??i ? Tây Nguyên). Trong bang giao v?i chúa Nguy?n, Po Rome c?ng t?o ???c s? tin t??ng r?t l?n, ??n n?i c??i luôn con gái c?a chúa Nguy?n là Ng?c Khoa ?? làm cung n?. Tri?u ??i Po Rome h?ng th?nh kéo dài không lâu. V? vua k? nghi?p là Po Nrop có ???ng l?i c?ng r?n v?i chúa Nguy?n. Ông ti?n hành ho?t ??ng quân s? ?? chi?m l?i vùng ??t Phú Yên b? m?t th?i Po Nit. Nh?ng không may b? th?t tr?n, không nh?ng không l?y l?i ???c vùng ??t ?ã m?t mà còn m?t luôn h?n vùng ??t Kauthara vào tay chúa Nguy?n ki?m soát và thi?t l?p n?n hành chính m?i t?i vùng ??t này là dinh Thái Khang và Diên Khánh. Nh? v?y, Champa ch? còn v?n v?n vùng ??t Panduranga làm n?i sinh s?ng và m?t b? ph?n dân c? ? ??ng Nai. S? m?t d?n ch? quy?n ??t ?ai và ngu?n l?i kinh t? ?ã ??a xã h?i Champa vào tình tr?ng kh?ng ho?ng tr?m tr?ng. L?ch s? Champa có b??c ti?n tri?n m?i hay không ph? thu?c r?t l?n t? cu?c n?i chi?n c?a Vi?t Nam và thái ?? ?ng x? c?a Vi?t Nam ??i v?i v?n ?? xã h?i Champa. B?i vì, Champa không còn làn gianh B?c Nam n?a mà phân hóa theo m?t h??ng khác r?t t? h?i. ?ó là, thái ?? khác nhau c?a ng??i Ch?m trong vi?c h?p tác v?i ??i Vi?t hay ??ng v? phía Champa ?? ch?ng l?i ng??i Vi?t ??n cùng. S? phân hóa này, làm cho Champa tr? thành n?n nhân c?a cu?c tranh giành quy?n l?c trong su?t v??ng tri?u Nguy?n. M?c dù, b? m?t kauthara m?t trung tâm c?a Hindu giáo con ???ng thông th??ng v?i các qu?c ??o vùng bi?n ?ông b? c?t ??t ?o?n, nh?ng nhân dân Champa v?n gi? v?ng ng?n l?a ??u tranh. Po Thot (1660-1692) ?ã lãnh ??o cu?c n?i d?y ch?ng l?i chúa Nguy?n nh?ng nhanh ch?ng b? th?t b?i và b? b?t t?i tr?n. Nh? m?t thông l? l?ch s?, c? m?i l?n ??ng ??u tranh ?? ?òi l?i ??t ?ai b? xâm chi?m, Champa càng b? ??y lùi v? phía Nam. Toàn b? lãnh th? còn l?i c?a Champa b? bi?n thành m?t ??n v? hành chính c?a chúa Nguy?n là tr?n Thu?n Thành. ??n tháng 8-1693, ??i tr?n Thu?n Thành b?ng ph? Bình Thu?n (Hà Bích Liên:132). Th?t s?, trên danh ngh?a chúa Nguy?n làm ch? trên toàn cõi Champa nh?ng ch?a th? tr?c ti?p qu?n lí ???c. Do ?ó, chúa Nguy?n th??ng ??t cách quy ch? ng??i Champa qu?n lí ng??i Champa theo s? s?p x?p c?a chúa Nguy?n. Chính sách t? tr? này, ???c tri?u Nguy?n th?c thi ?? d?p t?t ng?n l?a kháng chi?n ch?ng l?i ng??i Vi?t. Th? k? XVIII-XIX, vi?c l?p thi?t n?n hành chính m?i là ph? Bình Thu?n c?a nhà Nguy?n, nh?m ti?n sâu vào lãnh th? nh? bé còn l?i c?a Panduranga v?i lí do  ?? b?o v? b? ph?n ng??i Vi?t m?i di c? sang. Quá trình c?ng c? ?an xen ?ã làm xóa m? lãnh th? ??c l?p c?a Champa và xáo tr?n c? c?u t? ch?c kinh t?, xã h?i truy?n th?ng. N?m 1771, phong trào Tây S?n n? ra. Khi Nguy?n Hu? làm ch? ???c ??t n??c thì Nguy?n Ánh ráo ri?t xây d?ng c? s? ? phía Nam ?? ph?n công. Th? là ph?n lãnh th? c?a Champa ? gi?a tr? thành tr?n ??a quy?t li?t và cu?c tranh giành quy?n l?c lãnh ??o ??t n??c ?ã lôi kéo c? ng??i Champa vào cu?c chi?n tranh riêng t? c?a h? Nguy?n. Cu?i cùng, Nguy?n Ánh ?ã th?ng nh?t ???c ??t n??c và m? ra m?t tri?u ??i. ?ó là v??ng tri?u Nguy?n. ?? c?m ?n quý t?c Champa ?ã góp công làm nên chi?n th?ng. Ng??i ??ng ??u tri?u ?ình nhà Nguy?n là Gia Long ?ã ban b? nhi?u chính sách m?i ??i v?i Champa và v?n tôn tr?ng quy?n k? v? theo truy?n th?ng Champa, ???c h??ng quy ch? t? tr? ?? qu?n lí dân Champa nh? m?t chính quy?n chuyên ch?. T? n?m 1793-1799, Po Ladhun Dapaguh là m?t th? l?nh quân s? Ch?m làm ch??ng c? qu?n lí vùng ??t Thu?n Thành. N?m 1799-1802, Po Saung Nun Can ???c c? làm Khâm sai th?ng binh cai c? làm phó tr?n Thu?n Thành. N?m 1802-1820, Po Klan Thu lên thay th?. N?m 1828-1832, Po Phauk Tha ???c ti?n c? ??m nh?n cai qu?n vùng ??t Thu?n Thành. Trong th?i kì ??u nhà Nguy?n không gây ra m?t s? b?t ?n l?n cho Champa c?ng nh? không can thi?p nhi?u vào phong t?c, t?p quán truy?n th?ng c?a Champa. ?i?u này, t?o thu?n l?i cho ng??i Ch?m ???c yên ?n ?? sinh s?ng. Tuy nhiên, v? sau Minh M?ng v?i nh?ng chính sách c?i cách ??t n??c, ?ã không ch?p nh?n s? t?n t?i cát c?, n?m ngoài s? qu?n lí c?a tri?u ?ình. Chính sách c?i cách hành chính do Minh M?ng kh?i x??ng ?ã châm ng?n l?a ??u tranh ch?ng ng??i Vi?t bùng phát. ?ó là phong trào kh?i ngh?a Katip Sumat (1834) d??i ng?n c? Islam hy sinh vì ??o ?? ph?n n? chính sách Minh M?ng can thi?p nghiêm tr?ng vào sinh ho?t c?a Champa.  Ti?p sau ?ó là cu?c kh?i ngh?a c?a Ja Tha Wa (1835). C? hai phong trào ch?ng l?i ng??i Vi?t b? d?p t?t trong b? máu.  Minh M?ng ?ã th?ng ?àn áp ?? phòng ng?a nh?ng phong trào ch?ng l?i ng??i Vi?t v? sau. Nh? v?y, n?m 1832, ?ánh d?u m?c th?i ?i?m cu?i cùng c?a v??ng qu?c Champa, m?t qu?c gia hình thành ??u tiên ? ?ông Nam Á và t?ng gi? v? trí kinh t?, chính tr? quan tr?ng trong khu v?c.  C? dân Champa vì n?n chi?n tranh liên t?c nên l
0 Rating 4.3k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 31, 2016
Vua Chế Bồng Nga tài ba của Champa đã bảy lần chiếm thành Thăng Long, bị chết như thế nào?----------------------------" VUA CHẾ BỒNG NGA TỬ TRẬN "(Nguồn: facebook Pham Vinh Loc) -Chúng giết con tôi, xin bệ hạ báo thù! -Được rồi, bà hãy yên tâm. Chế Bồng Nga ôn tồn phủ dụ người đàn bà đang vật vã gào khóc dưới ngai vàng. Vua Chăm cho gọi Mục Bà Ma vào nghe tâu trình. -Lúc trước ngươi đi đòi lại đất Hoá Châu thì nhà Trần thái độ ra sao? -Cương quyết không trả. -Đã bắt Huyền Trân công chúa đem về, lại không trả của hồi môn, ngang ngược! Chế Bồng Nga quát lớn. Nay nhân dịp mẹ của Dương Nhật Lễ sang méc việc Trần Nghệ Tông cướp ngôi con trai và báo cáo sự rệu rã của quân đội Đại Việt, Chế Bồng Nga quyết ý xuất quân bình định thiên hạ. Chăm Pa là một nước lớn và có nền văn hiến lâu đời. Họ là những kiến trúc sư xuất sắc và thuỷ thủ lành nghề với những chiến thuyền hải tặc hoành hành suốt biển Đông. Một giống dân quật cường, phản kháng mạnh mẽ ách đô hộ của Trung Quốc nhưng cuối cùng lại bị Đại Nam tiêu diệt, thật là đáng tiếc. Nhưng bài này đang nói đến thời kỳ hoàng kim của họ dưới sự thống lĩnh của đại vương Chế Bồng Nga. -Cướp hết, thẳng tay cướp, ta cho phép! Quân Chăm rẽ sóng vượt biển tiến vào địa phận nước Việt, cập bến cửa Đại An và binh lính đổ bộ, tràn về kinh thành. Chế Bồng Nga cười lớn khi bước vào Thăng Long, thì ra vua quan nhà Trần bỏ chạy sạch sẽ cả rồi. Lính Chăm toả ra khắp vương đô như đàn kiến, kẻ khuân vàng người vác bạc, phóng hoả đốt cung điện lẫn sách vở. Chán chê thì hốt đàn bà con nít đem về nước. Sau vụ đó Chế Bồng Nga thấy dễ ăn quá nên tiếp tục lặp lại và lần này cũng y như cũ, khoắng được một mẻ đem về. Nhà Trần sợ hãi gần như tê liệt. -Ngày nay người An Nam lại đem binh sang chiếm đất chúng tôi, cướp bóc nhân dân tôi. Vì thế thần xin bệ hạ giúp cho vũ khí, nhạc khí và nhạc sư để người An Nam thấy Chiêm Thành là phiên thuộc của bệ hạ mà không quấy nhiễu nữa. Chế Bồng Nga vu khống cho vua Minh nghe và tiếp tục chinh phạt lần thứ ba. Trần Duệ Tông nổi giận: -Lần này ta phải đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông! Khống chế Chiêm Thành mãi mãi. Ông vua mới này anh hùng nhưng nóng máu, muốn dẹp yên một lần này cho xong chuyện luôn. Quân Trần 12 vạn người hùng hậu vượt biển tới cửa Thị Nại ở Quy Nhơn, nơi 400 năm sau Nguyễn Phúc Ánh huỷ diệt đoàn thuyền lừng danh của Tây Sơn. Mục Bà Ma giả đầu hàng, đến cấp báo: -Thưa hoàng thượng, Chế Bồng Nga đã bỏ chạy khỏi Đồ Bàn! Nay thành trống rỗng, đánh gấp ắt lấy được. Duệ Tông cười: -Nó sợ ta đây mà, chuẩn bị chiếm thủ đô Đồ Bàn. Đại tướng Đỗ Lễ can: -Nó hàng là vì muốn bảo toàn đất nước. Quân ta đi vào sâu để đánh phá thành là việc bất đắc dĩ, vậy xin hãy sai một người mang thư đến hỏi tội để xem thật giả ra sao, cũng như kế của Hàn Tín phá nước Yên thuở xưa, không phải khó nhọc mà vẫn thành công. Cổ nhân nói lòng giặc khó lường, thần xin bệ hạ hãy xét kĩ lại. Duệ Tông gắt: -Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại thì đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói "Dụng binh quý ở nhanh chóng". Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác thì hối không kịp! Đỗ Lễ cay đắng bỏ ra ngoài ngửa mặt lên trời than rằng: -Nhà Trần nguy mất. Duệ Tông bực mình liền phát áo đàn bà cho Đỗ Lễ mặc, rồi tiếp tục tiến binh. Vua mặc áo đen, cưỡi ngựa hắc bạch, tự mình xung phong dẫn tất cả vào Đồ Bàn. Kinh thành Chăm Pa yên ắng, tựa hồ một thành phố chết. Vua ngạc nhiên: -Chúng nó đâu cả rồi? Bỗng pháo lệnh nổ vang lên, từ bốn phương tám hướng phục binh đổ ra, cắt quân Trần thành từng đoạn như xâu cá. Máu phun đầy một bãi đất. Đội vệ vương đổ xô lại hộ giá, vua Duệ Tông hoảng hốt khi chiến sự đổi chiều. Chế Bồng Nga tay xách đại đao, mình mặc chiến phục sặc sỡ hăng hái xông lên. Duệ Tông rút gươm sẵn sàng nghênh chiến thì bỗng tuấn mã hí vang, lồng lên hất vua té lăn. Tướng Đỗ Lễ xoay tít cây thương rồi quát: -Bồng Nga dừng tay! Duệ Tông khóc to: -Thứ lỗi vì trẫm đã làm nhục ngươi trước ba quân. -Chuyện đó không quan trọng, hoàng thượng chạy khỏi thành Đồ Bàn đi, chạy mau, bên ngoài có quân của Quý Ly đấy! Đỗ Lễ gầm lớn rồi đâm mạnh cây thương, ác chiến cùng Chế Bồng Nga mười hiệp không phân thắng bại. Quân Trần bấy giờ hoàn toàn tan vỡ, không còn ra một đội hình nào cả. Bất ngờ hàng loạt mũi dao đâm xối xả vào lưng Lễ, quốc vương Chăm Pa chém mạnh thêm nhát nữa kết liễu người anh hùng. Duệ Tông được đội vệ vương mở đường máu cho chạy về cổng thành. Chế Bồng Nga nói lớn: -Chạy đâu cho thoát? Rồi ông rút cây cung quý trên vai ra, nheo mắt nhắm. Một, hai, ba, Bồng Nga lẩm nhẩm đếm rồi buông dây. Mũi tên vẽ thành một đường cầu vồng vọt lên không trung rồi xé gió lao vùn vụt xuống trong ánh nắng cuối ngày. -Hự! Ngạnh sắc đâm thẳng vào lưng vua Trần, xuyên từ trước ra sau xé toạc lá phổi. Duệ Tông gục xuống, mắt mở lớn, lệ chảy ướt má, phun ra một đấu máu, lát sau thì tắt thở. Kết cục bi thảm như Bàng Thống bị bắn chết ở đồi Lạc Phụng ngày xưa. Đội vệ vương cũng bị bao vây và không còn người nào sống sót. 12 vạn quân bị phục kích trong thành Đồ Bàn, chết hết 10 vạn người. Một bước ngoặt cực lớn cho nhà Trần và cả lịch sử Việt Nam. Hồ Quý Ly nghe tin dữ liền bỏ chạy, tuy nhiên được Trần Nghệ Tông xá tội cho. Lại nói Chu Nguyên Chương tuy đoạt được cả thiên hạ từ tay giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nhưng vẫn muốn mở rộng thêm về phương nam nhân nước ta có đại tang. -Thấy em chết vì việc nước, anh lại lập con của em lên ngôi, xem nhân sự đối xử tốt với nhau như thế, thì đủ biết lòng trời hãy còn tựa nước người ta. Thái sư Lý Thiên Trường can ngăn nên Chu Nguyên Chương tạm gác việc đó lại. Chế Bồng Nga sau đại thắng Đồ Bàn thì không còn ngán Đại Việt một chút nào nữa. Lập tức bắc tiến lần thứ tư, Thăng Long thất thủ và mất sạch của cải. Tuy năm đó đi về gặp bão và đắm thuyền, nhưng ít ra họ Chế đã lấy lại toàn bộ đất cũ, thu thêm Nghệ An, và vàng ngọc đủ để tiến cống Minh triều năm đó. Lần thứ năm bắc tiến, tiếp tục Bồng Nga vào được Thăng Long, lần này ông ta muốn sỉ nhục Đại Việt: -Quỳ xuống lạy rồi ta tha cho! Quan kinh doãn Lê Giốc cương quyết không quỳ và bị chém chết ngay. Bồng Nga lại được dịp tham quan "Hà Nội ba sáu phố phường", đồng thời không quên xin đểu thêm tiền bạc. Bị cướp quá nhiều lần khiến Trần Nghệ Tông cực kỳ stress, ông buộc phải sai người đem tiền bạc của mình vào núi Thiên Kiến và động Khả Lăng để giấu bớt. Lần thứ sáu bắc tiến, Chế Bồng Nga bị Hồ Quý Ly đẩy lui, nhưng vẫn giữ được các phần đất đã chiếm của Đại Việt. Quan quân nhà Trần vội vàng đem cất giấu bài vị và tượng thờ các tiên đế để phòng người Chăm phá lăng mộ trong những lần tấn công sau. Chế Bồng Nga đi Đại Việt như đi chợ, ra vào như chỗ không người, không cần visa passport gì cả, nên chuyện này sớm muộn cũng có thể xảy đến. Lần thứ bảy bắc tiến, Hồ Quý Ly giằng co với Chế Bồng Nga được tầm 20 ngày thì Bồng Nga bỏ đi. Quý Ly phấn khởi truy kích thì bất ngờ gặp phục binh, bị đánh cho tan tác ôm đầu máu bỏ chạy. Trần Nguyên Diệu đem quân ra đầu hàng. Trần Nghệ Tông khóc vì khiếp hãi: -Nguy to rồi! Ông vội vàng bỏ Thăng Long lại như mọi lần và như một thói quen. Riêng Trần Khát Chân vẫn bình tĩnh ở lại cự địch. Nếu thua lần này nữa là mất trắng, nhà Trần sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Bồng Nga cùng 100 chiến thuyền hùng hậu tiến đến sông Luộc ở tỉnh Thái Bình bây giờ: -Nhà Trần tới đây là kết thúc. Bồng Nga cười và dùng bữa. Thế nhưng ông lập tức phun ra, quát: -Thằng nào nấu món này? Dở không chấp nhận được. Tên đầu bếp sợ hãi rúm người, Bồng Nga thét lôi ra đánh đòn. Toác da rách thịt, hắn khóc lóc đau đớn. Sau trận đòn thừa sống thiếu chết, tay đầu bếp bi phẫn. Đêm hôm đó hắn lẻn ra khỏi thuỷ trại Chăm Pa, rẽ thuyền nhỏ đến xin hàng quân Việt và yết kiến Trần Khát Chân. -Thuyền của Chế vương màu xanh lục, xin ông chớ nghi ngờ. -Nếu đúng là như thế thì ngươi phú quý vinh hoa cả đời hưởng không hết. Trần Khát Chân được chỉ điểm, sáng hôm sau khi Chế Bồng Nga kéo thuyền đến, lập tức ông tập trung toàn bộ hoả lực và bắn. Sau một loạt tiếng nổ long trời lở đất, con thuyền ngự nát bươm như tàu lá chuối. Chế Bồng Nga lảo đảo bước lên đầu thuyền, mình mẩy nhuộm máu, rồi ngã sấp xuống, chấm dứt cuộc đời bi tráng của vị vua giỏi nhất Chăm Pa từng có. Trần Nguyên Diệu cắt lấy đầu và trở về Đại Việt. Lại nói Nghệ Tông đang ngủ thì bị đánh thức, ông hét lên vì tưởng quân Chăm tới bắt. Trấn an mãi mới nguôi, thấy đầu Chế Bồng Nga thì cười toe toét: -Ta với Bồng Nga cầm cự đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi! Tổng kết lại quá trình tiêu diệt Chăm Pa: 1. Lê Đại Hành san phẳng kinh đô Indrapura. 2. Lý Thánh Tông hạ Chế Ma Na, sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị. Sau đó Chiêm Thành chịu thần phục nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất. 3. Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và được tặng Huế. 4. Cha con Hồ Quý Ly chiếm lấy Đà Nẵng - Quảng Nam và Quảng Ngãi. 5. Lê Thánh Tông thân chinh hạ kinh đô Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, lấy đất tới Phú Yên. 6. Nguyễn Phúc Tần tiến sâu vào Nam đến Nha Trang - Khánh Hoà. 7. Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang. Từ nay kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ. 8. Minh Mạng xoá sổ Thuận Thành Trấn, chấm dứt lịch sử Chăm Pa. "Ðây, những tháp gầy mòn vì mong đợiNhững đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên than Ðây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọnMuôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui."        
0 Rating 3.5k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 21, 2012
Người Chăm, còn gọi là người Chàm, người Chiêm Thành, người Chiêm, người Hời..., hiện cư ngụ chủ yếu tại Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra dân số 1999 là 132.873 người; theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt Nam năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Lịch sử Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử; có nền văn hóa phát triển; có quan hệ đồng tộc, đồng tôn với các cộng đồng Chăm ở các nước khác như Campuchia, Thái Lan, Malaisya, Mỹ, Pháp, Australia, Canada,...Ở Việt Nam người Chăm có quan hệ gần gũi với nhóm dân tộc như Ê Đê, Gia Rai , Chu Ru , RaGlai.Trước thế kỷ thứ 7 có vương quốc Lâm Ấp từ năm Sơ Bình thứ 3 nhà Hán (192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1 nhà Tùy (605). Sau năm 605, tình hình nước Chăm Pa không rõ cho đến thế kỷ thứ 8. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là Campanagara, Nagara Campa, Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là Lâm Ấp quốc (phiên âm theo tiếng Bắc Kinh hiện nay là Lin-yi-guo), Chiêm Bà Quốc, Hoàn Vương Quốc và Chiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội nhà Minh dưới sự chỉ huy của vua Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đài: nhà Hậu Trần (Đại Việt), nhà Hồ (Đại Ngu) và triều đại Vijaya (Chăm Pa). Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Chăm Pa được phục hồi nhưng chia thành 2 tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433- 1832). Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội Đại Việt tiêu diệt dưới sự chỉ huy của vua Lê Thánh Tông để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê tức năm 1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2 chúa Nguyễn (năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê tức năm 1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Nhưng, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm Pa, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn (vua Nguyễn Hiển Tông tức Nguyễn Phúc Chu) đã bất đắc dĩ cầu hòa với người Chăm Pa và cho phép người Chăm Pa phục hồi Thuận Thành trấn (Khu Tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm Pa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Điều vào năm Hiển Tông thứ 21 (năm Vĩnh Thạnh thứ 8 nhà Lê tức năm 1712) và được duy trì cho đến năm Minh Mạng thứ 13 (1832). Sau cải thổ quy lưu (giải thể khu tự trị) vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của chúa Chăm Pa có ông Dụng Gạch, một vị hoàng tử anh hùng, phó chủ tịch ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền núi sau Cách mạng tháng Tám. Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là Khu Liên (Kiu-lien) chống lại chính quyền nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa và tôn giáo Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng, các chúa Panduranga thì thuộc dõng Pandu nên Chăm Pa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là 2 quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ 2 nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là 2 quốc gia riêng.Lịch sử của vương quốc Chăm Pa là các cuộc xung đột với Trung Quốc, Đại Việt, Khmer và Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự hoàn hảo hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm Pa là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê (1471), Tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều đại vua Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm Pa bị giết và 30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược lại, Tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục phát triển dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) trong các vùng thung lũng Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Tuy nhiên vua Minh Mạng đã không quan tâm Chăm Pa như vua cha nữa và thủ tiêu cơ chế tự trị của Thuận Thành trấn vào năm Minh Mạng thứ 13 nhà Nguyễn (1832). Ngôn ngữ Tiếng Chăm thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa đảo (Malayo-Polynesian) của hệ ngôn ngữ Nam Đảo (Autronesian). Dân số và cư trú Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mẫu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác.Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 400.000 người, phân bố chủ yếu ở Campuchia, Việt Nam, Malaysia, Thái Lan và Hoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 270.000 người tại Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam; Thái Lan trên 15.000 người; Malaysia trên 10.000 người và Hoa Kỳ khoảng trên 200 người.Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc Utsul ở đảo Hải Nam, đến bang Terengganu của Malaysia hay vùng Hạ Lào. Trong thế kỷ 20, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác. Phân bố dân cư ở Việt Nam Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235 người Chăm sinh sống, sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang,... Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là: Chăm Hroi; Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận và Chăm Nam Bộ. - Nhóm Chăm Hroi bao gồm những người Chăm hiện đang sống rải rác từ Nha Trang trở ra, chủ yếu là Phú Yên và Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi. - Nhóm Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số khoảng 98.000 người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam. - Nhóm Chăm Nam Bộ bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh Đông Nam Bộ; tổng số khoảng 26.700 người, cư trú ở các tỉnh như: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Bình Dương, Bình Phước,... trong đó tập trung chủ yếu ở An Giang và thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm ở đây có cùng nguồn gốc với người Chăm Hroi và người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận, nhưng do nguyên nhân lịch sử, nhiều người Chăm đã rời Việt Nam đến các nước như Campuchia, Thái Lan, Malaysia vào những thế kỷ trước. Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến đầu thế kỷ thứ XX, một bộ phận người Chăm ở Campuchia mâu thuẫn với người Khmer bản địa và sự ngược đãi của chính quyền Campuchia nên đã tìm về cư trú ở An Giang và Tây Ninh tạo nên cộng đồng người Chăm ở hai tỉnh này. Những năm sau đó, một bộ phận nhỏ người Chăm này chuyển đến một số tỉnh khác ở Nam Bộ để sinh sống. Tín ngưỡng, Tôn giáo Người Chăm có tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú. Tín ngưỡng của người Chăm có từ xa xưa và mang dấu ấn của thời nguyên thủy - Đó là sự tin tưởng của người Chăm vào sự tồn tại của một thế giới siêu nhân, nơi các thần linh ngự trị và cũng chính là nơi tồn tại của ma quỷ và linh hồn của những vật thể ở thế giới trần tục sau khi chết. Người Chăm luôn tin rằng tất cả các vật thể cũng như mọi người đều có linh hồn và linh hồn thì tồn tại vĩnh viễn dù con người có chết đi và các vật thể đã bị hư hại. Những linh hồn cùng với ma quỷ và thần linh luôn có những tác động, chi phối, ảnh hưởng đến thế giới hiện hữu, đến đời sống của cộng đồng cũng như đến từng thành viên trong cộng đồng người Chăm. Người Chăm thờ rất nhiều vị thần linh như Thần cây, Thần đá, Thần nước, thờ Linh hồn tổ tiên.Người Chăm là một cộng đồng đa tôn giáo, niềm tin tôn giáo luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm lý của họ, chi phối hoạt động nhận thức, tình cảm, ý chí của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Người Chăm có niềm tin tôn giáo rất sâu sắc, chịu sự chi phối ràng buộc chặt chẽ bởi tôn giáo truyền thống. Người Chăm theo Ấn Độ giáo, đạo Hồi, đạo Phật. Tôn giáo chính thời vương Chăm Pa cổ là Ấn Độ giáo và văn hóa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Ấn Độ. Tuy nhiên, cái gọi là đạo Bà La Môn (tức là tục Bachăm) ngày nay hoàn toàn không liên quan với Ấn Độ giáo này. Ngày nay, hầu hết người Chăm theo Hồi giáo. Hồi giáo của người Chăm có 2 loại: 1. là tục Bani và tục Bachăm, 2. là Hồi giáo Sunni (thuộc giáo phái Hanafi). Tục Bani và Bachăm là một tôn giáo chịu ảnh hưởng của Hồi giáo Shi'a (Ba Tư, Iran), họ rất tôn trọng Ali như Muhammad.Còn Hồi giáo Sunni thì không chấp nhận tôn trọng Ali như Muhammad. Theo Biên niên sử Mã Lai (1614), Hồi giáo đầu tiên ở thế giới Mã Lai cũng phát nguồn từ Iran, nhưng, sau này, người Ả Rập từ vùng Hadramaut (gọi là Hadrami) sang Mã Lai tuyên truyền, xuyên tạc Hồi giáo Shi'a là tà giáo, buộc người Mã Lai theo Hồi giáo Sunni cực đoan vào cuối thế kỷ thứ 18 - đầu thế kỷ thứ 19. Tục Bani là một hồi giáo bản địa hóa hiền lành, khoan dung, không cực đoan. Tục Bani giống giáo phái Alewi (một giáo phái Hồi giáo Shi'a ở Cộng hòa Suri ngày nay). Con đường tục Bani từ Iran chuyển bá chưa được làm rõ nhưng nhiều tài liệu Mã Lai, Java cho rằng chính Chăm Pa là trung tâm tuyên giáo Hồi giáo đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á. Người Chăm sống ở Myanma rất nhiều, là một trong bốn dân tộc lớn nhất Myanma. Hầu hết mang họ Aung cùng họ với họ Ung của người chăm ở Việt Nam (đã bị Việt hoá). Đặc điểm kinh tế Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi. Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trướckia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỉ. Tổ chức cộng đồng Người Chăm thường sinh sống tập trung trong paley Chăm (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đó, Po Paley là người đóng vai trò rất quan trọng trong Paley. Luật tục Chăm ghi: “Ếch có nắp đậy hang;Làng có chủ cai quản”. Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả: “Cây to lan tỏa một lòng,Xòe ra che mát cho người dừng chân”. Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng.Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối. Hôn nhân gia đình Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm qui định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già. Nhà cửa Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy họach phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớnmẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.+ Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.+ Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữ là trung tâm (người Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà.+ Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.). Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.+ Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.+ Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang. Trang phục Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.- Trang phục nam Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (vàng hoặc bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp. - Trang phục nữVề cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi àm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc. Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm. Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
0 Rating 2.5k+ views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
HOÀNG H?U PARAMECVARI C?A CHAMPASimhavarman XXITrong ti?n trình l?ch s? d?ng n??c và gi? n??c t? h?n c? ngàn n?m tr??c cho ??n nh?ng th? k? g?n ?ây 15, 16; qua nh?ng s? ki?n l?ch s? ? Trung Hoa và Vi?t Nam ?ã có nh?ng b?c quân s? ??y m?u l??c, trí d?ng song toàn trong v?n ?? ?i?u binh khi?n t??ng ; v?i bi?t bao quân hùng t??ng m?nh hàng hàng l?p l?p. V?i g??m ?ao s?t thép, v?i hàng v?n m?i tên vô tình thâm ??c, v?i hàng v?n chi?n mã, vó ng?a m?t mù cát b?i ph? ??u quân gi?c, v?i nh?ng ?oàn chi?n t??ng hung hãn v??t núi b?ng sông ?iên cu?ng d?m nát thây gi?c, phá tan thành quách, nh?ng không d? dàng khu?t ph?c ???c các b?c quân v??ng Vua chúa trên ngôi cao tr? vì bá tánh thiên h?. C?ng không kh?ng ch? ???c nh?ng anh hùng n?m trong tay hàng v?n binh mã, tr?n th? tung hoành m?t góc tr?i ngang d?c nh? anh hùng T? H?i vai n?m t?c r?ng thân m??i th??c cao ?ã làm cho tri?u ?ình H? Tôn Hi?n bó tay ?iên ??u:Anh hùng riêng m?t góc tr?iG?m hai v?n võ xé ?ôi s?n hà.Duy ch? có lo?i v? khí b?ng x??ng b?ng th?t, d?u dàng m?nh mai, ?ài trang khuê các ??y s?c quy?n r? ?ó là loài hoa bi?t nói, nh?ng bông hoa ?ã làm nghiêng thành ?? n??c, s?p ?? c? m?t tri?u ??i huy hoàng, hay ?ã ch? ng? ???c nh?ng anh hùng ??u ??i tr?i, chân ??p ??t, d?c ngang v?y vùng nh? anh hùng T? H?i ?ã ch?t ??ng gi?a tr?i c?ng vì h??ng s?c khuynh thành c?a bông hoa bi?t nói Thúy Ki?u.?ó là trong thi ca, còn trong th?c t? qua s? ki?n l?ch s?, nh?ng Vua chúa nhà H?u Lý ?ã t?ng s? d?ng “M? nhân k?” lôi kéo nh?ng viên Châu M?c t?i các vùng Cao B?c L?ng phía b?c Vi?t Nam, nh?ng l?c l??ng quân binh thi?u s? này s?n sàng theo Tàu ?? làm nh?ng ng?n l?a có th? b?c phát ??t cháy thiêu r?i c? khu núi r?ng Vi?t B?c lúc nào không hay: nh? Vua Lý Thái Tông g? Công Chúa Kim Thành cho ??u m?c Châu Phong là Lê Tông Thu?n, Vua Lý Thánh Tông g? Công Chúa Khâm Thánh cho Hà Di Khách – châu m?c Tuyên Quang và Tuyên Hóa v.v. ??i v?i Trung Hoa: Chiêu Quân ?ã c?m chân ???c gi?c Hung Nô. Công Chúa Lý V?n Thành con c?a Vua Lý Th? Dân ?ã làm cho Can B?, m?t th? lãnh mà dân Tây T?ng cho là “Thiên Th?n xu?t th?” tr? nên ngoan ngoãn khi k?t hôn v?i nàng Công Chúa h? Lý này ..v.vCác Vua chúa ngày x?a ?ã hi?u ???c v? khí s?c bén c?a ph? n? tài s?c ?oan trang thùy m?, có s?c thu hút mãnh li?t các b?c quân v??ng, anh hùng trong ch?n mê cung, nên ?ã dùng m? nhân ?? th?c hi?n sách l??c chính tr?: dùng hôn nhân ?? k?t tình h?u ngh? hoà bình gi?a các qu?c gia láng gi?ng; ho?c ?? ch? ng? các lãnh chúa làm Vua m?t cõi quanh vùng ?? lôi kéo h? h?u mang l?i an bình cho dân t?c; ho?c dùng hôn nhân ?? ?oàn k?t t?o m?t s?c m?nh ch?ng l?i n??c th? ba, ho?c dùng m? nhân k? ?? th?c hi?n m?u ?? thôn tính ??t n??c khác ..v.v… Sách l??c dùng công chúa m? nhân này ???c th? hi?n bàng b?c ?i?n hình qua các tri?u ??i Trung Hoa và Vi?t Nam nh? sau:? Trung Hoa: Hán V? ?? g? Chiêu Quân cho H? Hàn Da, Tây Thi c?a Vi?t V??ng Câu Ti?n g?i ?i cho Ngô Phù Sai có m?c ?ích làm cho nhà Ngô suy s?p và di?t vong; Ngô Phu Nhân g? cho L?u B?, Gi?i ?u Công Chúa ???c Hán V? ?? g? cho Vua S?m Tâu n??c Ô Tôn, Lý V?n Thành Công Chúa ???c Vua Lý Th? Dân g? cho Vua Tây T?ng là Can B? ..v..v…- ? Vi?t Nam: Lý Thái Tông g? Công Chúa Bình D??ng cho Thân Thi?u Thái là ??u M?c Châu Phong. Lý Thánh Tông g? Công Chúa Khâm Thánh cho Hà Di Khách là Châu M?c Tuyên Quang Tuyên Hoá . Lê Hi?n Tông g? Ng?c Hân Công Chúa cho Nguy?n Hu? . Chúa Nguy?n Phúc Nguyên g? Công Chúa Ng?c V?n cho Vua Chey-Chetta II c?a Cao Miên và Vua Tr?n Nhân Tông g? Huy?n Trân Công Chúa cho Vua Ch? Mân c?a Chiêm Thành.Trong ph?m vi bài vi?t này, tác gi? ch? nêu lên cu?c hôn nhân gi?a Công Chúa Huy?n Trân c?a ??i Vi?t và Vua Ch? Mân c?a Chiêm Thành. Công Chúa Huy?n Trân ???c Vua Ch? Mân phong t??c Hoàng H?u v?i danh t??c là Paramecvari Hoàng H?u .Trong vài tr?m n?m tr? l?i ?ây ng??i ta ch? hi?u câu chuy?n tình s? Vua Ch? Mân và Công Chúa Huy?n Trân qua thi ca còn truy?n t?ng ??n ngày nay c?a m?t vài tác gi? ngày x?a vi?t theo c?m tính t? tôn và phi?n di?n . C?ng theo l?i mòn ?ó, ngày nay nh?ng t?p san v?n ngh?, báo chí c?ng th??ng hay d?a vào câu th? do bia mi?ng truy?n l?i ?? vi?t v? tình s? Ch? Mân và Huy?n Trân không ???c chính xác ??y ?? b?i vì thi?u s? ki?n b?i c?nh l?ch s? .Nh? s? gia Tr?n Tr?ng Kiâm ?ã nói: Vi?t Nam ??n th? k? th? 13 m?i có l?ch s?; mà các s? gia là nh?ng ng??i làm vi?c d??i quy?n ch? ??o c?a Vua chúa, cho nên s? ki?n l?ch s? ch?a h?n ?ã ???c ghi l?i trung th?c, mà th??ng hay b? chính tr? bóp méo ngòi bút c?a s? gia . Cho nên theo thi?n ki?n c?a tác gi? vi?t bài này, chúng ta c?n ph?i suy lu?n và dùng quan ?i?m cá nhân ?? soi sáng l?i ph?n s? ki?n l?ch s? nào ?ôi lúc xét th?y còn m?p m? . N?m 1479, s? th?n Ngô S? Liên là ng??i ??u tiên tuân l?nh Vua Lê Thánh Tông s? d?ng truy?n thuy?t dân gian ?? biên so?n l?ch s?: ??i Vi?t S? Ký Toàn Th?. Mà ?ã là truy?n thuy?t thì không th? hoàn toàn là s? th?t vì truy?n thuy?t ???c nhân gian t??ng t??ng thêu d?t b?ng nh?ng chi ti?t ly k? nên có ph?n mang tính h? c?u c?a nó . Do ?ó ?? tránh s? hi?u bi?t l?ch l?c v? cu?c hôn nhân gi?a Huy?n Trân Công Chúa và Vua Ch? Mân, ít ra c?ng nên hi?u bi?t s? qua v? b?i c?nh l?ch s? c?a th?i Vua Tr?n Nhân Tông ??i Vi?t và Vua Ch? Mân Chiêm Thành, vì t? b?i c?nh l?ch s? ?ó m?i ??a ??n cu?c tình l?ch s? ??y v??ng gi? nà?B?i c?nh l?ch s? th?i Vua Tr?n Nhân Tông và Vua Ch? MânN?m 1253, ?? qu?c Mông C? H?t T?t Li?t xua quân xâm l?ng Trung Hoa ??i nha` T?ng, d?ng nên nhà Nguyên g?i là th?i k? Nguyên Mông hay g?i t?t là nha` Nguyên bên Tàu . Theo Vi?t Nam S? L??c, sau khi tiêu di?t nhà T?ng Trung Hoa, nhà Nguyên b?t ??u xâm l?ng ?ông Nam Á . Trong ph?m vi bài này, ch? xin nói ??n giai ??an l?ch s? ??i Tr?n Nhân Tông và Ch? Mân ? ?ông D??ng theo ti?n trình l?ch s? nh? sau:1258-1288: Nhà Nguyên xâm l?ng ??i Vi?tTrong giai ??an 30 n?m l?ch s? này, nhà Nguyên 3 l?n ti?n quân sang xâm l?ng ??i Vi?t nh?ng ??u th?m b?i vì s? ch?ng tr? quy?t li?t c?a ??i Vi?t . Tuy ng?n ch?n ???c ý ?? xâm l?ng c?a quân Nguyên, nh?ng ??i Vi?t v?n th?n ph?c nhà Nguyên d??i hình th?c dâng c?ng ph?m hàng n?m ?? t?o s? hi?u hoà gi?a hai dân t?c và ?ây c?ng là sách l??c ngo?i giao c?a Vua Tr?n Nhân Tông có tánh cách nhún nh??ng c? n? m?t chút ?? b?o t?n s? ??c l?p c?a m?t n??c nh? bé bên c?nh n??c ph??ng b?c kh?ng l? luôn có ý ?? thôn tính các n??c liên bang. Do ?ó lúc nào ??i Vi?t c?ng lo âu ph?p ph?ng ??i v?i m?ng xâm l?ng bành tr??ng c?a ?? qu?c ph?ong b?c có th? x?y ra b?t c? lúc nào .N?m trong giai ?o?n 30 n?m l?ch s? này c?a ??i Vi?t, vào n?m 1284-1285 Vua Ch? Mân Champa ?ã ?em quân c?u vi?n cho Vua Tr?n Nhân Tông ?? ?ánh b?i cu?c xâm l?ng c?a quân Nguyên ? Ngh? An .1282-1284: D??i s? th?ng lãnh c?a Toa ?ô, nhà Nguyên ào ?t xâm l?ng Champa nh?ng b? Vua Ch? Mân giáng tr? oanh li?t ?ánh b?i quân Nguyên lui v? c? qu?c.1292:Trên ???ng rút quân kh?i ??o Sumatra c?a n??c Java (Nam D??ng), quân Nguyên ?? b? lên b?` bi?n Champa l?i b? Vua Ch? Mân ?ánh b?t ra bi?n Nam H?i ?? l?i c? tr?m chi?n thuy?n tan nát và hàng v?n xác ch?t n?m ng?n ngang bên b? cát tr?ng c?a mi?n bi?n Champa .K? t? 1253 khi H?t T?t Li?t tiêu di?t ???c nhà T?ng và l?p nên nhà Nguyên cho ??n khi H?t T?t Li?t qua ??i vào n?m 1294, ?ây là giai ?o?n l?ch s? làm cho ??i Vi?t th?i Tr?n Nhân Tông và Champa th?i Vua Ch? Mân vô cùng kh?n kh? v?i m?ng xâm l?ng c?a quân Nguyên, và hai nhà Vua c?a hai qu?c gia Vi?t – Chiêm d?a l?ng vào nhau ?? ch?ng quân Nguyên, ?ó c?ng là lý do Tr?n Nhân Tông và Ch? Mân r?t có h?o c?m v?i nhau . Vài ??c ?i?m c?a Vua Tr?n Nhân Tông và Vua Ch? MânVua Tr?n Nhân TôngM?t v? Vua anh hùng ái qu?c (?ánh ?u?i quân Nguyên) và nhân h?u (Toa ?ô nhà Nguyên t? tr?n lúc t?n công ??i Vi?t t?i m?t tr?n Tây K?t, Vua Tr?n Nhân Tông ?ã c?i áo long bào ??p cho Toa ?ô và cho mai táng theo ?úng nghi l? trang tr?ng).Là m?t v? Vua ??o ??c không tham quy?n c? v? (nh??ng ngôi cho con là Tr?n Anh Tông ?? làm Thái Th??ng Hoàng, khoác áo cà sa nghiên c?u kinh Ph?t, tu hành trên núi Yên T?).Tr?n Nhân Tông làm Vua 13 n?m, Thái Th??ng Hoàng 14 n?m, t?t c? là 27 n?m và b?ng hà lúc 51 tu?i . Vua Ch? MânM?t v? Vua anh hùng ái qu?c (?ánh ?u?i quân Nguyên) và ??o ngh?a (tha t?i ch?t cho m?t viên ch? huy quân binh Champa toan toa r?p v?i ??ch quân (quân Nguyên) nh?ng t??c h?t binh quy?n ?u?i v? quê làm ru?ng (1a); và còn là m?t v? Vua nhân h?u (xem xét gi?y t? tùy thân nh?ng binh s? quân Nguyên ?ã t? tr?n trên b? bi?n Champa r?i cho h?a táng riêng bi?t t?ng ng??i, b? tro c?t vào h? sành riêng m?i ng??i và dán tên h? lên, ??ng th?i c?p cho m?t chi?c thuy?n, tha t?i ch?t cho 10 tên gi?c Nguyên b? b?t s?ng mang theo tro c?t ?u?i v? Tàu (1b).Vua Ch? Mân làm Vua ???c 26 n?m và b?ng hà lúc 50 tu?i .??i Vi?t d??i th?i Tr?n Nhân TôngGu?ng máy chính tr? quân s? ???c ki?n toàn v?ng ch?c nh? Vua Tr?n Nhân Tông và các quan trong tri?u có nhi?u tài ??c. Tinh th?n dân t?c ?oàn k?t, kinh t? ph?n th?nh, dân sinh ?m no h?nh phúc, có m?t n?n v?n hóa dân t?c nhân b?n. Nh? s?c m?nh này Vua quan nhà Tr?n ?ã nhi?u l?n ??p tan ???c m?ng xâm l?ng c?a B?c ph??ng.Champa d??i th?i Ch? MânHùng c??ng v? quân s?, v?n hóa ngh? thu?t phát tri?n sáng ng?i. N?n hành chánh chánh tr? t? ch?c v?ng vàng, n?n kinh t? ph?n th?nh và có m?t n?n ngo?i th??ng ngành hàng h?i phát tri?n m?nh t? khi Vua Ch? Mân k?t hôn v?i Công Chúa Tapasi c?a Java (Nam D??ng ngày nay).o0o(1a)+(1b): Theo l?i k? c?a c? B? Thu?n, m?t h?c gi? Champa và là m?t chuyên viên nghiên c?u v? Champa c?a tr??ng Vi?n ?ông Bác C? Hà N?i trong th?i k? Pháp thu?cThái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông và cu?c vi?n du Chiêm Thành:Vua Ch? Mân là m?t anh hùng hào ki?t, quy?t li?t v?i ??ch quân xâm l??c nh?ng l?i là m?t v? Vua hi?u hòa . Tháng 3 n?m 1301, Vua Ch? Mân ?ã c? s? th?n h??ng d?n ngo?i giao ?oàn sang ??i Vi?t cùng v?i nhi?u t?ng ph?m quí giá: ng?c ngà châu báu, s?ng voi, tê giác, l?a là vàng b?c v?i ??c mu?n ??t n?n t?ng bang giao v?i ??i Vi?t trong tình h?u ngh? lâu dài ?? cùng t?n t?i tr??c móng vu?t xâm l??c c?a ?? qu?c Trung Hoa .Khi ?oàn s? th?n ngo?i giao c?a Champa ??n ??i Vi?t, lúc ?y Vua Tr?n Nhân Tông ?ã là Thái Th??ng Hoàng m?c áo cà sa tu hành t?i m?t ngôi chùa trên núi Yên T?, nh??ng ngôi l?i cho con là Tr?n Anh Tông. ?ây là giai ?o?n c?c th?nh c?a Ph?t giáo trên ??t Vi?t. Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông là ng??i nhân t? sùng kính ??o Ph?t, say s?a nghiên c?u kinh k? Ph?t pháp và yêu thích c?nh gió núi mây ngàn, thích ngao du s?n th?y ?ó ?ây và v?n c? v?n cho Vua Tr?n Anh Tông trong v?n ?? ?i?u hành vi?c dân vi?c n??c.Nhân phái ?oàn ngo?i giao Champa ???c Vua Ch? Mân c? ??n th?m vi?ng ngo?i giao v?i ??i Vi?t và mong mu?n k?t tình h?u ngh?; Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông nh? l?i ng??i x?a t?c Vua Ch? Mân c?a Chiêm Thành cách ?ây b?y n?m ?ã cùng d?a l?ng nhau ch?ng tr? quân Nguyên t?i Ngh? An; nên ?? ?áp l?i t?m th?nh tình c?a Vua Ch? Mân, Ngài quy?t ??nh theo chân ngo?i giao ?oàn Chiêm Thành v? th?m Chiêm qu?c và Vua Ch? Mân, cùng ngao du s?n th?y nghiên c?u Ph?t pháp bên Chiêm Thành.Trong b? áo cà sa, Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông và ?oàn tùy tùng cùng v?i s? ?oàn Champa sau th?i gian c? tháng tr??ng nay ?ã ??n kinh thành Champa . ???c tin quân báo, Vua Ch? Mân hân hoan ra ?ón t?n c?ng thành ?? Bàn ?? m?ng ?ón Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông ??i Vi?t. M?t cu?c ti?p ?ón vô cùng long tr?ng dành cho m?t v? qu?c khách. Hai nhà Vua Vi?t – Chiêm có nhi?u ?i?m t??ng ??ng h?p ý nh? ?ã nêu ? ph?n b?i c?nh l?ch s? : cùng có m?t quá kh? oai hùng ??y máu x??ng khi ch?ng phá quân Nguyên c?ng v?i m?t tâm nguy?n k?t tình h?u ngh? ?? cùng t?n t?i tr??c tham v?ng ?iên cu?ng tàn b?o c?a quân Nguyên; cùng ??o ??c nhân h?u, anh hùng và ái qu?c gi?ng nhau, tâm ??u ý h?p ?ã kéo dài cu?c th?m vi?ng c?a Thái Th??ng Hoàng ??n chín tháng tr?i, ???c Vua Ch? Mân h??ng d?n ?i th?m vi?ng nhi?u n?i danh lam th?ng c?nh c?ng nh? nh?ng ??a ?i?m ??c bi?t liên quan ??n v?n hóa, tôn giáo c?a n??c Chiêm Thành nh? Ng? Hành S?n, Thánh ??a M? S?n, trung tâm Ph?t giáo v? ??i ? ??ng D??ng ..v..v.. h?u h?t ??u n?m trong lãnh ??a Amaravati c? t?c t? Qu?ng Tr? Th?a Thiên ??n Qu?ng Nam ?à N?ng ngày nay . M?i n?i ?i qua Ngài ??u l?u l?i m?t th?i gian. L?n l??t, Thái Th??ng Hoàng ???c Vua Ch? Mân h??ng d?n ?i th?m vi?ng h?u h?t các ??n tháp thu?c lãnh ??a Vijaya, Kâuthara và Panduranga, t?i ?âu c?ng ???c các lãnh chúa m?i vùng ti?p ?ón long tr?ng .??c bi?t là Tu Vi?n ??ng D??ng là m?t kinh ?ô có m?t n?n ki?n trúc v? ??i, m?t thành ph? tráng l? b?c nh?t vào th?i ??i này t?i ?ông D??ng, th?i Vua Indravarman ?? nh? . Ngài là m?t v? Vua sùng bái ??o Ph?t; vào n?m 875 Công Nguyên ?ã xây m?t Ph?t Vi?n v? ??i l?y tên là Laksmindra-Lokesvara. ?ây là m?t trung tâm Ph?t giáo Champa l?n nh?t, có vô s? kinh ?i?n Ph?t h?c trong l?ch s? ??t n??c và có m?t nhà s? Aán ?? n?i ti?ng uyên thâm v? Ph?t h?c tr? trì t?i trung tâm Ph?t giáo này . Thái Th??ng Hoàng trong b? áo cà sa c?a ??i Vi?t ?ã dành hai ph?n ba th?i gian th?m vi?ng Chiêm Thành ?? nghiên c?u Ph?t Pháp t?i tu vi?n ??ng D??ng .Trong th?i gian l?u l?i 9 tháng ? Champa, Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông cùng Vua Ch? Mân tham d? nh?ng l? h?i l?n c?a dân t?c Champa . Ngài ?ã m?c kích t?n m?t và r?t thi?n c?m v?i dân t?c Champa trông có v? bình d? và hi?n l??ng này . Ngài c?ng ???c th??ng ngo?n nh?ng ?i?u múa hát theo ?i?u Tây Thiên Trúc (c?a Aán ??) qua ngh? thu?t trình di?n c?a các cô Chiêm n? trong xiêm y l?a là v?a nh? nhàng v?a thanh thoát và nh?ng ?i?u múa trong cung ?ình Champa ?nh h??ng v? ?i?u c?a n? th?n ngh? thu?t Sravastri và thiên th?n v? n? Apsara ..v..v.. Ngài c?ng tìm hi?u nh?ng phong t?c t?p quán c?a dân t?c Champa th?t thích thú .Bao nhiêu dáng v? thâm nghiêm k? v? c?a n?n ki?n trúc ??n tháp, tu vi?n, b?o tháp, Ph?t ???ng, v?i vô s? kinh ?i?n .v..v… v?i nh?ng ???ng nét ?iêu kh?c ch?m tr? th?t tinh vi s?c s?o ?ã nói lên m?t n?n hoa phong tuy?t m? c?a các ?iêu kh?c gia Champa. N?n ki?n trúc này ?ã tô ?i?m cho giang s?n g?m vóc Champa thêm ph?n xinh ??p và ?ã nói lên s? l?n m?nh và v?n minh c?a m?t dân t?c. M?t ??t n??c xinh ??p, m?a thu?n gió hòa, ??t ?ai phì nhiêu ???c xây d?ng và gìn gi? b?i m?t dân t?c l??ng thi?n an hoà, b?i m?t quân ??i g?m k? binh, t??ng binh, b? binh và h?i quân; n?n kinh t? nông nghi?p ph?n th?nh, m?t n?n v?n hóa nhân b?n ??y b?n s?c dân t?c Champa và ???c cai tr? b?i m?t v? Vua Ch? Mân anh hùng ái qu?c, nhân h?u l?ch duy?t …; ch?ng ?y d? ki?n ?ã mang ??n cho Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông m?t c?m xúc ??c bi?t, m?t tình c?m n?ng nàn mà Ngài t??ng ch?ng nh? b? cu?n hút b?i Vua quan, l??ng dân và ??t n??c Champa ?ã dành cho Ngài trong cu?c vi?n du k? thú này.o0oM?t sáng cu?i thu n?m 1301, t?i thành Vijaya (?? Bàn) mây gi?ng bàng b?c, không gian và th?i gian nh? chùng l?i, mu?n níu gót vi?n du c?a Thái Th??ng Hoàng trong b? áo cà sa chu?n b? quay v? ??i Vi?t sau 9 tháng vi?n du th?m vi?ng Champa.Tr??c m?t bá quan v?n võ trong tri?u ?ình Champa, Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông v?i khuôn m?t khôi ngô phúc h?u và c?ng ??y nét uy v?, Ngài ?ã long tr?ng tuyên b? ??c g? Huy?n Trân Công Chúa cho Vua Ch? Mân . ?ây là l?i minh th? c?a m?t Thái Th??ng Hoàng ??y quy?n uy v?i tri?u th?n Tr?n Anh Tông và là nhà s? uyên bác, ??c h?nh và trung tín c?a Trúc Lâm Thi?n S? Yên T? s?n.S? ??c g? này ?? th?c hi?n m?t sách l??c hoà thân c?a hai v? lãnh ??o qu?c gia hi?u hoà Vi?t – Chiêm ?? r?i Công Chúa Huy?n Trân s? là Hoàng H?u Champa, Vua Ch? Mân s? là Phò Mã ??i Vi?t. Hai n??c láng gi?ng s? có m?i liên h? tình thân gia ?ình (con c?a Huy?n Trân s? là cháu ngo?i c?a Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông) và còn ?oàn k?t liên minh v?i nhau cùng t?n t?i và cùng ??i phó v?i m?ng xâm l??c có th? x?y ra b?t c? lúc nào c?a ?? qu?c b?c ph??ng tràn xu?ng các n??c phía nam, ?ó là ý ngh?a c?a sách l??c hòa thân c?a Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông và Vua Ch? Mân.Sách l??c hòa thân (t? ng? Hòa Thân theo giáo s? Hu?nh V?n Lang) này ?ã b? tri?u th?n Tr?n Anh Tông bi?n thành m?t s? ??i chát ??a ??n tráo tr? và th?t tín s? ?? c?p chi ti?t ? ph?n sau .VUA CH? MÂN C?U HÔNTháng 02/1302 Vua Ch? Mân c? s? th?n Ch? B? ?ài h??ng d?n m?t phái ?oàn h?n m?t tr?m ng??i ?em vàng b?c châu báu, tr?m h??ng, ng?c ngà v.v… sang ??i Vi?t ?? xin c?u hôn v?i Công Chúa Huy?n Trân theo l?i ??c g? c?a Vua cha Tr?n Nhân Tông; nh?ng tri?u th?n Tr?n Anh Tông có ng??i thu?n có ng??i không. H? mu?n bi?n ??i cu?c hôn nhân nh? m?t sách l??c Hoà Thân c?a Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông thành m?t ch? tr??ng m?u d?ch, ngoài l? v?t nêu trên, tri?u th?n Tr?n Anh Tông còn bu?c Vua Ch? Mân ph?i n?p thêm ??t ?ai g?i là “l? N?p Tr?ng” theo phong t?c Vi?t Nam và Trung Hoa .Tr?n Nhân Tông v?i uy quy?n c?a m?t Thái Th??ng Hoàng, Ngài không bao gi? ??t ra v?n ?? ??i chát hay m?u d?ch, mà vai trò Huy?n Trân là m?t s? gi? hoà bình, dùng hôn nhân ?? th?c hi?n sách l??c Hoà Thân gi?a hai gia ?ình và hai n??c láng gi?ng v?n th??ng hay l?c ??c tr??c ?ây, ?? cùng nhau liên minh trong tình gia ?ình, trong tình thân gi?a hai n??c th?c s? ?oàn k?t v?i nhau ?? ch?ng l?i hi?m h?a xâm l?ng t? ?? qu?c b?c ph??ng tràn xu?ng lúc nào không hay; h?n n?a Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông, Ngài còn là m?t nhà s? Trúc Lâm c?a Yên T? S?n, ?nh h??ng sâu s?c tri?t lý nhà Ph?t, nên vi?c ?òi ??t ?ai c?a dân t?c khác là sai v?i tôn ch? t? bi vô l??ng vô biên, công b?ng bác ái, phóng khoáng c?a ??o Ph?t và s? có nhân qu? không t?t ??p v? sau . Tr??c s?c ép c?a tri?u th?n Tr?n Anh Tông, Vua Ch? Mân ?ành ph?i l?y hai châu ? biên thùy ?? làm “l? n?p tr?ng” tho? mãn m?t s? qu?n th?n Tr?n Anh Tông ?òi h?i h?u xúc ti?n cu?c hôn nhân th?c hi?n sách l??c Hoà Thân Vi?t – Chiêm.Vi?c hi?n c?ng hai châu Ô Lý ?? làm quà sánh l? c??i Công Chúa Huy?n Trân ?ã b? tri?u th?n Champa ph?n kháng d? d?i và th?n dân Champa ? hai châu Ô và Lý c?ng nh? c? n??c Champa ??u ph?n n? tr??c quy?t ??nh sai trái c?a Vua Ch? Mân; nh?ng th?i ?ó Vua là Thiên T? n?m h?t giang s?n và thiên h?, nên dân t?c Champa ?ành ch?u v?y trong ng?n l? xót xa . Ngày nay h?u du? c?a Champa cho r?ng vi?c dâng ??t ?? làm sính l? c??i Huy?n Trân là m?t s? sai l?m c?a Vua Ch? Mân vì ?ó là vùng chi?n l??c quân s? ??a ??u r?t quan tr?ng. T? châu Ô châu Lý nhìn xu?ng th?y c? ??ng b?ng h?p nh?ng phì nhiêu và c? chi?u dài c?a b? bi?n (mi?n Trung ngày nay) v?i bãi cát tr?ng phau trông gi?ng ng??i ph? n? n?m ?? l? c?p ?ùi nõn nà khi?n cho anh dâm ?ãng H?t T?t Li?t thèm thu?ng nh? n??c mi?ng mu?n chi?m ?o?t . Sau khi Vua Ch? Mân ??ng ý n?p hai châu Ô và Lý, Vua Tr?n Anh Tông và qu?n th?n xem nh? m?t món l?i to l?n nên ?ã hân hoan g? Huy?n Trân cho Vua Ch? Mân vào tháng 06/1306 n?m Bính Ng? .CÔNG CHÚA HUY?N TRÂN TRÊN ???NG V? CHIÊM QU?CTháng 06 n?m Bính Ng? (1306), Vua Tr?n Anh Tông c? Tr?ng Nguyên M?c ??nh Chi, Ng? S? ?oàn Nh? H?i và Th??ng T??ng Tr?n Kh?c Chung c?m ??u phái ?oàn ??i Vi?t g?m nhi?u quan quân h? t?ng ?? ??a ti?n cô dâu Huy?n Trân v? Chiêm Thành.T? th? ?ô Th?ng Long c?a ??i Vi?t ra ??n b?n sông H?ng Hà, qu?n chúng ??ng ??y d?c hai bên thành l? v?i c? xí và bi?u ng? chúc m?ng chúc t?ng lên ???ng bình an dành cho công chúa thân yêu c?a ??i Vi?t xuôi v? Nam ?? k?t duyên cùng Vua Chiêm Thành ?? th?c hi?n l?i giao ??c c?a Vua cha là Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông (quân vô hý ngôn).M?t công chúa tu?i v?a ?? ?ôi m??i xinh ??p, con nhà Vua chúa, h?c th?c và ??o h?nh l?i ph?i xa lìa t? ?m gia ?ình t?i cung ?ình, xa lìa quê h??ng yêu d?u, ngàn d?m ra ?i, lênh ?ênh nghìn trùng sóng v? ?? làm dâu x? l?, lòng d? nào l?i không b?n r?n lúc ra ?i .Ngày x?a bên Trung Hoa, th?i Hán Nguyên ?? có V??ng Chiêu Quân có v? ??p phi phàm tr?m ng? (chìm ?áy n??c cá l? ?? l?n) v??ng gi? sang tr?ng. Trong ngày t? bi?t Vua Hán Nguyên ?? ra ?i làm Hoàng H?u m?t x? xa l? ? n??c Hung Nô, có thi nhân th?i ?ó ? Trung Hoa làm th? c?m thán:Cô ?i cô ??p nh?t ??iMà sao m?nh b?c th? tr?i c?ng thuaM?t ?i t? bi?t cung VuaCó v? ?âu n?a ??t H? ngàn n?m!(Huy?n N? Nguy?n Thi?n K?)??i v?i Huy?n Trân c?ng v?y, tâm tr?ng nàng vô cùng ng?n ngang, v?a g?t l? giã t? Ph? Hoàng và M?u H?u, ng??i thân, giã t? quê h??ng m?u qu?c ??ng bào ru?t th?t, v?a nao nao b?n ch?n h??ng v? m?t khung tr?i h?nh phúc xa xôi m? m?t ch?a bi?t ra sao ? Nh?ng th? h? v? sau, có vài thi nhân ?ã c?m thông v?i n?i ni?m c?a ki?p hoa trôi d?t nên có nh?ng câu t? s? Nam Bình ???c dân Thu?n Hóa hát theo ?i?u Chiêm Thành:N??c non ngàn d?m ra ?iM?i tình chiM??n màu son ph?n??n n? Ô Ly??ng cay vì ???ng ?? xuân thì …(tác gi? vô danho0oSau h?i tr?ng gi?c, nàng ph?i b??c chân xu?ng thuy?n hoa v?i ?oàn tùy tùng h? t?ng c?a ??i Vi?t và s? h??ng d?n th?y l? c?a ?oàn S? B? Chiêm Thành; trong c? xí ph?t ph?i ti?n ??a c?ng có s? s?t sùi gi?a k? ?i ng??i ? … ?oàn thuy?n hoa r?i b?n sông H?ng ?? ra c?a bi?n xuôi v? Nam.Gió ?ông nam th?i nh? nh?ng hoa sóng ??i d??ng v?n n? rì rào nh? tâm s? ng??i ?i xa, m?t bi?n trong xanh d??i b?u tr?i sáng chói c?a muà xuân ban ngày, và khi hoàng hôn bao trùm, c? m?t bi?n tr? thành ?en ngh?t, ch? có hàng v?n vì sao trên b?u tr?i l?p lánh nh? nh?ng h?t kim c??ng tô lên m?t b?c h?a ánh sáng thâm tr?m. Lòng cô gái xuân thì trên ???ng vu qui r?n rã không bi?t bao nhiêu tâm s? …L?i Ph? Hoàng, ng??i cha già kính yêu ?ã c?n d?n tr??c khi v? Chiêm Qu?c: nh?ng tháng ngày tr??c ?ây Ph? Hoàng ?ã vi?n du x? Chiêm Thành, ??t n??c h? ??p ??, m?t dân t?c hi?n l??ng có n?n v?n hóa riêng bi?t r?c r? . Ch? Mân là m?t v? Vua bi?t yêu th??ng nòi gi?ng, m?t anh hùng hào ki?t, l?ch duy?t và nhân h?u, không ph?i là m?t hôn quân b?o chúa . Con hãy làm tròn b?n ph?n m?t s? gi? hoà bình, ?em l?i tình thân thi?n gi?a hai dân t?c Vi?t – Chiêm. ??i v?i Ch? Mân sau này s? là phu quân c?a con, con ph?i bi?t ??o tam tòng t? ??c, phu x??ng ph? tùy c?a ng??i ph? n? Á ?ông và ph?i x?ng ?áng là m?t “m?u nghi thiên h?” . Ngh? ??n l?i Ph? Hoàng còn v?ng v?ng bên tai, lòng nàng se l?i và ?m áp h?n r?i chìm d?n trong gi?c ng? m? hoa, b?ng b?nh trên sóng n??c ??i d??ng trôi d?n v? Chiêm Qu?c.Trong khi ?ó ? Chiêm Qu?c, Vua Ch? Mân c? quan Ng? S? Ch? B? ?ài c?m ??u m?t s? qu?n th?n, binh lính và toán Ng? Lâm Quân theo h? giá nhà Vua ?? ?ón r??c cô dâu Huy?n Trân cùng phái ?oàn ??i Vi?t t?i h?i c?ng Pat-Thin?ng (Th? N?i Bình ??nh ngày nay)Sau nh?ng ngày lênh ?ênh trên bi?n c? mênh mông, ?oàn thuy?n hoa ??a ti?n Công Chúa Huy?n Trân c?a ??i Vi?t ?ã vào ??n lãnh h?i Vijaya (Bình ??nh) và h??ng d?n vào c?p b?n c?ng Pat-Thin?ng do s? h??ng d?n c?a ?oàn S? B? Chiêm Thành.Công Chúa Huy?n Trân lòng d? b?n ch?n mu?n s?m trông th?y m?t Vua Ch? Mân, nh?ng h?i lo âu vì n?u phu quân Ch? Mân quá d? d?ng nh? anh chàng Tr??ng Chi thì làm sao ?ây h?i Ph? Hoàng c?a con! Li?u con có làm n?i nh?ng l?i khuyên c?a Ph? Hoàng kính yêu hay không ??oàn thuy?n hoa ??i Vi?t v?a c?p sát vào c?u b?n c?ng Pat-Thin?ng thì ?oàn quân binh, qu?n th?n, toán ng? lâm quân, các n? t? .v..v… cùng Vua Ch? Mân ?ã có m?t ? b?n c?ng tr??c r?i .Khi m?t Hòa Th??ng trong phái ?oàn ??i Vi?t cùng các v? qu?n th?n nh? Tr?ng Nguyên M?c ??nh Chi, Th??ng T??ng Tr?n Kh?c Chung, Ng? S? ?oàn Nh? H?i b??c lên b? c?ng thì qu?n th?n và Ng? S? Ch? B? ?ài Chiêm Thành ?ã ?ón chào thân m?t, trong khi ?ó Vua Ch? Mân t? trên ki?u vàng r?c r? b??c ra, con ng??i cao l?n, n??c da sáng, m?i cao, tóc h?i g?n sóng phía tr??c, ?ôi m?t sáng ng?i thoáng nét ?a tình và dáng v? hào hoa phong nhã nh?ng không kém ph?n uy d?ng c?a m?t quân v??ng, ngang hông mang m?t thanh ki?m báu v?i v? ki?m b?ng vàng, chuôi ki?m b?ng ngà voi kh?m ng?c . ??u ??i chi?c m? b?ng vàng cao hình tr?, trên ??nh nh?n c?a m? có g?n m?t viên ng?c t?a ra ánh sáng v?i nhi?u màu s?c khác nhau trông v?a ??p m?t v?a uy nghi. Mình m?c áo l?a th??ng h?ng màu tr?ng, ???ng vi?n c? áo, hai tay áo và song song v?i hai hàng nút ??u b?ng kim tuy?n b?ng vàng l?p lánh, và m?t ?ai vàng dát m?ng th?t ngang l?ng, khoác ngoài m?t chi?c áo lông bào . Chân mang hia màu ?en có thêu hình con chim Garuda màu ?? …Huy?n Trân Công Chúa t? trong ki?u hoa, sau khi cô t? n? nh? vén màng che tr??c ki?u hoa, nàng nhìn ra ngoài th?y Qu?c V??ng Ch? Mân, ?ôi má nàng ?ng h?ng lên, ý ngh? v? Chiêm Qu?c bây gi? không nh?ng ?? làm s? gi? hòa bình mà còn ??n Chiêm Thành v?i lòng d? b?ng trinh c?a m?t cô thanh n? xuân thì vu qui v? nhà ch?ng; nàng th?m c?m ?n Ph? Hoàng ?ã khéo ch?n cho nàng m?t ??ng phu quân x?ng ?áng ?? s?a túi nâng kh?n. Huy?n Trân nh? nhàng b??c ra kh?i ki?u hoa, e ?p th?n thùng, khép nép; nàng ch?p hai tay tr??c ng?c cu?i mình quì ph?c xu?ng chào, Vua Ch? Mân l?t ??t ??n sát bên nàng ??a hai tay nh? nhàng ?? nàng ??ng d?y. Nh? hai lu?ng ?i?n âm d??ng giao c?m; ?ôi bàn tay nh? bé thon th? xinh ??p c?a nàng nh? nhàng nh? cánh b??m ??u trên n? hoa th?t ?m áp trong ?ôi lòng bàn tay c?a Quân V??ng. B?ng m?t gi?ng êm ??m d?u v?i, Công Chúa Huy?n Trân tâu: Xin ?a t? Thánh Th??ng ?ã nh?c công ?ón ti?p b?ng ti?ng Champa (Tri?u ?ình Tr?n Anh Tông m?i m?t ng??i Ch?m s?ng ? ??i Vi?t d?y ti?ng Ch?m c?ng nh? phong t?c và v?n hóa Champa tr??c khi nàng lên ???ng v? Chiêm Qu?c). Vua Ch? Mân ??m ??m nhìn nàng trong s? ng?c nhiên, không ng? nàng ?n m?c y ph?c trang s?c theo m? thu?t Champa, l?i nói ???c c? ngôn ng? Champa. R?i nhà Vua n? n? c??i và ân c?n h?i nàng có kh?e không, ta r?t lo âu sóng n??c trùng d??ng làm nàng m?t m?i, ta xin l?i nàng. Công Chúa Huy?n Trân duyên dáng ch?p tay cu?i ??u kh? tâu: nh? h?ng ân c?a Thánh Th??ng, th?n thi?p và t?t c? m?i ng??i trong ?oàn thuy?n hoa ??u kh?e m?nh, ch? có chút say sóng.Vua Ch? Mân nh? nhàng dìu Huy?n Trân lên ki?u vàng r?c r?, nh?ng chi?c ki?u nh? h?n ?? d?c m?t hàng sau dành cho các ??i di?n tri?u th?n Tr?n Anh Tông và các qu?n th?n Champa; nh?ng thành ph?n nh? h?n ?i ng?a l?ng th?ng theo sau, cùng v?i toán ng? lâm quân, binh lính h??ng v? thành Vijaya (thành ?? Bàn). Con ???ng t? h?i c?ng Pat-Thin?ng ??n c?a thành ?? Bàn dài kho?ng 8 km. Hai bên ???ng là hai hàng d??ng li?u óng ? m??t mà xanh th?m nh? ?ón chào cô dâu t? ??i Vi?t ??n .?oàn r??c dâu r?i kh?i b?n c?ng Pat-Thin?ng ch?ng bao lâu, ch? còn m?t d?m n?a ??n thành ?? Bàn. Hai bên ???ng t?i ?ây không còn cây d??ng, ch? có tr?ng hoa Vong, hoa Ph??ng, hoa Qu? d?c hai bên ???ng trông r?t ???c m?t. Qu?n chúng Champa ??ng ?ón hai bên ???ng v?i áo qu?n ??p ??, c? xí ph?t ph?i, bi?u ng? gi?ng ??y, chiêng tr?ng hòa l?n v?i l?i hô chào vang d?y chào ?ón cô dâu ??i Vi?t.Thành ?? Bàn r?ng mênh mông, thành quách tráng l? vây quanh. Bên ngoài thành ?? Bàn, phía Tây c?a thành:- N?i ng?a hí chuông r?n vang trong gió(Ch? Lan Viên)Phía Nam thành:?ây chi?n thuy?n n?m m? trên sông l?ngB?y voi thiêng tr?m m?c d?o quanh thành(Ch? Lan Viên)Khi Qu?c V??ng Ch? Mân và hai phái ?oàn ??a r??c Công Chúa Huy?n Trân vào trong khuôn viên cung ?ình, tr??c m?t Huy?n Trân:?ây ?i?n các huy hoàng trong ánh n?ngNh?ng ??n ?ài tuy?t m? d??i tr?i xanh(Ch? Lan Viên)Huy?n Trân nh? l?c vào cõi m?ng, khi ??m chiêu suy ngh?, khi ng?n ng? nhìn nh?ng lâu ?ài ?i?n các, gác tía cung son, tháp n??c, mi?u ???ng, ??i s?nh nguy nga .v..v… không bi?t bao nhiêu khu ???c xây d?ng theo hàng l?i ngay th?ng n?p na, v?i nh?ng công trình ki?n trúc v? ??i tráng l?, thâm nghiêm hòa h?p b?i hai n?n v?n minh ki?n trúc c?a Chiêm Thành và Aán ??, t?t c? ??u xây d?ng b?ng g?ch, ???c s?n ph?t ??p m?t . C? khu tri?u ?ình r?ng l?n ?? s? ?y ??u ???c lát g?ch Bát Tràng, trông n?i b?t r?c r? . C?ng trong khuôn viên tri?u ?ình, ngoài l?u son gác tía, còn có nh?ng h??ng li?u k? nam, tr?m h??ng, nh?ng loài hoa quí nh? hoa lan, hoa Champa; chim ?ng, chim y?n, b?ch t??ng .v..v… cung t?n, m? n?, hoa g?m l?a là v.v.. ?ã nói lên m?t s?c s?ng ??y thi v? trong m?t th? gi?i cung ?ình riêng bi?t, th? thì t?i sao có ng??i d? ngh? cho Chiêm Thành là man di ? Th?t không trung th?c chút nào, ch? do ?? k? t? tôn mà ra . Th?o nào Ph? Hoàng không ng?t l?i khen ng?i ??t n??c Chiêm Thành. ?ang khi v?i ý ngh? miên man, Qu?c V??ng Ch? Mân kh? b?o v?i Huy?n Trân: nàng và các n? t? s? ???c các cung n? Chiêm Thành ??a vào h?u cung ngh? ng?i ch? ngày mai thi?t tri?u ?? chính th?c s?c phong Hoàng H?u cho Công Chúa theo l?i ta ?ã h?a v?i Thái Th??ng Hoàng c?a ??i Vi?t t?c thân ph? c?a nàng tr??c ?ây .L? PHONG T??C HUY?N TRÂN CÔNG CHÚA THÀNH HOÀNG H?U PARMECVARI C?A CHIÊM THÀNHL? phong t??c Hoàng H?u cho Công Chúa Huy?n Trân ???c t? ch?c tr?ng th? . T?t c? các v? lãnh chúa t? các lãnh ??a Amaravati, Vijaya, Kâuthara, và Panduranga ??u cóm?t t? hôm tr??c nh? ?ã d? ??nh. Các b?c t?ng l?, các qu?n th?n v?n võ ??u t? t?u ?ông ?? . Các quan Ph? quan Huy?n và các ?oàn th? qu?n chúng quanh vùng thành ?? Bàn ??u có m?t trong tri?u ?ình ?? làm cho l? phong t??c ???c long tr?ng .Công Chúa Huy?n Trân ???c các t? n? Chiêm Thành và viên quan ??c trách l? t?n phong h??ng d?n Công Chúa vào ??i s?nh sau khi phái ?oàn ??i Vi?t ?ã ??n tr??c và ng?i vào v? trí ?n ??nh s?n .Vua Ch? Mân t? trong n?i cung b??c ra v?i dáng v? uy nghi, ???ng b? pha l?n v?i phong cách hào hoa phong nhã c?a m?t Qu?c V??ng v?n võ song toàn. T?t c? m?i ng??i trong ??i s?nh thi?t tri?u ??u quì ph?c xu?ng nghênh chào b? h? . Vua Ch? Mân v?i vã b??c ??n hai tay nh? nhàng ?? l?y Công Chúa Huy?n Trân ??ng d?y và dìu nàng ng?i vào chi?c bành k? dát vàng b?c quanh vi?n bên c?nh chi?c ngai vàng kh?m ng?c dành cho Hoàng ?? . Ngài truy?n cho m?i ng??i bình thân. Sau ?ó Qu?c V??ng Ch? Mân long tr?ng tuyên b? : “Trong không gian ??i s?nh c?a cung ?ình Champa, hôm nay, t?i th?i kh?c vàng son c?a l?ch s? này, Công Chúa Huy?n Trân chính th?c là phu nhân c?a Tr?m, ta phong t??c Hoàng H?u cho nàng v?i t??c hi?u là Hoàng H?u Paramecvari c?a Champa . Hoàng H?u Paramecvari là m?u nghi thiên h? và c?ng là nàng dâu c?a dân t?c và ??t n??c Champa . Nh?ng tràng pháo tay tung hô vang d?i c? cung ?ình . Qu?c V??ng Ch? Mân ch? th? cho vi?n Hàn Lâm ph?ng ch? vi?t t? Chi?u ?? nhà Vua ban hành b? cáo cho th?n dân toàn qu?c Champa ?? tri t??ng .Sau ?ó ??i di?n tri?u ?ình ??i Vi?t lên chúc m?ng Hoàng ?? Ch? Mân và Hoàng H?u Paramecvari ???c an khang tr??ng th? ?? ch?n gi? muôn dân Champa và ?em l?i s? hòa thân ?oàn k?t gi?a hai dân t?c Vi?t – Chiêm, cùng ki?n t?o hòa bình, cùng t?n t?i tr??c m?i m?u ?? xâm l?ng t? n??c kh?ng l? ph??ng b?c .o0o??n khi hoàng hôn v?a bao ph? v?n v?t, không gian và v? tr? chìm trong ánh sáng c?a tr?ng sao huy?n ho?c; n?i cung ?ình Champa hoa ??ng n? r? sáng tr?ng kh?p n?i thành Vijaya . Vua Ch? Mân và Hoàng H?u Paramecvari ?ôi trai tài gái s?c hàng ??u c?a dân t?c Champa ?ã m? d? ti?c linh ?ình ?? m?ng Tân lang và Tân giai nhân và m?ng t??c v? Tân Hoàng H?u Paramecvari c?a Champa.V?i Công Chúa Huy?n Trân, tr??c khi t? giã quê h??ng ??i Vi?t lên ???ng v? Chiêm Qu?c ?ã ???c tri?u ?ình ??i Vi?t chu?n b? hành trang chu ?áo cho nàng v? vi?c h?i nh?p v?n hóa Champa; t? ngôn ng?, ?n m?c ph?c s?c, v?n hóa ngh? thu?t. Do ?ó nàng ph?c s?c theo cung cách Chiêm Thành, s? d?ng ngôn ng? Chiêm Thành và ?ã bi?t rành r? nh?ng v? khúc cung ?ình n?i ?i?n ng?c cung vàng c?a tri?u ?ình Champa .?? m? ??u d? ti?c, Vua Ch? Mân c?ng n?i ti?ng là hào hoa ?ã kh? nghiêng vai nh? nhàng ??a tay m?i Hoàng H?u Paramecvari, Tân lang và Tân giai nhân m? ??u d? ti?c qua v? khúc “Mia – Harung” (v? khúc này cách ?ây m?t ngàn n?m mà ngày nay nh?c s? Champa Qu?ng ??i T?u ng??i Ninh Thu?n ?ã sáng tác theo n?i dung và ?i?u m?i mà dân t?c Ch?m hi?n ?ang múa hát vào d?p có l? h?i c?a dân t?c Ch?m). V? khúc Mia-Harung c?ng là lo?i v? khúc cung ?ình hoan ca . Hoàng H?u Paramecvari trong b? nhung y r?c r?, v?i chi?c kh?n quàng b?ng kim tuy?n ?? v?i tua vàng l?p lánh, quàng t? trên vai trái xuyên hông ph?i . Chi?c th?t l?ng dát m?ng b?ng vàng kh?m ng?c l?p lánh ôm nh? t?m l?ng ong v?i dáng ng??i thon th? cao ráo, làn da tr?ng m?n màng làm n?i b?t Hoàng H?u Paramecvari nh? tiên n? giáng tr?n bên c?nh m?t Quân V??ng hào hoa ?a tình và phong ??, v?i n??c da sáng, mái tóc m?t chút g?n sóng phía tr??c, ?ôi m?t sáng ng?i trong m?t thân th? cao ráo cân ??i .Nh?c tr?ng, kèn n?i lên khi khoan khi nh?t, khi náo ??ng nh? tr?i ?? m?a, khi khoan nh? gió tho?ng ngoài .Jaya Simhavarman III (t?c Vua Ch? Mân) và Paramecvari (Huy?n Trân Công Chúa) tay trong tay, m?t trong m?t, chìm ??m trong nh?ng nh?p múa khi nhanh lúc ?u?i nhau, k? ti?n ng??i lui, khi n??ng t?a vào nhau, khi nàng m?m m?i nh? m?t cành hoa lan, lúc ?o l? nh? m?t ng?n trúc m?m tr??c gió, chàng ph?i nh?y b??c nhanh tay ?? l?y t?m thân ng?c ngà, h? ?ã th?c s? không ph?i say n?ng trong men r??u mà trong men n?ng h?nh phúc qua nh?ng ??ng tác múa mà l?ch s? hai qu?c gia c?ng nh? ??nh m?nh c?a Th??ng ?? ?ã an bài cho h? .Trong khung c?nh l?ng l?y n?i cung ?ình v?i hoa ??ng sáng r?c nh? trân châu, qua v? khúc Mia-Harung c?a cung ?ình mà Vua Jaya Simhavarman ?? Tam cùng Hoàng H?u Paramecvari ?ã m? ??u bu?i d? ti?c, ?oàn s? th?n ??i Vi?t ngh? r?ng th?o nào Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông ?ã không ch?n m?t m? nhân nào trong n??c ??i Vi?t ?? g? cho Vua Ch? Mân h?u th?c hi?n sách l??c hòa thân mà l?i ch?n ngay con gái ru?t xinh ??p c?a mình . Sau màn v? Quân V??ng và Hoàng H?u ch?m d?t, c? cung ?ình vang lên nhi?u tràng pháo tay khen ng?i . Nhà Vua dìu Hoàng H?u tr? v? v? trí c?, ?êm d? ti?c ???c ti?p t?c v?i nh?ng ?i?u múa Tây Thiên Trúc qua ngh? thu?t trình di?n c?a các cô Chiêm N? trong cung ?ình v?i xiêm y l?a là v?a nh? nhành v?a thanh thoát . Nh?ng ?i?u múa cung ?ình Champa ?nh h??ng v? ?i?u c?a n? th?n ngh? thu?t Sravastri và v? ?i?u Thiên Th?n V? N? Apsara c?ng ???c ?oàn v? n? cung ?ình bi?u di?n th?t tuy?t v?i cùng v?i dàn tr?ng ??m g?m ba m??i nh?c công, ngoài ra các nh?c c? dân t?c c? ?i?n dân gian Champa nh? kèn Saranai, tr?ng ?ôi Gin?ng, tr?ng chi?c m?t ng??i s? d?ng nh? Paran?ng .v..v… c?ng ???c dùng hòa âm khi trình bày nh?ng khúc nh?c dân ca .D? y?n ti?c có ?? s?n hào h?i v?, các lo?i r??u ??c bi?t c?a Champa và c?a nh?ng qu?c gia lân c?n. M?i ng??i v?a th??ng th?c ngh? thu?t ca v?, r??u ngon trà ?m, nh?ng th?c ?n tuy?t h?o sang tr?ng trong ??i s?ng cung ?ình:?ây ánh ng?c l?u ly m? ?o .Vua quan Chiêm say ??m th?t da ngà,Nh?ng Chiêm n? m? màng trong ti?ng sáo,Cùng nh?p nhàng uy?n chuy?n u?n mình hoa .(Ch? Lan Viên)Khi d? ti?c ch?m d?t, m?i ng??i nghiêm ch?nh ti?n ??a Qu?c V??ng và Hoàng H?u v? cung son gác tía, th? gi?i riêng t? c?a Quân V??ng và Hoàng H?u. Trong ch?n mê cung này, Tân lang và Tân giai nhân cùng c?n hai chung r??u n?ng ?m s?t son và trong Hoa Tiên có câu:B?y lâu chút m?nh riêng tâyAùi ân này ??n ?êm này là xong .Sau n?m n?m c?u hôn và ch? ??i, Quân V??ng Ch? Mân bây gi? m?i th?c s? trùng phùng v?i giai nhân ngày tháng ??i ch? . Hai ng??i nhoài ?i trong gi?c ?i?p … Nh?ng con Oanh vàng và m?y con chim Vành Khuyên phía sau v??n th??ng uy?n hót vang lên, Qu?c V??ng và Hoàng H?u v?a th?c gi?c thì v?ng thái d??ng ?ã chi?u r?i n?i khung c?a ng?c … và l?i b?t ??u m?t ngày m?i .o0oSau nh?ng tu?n tr?ng m?t, Vua Ch? Mân tr? l?i lo vi?c tri?u chính . Hoàng H?u Paramecvari, bà ta không nh?ng là m?t nh?p c?u n?i li?n tình ?oàn k?t thâm sâu c?a hai dân t?c Vi?t-Chiêm mà còn là m?t ng??i ?àn bà luôn bên c?nh Vua Ch? Mân (bên Tây Cung). Hoàng H?u Tapasi ? bên ?ông Cung, bà này ??i s?ng ?óng kín h?n. Hoàng H?u Paramecvari còn lo vi?c an nguy c?a dân t?c và ??t n??c Champa ?? x?ng ?áng là “M?u nghi thiên h?” . Qu?c V??ng và Hoàng H?u Paramecvari cùng ?i th?m vi?ng l??ng dân, quan sát ??i s?ng c?a dân ?? có k? ho?ch lo cho nh?n qu?n xã h?i Champa ???c ?m no h?nh phúc, ??ng th?i chiêm ng??ng c?nh trí thiên nhiên ??p ?? c?a giang s?n ch?ng. Qu?c V??ng và Hoàng H?u l?n l??t th?m vi?ng nh?ng ??a danh ??c bi?t n?i ti?ng trên ??t n??c Champa nh?:Ng? Hành S?n: ?? ra m?t Th?n Linh Champa, vì n?i ?ây có nh?ng khóm mây ng? quên trên l?ng ch?ng ??i; c?nh trí nh? s??ng khói mùa thu bao ph? c? r?ng cây, c? nh?ng hang ??ng thiên nhiên r?ng và sâu nh?ng ??y mùi h??ng tr?m và ?èn sáp sáng tr?ng, v?n là n?i th? ph??ng th?n linh hi?n linh c?a dân t?c Champa .Thánh ??a M? S?n do Vua Bhadravarman xây d?ng h?i cu?i th? k? th? IV công nguyên. Qu?c V??ng và Hoàng H?u c?u nguy?n tr??c Th?n Bhadresvara là ??ng toàn n?ng c?a ??t n??c và dân t?c Champa và quì l?y tr??c Th?n Shiva là ??ng toàn n?ng ch? ??o ??i s?ng v??ng quy?n Champa và còn là m?t bi?u t??ng tâm linh c?i ngu?n c?a dân t?c Champa . ?ây là m?t trung tâm hành h??ng l?n nh?t c?a Champa v?i n?n ki?n trúc r?c r? nguy nga .Tu Viên ??ng D??ng: ? Qu?ng Nam (Indrapuna) Qu?c V??ng và Hoàng H?u ??n l?y Ph?t. ?ây là m?t trung tâm Ph?t giáo ??i Th?a nguy nga ?? s? l?n nh?t ? ?ông Nam Á trong th?i ?i?m l?ch s? này, do Vua Indravarman ?? Nh? xây d?ng h?i th? k? th? 9 . N?i ?ây, Thái Th??ng Hoàng Tr?n Nhân Tông là ph? hoàng c?a Hoàng H?u Paramecvari ?ã tr?i qua nhi?u tháng ?? nghiên c?u Ph?t Pháp.D?o ch?i v??n Mai Uy?n t?i mi?n ??t thu?c châu Panduranga, gi?a Cà Ná và V?nh H?o t?c ranh gi?i gi?a t?nh Ninh Thu?n và Bình Thu?n ngày nay . V??n Mai Uy?n này g?m có B?ch mai, Hoàng mai, và H?ng mai t?a l?c t?i m?t ??a th? hùng v? c?a núi r?ng và s? mênh mông c?a bi?n c? (m?t bên là bi?n Thái Bình D??ng, m?t bên là chi nhánh c?a dãy Tr??ng S?n Vi?t Nam, v??n Mai Uy?n ? gi?a). Ngh?a là m?t bên là màu xanh c?a bi?n c?, m?t bên là màu xanh c?a núi r?ng, ? gi?a là v??n Mai Uy?n v?i hoa tr?ng hoa vàng hoa Mai h?ng hoà l?n v?i màu xanh c? cây và hoa r?ng ?? lo?i t?o thành m?t b?c tranh màu s?c tuy?t ??p . Ng??i ta ??n r?ng khi Thái Th??ng Ho&
0 Rating 1.8k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
TRUONG LAM DONG. Chính sách Nam Ti?n c?a ??i Vi?t làm cho v??ng qu?c Champa m?t d?n các ti?u v??ng qu?c Indrapura (Qu?ng Bình, Qu?ng Tr?), Amaravati (Qu?ng Nam, Hu?), Vijaya (Bình ??nh). M?c dù b? th?t th?, Champa v?n còn gi? ???c ch? quy?n t?i ti?u v??ng qu?c Panduranga (Phan Rang, Phan Thi?t) ? mi?n Nam cho ??n n?m 1832, khi Minh M?ng quy?t ??nh xóa b? lãnh th? Champa. N?m 1771, phong trào Tây S?n do ba anh em Nguy?n Nh?c, Nguy?n Hu?, Nguy?n L? kh?i x??ng, kêu g?i dân chúng ??ng lên ch?ng l?i chúa Nguy?n. Trong cu?c chi?n này, anh em nhà Tây S?n chi?m ???c m?t s? ??t ?ai ? mi?n Trung khi quân chúa Nguy?n rút v? Gia ??nh t? ch?c kháng c? giành l?i ngôi báu. Lãnh th? Panduranga-Champa (tr?n Thu?n Thành) lâm vào th? ? gi?a hai g?ng kìm, Tây S?n và chúa Nguy?n. Chính vì th? dù mu?n hay không các s?êc dân Churu, Raglai, Kaho và Ch?m c?ng b? lôi cu?n vào cu?c chi?n. Theo s? sách Vi?t Nam, c? Tây S?n l?n Nguy?n Ánh ??u mu?n làm ch? lãnh th? Panduranga ?? làm n?i trú quân ho?c n?i ng?n ch?n các cu?c t?n công c?a phe ??ch. Cho nên, trong su?t cu?c n?i chi?n t??ng tàn, lãnh th? Panduranga là bãi chi?n tr??ng ??m máu gi?a hai anh em thù ??ch tranh giành quy?n l?c. Vì chi?n tranh luôn luôn x?y ra trên lãnh th? c?a mình, các vu?ng quy?n Panduranga khó lòng gi? t? th? trung l?p chính tr?. N?n ??c l?p c?a Panduranga th?t là m?ng manh, nó hoàn toàn l? thu?c vào t??ng quan l?c l??ng gi?a Tây S?n và chúa Nguy?n. N?m 1802, sau khi th?ng nh?t ??t n??c, Nguy?n Ánh lên ngôi, x?ng hi?u Gia Long. Nhà vua c?i t? l?i v??ng qu?c ??i Vi?t ?? tránh nh?ng xung ??t t??ng tàn Nam-B?c có th? x?y ra ; ông không mu?n tr? l?i th?i k? ??i ??u Tr?nh-Nguy?n, Tây S?n-Nguy?n Ánh tr??c ?ó. Gia Long chia lãnh th? ra làm ba vùng, mi?n B?c, g?i là B?c Thành, g?m 13 tr?n d??i quy?n cai tr? c?a Lê V?n Thi?ng. Mi?n Nam, g?i là Gia ??nh Thành g?m 6 tr?n và ??t d??i quy?n lãnh ??o c?a Lê V?n Duy?t. Lãnh th? mi?n Trung, còn g?i là Phú Xuân, do tri?u ?ình nhà Nguy?n tr?c ti?p qu?n lý. Còn lãnh th? Panduranga, t? v?nh Cam Ranh ??n Bình Tuy và ??ng Nai Th??ng (?à L?t, Lâm ??ng), t?c là vùng ??t không n?m trong tr?n Bình Thu?n, ???c trao cho m?t ng??i thu?c hoàng t?c Champa, lúc ?ó là Po Saong Nhung Ceng mà s? sách Vi?t g?i là Nguy?n V?n Ch?n, cai tr?. S? d? có s? phân ??nh l?i lãnh th? này là vì Gia Long mu?n th?ng th??ng cho nh?ng ng??i ?ã cùng ông chi?n ??u ch?ng Tây S?n. ??c bi?t nhà vua ban cho vùng ??t Panduranga m?t qui ch? t? tr?, dòng h? Po Saong Nhung Ceng tr? thành v??ng t?c chính th?ng. Gia Long giao cho Po Saong Nhung Ceng toàn quy?n cai tr? lãnh th? và dân chúng Champa theo ?úng t?p t?c c? truy?n c?a ti?u v??ng qu?c Panduranga ngày tr??c, ngh?a là ???c quy?n t? ch?c chính tr?, hành chánh, quân ??i theo cách riêng ?? gìn gi? an ninh và d?p lo?n, nh?ng không ???c ch?ng l?i tri?u ?ình Hu?, và khi c?n giúp tri?u ?ình d?p lo?n. Dân c? g?c Vi?t sinh trú t?i n?i ?ây ???c ??t d??i quy?n qu?n tr? tr?c ti?p c?a m?t quan tr?n th? Bình Thu?n ng??i Vi?t. Lòng trung thành c?a Po Saong Nhung Ceng ??i v?i Gia Long là tuy?t ??i, tình b?ng h?u ??i v?i Lê V?n Duy?t, ng??i b?n chi?n ??u ch?ng Tây S?n, ch?c nh? keo s?n. ???c h??ng s? b?o h? c?a tri?u ?ình Hu? và t?ng tr?n Gia ??nh Thành, Po Saong Nhung Ceng canh tân l?i ??t n??c b?ng cách khôi ph?c l?i kinh t?, c?i t? hành chánh, thay ??i nh?ng nhân s? trong th?i chi?n tranh 1771-1802. Nh?ng c?i t? sâu r?ng này gây ti?ng vang ra ??n t?n Hu?. N?m 1820 Gia Long b?ng hà t?i Hu?, hoàng t? ??m lên ngôi x?ng hi?u là Minh M?ng. Ngay khi v?a lên ngôi, ?? t? quy?n uy, Minh M?ng ?ã l?y m?t s? quy?t ??nh ng??c l?i v?i nh?ng gì Gia Long ch? tr??ng. Minh M?ng tri?u Tr??ng V?n Chánh v? Hu?, ng??i ???c Lê V?n Duy?t c? ra coi tr?n Bình Thu?n, và thay vào ?ó là Mai V?n L??ng. ??n ph??ng thay ??i nhân s? t?i Bình Thu?n, Minh M?ng mu?n d?n m?t Lê V?n Duy?t, ng??i ???c Gia Long giao toàn quy?n cai tr? sáu Tr?n thu?c Gia ??nh Thành. Minh M?ng c?ng nhân d?p này mu?n t? mình là ng??i n?m tr?n quy?n hành trên toàn lãnh th? và v?i t?t c? m?i ng??i, k? c? các v? ??i th?n gi? c?p b?c cao nh?t trong tri?u chính. Sau khi cách ch?c tr?n tr??ng Bình Thu?n do Lê V?n Duy?t ??a lên, n?m 1822 Minh M?ng tách Bình Thu?n kh?i Gia ??nh Thành ?? sát nh?p vào lãnh th? tr?c thu?c tri?u ?ình Hu?. S? phân chia l?i lãnh th? hành chánh này ch? nh?m cô l?p và h? b? Lê V?n Duy?t, ng??i ???c dân chúng ??a ph??ng m?n m? nh? m?t vi vua, ?? ông không còn c? h?i can thi?p tr?c ti?p trên ph?n ??t này. ?? th?c hi?n uy quy?n c?a mình t?i Panduranga, vua Minh M?ng tri?u phó tr?n Panduranga là Po Klan Thu (theo tài li?u Vi?t là Nguy?n V?n V?nh) v? Hu? mà không cho bi?t lý do. S? ki?n này ch?a h? x?y ra trong cu?c bang giao gi?a Hu? và Panduranga t? tr??c t?i nay. S? tri?u t?p này x?y ra vào ?úng lúc tr?n v??ng Panduranga, Po Saong Nhung Ceng ng??i b?n chi?n ??u ngày x?a c?a Gia Long và Lê V?n Duy?t, ?ang h?p h?i trên gi??ng b?nh. M?c tiêu tri?u t?p Po Klan Thu v? Hu? c?a Minh M?ng là sau khi Po Saong Nhung Ceng ch?t, các ch?c s?c Panduranga s? không có d?p tôn Po Klan Thu lên thay Po Saong Nhung Ceng. ?ây c?ng là d?p ?? Minh M?ng h? b? uy tín c?a Lê V?n Duy?t, vì n?u ?? Lê V?n Duy?t ?ng h? s? t?n phong Po Klan Thu, uy th? ông ta s? lên cao và nh? càng b?n ch?t h?n ??i v?i dân chúng ? Panduranga. Po Saong Nhung Ceng m?t n?m 1822 t?i kinh ?ô Canar (T?nh M?, Bình Thu?n), các ch?c s?c ??a ph??ng t? ch?c ?ám tang theo ?úng nghi l? c?a ng??i Ch?m nh?ng không có s? hi?n di?n c?a Po Klan Thu, vì ?ang b? c?m chân t?i Hu?, và nh? th? không ???c lên thay th? v? lãnh t? Ch?m v?a quá c? ? Panduranga. Thay vào ?ó, Minh M?ng c? m?t ng??i Ch?m thân tín c?a tri?u ?ình, tên Bait Lan, vào qu?n lý Panduranga. Quy?t ??nh này, không h? ???c thông báo tr??c cho tri?u chính Panduranga, ?ã gây m?t ?n t??ng không m?y t?t ??p trong lòng th?n dân Panduranga. Vua Minh M?ng ?ã không tôn tr?ng m?t t?p quán ngo?i giao ?ã có t? tr??c ??n nay gi?a hai tri?u ?ình : tri?u ?ình Hu? ph?i ch?p nh?n ng??i cai tr? Panduranga do ch?c s?c Panduranga ti?n c?. Tuy không có m?t, dân chúng Panduranga v?n coi Po Klan Thu là nh? ng??i k? v? chính th?c Po Saong Nhung Ceng. S? nhìn nh?n không chính th?c này ?ã ?ánh d?u m?t b??c ngo?t quan tr?ng trong l?ch s? Panduranga : s? trung thành c?a ng??i Ch?m ??i v?i tri?u ?ình Hu? gi?m d?n. Trong b?i c?nh chính tr? r?i lo?n và ph?c t?p ?ó, tháng 8 n?m 1822, m?t l?c l??ng cách m?ng do Ja Lidon lãnh ??o n?i lên ch?ng l?i Minh M?ng, ?òi tri?u ?ình Hu? ph?i tôn tr?ng th?m quy?n tôn v??ng c?a ng??i dân Panduranga. Nh?ng ng??i n?i d?y chi?m m?t vùng ??t t? Tây-Nam Phan Thi?t, vùng ??t t?n cùng phía Nam c?a Panduranga, ??n biên gi?i Gia ??nh Thành làm c?n c?. Tr??c tình th? nguy ng?p này, Po Klan Thu, v? phó tr?n Panduranga v?n k?t ? l?i Hu?, ?ã yêu c?u Minh M?ng tái xét l?i tình hình chính tr? t?i Panduranga và ???c ch?p thu?n. Bait Lan b? tri?u v? Hu? và Po Klan Thu ???c ??a vào thay th?. Ai c?ng bi?t hành ??ng phong ch?c cho Po Klan Thu ch? là m?t hành vi chi?n thu?t, vì Minh M?ng v?n mu?n ?ánh d?p các phong trào ch?ng ??i ?? c?ng c? tr?t t? và b?o v? quy?n l?i c? dân Vi?t trên ??t Bình Thu?n. Nh?ng hành ??ng ?i n??c ?ôi này c?a Minh M?ng, phong ch?c m?t ng??i mà do chính mình ??a lên r?i sau ?ó l?i h? b? ?? ??a k? mình không ?a lên ngôi, ?ã làm suy gi?m uy tín c?a Minh M?ng tr??c m?t dân chúng và các ch?c s?c Panduranga. Sau 7 n?m c?m quy?n, Po Klan Thu m?t n?m 1828. ?Û ?ây c?ng xin m? m?t d?u ngo?c nh?, ?ó là các ch?c s?c ? Bal Canar ch? hay tin Po Klan Thu m?t do các quan ch?c Vi?t ? tr?n Bình Thu?n thông tin. Không ai bi?t Po Klan Thu ch?t ? kinh ?ô Canar hay trên lãnh th? Panduranga vì không có m?t tài li?u nào nói ??n cái ch?t c?a ông. ? Hu?, Bình Thu?n hay Panduranga ? Không ai bi?t. Nh?ng có m?t ?i?u ch?c ch?n là Po Klan Thu ?ã ch?t trên ??t Vi?t, vì hung tin do tr?n tr??ng Bình Thu?n báo cho các ch?c s?c Ch?m bi?t v? cái ch?t này. Sau khi Po Klan Thu m?t, m?i ng??i ch? ??i Minh M?ng và Lê V?n Duy?t ??a ng??i lên k? v?. C? hai ??u tìm cách ??a ng??i thân tín c?a mình lên n?m chính quy?n ? Panduranga, vì Panduranga là ??a th? chi?n l??c r?t quan tr?ng n?m gi?a khu v?c ki?m soát c?a nhà vua l?n Lê V?n Duy?t. Theo ?úng th? t?c ch?n ng??i k? v?, ban nghi l? ph?i th?nh các ch?c s?c Panduranga, h?i ??ng ngai vàng d??i s? c? v?n c?a Lê V?n Duy?t và Minh M?ng. Lê V?n Duy?t mu?n ng??i n?i ngôi này ph?i là con c?a Po Saong Nhung Ceng (m?t n?m 1822), t?c Phaok The (tài li?u Vi?t là Nguy?n V?n Th?a), mà ng??i cha là b?n chi?n ??u cùng ông trong vi?c ch?ng l?i Tây S?n. Vua Minh M?ng thì không b?ng lòng vì e r?ng n?u ?? Lê V?n Duy?t ti?n c? ng??i thân tín ra cai tr? Panduranga thì ?nh h??ng c?a ông ta s? m?nh h?n chính mình. Th? là có cu?c xung ??t, s? tranh giành ?nh h??ng gi?a m?t v? vua và m?t t?ng tr?n tr? nên công khai. Trong th?c t?, Lê V?n Duy?t hoàn toàn ki?m soát sinh ho?t chính tr? t?i Panduranga, ông ch? mu?n tái l?p l?i uy tín mà vua Minh M?ng ?ã t??c ?o?t t? tay ông n?m 1822. D?n dà v?i th?i gian, uy quy?n c?a ông l?n át nhà vua t?i Panduranga. Theo các tài li?u Ch?m còn l?u l?i, ?a s? ch?c s?c và dân chúng Ch?m, Churu, Raglai, Kaho ??u nghe theo Lê V?n Duy?t và không nh?ng c?t ??t m?i liên l?c v?i tri?u ?ình Hu? mà còn oán ghét vua Minh M?ng, m?t v? vua không ???c lòng dân. Lê V?n Duy?t m?t n?m 1832, vua Minh M?ng li?n tìm m?i cách ki?m soát Panduranga và Gia ??nh Thành. Không ch?u n?i s? tr? thù báo oán này, con nuôi c?a Lê V?n Duy?t là Lê V?n Khôi ?ã kêu g?i dân chúng Gia ??nh Thành, trong ?ó có ng??i Ch?m t?i Châu ??c và Bình Thu?n, n?i lên ch?ng l?i tri?u ?ình Hu? trong nh?ng n?m 1833-1835. Nhóm ng??i này ?ng h? Lê V?n Khôi vì m?n m? công ??c c?a Lê V?n Duy?t, k? là mu?n ???c h??ng qui ch? t? tr? vì lý do tôn giáo n?u Lê V?n Khôi thành l?p ???c m?t lãnh th? riêng bi?t, tách kh?i s? ki?m soát c?a tri?u ?ình Hu?. Quân Ch?m ? Châu ??c r?t thi?n chi?n nh? tinh th?n chi?n ??u cao và ???c trang b? v? khí t?i tân c?a ph??ng Tây. ??u n?m 1833, sau khi ?ánh b?i quân tri?u ?ình t? các t?nh Bình ??nh, Phú Yên, Bình Thu?n (trong ?ó có quân Ch?m c?a tr?n Thu?n Thành) vào d?p lo?n, Lê V?n Khôi xua quân lên ?ánh chi?m các t?nh ?ông-b?c Gia ??nh. Tr?n Thu?n Thành là ??a bàn g?n nh?t ?? quân c?a Lê V?n Khôi ti?n vào. Tr??c s?c ép c?a phe n?i lo?n, quan tr?n th? Bình Thu?n b? thành ch?y v? Diên Khánh, quân c?a Lê V?n Khôi tràn vào sát h?i t?t c? nh?ng ai ?ng h? Minh M?ng, trong ?ó có r?t nhi?u ng??i Ch?m. Nh?ng n?m 1835 phong trào n?i lo?n c?a Lê V?n Khôi b? d?p t?t trong máu l?a, nh?ng ng??i ch?ng ??i b? b?t ?em v? Hu? x? tr?m, trong ?ó có nh?ng v? lãnh ??o tôn giáo Pháp và Ch?m. T? sau ngày ?ó, vua Minh M?ng áp d?ng k? lu?t s?t ?? cai tr? và tr?i r?ng uy quy?n trên kh?p lãnh th? Vi?t Nam. Nh?ng hình ph?t mà vua Minh M?ng dành cho nh?ng viên ch?c c? c?a Gia ??nh Thành r?t là dã man, nh?t là v? ?ào m? Lê V?n Duy?t ?? tr? thù. Tuy v?y, ít ai bi?t nh?ng gì ?ã x?y ra cho dân chúng Panduranga, nh?t là nh?ng ng??i ?ã ???c Lê V?n Duy?t che ch? hay theo Lê V?n Khôi. Vua Minh M?ng ?ã áp d?ng m?t cách tri?t ?? chính sách Vi?t hóa Panduranga và ra l?nh thâu góp t?t c? nh?ng tin t?c v? cu?c s?ng c?a dân t?c Ch?m, ??c bi?t là v? hai tôn giáo Bàlamôn và Bani, ?? kh?ng ch?. Các v? quan Vi?t ???c c? t?i cai tr? bu?c các ch?c s?c và dân chúng Ch?m ?n m?c ki?u Vi?t Nam, tìm ?? m?i cách bu?c ng??i Ch?m b? tín ng??ng, tôn giáo c?a h?, th?m chí còn cho di?n tu?ng ? nh?ng n?i th? ph??ng c?a ng??i Ch?m, b?t gái Ch?m ph?i k?t hôn v?i trai Vi?t. Ngoài vi?c b? ?óng thu? cao, nh?ng thanh niên Ch?m còn b? b?t ?i làm t?p d?ch, ??n cây ?? ?óng tàu, làm xe bò cho các quan ch?c ??a ph??ng. Ng??i ta có th? coi hành vi này nh? m?t s? phá ho?i, h?y di?t h? th?ng tinh th?n và tr?t t? ngày x?a ?ã làm n?n t?ng cho dân t?c này. ?ó là m?c ?ích c?a hình ph?t mà Minh M?ng dành cho dân chúng Panduranga sau 1832. Chính sách phân bi?t ??i x? c?a Minh M?ng ?ã châm ngòi cho s? vùng d?y c?a phong trào Katip Sumat (1833-1834) và m?t tr?n Ja Thak Va (1834-1835). Hai ng??i này ch? tr??ng ?ánh ?u?i quân Vi?t ?? ph?c h?i l?i v??ng qu?c Panduranga-Champa. ?? ?ánh d?p quân n?i d?y, Minh M?ng áp d?ng m?t chính sách c?c k? tán ác, "??t ?ai ?? l?a", ngh?a là ?i ??n ??u ??t phá t?i ?ó, không cho dân chúng Ch?m xây d?ng l?i nhà c?a và canh tác ??t ?ai. Ng??i Ch?m b?ng d?ng tr? thành n?n nhân c?a chính sách tàn b?o này. Hàng lo?t các làng xã Ch?m s?ng v? ng? nghi?p ? d?c theo b? bi?n t? v?nh Cam Ranh ??n Lagi (Bình Tuy) b? ??t phá không ti?c th??ng, r?t nhi?u ng??i ?ã ch?y qua Campuchia, Thái Lan, th?m chí còn dùng thuy?n v??t bi?n ch?y sang Mã Lai, Nam D??ng, Phi Lu?t Tân lánh n?n. Ch?a h? c?n t?c gi?n c?a mình, vua Minh M?ng còn ra l?nh c?m ch?c s?c hai tôn giáo Bàlamôn và Bani không ???c t? ch?c Katê và Ramadan, hai ngày l? tôn giáo l?n nh?t c?a ng??i Ch?m. S? c?m ?oán này kéo dài trong su?t 8 n?m (1834-1842). S? tàn kh?c c?a chi?n tranh và chính sách bóp ngh?t tôn giáo ?ã làm cho hai tôn giáo này suy tàn. Tháp Po Sah Anaih (ti?ng Vi?t là tháp Po Sah Ina, Phan Thi?t), n?i th? ph??ng linh thiêng nh?t c?a ng??i Ch?m, b? b? hoang không ???c ch?m sóc. R?t nhi?u n?i th? ph??ng khác ?ã b? xóa tên, không còn v?t tích. R?t nhi?u s?c t?c Nam ??o (Raglai, Churu) và Môn Khmer (Kaho) sinh s?ng trên cao nguyên Di Linh ?ã giúp hàng ch?c ngàn ng??i Ch?m b?ng r?ng qua Campuchia lánh n?n. T? sau giai ?o?n ?ó, dân s? Ch?m giàm xu?ng h?n và s? h?i nh?p c?a ng??i Ch?m vào xã h?i Vi?t Nam b? kh?ng l?i. Dân t?c Ch?m b? li?t vào h?ng "man" và ch?u chung s? ph?n v?i nh?ng s?c t?c thi?u s? sinh s?ng d??i chân dãy Tr??ng S?n và trên cao nguyên mi?n Trung. Tr?i qua nh?ng giai ?o?n th?ng tr?m l?ch s? nh? v?y, v?t th??ng trong lòng ng??i Ch?m r?t khó hàn g?n. T? m?t v??ng qu?c có ch? quy?n, có m?t n?n v?n minh sáng chói, ?? r?i cu?i cùng tr? thành m?t vùng ??t b? tr? và b? phân bi?t ??i x?, cái nhìn c?a ng??i Champa v? t??ng lai r?t là y?m th?. Chính vì không th?y ch? ??ng c?a mình trong lòng dân t?c Vi?t Nam, c?ng ??ng ng??i Champa nh? con thuy?n m?t ??nh h??ng, ?ã s?ng vì b?t bu?c ph?i s?ng nh?ng ch?a th? ?óng góp h?ng say h?n vào s? nghi?p xây d?ng m?t ??t n??c chung, m?t t??ng lai chung. Trách nhi?m c?a chúng ta, nh?ng ng??i tranh ??u cho t? do và dân ch? t?i Vi?t Nam là ph?i tìm cho ra m?t chính sách h?i nh?p thu?n tình thu?n lý ?? huy ??ng s?c m?nh b?t ??ng này. ?ây là trách nhi?m c?a m?i công dân Vi?t Nam ??i v?i ??t n??c. N?u thành công, dân t?c Vi?t Nam s? ???c s? kính ph?c c?a c? th? gi?i.KINH THU : panduranga
0 Rating 1.5k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
GIỚI THIỆU CÁC THÁP CHAMPA KHÁNH HÀ I. DẪN NHẬP: Kế thừa văn hóa Sa Huỳnh và tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Khomer, Đại Việt,… cư dân Champa (tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ XVII trên mảnh đất ven biển Miền Trung Việt Nam (từ Quảng Bình đến Bình Thuận) đã sáng tạo nên những công trình kiến trúc tháp độc đáo mang đậm dấu ấn bản địa, góp phần không nhỏ cho bức tranh văn hóa Việt Nam đa dạng hơn, phong phú hơn. II. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC CHAMPA CỔ:1. Nhà nước Lâm Ấp ( thế kỷ II – thế kỷ VI):Theo Thủy kinh chú: Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng chỉ gọi là Lâm Ấp.Lương thư cho biết về nhà vua đầu tiên của Lâm Ấp là Khu Liên (có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Chữ Khu Liên có thể không phải tên người mà là sự chuyển âm từ cổ Kurung, có nghĩa là thủ lĩnh, vua…)Người Lâm Ấp có tài đi núi, quen ở nước, không quen đất bằng, làm nhà sàn để ở. Họ có phong tục, chữ viết giống Ấn Độ.Các khai quật khảo cổ năm 1927 của J. Y. Claeys cho thấy nhiều khả năng Trà Kiệu chính là Shinhapura và là kinh đô của Champa buổi đầu. Đây cũng là vùng quần cư lâu đời, có trình độ phát triển kinh tế – văn hóa cao.Các vua Champa nối tiếp Lâm Ấp đã cho xây dựng nhiều đền tháp ở Mỹ Sơn để thờ thần Srisana Bhadresvara.2. Thời kỳ Virapura hay Rajapura ( Hoàn Vương) từ năm 750 đến năm 866:Đây là thời kỳ vương triều miền Nam làm chủ đất nước. Thánh địa của Virapura có lẽ là Pô Nagar (nằm trên một quả núi nhỏ, nay thuộc địa phận Nha Trang, khánh Hòa?). Vương quốc Nam Chăm có thể là một tập hợp tiểu quốc, trong đó gồm có tiểu quốc Panduranga và tiểu quốc Kauthara.Về nguyên nhân trung tâm đất nước đột ngột chuyển từ Shinhapura về nam chăm đến nay vẫn là một bí ẩn, chưa có lời giải đáp.3. Thời kỳ Indrapura (Đồng Dương) từ năm 866 đến năm 982:Các nhà khoa học đã tìm được 20 minh văn cho biết về giai đoạn Đồng Dương với 12 đời vua kế tiếp nhau trị vì đất nước. Giai đoạn Đồng Dương là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Champa: có sự kết hợp giữa tiếp nhận Bàlamôn giáo và Phật giáo. Đồng Dương vừa là hoàng cung, vừa là đền, miếu thờ thần, phật.4. Nhà nước Champa thống nhất và phát triển (thế kỷ X – XIII):Trung tâm đất nước dịch chuyển vào phía nam, thiết lập trên đất Quy Nhơn ( Bình Định). Kinh đô chính là thành Vijaya (Phật Thệ) hay còn được gọi là Chà Bàn (Đồ Bàn).Quan hệ bang giao được mở rộng với khu vực và với Trung Quốc.5. Giai đoạn phát triển thịnh đạt của vương quốc Champa (1220 – 1353):Sau cuộc chiến tranh trăm năm với Campuchia, vương quốc Champa phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Nhà vua Jaya Paramesvaravarman II là người có công lớn trong việc phục hưng này. Ông là người thân Ăngkor và có thái độ kỳ thị với Đại Việt.Đời vua thứ III của vương triều này là Indravarman IV đã củng cố quan hệ với Đại Việt và nhận được sự giúp đỡ của Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ (1282 – 1284).6. Giai đoạn khủng hoảng của vương quốc (1353 – 1693):Giai đoạn này được khởi đầu bằng một cuộc khủng hoảng chính trị trong triều đình, do việc Trà Hòa Bố Để (con rể của Chế A Nan cướp ngôi của Chế Mỗ). Dẫn đến chiến tranh kéo dài cả trong nước lẫn với các nước láng giềng. Dẫn đến nền kinh tế sa sút, đời sống nhân dân đói khổ, lãnh thổ bị thu hẹp dần do những cuộc chiến tranh dai dẳng và bị mất đất vào tay phong kiến nước ngoài.Năm 1693, vương quốc Champa hoàn toàn sụp đổ sau 12 thế kỷ tồn tại. II. KHÁI QUÁT VỀ NHÀ NƯỚC CHAMPA CỔ:1. Nhà nước Lâm Ấp ( thế kỷ II – thế kỷ VI):Theo Thủy kinh chú: Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng chỉ gọi là Lâm Ấp.Lương thư cho biết về nhà vua đầu tiên của Lâm Ấp là Khu Liên (có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Chữ Khu Liên có thể không phải tên người mà là sự chuyển âm từ cổ Kurung, có nghĩa là thủ lĩnh, vua…)Người Lâm Ấp có tài đi núi, quen ở nước, không quen đất bằng, làm nhà sàn để ở. Họ có phong tục, chữ viết giống Ấn Độ.Các khai quật khảo cổ năm 1927 của J. Y. Claeys cho thấy nhiều khả năng Trà Kiệu chính là Shinhapura và là kinh đô của Champa buổi đầu. Đây cũng là vùng quần cư lâu đời, có trình độ phát triển kinh tế – văn hóa cao.Các vua Champa nối tiếp Lâm Ấp đã cho xây dựng nhiều đền tháp ở Mỹ Sơn để thờ thần Srisana Bhadresvara.2. Thời kỳ Virapura hay Rajapura ( Hoàn Vương) từ năm 750 đến năm 866:Đây là thời kỳ vương triều miền Nam làm chủ đất nước. Thánh địa của Virapura có lẽ là Pô Nagar (nằm trên một quả núi nhỏ, nay thuộc địa phận Nha Trang, khánh Hòa?). Vương quốc Nam Chăm có thể là một tập hợp tiểu quốc, trong đó gồm có tiểu quốc Panduranga và tiểu quốc Kauthara.Về nguyên nhân trung tâm đất nước đột ngột chuyển từ Shinhapura về nam chăm đến nay vẫn là một bí ẩn, chưa có lời giải đáp.3. Thời kỳ Indrapura (Đồng Dương) từ năm 866 đến năm 982:Các nhà khoa học đã tìm được 20 minh văn cho biết về giai đoạn Đồng Dương với 12 đời vua kế tiếp nhau trị vì đất nước. Giai đoạn Đồng Dương là một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử Champa: có sự kết hợp giữa tiếp nhận Bàlamôn giáo và Phật giáo. Đồng Dương vừa là hoàng cung, vừa là đền, miếu thờ thần, phật.4. Nhà nước Champa thống nhất và phát triển (thế kỷ X – XIII):Trung tâm đất nước dịch chuyển vào phía nam, thiết lập trên đất Quy Nhơn ( Bình Định). Kinh đô chính là thành Vijaya (Phật Thệ) hay còn được gọi là Chà Bàn (Đồ Bàn).Quan hệ bang giao được mở rộng với khu vực và với Trung Quốc.5. Giai đoạn phát triển thịnh đạt của vương quốc Champa (1220 – 1353):Sau cuộc chiến tranh trăm năm với Campuchia, vương quốc Champa phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Nhà vua Jaya Paramesvaravarman II là người có công lớn trong việc phục hưng này. Ông là người thân Ăngkor và có thái độ kỳ thị với Đại Việt.Đời vua thứ III của vương triều này là Indravarman IV đã củng cố quan hệ với Đại Việt và nhận được sự giúp đỡ của Đại Việt trong cuộc kháng chiến chống Mông Cổ (1282 – 1284).6. Giai đoạn khủng hoảng của vương quốc (1353 – 1693):Giai đoạn này được khởi đầu bằng một cuộc khủng hoảng chính trị trong triều đình, do việc Trà Hòa Bố Để (con rể của Chế A Nan cướp ngôi của Chế Mỗ). Dẫn đến chiến tranh kéo dài cả trong nước lẫn với các nước láng giềng. Dẫn đến nền kinh tế sa sút, đời sống nhân dân đói khổ, lãnh thổ bị thu hẹp dần do những cuộc chiến tranh dai dẳng và bị mất đất vào tay phong kiến nước ngoài.Năm 1693, vương quốc Champa hoàn toàn sụp đổ sau 12 thế kỷ tồn tại. III. KHÁI QUÁT VỀ ĐỀN THÁP CHAMPA:1. Giới thiệu chung về tháp Champa:Theo quan niệm của người Chăm, đền tháp là nơi tôn nghiêm, linh thiêng, nơi cầu đáo thần linh, người dân bình thường không được lui tới, chỉ có những tu sỹ Bàlamôn, những người thuộc tầng lớp quý tộc Chăm mới được đến và cử hành lễ (Lê Tuấn Anh, 2004: 176) .Hầu hết các tháp Chăm đều xây dựng gần giống đền tháp ở Ấn Độ, Ăngkor (Campuchia) nằm trên những ngọn núi cao, bao quanh bởi đồi núi, được che chắn, bảo vệ bằng những thành lũy tự nhiên hiểm trở (giữa các đồi núi có thung lũng, sông , suối…).Đền tháp Champa thường đứng một mình (tháp Nhạn, tháp Thủ Thiện) hoặc được xây dựng thành cụm (khu đền tháp Mỹ Sơn). Kết cấu mỗi cụm gồm một đền thờ chính (Kalan), xung quanh có những đền nhỏ hoặc công trình phụ. Ngôi đền chính (thường nằm giữa một cụm đền tháp) tượng trưng cho núi Meru – trung tâm vũ trụ – là nơi hội tụ của thần linh nên được thờ một bộ Linga biểu tượng của thần Siva. Các đền tháp còn lại có công năng khác như tháp cổng (tháp Đồng Dương), có hai cửa thông nhau theo hướng đông – tây, đền phụ (miếu phụ) thờ các vị thần trông coi hướng trời, các công trình làm nơi chuẩn bị lể vật trước khi hành lễ hoặc kho cất giữ đồ tế lễ…Những tháp phụ thường có mái hình thuyền úp, lợp ngói hoặc ghép gạch (tháp phụ ở tháp Bánh Ít, Chiên Đàn). Đặc điểm đền thờ của người Chăm thường không có cửa sổ, nếu tháp nào có cửa sổ thì đó là công trình phụ (Lê Tuấn Anh, 2004: 181 – 182).Các đền tháp thường được gia cố phần đế móng khá kỹ bằng những lớp cát, đá cuội, đá dâm. Tường, mái là những viên gạch và những chi tiết trang trí bằng đá sa thạch được xếp khít với nhau, không nhìn thấy mạch vữa ở giữa. Dù thời tiết rất khắc nghiệt nhưng hàng nghìn năm qua mà những công trình này vẩn không bị lún, nứt hay đổ vỡ (chỉ bị sụp đổ do con người – chiến tranh, phá hủy…), không có rong rêu bám phủ trên tường tháp (trong khi những mảnh tường gạch mới được phục chế vào cuối thập kỷ 20 đã bị rêu bám). Cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào xác định được chính xác chất kết dính giữa các viên gạch hay các chi tiết bằng đá là gì (Lê Tuấn Anh, 2004: 182). Lueba (1923) cho rằng người Chăm đã dùng gạch mộc chồng khít lên nhau rồi nung toàn bộ tháp. Theo Ngô Văn Doanh (1978) thì vữa là nước cây xương rồng trộn với mật mía. Trần Kỳ Phương (1980) thì cho rằng đó là nhựa cây dầu rái. Hoặc được xây bằng vữa đất sét rồi nung lại (Awawrzenczak và Skibinski, 1987). Cũng có ý kiến cho tháp được xây bằng cách mài và xếp khít gạch (mài chập) (Trịnh Cao Tưởng, 1985 hoặc Nguyễn Văn Chỉnh) hay mài xếp phần vỏ và sử dụng vữa là bột mịn có độ nung như gạch xây tháp trộn với nước tạo nên (Lê Đình Phụng, 1990) (Hà Văn Tấn, 2002: 335) . Bên cạnh việc dùng nhựa cây, người Chăm còn dùng nhớt của các loại lá cây: ô dước, bời lời, dâm bụt,…(Trần Bá Việt, 2007: 96) . Các ý kiến trên đều có phần đúng nhưng vẫn chưa có ý kiến nào được giới khảo cổ học chấp nhận.Một ngôi tháp thường có kết cấu 3 phần: đế, thân và mái. Theo quan niệm của người Chăm, đế tháp tượng trưng cho đế thế giới trần tục; thân tháp tượng trưng cho thế giới tâm linh, nơi con người gột rửa bụi trần, thoát tục để tiếp xúc với tổ tiên và hòa nhập với thần linh; còn mái tháp thì tượng trưng cho thế giới thần linh.Đế tháp: thường được xây trên nền hình vuông hoặc hình chữ nhật, bằng gạch hoặc bằng đá phiến to (tháp B1 ở khu đền tháp Mỹ Sơn). Xung quanh đế được trang trí theo môtip hoa văn, hình con thú, hình người cầu nguyện đứng trong các vòm cuốn nhỏ, mặt quái vật (Kali), thủy quái (Makara) hay các vũ nữ, nhạc công…Thân tháp: thường được ghép hoàn toàn bằng gạch, tường rất dày (độ dày thường trên dười 1 mét), chiều cao ở mỗi đền tháp khác nhau. Cửa ra vào có trụ, lanh tô bằng đá. Mặt ngoài thân tháp được trang trí rất đa dạng: trụ áp tường, cửa giả thường có hình vòm cuốn mềm mại, bên trong vòm cuốn chạm rồi các hình trang trí, thường thấy là hình người đứng chắp tay cầu nguyện thành kính.Hầu hết các đền tháp có cửa chính quay về hướng đông (hướng của thần Sấm Sét Indra). Một số đền có cửa chính hướng tây hoặc thêm cửa hướng tây (hướng mà các vị vua Champa thường chọn cho mình khi rời cõi trần thế để về với sự thanh cao). Mặt tường phía trong lòng để trơn, ở những ngôi đền chính thường có một số ô trên tường làm nơi đặt đèn. Không gian trong đền chật chội, thiếu ánh sáng. Một đài thờ biểu tượng thần Siva (bộ Linga) đặt chính giữa nền, chiếm gần hết diện tích và chỉ chừa một lối hẹp xung quanh để hành lễ.Mái tháp: thường được cấu tạo nhiều tầng, càng lên cao càng thu hẹp. Ở nhiều đền tháp, tầng trên thường được mô phỏng đầy đủ cấu trúc cửa, các chi tiết như tầng dưới. Môtip trang trí rất đa dạng: tượng, vật cưỡi của các vị thần trong Ấn Độ giáo như: chim thần, ngỗng thần, bò thần, voi, sư tử…các đường gờ, cột ốp hay hoa văn. Tại các góc thường có mô hình tháp nhỏ hay vật trang trí phụ bằng đá hoặc gạch. Những tháp phụ, mái thường có hình thuyền úp, phần trang trí không cầu kỳ.Đỉnh mái có hai dạng, hình chóp nhọn và hình thuyền. Vật liệu làm đỉnh tháp có khi là một khối đá tạo thành hình chóp hoặc bằng gạch ghép lại (Lê Tuấn Anh, 2004 : 184 – 185).2. Giới thiệu phong cách tháp Champa:Dựa vào các yếu tố mỹ thuật trang trí trên tháp, sự thay đổi các kết cấu kiến trúc, sự xuất hiện hay mất đi của các môtip trang trí kết hợp với tài liệu liên quan như bia ký, thư tịch cổ,…mà các nhà nghiên cứu đã chia nghệ thuật trang trí tháp thành các phong cách khác nhau và vạch ra quá trình phát triển tương ứng với các thời kỳ lịch sử. H.Parmentier vừa dựa trên cấu trúc hình dáng vừa dựa trên môtip trang trí chia các tháp thành hai giai đoạn: Giai đoạn I từ thế kỷ V đến thế kỷ X bao gồm 3 giai đoạn nhỏ tương ứng với 3 phong cách: nghệ thuật nguyên sơ (art primitif), nghệ thuật hình khối (art cubique) và nghệ thuật hỗn hợp (art mixte). Giai đoạn II từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVII bao gồm 3 giai đoạn nhỏ tương ứng với 3 phong cách: nghệ thuật hình tháp (art pyramidal) (thế kỷ X – XII), nghệ thuật cổ điển (art classique) (thế kỷ XII – XIV), nghệ thuật phát sinh (art de’rivé) (thế kỷ XIV – XVII). L.Finot dựa vào tài liệu bia ký của các tháp, tư liệu lịch sử (mà chủ yếu là các triều đại nhà vua Champa) đã nêu lên 4 phong cách: Phong cách Cambhuvarman (thế kỷ V – VI), phong cách Prakacadharma (thế kỷ VI – IX), phong cách Harivarman I (thế kỷ X – XI), phong cách Harivarman II (thế kỷ XI – XIII) (Trần Bá Việt, 2007). Ph.Stern đã phân tích quá trình diễn biến của 8 yếu tố kiến trúc tháp là vòm cửa (réature), trụ tường hay gân tường (pilastre), dải trang trí (frise), cột nhỏ (colonnette), gờ đầu tường hay mái đua (corniche), hình điểm góc (pièces d’accent), cấu tạo trang trí góc (amorisements d’angle), mi cửa (linteau). Cùng với sự phát triển liên tục của các phong cách (đặc biệt coi trọng bước chuyển tiếp giữa các phong cách), ông nêu lên 6 phong cách nghệ thuật:  Phong cách Mỹ Sơn E1 (giữa thế kỷ VIII), tiêu biểu là tháp Mỹ Sơn E1, với bước chuyển tiếp là tháp Phú Hài.  Phong cách Hòa Lai (nửa đầu thế kỷ IX), tiêu biểu là tháp Hòa Lai, Pô Đam, Mỹ Sơn F1. Chuyển tiếp gồm Mỹ Sơn C7, C12, C13,… Phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ IX), tiêu biểu là Đồng Dương, Mỹ Sơn A10, A11. Chuyển tiếp : Khương Mỹ, Mỹ Sơn B2,… Phong cách Mỹ Sơn A1 (khoảng thế kỷ X), tiêu biểu là Mỹ Sơn A1, A2, C1, C2, B3, B5, D1, D4, Trà Kiệu,…Chuyển tiếp có Pô Nagar, Chánh lộ, Bình Lâm, Chiên Đàn. Phong cách Bình Định (khoảng thế kỷ XII – XIII), tiêu biểu là Tháp Bạc, Tháp Ngà, Hưng Thạnh, Mỹ Sơn G1, H, K,… Chuyển tiếp là Bình Định, Thủ Thiện, Tháp Đồng, Tháp Vàng. Phong cách Muộn (thế kỷ XIV – XVII), tiêu biểu có Pô Krông Garai, Pô Rôme, tháp Nam Pô Nagar, Yang Mun, Yang Prông,… Trần Kỳ Phương lấy tư liệu chính từ các tháp thánh địa Mỹ Sơn kết hợp với các nguồn tư liệu khác đã đưa 7 phong cách nghệ thuật tháp Champa: Phong cách Mỹ Sơn E1 (đầu thế kỷ VIII đến đầu thế kỷ IX), phong cách Hòa Lai (nửa đầu thế kỷ IX), phong cách Đồng Dương (giữa thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X), phong cách Mỹ Sơn A1 (thế kỷ X), phong cách Pô Nagar (thế kỷ XI), phong cách Bình Định (thế kỷ XII đến thế kỷ XIV), phong cách Muộn (thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII) (Hoàng Xuân Chinh, 2005: 453 – 455). Lê Tuấn Anh thì dựa vào đặc trưng nghệ thuật để phân thành 6 phong cách: phong cách Mỹ Sơn E1 (phong cách cổ) (xây dựng nửa đầu thế kỷ VIII), phong cách Hòa Lai (nửa đầu thế kỷ IX), phong cách Đồng Dương (giữa thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X), phong cách Mỹ Sơn A1 (xây dựng thế kỷ X), phong cách Pô Nagar (xây dựng thế kỷ XI), phong cách Bình Định và phong cách Muộn (xây dựng thế kỷ XII – XIII) (Lê Tuấn Anh, 2004: 188 – 199).Trong các cách phân loại trên, cách phân loại phong cách tháp Champa của Ph.Sern được giới khảo cổ học đồng thuận nhiều và đánh giá cao.Việc phân chia nghệ thuật tháp Champa thành các phong cách là vô cùng quan trọng nhưng cũng rất khó khăn, vì hầu hết các tháp đã qua nhiều lần tu sửa, thậm chí có tháp được xây dựng lại trên nền tháp cũ (tháp Nhạn), nhiều vật liệu cũ được sử dụng lại trong khi trùng tu nhưng cũng có khi phải dùng vật liệu mới. Nhiều phế tích tháp tuy bị đổ, nhưng phần đế, móng, bình đồ, các vật liệu kến trúc, các phù điêu, các họa tiết trang trí ẩn chứa nhiều tư liệu có giá trị cần được nghiên cứu kĩ. 3. Khu vực phân bố:Theo “Văn hoá cổ Chămpa”, tổng số tháp Champa trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay là 119 tháp (Ngô Văn Doanh, 2002) . Một số tháp đã bị sụp đổ, nay chỉ còn là phế tích, một số khác thì được trùng tu nhiều lần. Các tháp được phân bố thành 3 loại địa hình chính: vùng núi (từ Đèo Ngang trở vào), vùng cao nguyên (Tây Nguyên) và vùng ven biển (Trần Bá Việt, 2007) . Các tháp Chăm tiêu biểu chủ yếu phân bố ở 5 tiểu vùng theo địa lý (theo 5 tiểu quốc lớn của Champa xưa – từ Bắc đến Nam theo lãnh thổ Việt Nam): Indrapura – Bình Trị Thiên: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (Địa Lý, Bố Chính, Ma Linh xưa) có tháp Mỹ Khánh. Amaravati - Quảng Nam, Quảng Ngãi gồm có khu đền tháp Mỹ Sơn, tháp Bằng An, Khương Mỹ, Đồng Dương, Chiên Đàn. Viyaja – Bình Định, Phú Yên gồm tháp Bình Lâm, tháp Bánh Ít, Cánh Tiên, Phước Lộc, Hưng Thạnh, Thủ Thiện, Dương Long (Bình Định); tháp Nhạn (Phú Yên). Kauthara – Khánh Hòa có tháp Pô Nagar. Panduranga – Ninh Thuận, Bình Thuận gồm có tháp Hòa Lai, Pô Rôme, Pô Krông Garai (Ninh Thuận); tháp Pô Shanư, Pô Đam (Bình Thuận).Ngoài ra còn có tháp Yang Prông ở Đăk Lăk. Và các tháp khác phần bố khắp nơi trên mảnh đất miền Trung Việt Nam. IV. GIỚI THIỆU CÁC THÁP CHĂM TIÊU BIỂU:Khu đền tháp Mỹ Sơn Tháp Bánh ÍtTháp Hoà Lai Tháp NhạnTháp Bằng An Tháp Pô Rôme (Tháp Hậu Sanh)Tháp Bình Lâm Tháp Chiên Đàn Tháp Yang PrôngTháp Đồng Dương Tháp Dương LongTháp Khương Mỹ Tháp Phú Lốc (Tháp Phước Lộc)Tháp Mỹ Khánh Tháp Cánh TiênTháp Pô Đam (Pô Tằm) Tháp Đôi (Tháp Hưng Thạnh)Tháp Pô Nagar – Tháp Bà Nha Trang Tháp Pô Krông GaraiTháp Pô Shanư (tháp Phú Hài) Tháp Thủ ThiệnTheo khu vực phân bố ở trên, ta có:1. Tháp Mỹ Khánh: Toạ lạc ở thôn Mỹ Khánh, xã Phú Diên, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Huế khoảng 20 km về phía Đông Nam. Di tích được phát hiện tình cờ tháng 07/2001. Niên đại: vào thế kỷ VIII, là ngôi tháp Chăm cổ nhất thuộc phong cách tháp Mỹ Sơn E1.2. Khu đền tháp Mỹ Sơn: Nằm ở thung lũng Mỹ Sơn, xã Phú Duy, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 70 km về phía Tây Nam. Cụm di tích được H.Parmentier phát hiện năm 1898. Năm 1999, Mỹ Sơn được công nhận Di sản văn hoá Thế Giới. Khu di tích là một quần thể kiến trúc độc đáo, điển hình duy nhất, nghệ thuật kiến trúc mang dấu ấn của nhiều triều đại khác nhau, đại diện cho tất cả phong cách, tất cả giai đoạn lịch sử của kiến trúc tháp Champa.3. Tháp Bằng An: Thuộc làng Bằng An, xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng chừng 30 km về phía Nam.  Được xây dựng vào thế kỷ thứ X.4. Tháp Khương Mỹ: Thuộc làng Khương Mỹ, xã Tam Xuân, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam, cách thị xã Tam Kỳ 2km về phía Nam. Được xây dựng khoảng đầu thế kỷ X thuộc phong cách Khương Mỹ. 5. Tháp Đồng Dương: Thuộc làng Đồng Dương, xã Bình Định, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng 65 km về phía Tây Nam. Được vua Indravarman II xây dựng vào năm 877 giữa kinh đô Indrapura để thờ Laksmindora là Lesvara.  Có sự kết hợp giữa tiếp nhận Bàlamôn giáo và Phật giáo. Đồng Dương vừa là hoàng cung, vừa là đền, miếu thờ thần, phật.6. Tháp Chiên Đàn:  Thuộc làng Chiên Đàn, xã Tân An, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Ngãi, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 60 km về phía Nam. Được xây dựng vào thế kỷ thứ XI. 7. Tháp Bình Lâm: Nằm ở xóm Long Mai, thôn Bình Lâm, xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Được xây dựng vào thế kỷ thứ XI.8. Tháp Bánh Ít: Nằm ven QL1A, thôn Đại Lộc, xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ XI – đầu thế kỷ XII. Chuyển từ phong cách Mỹ Sơn A1 sang phong cách Bình Định.9. Tháp Cánh Tiên: Nằm trong trung tâm thành Đồ Bàn, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ XI – đầu thế kỷ XII. Là một trong một số ít tháp đẹp và còn khá nguyên vẹn. Tháp mang ảnh hưởng kiến trúc Khomer. 10. Tháp Phú Lốc (Phước Lộc): Thuộc làng Phước Lộc, xã Nhơn Lộc, tỉnh Bình Định.  Được xây dựng vào thế kỷ XIII. 11. Tháp Đôi (Hưng Thạnh): Nằm trong thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.  Được xây dựng vào thế kỷ XIII. Chịu ảnh hưởng nghệ thật Khơme thế kỷ XII. 12. Tháp Thủ Thiện: Nằm ở làng Thủ Thiện, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.  Được xây dựng vào thế kỷ XII.13. Tháp Dương Long: Nằm ở gò Dương Long, xã Tây Bình, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định.  Được xây dựng vào thế kỷ XIII.14. Tháp Nhạn: Nằm gần trung tâm thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.  Được xây dựng vào thế kỷ XII. Thuộc giai đoạn chuyển tiếp giữa phong cách Mỹ Sơn A1 và phong cách Bình Định.15. Tháp Pô Nagar (Tháp Bà Nha Trang): Nằm ven quốc lộ 1, cách thành phố Nha Trang 4 km về phía Bắc. Được xây dựng khoảng đầu thế kỷ IX đến thế kỷ XII. Đây là đến thờ Siva của Bàlamôn giáo, sau này trở thành thờ mẹ Xứ Sở – Pô Inư Nagar của vương quốc Champa.16. Tháp Hoà Lai: Nằm ven đường QL1A, làng Ba Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Được xây dựng vào thế kỷ IX. Những ngôi tháp Hòa Lai còn lại là những tác phẩm kiến trúc thuộc vào loại đẹp và cổ nhất Champa. Tháp có một bộ Linga – Yoni (cạnh 50cm) cao 30 cm cùng với những mặt tường phủ kín hoa văn, các hình Thiên nữ, người ngồi chắp tay và cả những hình Gajasimha, kala, nagar…, đã làm cho khu tháp tăng thêm giá trị nghệ thuật.17. Tháp Pô Krông Garai (Po Klaong Girai): Nằm trên đồi Trầu, thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố Phan Rang (Ninh Thuận) khoảng 7 km về hướng Tây Bắc.  Được xây dựng vào thế kỷ XIV. Tháp được lấy tên vị vua được thờ ở đây mà sử sách Đại Việt gọi là Chế Mân. Po Klaong Girai được đồng hóa với thần Siva, thể hiện tín ngưỡng thờ Thần – Vua của Champa thế kỷ XIV.18. Tháp Pô Rômê (Hậu Sanh): Thuộc xã Phú Quý, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.  Được xây dựng vào thế kỷ XVII theo phong cách Muộn. Là tháp gạch cuối cùng của người Chăm. Tháp thờ vị vua Pô Rômê (được tạc nổi trên tấm đá hình vòng cung trên mái tháp). Đức vua được Siva hóa có tám cánh tay ngồi giữa 2 con bò thần Nadin.19. Tháp Pô Shanư (Phú Hài): Nằm trên đồi Bà Nại, thôn Phú Hài, cách thành phố Phan Thiết 7 km về hướng Đông Bắc. Được xây dựng vào thế kỷ IX, là cực nam của vương quốc Chămpa. Hình khối và các trang trí đơn giản, ít điêu khắc, có những nét gần với kiểu tháp Khomer thời Chân Lạp. 20. Tháp Pô Đam: Nằm trên sườn núi Ông Xiêm ở làng Tuy Tịnh, xã Phong Phú, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận. Được xây dựng vào thế kỷ IX. Thuộc phong cách Hòa Lai.21. Tháp Yang Prông: Nằm bên dòng sông Ea Leo, xã Ea Rok, huyện Ea Súp, Đắk Lắk. Được vua SimhavarmanIII xây dựng vào cuối thế kỷ XIII. Phía đông thân tháp được gắn vào một Gopura. V. KẾT LUẬN:“The age-old relics of art and culture of a people is the embodiment of the past of that people, and also is a part of the past of mankind. Mankind needs this past to contemplate on themselves and others. Art and culture is like a mirror reflecting history, humanity or inhumanity; thus mankind of any era and any culture to appreciate its universal beauty”.“Những dấu tích văn hóa, nghệ thuật thuộc những thời đại xa xưa của một dân tộc là hiện thân của cái dĩ vãng của dân tộc đó, đồng thời cũng là một phần dĩ vãng của nhân lọai. Con người cần cái dĩ vãng đó để nhìn lại mình và kẻ khác. Nó như một tấm gương, nhìn vào đó người ta thấy được lịch sử, thấy được nét nhân bản, hay không nhân bản, trong một nền văn hóa, nghệ thuật, và từ đó nhận ra được những cái đẹp phổ biến, mà một con người dù ở thời đại nào, thuộc nền văn hóa nào, cũng đều có thể cảm thụ được”) (“Di sản nghệ thuật Chăm” – Phạm Ngọc Tới ( nhà nghiên cứu nghệ thuật) – Pari – Pháp).VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:Sách:1. Lê Tuấn Anh (chủ biên), “Di sản thế giới ở Việt Nam”, Trung tâm Công nghệ Thông tin Du lịch, Hà Nội – 2004.2. Hoàng Xuân Chinh, “Các nền văn hóa cổ Việt Nam (từ thời nguyên thủy đến thế kỷ 19)”, NXB Lao Động, Hà Nội – 2005.3. Ngô Văn Doanh, “Văn hoá cổ Chămpa”, NXB Văn hoá dân tộc – 2002.4. Ngô Văn Doanh – Nguyễn Thế Thục, “Điêu khắc Chămpa”, NXB Thông Tấn – 2004.5. Nguyễn Văn Kự, “Di sản văn hoá Chăm” (“Heritage of Chăm Culture”), NXB Thế Giới, Hà Nội – 2007.6. Gs. Hà Văn Tấn (chủ biên), “Khảo cổ học Việt Nam – tập III – Khảo cổ học lịch sử Việt Nam”, NXB KHXH, Hà Nội – 2002.7. Trần Bá Việt (chủ biên), “Đền tháp Chămpa – bí ẩn xây dựng”, NXB Xây Dựng, Hà Nội – 2007.8. Trần Quốc Vượng – Hà Văn Tấn – Diệp Đình Hoa, “Cơ sở khảo cổ học”, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.Internet:1. Nguyễn Duy Chính, “Núi xanh nay vẫn đó…”2. http://dulich.tuoitre.com.vn.3. www.vietnamtourism.com.4. http://vi.wikipedia.orgVII. PHỤ LỤC:Một số bản đồ nhà nước Champa cổ v&agr
0 Rating 1.4k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 27, 2012
    MỞ ĐẦU Trong lịch sử hình thành và phát triển của của nền văn hóa Việt Nam đa dân tộc, văn hóa của người Chăm chiếm một vị trí đáng chú ý.Văn hóa Chăm nó không chỉ được coi như là một biểu hiện về tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, mà còn góp phần tạo nên một sắc thái riêng trong văn hóa dân tộc. Với đức tính thông minh, cần cù, và sáng tạo, người Chăm đã tạo ra cho mình một nền văn hóa hết sức độc đáo và phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn học. Đối với văn học của Chămpa thì đó là một nền văn học như thế nào, diện mạo của nó ra sao,và có những nét đặc sắc gì ? Nó đă có nhưng đóng góp gì vào lịch sử văn học Việt Nam ? Đó chính là những câu hỏi mà chúng ta cần giải quyết để góp phần vào việc tìm hiểu và khôi phục lại bức tranh văn học của người Chăm. B . NỘI DUNG Nền văn hóa Chămpa là sản phẩm mang tính tổng hòa mối quan hệ của các nền văn hoá khác nhau, thông qua giao lưu tiếp xúc giữa các nền văn hóa trong khu vực cũng như trong cùng một quốc gia đa dân tộc. Nó là sự hòa quyện, thống nhất của nhiều nền văn hóa đã tạo nên một nền văn hóa Chăm phong phú và đa dạng trên nhiều lĩnh vực. Góp phần vào sự đóng góp cho nền văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung. Trong tất cả các lĩnh vực văn hóa cũng như nghệ thuật thì văn học cũng là một lĩnh vực không thể không nhắc đến trong quá trình hình thành và phát triển của một dân tộc, nó là một lĩnh vực mang tính đa dạng của tổng thể các thể loại như thần thoại, ca dao, dân ca hay trong những câu chuyện dân gian hay trong thơ. Có chứa đựng trong các văn bia hay trong bài tụng kinh với nhiều sắc thái khác nhau, để tạo nên một nền văn hoc Chăm có đặc trưng riêng biệt.   2. Văn học Chăm  2.1 Các thời kỳ phát triển của văn học Về lịch sử văn học Chămpa chúng ta có thể chia thành ba thời kỳ. Trước một thực tế là hầu hết các tác phẩm văn học Chăm không có tên tác giả và không xác định được niên đại rõ ràng, chính vì vậy mà việc xác định các thời kỳ phát triển của văn học Chăm phải dựa vào lịch sử của dân tộc Chăm. Văn học Chămpa được chia thành ba thời kỳ đó là:  -  Văn học Chăm thời kỳ độc lập tự chủ (từ TK II đến TK X). Đây là thời kỳ hình thành và phát triển hùng mạnh của vương quốc Chămpa. Nhà nước Chămpa là một nhà nước có chủ quyền và có sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế trong khu vực. Xã hội ổn định và phát triển, tôn giáo hưng thịnh. Do đó,các tác phẩm văn học thời kỳ này có nội dung thường ca ngợi con người và đất nước Chămpa, ca ngợi công lao của các bậc đế vương, các chiến công quân sự, tôn vinh thần linh và tôn giáo… Văn học thời kỳ này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Ân Độ và của Hồi giáo. Các thể loại tiêu biểu là các văn bia ký, sử thi, truyện kể, tụng thi…Các tác phẩm hầu như không có tên tác giả.      -  Văn học Chăm thời kỳ trong thời kỳ khủng hoảng, mâu thuẫn nội bộ, từng bước bị xâm lược thôn tính và biến mất trên bản đồ Việt Nam của vương quốc Chămpa (TK XI đến TK XIX). Trước áp lực của Đại Việt ở phía Bắc và của Chân Lạp ở phía Nam, trong khi đó tình hình nội bộ vương quốc Chăm lại diễn ra những mâu thuẫn, tranh giành quyền lực...đã làm cho đất nước Chăm suy yếu dần. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV (tương đương với thời Lý, Trần, Lê của Đại Việt), Chămpa bắt đầu bị thôn tính và sát nhập từng phần vào Đại Việt và cho đến thế kỷ XIX với việc nhà Nguyễn hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước, đã xóa bỏ hoàn toàn hình ảnh của vương quốc Chămpa. Đây cũng là mạt kỳ của văn hóa và văn học Chămpa cổ. Văn hóa truyền thống bị mai một. Tôn giáo Balamôn, Hồi giáo bị khống chế và thu hẹp phạm vi, cộng đồng người Chăm tan rã, phải trốn chạy phiêu tán. Do đó văn học thời kỳ này tiếp tục các cảm hứng về thần linh và tôn giáo, về đời sống của các đế vương, vì những mối tình bất hạnh vì tôn giáo và cường quyền, những bài ca về con người, đất nước, những bài học giáo lý, hay những nỗi đau của người Chăm mất nước, những gia đình ly tán, những bất công đọa đày... Đối với văn học viết với thể loại bia ký, ngoài ra là những văn bản chép tay các sử thi, trường ca trữ tình thơ triết lý các truyện kể... mà hầu như cũng không có tên tác giả.   -  Văn học Chăm thời kỳ cận hiện đại (được tính từ đầu thế kỷ XX cho đến nay). Nhiều lĩnh vực văn hóa của  người Chăm được khôi phục và phát triển. Về mặt văn học có thể thấy rõ trên hai lĩnh vực đó là: việc sưu tầm, nghiên cứu và giới thiệu vốn văn học Chăm truyền thống của một số nhà nghiên cứu văn hóa Chăm. Thứ hai là các sáng tác văn học Chăm hiện đại bằng tiếng Việt và tiếng Chăm. Tuy nhiên những sáng tác văn học này vẫn chưa thật sự nêu bật bản săc của dân tộc này như các tác phẩm văn học thời kỳ trước đó. Văn học Chăm thời kỳ cận hiện đại đã và đang hòa mình vào trong nền văn học của dân tộc.  2.2. Các bộ phận cấu thành văn học Chăm 2.2.1. Văn học dân gian Trong kho tàng văn hóa dân gian của một dân tộc thì văn học dân gian, hay còn gọi là văn học truyền miệng có một vị trí đặc biệt. Một mặt nó luôn gắn bó với các bộ phận văn hóa dân gian khác như dân ca, dân nhạc, dân vũ …mặc khác nó lại có mối liên hệ với văn học viết của dân tộc đó. Bàn về lĩnh vực này, các nhà nghiên cứu văn học dân gian viết: “Văn học dân gian chia làm hai bộ phận lớn: truyện và thơ ca. Truyện gồm có thần thoại, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười. Thơ ca gồm tục ngữ, ca dao và dân ca”. Được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, các sản phẩm của văn học dân gian được chắt lọc dần dần để ngày càng uyển chuyển, linh động, giản dị và điển hình hơn về mặt hình ảnh và phong cách nghệ thuật để có thể phản ánh tốt nhất cuộc sống đa dạng của cộng đồng. Có thể xem đây là đặc điểm hàng đầu của văn học dân gian. Văn học dân gian Chăm cũng mang những đặc điểm của văn học dân gian nói chung.   *  Thần thoại Chăm   Điểm đặc biệt trong thần thoại Chăm là yếu tố bên ngoài như ảnh hưởng của thần thoại Ấn Độ thường rất ít hoặc đa số bị bản địa hóa. Số lượng thần thoại Chăm còn lưu truyền rất ít ỏi, có thể nói chúng chỉ là những mảnh vụn của một hệ thống đã bị thất truyền. Sự thất truyền này có thể do rất nhiều nguyên nhân nhưng có lẽ nguyên nhân lớn nhất là do những biến động của lịch sử  vương quốc Chăm. Mười bảy thế kỉ chiến tranh liên miên đã làm cho người Chăm khó bảo tồn được vốn cổ văn hóa của mình, hơn nữa đời sống văn học Chăm gần như chưa hề trải qua kĩ thuật in ấn nên thần thoại Chăm cũng như toàn bộ kho tàng truyện cổ Chăm đã không được ghi chép kịp thời. Cũng tương tự như thần thoại Việt, thần thoại Chăm không được ghi chép lại trong một hình thức thơ ca ổn định, các câu chuyện chỉ được kể lại qua những điều truyền tụng của nhân dân, có khi được chép lại trong những thư tịch cổ của các gia đình nhưng phần nhiều đã bị pha tạp và "tam sao thất bản". Chỉ có ba truyện sưu tầm được là một số lượng quá ít để hình dung ra diện mạo của hệ thống thần thoại Chăm. Tuy nhiên qua ba truyện còn sót lại chúng ta vẫn nhận thấy có những loại truyện, môtip truyện khá phổ biến trong thần thoại thế giới và thần thoại ở khu vực Đông Nam Á. Đó là những môtip truyện kể về nguồn gốc thủy tổ của loài người, phản ánh sinh hoạt, tín ngưỡng hay lí giải một số hiện tượng, sự vật của người Chăm cổ. Đặc biệt thần thoại về Po inư nưgar có thể coi là một hệ thống bao gồm nhiều truyện kết hợp lại, đó là các truyện về nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc một số sinh vật, sự vật hiện tượng, nguồn gốc tín ngưỡng, phong tục văn hóa, tôn giáo của người Chăm cổ. Một số môtip thần thoại phổ biến còn lại trong các thần thoại Chăm đó là:  -   Môtip nhiều mặt trời chỉ còn lại một  Truyện Po inư nưgar kể rằng: "Thuở sơ khai vũ trụ có 12 mặt trời, nhiều mặt trời quá, sức nóng rất lớn, vạn vật không phát sinh được. Thánh Nơmaisơbaicadong giương cung bắn tan các mặt trời, vạn vật trở nên tăm tối". Truyện Sự tích gà gáy sáng kể chi tiết hơn: "Thuở sơ khai trái đất có 12 mặt trời do đó khí hậu vô cùng nóng bức và khó chịu. Vị chúa của quỷ Satăng là Mưnưmassibaikayông đã lấy trộm cái nỏ thần tên vàng trên ngực vị thánh Pôkuh bắn tan hết 11 mặt trời, chỉ có một mặt trời chạy thoát. Trái đất trở nên mờ mịt, tối tăm và hỗn loạn. Thánh Pôkuh phải nhờ gà, vịt đi gọi mặt trời trở lại. Từ đấy trái đất được chiếu sáng một cách hòa dịu, mát mẻ chứ không gay gắt như xưa"   Hầu hết thần thoại các nước đều có nói đến hiện tượng đa mặt trời và các mặt trời dư thừa dần dần bị bắn rụng. Thần thoại Hán có Hậu Nghệ bắn rụng 9 mặt trời. Sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước của người Mường có họ nhà Ngao dùng tên bắn rụng 8 mặt trời. Thần thoại các tộc người Thái, Mèo, Tày đều có chi tiết bắn mặt trời. Đối với nhiều dân tộc, mặt trời nếu không được coi như một vị thần thì cũng là một biểu tượng của thần linh. Mặt trời còn có thể được coi như là con trai của vị thần tối cao và là người anh em của cầu vồng. Mặt trời là nguồn ánh sáng, sức nóng, là nguồn ban phát khả năng sinh sản. Kinh sách của đạo Hinđu, coi mặt trời là nguồn gốc của mọi cái tồn tại, là khởi nguyên và cũng là chung cực của mọi dạng biểu hiện. Mặt trời bất tử mọc lên mỗi buổi sáng và lặn mỗi buổi tối xuống vương quốc của những người chết; do đó nó có thể kéo những người theo mình và giết chết khi lặn. Như vậy dưới một dạng vẻ khác, mặt trời là kẻ phá hoại, là nguyên nhân của sự khô khan, chết chóc. Sự sinh sản và sự phá hủy có tính cách chu kì của mặt trời được biểu hiện bởi sự luân phiên sống-chết-tái sinh của sự vật, hiện tượng.   Trong quan niệm của các dân tộc cổ xưa cho rằng vạn vật ngay từ thuở khai sinh lập địa đã không được hoàn thiện và ý tưởng cải tạo thiên nhiên đã bắt đầu từ đó. Đối với người Chăm cổ cũng vậy, bằng kinh nghiệm thực tiễn họ thấy mặt trời có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của họ. Mặt trời là hiện tượng khởi đầu cho mọi hoạt động của con người, là ánh sáng, là ban ngày. Có mặt trời mới có sự sống, sự sinh thành. Không có mặt trời chỉ có bóng tối âm u, mù mịt, lạnh lẽo, mọi vật hỗn loạn. Không thể thiếu mặt trời mà lại có sự sống, bởi vậy bao giờ cũng phải còn lại một dù là dưới dạng đi trốn. Ở đây lại xuất hiện thêm một nhân vật đi gọi mặt trời đó là loài gà. Quan niệm này của người Chăm trùng hợp với nhiều quan niệm của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á. Sự liên hệ gà gáy thì mặt trời mọc buổi sáng đã dẫn đến quan niệm cho rằng gà là con vật linh thiêng. Như vậy trên phương diện ngữ nghĩa, mặt trời là tín hiệu ngữ nghĩa về thời gian, sự sống và ánh sáng thì hình tượng con gà đi gọi mặt trời có chức năng đánh thức mặt trời, khơi lên nguồn sáng, và mới có sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Mo Đẻ Đất Đẻ Nước của người Mường cũng có chi tiết gà đi gọi mặt trời. Trong tín ngưỡng của người Chăm và nhiều dân tộc khác, gà còn là vật để hiến tế trời đất, để cúng gia tiên.       -   Môtip cây   Môtip cây là một trong những biểu tượng phong phú, phổ biến. Môtip cây cũng có trong thần thoại cổ của nhiều dân tộc ở Đông Nam Á. Người Mường có cây si, người Êđê có cây smusk, người Lào có cây khưa khẩu cạc, người Việt có cây chiên đàn, cây mộc sanh…Còn trong thần thoại Pônaga của người Chăm, thì nhắc đến loài cây Môsi ra đời. Ta thấy Môsi ở thần thoại Pônaga không được mô tả kĩ như cây thần thoại ở thần thoại của các dân tộc khác.  Cây Môsi không được mô tả kĩ có lẽ vì thần thoại Pônaga đã bị tách khỏi môi trường sống cổ xưa của nó, tồn tại như một thể loại của văn học dân gian, được ghi chép thành văn và có một cuộc sống tương đối độc lập như nhiều thần thoại của dân tộc Việt chứ không còn sống ngay trong sinh hoạt cộng đồng, tồn tại với dạng một tổng thể hỗn hợp các yếu tố văn hóa của dân tộc (bao gồm các loại tín ngưỡng, các loại nghi lễ thờ cúng, các hình thức diễn kể, các loại hình sinh hoạt ca hát, nhảy múa…). Có lẽ do đặc điểm lịch sử của tộc người, chiến tranh liên miên cộng với việc phải liên tục thay đổi địa bàn cư trú. Cây Môsi trong thần thoại Pônaga chỉ được mô tả ngắn gọn là "vòi vọi cao lớn" nghĩa là tồn tại ở dạng thức cô đọng nhất về tầm vóc vũ trụ của mình.  Hình tượng cây ở môtip này thường hình thành theo trình tự từ sự xuất hiện đến chết chóc.             -  Môtip về người kiến tạo vũ trụ   Đây là môtip không chỉ phổ biến ở Đông Nam Á mà trên toàn thế giới. Thường người kiến tạo vũ trụ là đôi thần nam nữ: người Hilạp có Caốt Gaia, người Việt có Ông Đùng - Bà Đà, người Thái có vợ chồng Ải Lật Cậc…  Thần thoại Pônaga của người Chăm kể rằng: thuở sơ khai, vũ trụ có 12 mặt trời và 12 mặt trăng, đất còn mỏng mảnh, trời thì thấp và chưa có người. Mãi tới giờ thứ 3, ngày thứ hai, tháng 6 năm con chuột bà Átmêhưcát mới bắt đầu trông coi vạn vật… sau thánh Nơmaisơbaicadong bắn tan các mặt trời, vũ trụ u tối, đó là mạt thế.   Đến ngày thứ 2, mồng 6, tháng 5, năm con chuột, ông Âuloahú thụ sắc bà Átmêhưcát ra đời làm công việc tạo thiên lập địa. Ông hóa ra ông Mưhămmách. Ông Mưhămmách sinh ra ông Dilraiel, Ông Dilraiel sinh ra ông Ibarmaminmư trị vì đất đai của ông Âuloahú. Khi ông Atầm và bà Haooa chết đi tất cả lại tiêu tan hết chỉ còn lại cây Môsi cao vòi vọi.  Ngày thứ 3, mồng 6, tháng 2, năm con trâu ông Âuloahú lại từ cây Môsi ra đời lo khai quang nhật nguyệt và tái tạo vạn vật. Đến năm con dê ông sai con gái đầu lòng bà Mú Dụ xuống trần gian cai quản vạn vật, Mú Dụ chính là bà Nưgar.   Ta thấy môtip người kiến tạo vũ trụ của người Chăm có phần khác biệt so với thần thoại của các dân tộc khác. Người kiến tạo vũ trụ của người Chăm không phải là đôi thần nam nữ cùng thế hệ song song thực hiện công việc này như thường thấy mà theo phả hệ của thần thoại Chăm là bốn thế hệ lần lượt thay nhau thực hiện công việc này.Thuở sơ khai, bà Átmêhưcát trông coi vạn vật, khi mặt trời bị bắn rụng, vũ trụ u tối, đó là mạt thế hay nói cách khác là chấm dứt một giai đoạn. Thế hệ thứ hai là ông Âuloahú thụ sắc bà Átmêhưcát tạo thiên lập địa, lại cho sáng sủa hơn, sau đó tất cả lại tiêu tan hết, chỉ còn lại cây Môsi cao vòi vọi. Thế hệ thứ ba vẫn là ông Âuloahú phục sinh từ cây Môsi, sau khi khai quang nhật nguyệt, tái tạo vạn vật, ông sai con gái đầu lòng - thế hệ thứ tư - là bà Nưgar thay ông cai quản vạn vật. như vậy các nhân vật kiến tạo vũ trụ của thần thoại Chăm chỉ là các đơn thần chứ không phải đôi thần nam-nữ như thường thấy. Các đơn thần này tự sinh, tự hóa rồi lại tự phục hồi, có nghĩa là trong bản thể các vị thần này chưa có sự phân chia đầu tiên của vũ trụ, sự phân chia âm - dương, nam - nữ, chưa có Adam và Eva. Bà Átmêhưcát, ông Âuloahú là những con người lưỡng tính như Shiva, một thần linh lưỡng tính, do được đồng nhất với bản nguyên vô hình của thế giới hữu hình hay được khắc họa ôm chặt lấy Shakti là sức mạnh của bản thân mình, được biểu hình như một nữ thần. Đây là một môtip cổ xưa nhất, nguyên thủy nhất trong thần thoại thế giới. Như vậy cũng có thể khẳng định nó là môtip nguyên thủy nhất của thần thoại Chăm còn được lưu giữ đến ngày nay dù đã trải qua rất nhiều sự pha trộn các yếu tố của đời sau thêm thắt vào. Trong thần thoại, tín nguỡng và trong tâm khảm người dân Chăm thì Pônaga đóng một vai trò rất quan trọng, là bà mẹ của xứ sở, bà có chức năng như một đấng tạo hóa tạo dựng nên vũ trụ, xếp đặt lại vũ trụ, sáng tạo nên các thuần phong mĩ tục và truyền nghề cho người dân Chăm. Như vậy rất có thể hình tượng ông Âuloahú trong môtip này là một yếu tố mà đời sau thêm thắt vào khi Hồi giáo đã xâm nhập vào đời sống của người dân Chăm, cái tên Âuloahú có thể là một tên thánh của đạo Hồi chứ không phải là một cái tên có nguồn gốc Chăm nguyên thủy. Hơn nữa người Chăm theo chế độ mẫu hệ, nên trình tự từ bà Átmêhưcát đến bà Nưgar có lẽ là quá trình phát triển hợp lí nguyên thủy của môtip này. Sau đó trong thần thoại không thấy nhắc đến vai trò của ông Âuloahú và trong tín ngưỡng, lễ hội cũng như các đền tháp của người Chăm cũng không thấy xuất hiện hình tượng ông Âuloahú.   Là một tộc người cổ xưa, có chữ viết khá sớm nhưng văn học chủ yếu là văn học dân gian, sự thất truyền, sự pha tạp, nạn ''tam sao thất bản'' của các thần thoại dẫn đến tình trạng hết sức khó khăn trong việc xác định một diện mạo hoàn chỉnh cho hệ thống thần thoại Chăm. Tuy nhiên những mảnh vụn còn giữ lại được là những môtip thần thoại rất đặc trưng, có thể cho ta khái niệm xâu chuỗi về một số thần thoại suy nguyên. Những bức tranh ghép mảnh các huyền thoại về thời kì khai thiên lập địa làm cho ta hình dung một kích thước kì vĩ, hoành tráng vừa có tính bản địa, vừa có tính nhân loại phổ quát của thần thoại Chăm, chứng tỏ người Chăm có cùng một trình độ tư duy, cùng một cơ tầng văn hóa với các tộc người không chỉ trong khu vực Đông Nam Á mà cả trên toàn thế giới. Điều đó được dọi sáng bởi các môtip cơ bản và phổ biến của folklore. Từ các môtip này các mảnh vụn thần thoại Chăm trở thành những lát cắt của lịch sử văn hóa và tư duy người Chăm cổ. *   Truyện cổ tích Chăm   Giống với truyện cổ tích của người Việt, truyện cổ tích của người Chăm rất phong phú mang nhiều nội dung khác nhau:   -  Thứ nhất là những truyện mang tính chất  giải thích với ẩn ý giáo dục như truyện con hổ có nhiều đốm vằn vện là hậu quả của sự ngu ngốc, truyện con vịt không ấp trứng chỉ là phần thưởng cho đức hi sinh.   - Thứ hai là là những truyện mang tính chất giải thích những hiện tượng đã có trong thiên nhiên như màu lông sặc sỡ của loài công hay màu đen thui của con quạ (Truyện Quạ, Dông và Công). Lý do trái bầu có eo ở khúc giữa hay lá chuối có đường rãnh (Truyền thuyết về Ppo Klaung Girai).   - Thứ ba là các câu truyện cổ tích nói về nguyên nhân ra đời của phong tục tập quán dân tộc Chăm như tại sao người Chăm Bà-la-môn kiêng thịt bò (Bà thần Kapil), tín đồ Bàni không được uống rượu…  Nhìn chung trong truyện cổ tích Chăm có nhiều điểm tương đồng với truyện cổ tích Việt Nam như truyện “con công và quạ”. Trong dân gian Việt Nam truyền tụng truyện trạng Quỳnh thì truyện cổ tích Chăm cũng có diễn tả thực tài tình trí thông minh láu lỉnh như chùm truyện về Trạng Con (ám chỉ Ppo Klaung Girai) đấu trí với quan quân của triều đình, đánh lừa các sứ giả vượt qua tất cả những thử thách của nhà vua, đã làm cho nhiều thế hệ Chăm thán phục. Blơk blơng amư (Chúa nói dối) đã khiến cho người đọc cười suốt từ đầu đến cuối câu truyện không chỉ do yếu tố gây cười ở cốt truyện mà chính là bởi trí thông minh sắc sảo của chàng trai lãng tử.  *  Ca dao, tục ngữ Nếu như trong ca dao Việt, hình ảnh phụ nữ thường được ví với thân cái cò. Cái cò giữa mênh mông đồng bằng Bắc bộ ngày xưa hay Nam bộ ngày nay, cái cò bên bờ sông, trong ruộng lúa, trên bãi cạn… - Con cò lặn lội bờ sông - Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non… - Cái cò đi đón cơn mưa - Tối tăm mù mịt ai đưa cò về… Thì cùng nỗi cô đơn ấy, cũng hoàn cảnh và tâm trạng ấy, nhưng môi trường sinh hoạt của phụ nữ Chăm lại khác biệt hẳn. Khúc ruột miền Trung mà đồng ruộng chỉ như một dải mặt phẳng mảnh mai, mơ hồ nằm vắt ngang qua với một bên là biển khơi, bên kia là rừng núi. Bởi thế, khi không được tung hoành biển cả như đàn ông, phụ nữ Chăm luôn gắn thân phận mình với rừng núi. Dù rừng có ban phát cái độ nhật: Bbơng bauh kayuw, liah ia kakwơr (Ăn trái rừng đỡ đói, liếm sương đêm qua ngày) Nhưng rừng luôn thâm u: Ơk kuw nau mưk danin Glai lin tapin tian anưk kuw lipa (Đói, ta đi kiếm củ nần Rừng núi mịt mùng cho đôi con ta) Và đầy dọa nạt: Cơk glaung rimaung hơm hơm (Núi cao hơi thú rợn người)  Ai có một lần đi vào rừng mới thấy hết cái dọa nạt kỳ lạ của rừng khi rừng về chiều. Thanh âm của rừng đồng loạt trỗi dậy. Một sinh thể bé nhỏ gắn chặt với bao la núi rừng, phụ nữ Chăm ra đi vào sớm mai với sự tự tin thế nào thì khi trở về lúc chiều tối trong nỗi bất an và lo sợ như thế. Aw taik di drei, bbuk klauh di glai (Manh áo rách trên thân mình, Sợi tóc đứt vương cây rừng) Nhưng rồi, họ lại phải ra đi vào ngày mai. Cái cơ cực luôn có mặt. Cơ cực bởi đa mang: Dom siam ra mưk đung ba Tamuh rak hala mưng jiơng bingu O khin paik đa ka rayuw O khin kauh dahluw đa ka lihik (Ngọt lành ta nhận cưu mang Bao công vun xới mới đâm cành trổ bông Không dám hái sợ úa tàn Không đành ngắt ngại mất oan giống loài). Người Chăm theo chế độ mẫu hệ nên người ta dễ lầm tưởng rằng chế độ gia đình này luôn ưu ái phụ nữ. Không hoàn toàn như thế! Trong Ariya Patauw Adat Kamei hay Kabbon Muk Thruh Palei, Bà tổ phụ luôn chất lên vai phụ nữ Chăm nhiều gánh nặng trách nhiệm, với chồng con trong gia đình và cả ngoài xã hội: Hadip krah ngap hadah bbauk pathang (Vợ sáng làm sang mặt chồng) Còn ở ca dao, trong tình yêu đôi lứa, chúng ta chỉ thấy con gái Chăm thường nhận thiệt thòi về phần mình, luôn cưu mang tình yêu với sự bao dung độ lượng: Hajan juk ppahik khơn đung Đa ka rabbung nhjơp bauh hajan Hajan mai kuw mưk đon tah Đa ka taprah gauk cei rabbung (Mưa đen, em xóe khăn bọc E cho người tình phải giọt mưa rơi Mưa, em gạt với nón cơi Kẻo mưa giọt lạnh bay rơi trúng chàng) Cuộc tình có thể là không may mắn – bởi hố cách ngăn tôn giáo quá lớn lao (Cam – Bani karei ia: Chăm – Bàni khác nước), bởi tàn dư chế độ tập cấp Bàlamôn hay bởi muôn ngàn hệ lụy khác mà những cặp tình nhân Chăm không thể hiểu – đã dẫn đến đổ vỡ, chia ly và cái chết. Nhưng tấm lòng thủy chung thì mãi mãi còn lại. Bởi thế, dù trong văn chương Chăm luôn hiện diện sự dằn xé, u uất của nỗi người đằng sau cái bất trắc của cõi vô thường, nhưng bao giờ nhân bản tính cũng bao trùm ấm áp. Trung thành với chàng trai Bàni, cô gái Chăm đã phải chịu bao trận đòn roi, bao điều sỉ nhục để cuối cùng chỉ nhận lấy cái chết. Một sự bù đắp muộn màng: Chàng trai Bàni – sau khi sáng tác một trường ca kể lại cuộc tình này – đã nhảy vào giàn lửa để tìm hạnh phúc cùng nhau ở thế giới bên kia. Trong một tác phẩm khác, Mưh Rat đã vào núi ẩn tu khi trái tim nàng không được đáp ứng bởi một Sah Pakei quy phái, kiêu kỳ. Có thể nói, đó là phong cách của các sáng tác bác học. Ở giới bình dân, dù tình yêu có chung nồng độ đó: Anit amaik amư bbiah min Anit ai mưdin anit klauh prưn (Thương cha thương mẹ vừa thôi Thương anh như muốn đứt đôi lá lòng) Nhưng phản ứng của các cô gái Chăm ở đây vừa phải hơn, chừng mực hơn: Kak tian kuw bbơng nhjơm phik Cang ppo lingik jai mai wơk taum (Ăn rau đắng nén nỗi lòng Gió xô sum hợp chỉ còn mong ơn trời) Tình yêu có mất đi, cô gái cũng chỉ ví thân mình như “con cua lột gãy càng” (arieng mat jauh ginraung) – nhận và yêu mệnh: Urang yuw padai, klaung yuw ralơng (Người ta như hạt thóc tròn Con như lúa lép còn mong nỗi gì) 2.2.2. Văn bia kí Văn bia kí được sáng tác từ thế kỷ III đến thế kỷ XV bằng cả hai thứ ngôn ngữ là văn tự Chăm cổ và Sanskrit, có mặt khắp miền duyên hải Trung Bộ. Văn bia Chăm Pa là một mảng quan trọng của văn học Chăm Pa, các bia ký Chăm Pa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo thể thơ của Ấn Độ, văn học Ấn Độ qua hình thức truyền khẩu trong dân gian cũng có mặt tại Chăm Pa. 2.2.3. Văn học viết Người Chăm biết sử dụng chữ viết từ khá sớm. Văn học vừa là nhân vừa là quả của ngôn ngữ - tư duy Chăm, cả tư duy bình dân lẫn tư duy bác học (tư duy phức hợp, tư duy trừu tượng, siêu hình, tư biện, suy lí…), biểu hiện ở bề nổi lẫn phần chìm trong mọi khía cạnh, lĩnh vực. Ngôn ngữ - chữ viết phát triển thúc đẩy văn học phát triển. Nên ở Chăm, song hành với văn học dân gian: panwơc yaw tục ngữ, panwơc pađit ca dao, dalikal truyện cổ…, là nền văn học viết: sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lí, gia huấn ca…Nhìn chung văn học viết của dân tộc Chăm có thể chia làm các thể loại sau: *  Trường ca  Trường ca Chăm được viết theo thể ariya (như thể thơ lục bát Việt) theo 2 lối: lục bát đếm âm tiết và lục bát chỉ tính lượng trọng âm của từ. Trường ca Chăm ngắn (từ 120 cặp đến 300 cặp lục bát), cô đọng và súc tích. Tất cả dành cho các biến cố, nên tác giả Chăm bỏ qua diễn tả tâm lí nhân vật hay kể các lệ tục rườm rà, như ta thường thấy ở văn bản văn chương cùng thể loại của vài dân tộc khác. Trong trường ca có hai bộ phận chính là trường ca trữ tình và trường ca thế sự. - Trường ca trữ tình  Ba tác phẩm được sáng tác vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII đã xác lập thế đứng trong văn học Chăm là: Ariya Bini - Cam (162 câu), Ariya Cam - Bini (118 câu), và Ariya Xah Pakei (148 câu). Đây là ba chuyện tình bi đát xảy ra vào giai đoạn lịch sử Champa buổi suy tàn trong đó xung đột tôn giáo (Bàlamôn - Hồi giáo) được xem là nguyên nhân chính dẫn đến sự đổ vỡ và cái chết.
0 Rating 1.3k+ views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On March 27, 2014
MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ LÝ VÀ CHAMPA Lược đồ Đại Việt – Champa thế kỷ XI 1.      Chủ trương, chính sách đối ngoại của hai bên.            Sau khi Kế Tông mất năm 989, vua Chăm Pa Harivarman II thống nhất quốc gia và lên ngôi hoàng đế. Năm 999 Yang Pu Ku Vijaya lên nối ngôi vua Chăm Pa. Nước Chăm Pa đã suy yếu rất nhiều sau các cuộc chinh phạt của nước Việt thêm vào đó cư dân phía Bắc Chăm Pa lại bị Lưu Kế Tông thống trị nhiều năm mà càng bị suy yếu trầm trọng, nhận thấy điều đó vua Chăm Pa đã cho dời đô từ Indrapura (Quảng Nam) về Vijaya để tránh sự chinh phạt của Đại Cồ Việt[1]. Kế ngôi vua Chăm Pa liên tục sau đó là bốn ông vua: Harivarman III (1010-1020), Paramecravarman II (1021-1030), Vikrantavarman IV (1030-1041) và cuối cùng là Simhavarman II mà sử Việt gọi là Sạ Đẩu[2].      Ở phía Bắc năm 1009 vua Lý Thái Tổ lên ngôi, khai lập ra nhà Lý, một năm sau vua dời đô về thành Đại La (đổi tên là Thăng Long), từ đó nhà Lý đua dân tộc bước vào một thời kì thịnh trị, phát triển lâu dài nhiều thế kỷ. Năm 1028 vua Thái Tông nối ngôi Thái Tổ, sau đó vua Lý Thánh Tông lại nối ngôi vào năm 1054      Khi mà nhà Lý mới thành lập, hai bên bắt đầu chủ trương thông sứ và giao hảo với nhau sự kiện ghi nhận đầu tiên là việc nước Chăm Pa sang tặng sư tử vào năm 1011, ngay sau khi mà Vua Lý Thái Tổ lên ngôi[3]. Điều này thể hiện sự quyết tâm cải tạo tốt mối quan hệ của phía Chăm Pa.      Thế nhưng không lâu sau không biết tại sao mà vua Thái Tổ lại sai phát quân vô cớ đánh Chăm Pa, nếu có nguyên nhân gì thì tạo sao các bộ sử không đề cập đến nhiều  về vấn đề này chỉ chép đại ý như sau:  năm 1020, Vua Lý Thái Tổ sai Khai Thiên Vương Phật Mã và Đào Thạc Phụ đem quân đi đánh Chăm Pa ở trại Bố Chính thẳng đến núi Long Tỵ, chém được tướng của chúng là Bố Linh tại trận, người Chăm Pa chết đến quá nửa[4] [5]. Như đã nói nguyên nhân của cuộc chiến này.     Chưa được sách sử Việt nói đến.Sự thiếu sót trên có thể là vì đây là cuộc chiến này một phần vì vua Lý muốn xâm lược Chăm Pa hay là tăng cường vị thế và sức mạnh quân sự của mình như vua Lê Đại Hành đã làm trước đó.     Trong những thập niên tiếp theo, quan hệ hai nước trở nên tạm bình yên và không những cuộc xung đột như trước kia nữa người Chăm Pa lại thường sang quy phục Nhà Lý[6].Chủ Trương của cả hai nước lúc này là tạm bình ổn để giao hảo với nhau. Nhưng ít lâu sau đó chiến sự giữa hai bên lại bùng phát khi vua Chăm Pa Simhavarman II (Sạ Đẩu) đưa quân sang xâm lấn biến giới vào năm 1043.       Đó chính là điều kiện để vua Lý Thái Tông quyết định chinh phạt Chăm Pa vào năm 1044.Theo sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chủ trương của Nhà Lý lúc bấy giờ cho rằng từ lúc mà vua Thái Tổ mất đi, suốt 16 năm rồi, mà Chăm Pa chưa từng sai một sứ giả nào sang sứ với nước Việt lần nào, nay lại sang xâm phạm, Thái Tông mới giận quyết đem quân đi đánh Chăm Pa[7].           Nhưng sách Cương Mục lại chép: Bây giờ không nghe nói có việc người Chiêm vào lấn cướp thì không phải là bất đắc dĩ mà dùng binh, thế mà muốn phô sức mình, thích lập công nghiệp,buông thả lòng dục, giết hại mạng người! Thậm chí cướp bắt phụ nữ để chứa đầy vào hậu cung: việc này lại càng thất đức! So với Mị Ê, thật đáng thẹn chết! Huống chi khúc điệu Tây Thiên là thanh âm mất nước, gây nên sự mê muội cho con cháu đời sau! Thế thì trong sự thất đức lại càng thất đức hơn nữa! Thái Tông là bậc vua hiền mà làm như thế, thực đáng tiếc! Về phần bầy tôi bấy giờ cũng không sao tránh khỏi cái tội nống ác của vua![8].        Vậy có phải nguyên nhân mà sách Toàn Thư chép rằng nước Chiêm thường sang phá rối miền ven biển nước Việt chỉ là lý do bịa ra nhầm đổ tội cho Chăm Pa cướp phá nước ta,  rồi lấy đó làm lý do để vua Lý mới dụng binh, đó vẫn còn là ẩn số (?), nhưng có một  số các sử gia thường lấy luận điểm của sách toàn thư đưa vào các công trình của mình[9]. Điều này còn cần phải có những nhận định như thế nào cho đúng, ở đây tôi chỉ nêu mâu thuẫn của hai bộ sử được coi là giá trị nhất của Việt Nam viết, chứ không nhận định tính đúng sai của giả thuyết này.       Năm 1054 vua Lý Thánh Tông lên ngôi nối nghiệp đế của vua Lý Thái Tông, tiếp tục xây dựng quốc gia cường thịnh, trấn chỉnh quân đội.Thánh Tông chính là ông vua đã chính thức đặt quốc hiệu nước ta là Đại Cồ Việt[10].  Trong khi đó về phía Nam, nước Chăm Pa thời điểm này vua Rudravarma III (Chế Củ) ông vua này lên ngôi năm 1061.            Sau trận chiến năm 1044 thì Chăm Pa thường sai sứ sang cống Đại Việt 1055[11], 1068[12]. Nhưng cũng trong năm 1068 phía Chăm Pa lại sang tấn công biên giới Đại Việt mà chắc chắn là để trả đũa thất bại trước kia, sau một thời gian chuẩn bị[13]. Nhưng lúc này vua Lý Thánh Tông đang trị vì, ông vua mà nổi tiếng với các hành động, chính sách liên tục nhầm tăng cường sức mạnh quân sự cho Đại Việt chính vì thế đó là điều kiện để vua Thánh Tông phát binh chinh phạt Chăm Pa để trừng phạt Chăm Pa và xâm chiếm đất đai Chăm Pa vào năm 1069.      Năm 1073 vua Lý Thánh Tông Băng hà, hoàng tử Càn Đức lên ngôi tức vua Lý Nhân Tông.Ông vua này vừa lên ngôi đã phải găp phải một liên minh quân sự của Tống – Chăm Pa – Chân Lạp âm mưu xâm lược nước Việt. Quân Tống tập trung quân ở biên giới, thuyền bè trên biển và chuẩn bị đánh Đại Việt, cuộc kháng Chiến chống Tống của nhân dân Đại Việt bùng nổ[14].      Năm 1074 vua Rudravarman III (Chế Củ) mất, ngay sau đó Harivarman IV nối ngôi.Vừa lên ngôi ông vua này phải đối mặt với cuộc viễn chinh từ phương Bắc của Lý Thường Kiệt năm 1075. Ông là người mà có công tái thiết lại quốc gia đầy tan thương đổ nát và bắt đầu các cuộc khiêu khích quân sự nhầm trả thù Đại Việt vào năm 1074, Lý Thường Kiệt được cử đi đánh Chăm Pa[15].        Năm 1080 Harivarman IV truyền ngôi cho con ông là hoàng tử Văk, ông lên ngôi lấy hiệu là Indravarman II. Harivarman IV mất ít năm sau đó.Indravarman II lên ngôi khi mới 9 tuổi cho nên ông phải cần một vị hoàng thúc là hoàng thân Pan phụ chính. Nhưng người ta cũng thấy được một cuộc tranh giành quyền lực giữa hoàng tử văk và hoàng thân Pan, ông hoàng Pan có lẻ đã cướp ngôi vào năm 1081 lên ngôi với hiệu Paramabodhisattva. vào năm 1086 hoàng tử Vak lại giành lại quyền lực, lên ngôi lần thứ hai[16].      Ông vua Indravarman II lại tái lập bang giao với Trung Quốc và gửi lể vật sang cống Đại Việt năm 1091,1095,1102[17]. Nhưng vấn đề này thì lại không được hai bộ Toàn Thư và Cương Mục đề cập đến.Vấn đề này chỉ được xác nhận trong Việt Sử Lược[18].       Thời gian này nhìn chung thì các cuộc chiến quy mô giữa hai nước không còn nữa nhưng về phía Chăm Pa do đã suy yếu với các cuộc chiến tranh và đặt biệt là các cuộc căng thẳng với Chân Lạp trong thế kỷ XII, nhưng không lúc nào Chăm Pa từ bỏ quyết tâm báo thù và giành lại những phần đất đã bị vua Thánh Tông chiếm vào năm 1069. Chính vì thế lúc này chủ trương của Chăm Pa là vừa thông sứ liên tục để tỏ ra thần phục và thân thiện với Đại Việt, nhưng khi nào có điều kiện là lại phát quân đánh Đại Việt. Về phía Đại Việt thì cứ mỗi lần mà phía Chăm Pa có biến như các lần họ sang cướp phá vào năm 1074, 1103,1266 thì vua Lý lại cử các tướng quân đi đánh, dẹp Chăm Pa ổn định tình hình biên giới, nơi mà lúc nào quân Chăm Pa cũng định đánh phá[19].  Như vậy có thể thấy lúc này chủ trương của Đại Việt chỉ là đánh dẹp Chăm Pa mỗi khi có biến loạn nhầm ổn định biên giới, chủ hòa là chính.        Nhưng đó chỉ là bề ngoài nếu ta chưa xét đúng thực chất vấn đề: lúc nào Đại Việt cũng chủ trương cho rằng Chăm Pa là nước phụ thuộc, chư hầu bằng chứng là trong các nguồn sử liệu thường dùng từ ” Chiêm Thành sang cống” hay “sang dâng cống vật”; sứ giả Việt nhiều lần sang Chăm Pa đòi hỏi vua Chăm Pa phải sang cống nạp cho mình như vào năm 1094 vua Lý Thần Tông (làm vua từ năm 1072 đến 1127) “sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm Thành đòi lễ tuế cống”[20]; nhất là chúng ta biết trước đó mượn cớ là bảo vệ biên cương bờ cõi mà nhiều lần dụng binh đánh Chăm Pa chiếm đất, tàn phá thành trì và giết dân Chúng vô tội[21].        Như vậy, tránh sao cho khỏi người Chăm Pa liên tục trả thù, cho dù chắc hẳn lúc này vương quóc này đã rất yếu so với nước Đại Việt. Vậy thì xét cho cùng những căng thẳng xung đột giữa hai nước thời kỳ này nếu như nói nguyên nhân xuất phát từ một phía (sử liệu thường đổ cho phía Chăm Pa) là điều cần phải xét lại thực chất nguyên nhân phải được phân tích và đánh giá từ cả hai phía. Tóm lại trong giai đoạn này chủ trương của cả hai bên là bề ngoài thông hiếu nhưng bên trong thì mỗi khi có điều kiện thì lại gây chiến (phía Chăm Pa thì lúc nào thuận tiện thì lại phát binh đánh Đại Việt, còn đại Việt chỉ chờ cơ hội đó là phát quân “bình Chiêm”, rồi được đà thắng thế mà chiếm đất Chăm Pa, mở rộng lãnh thổ). mà chúng ta có thể kể đến các trận đánh lớn vào năm 1044, 1069,1075,1167… 2.     Các sự kiện bang giao tiêu biểu .   2.1.         Cuộc giao chiến năm 1044 giữa hai nước:         Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng chép:Vua  xuống chiếu sai đóng các chiến thuyền hiệu Long,Phượng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh Vũ hơn vài trăm chiếc… Tháng 12, xuống chiếu cho quân sĩ sửa soạn giáp binh, hẹn đến mùa xuân, tháng 2 sang năm đi đánh Chăm Pa.Vua đến hành dinh Cổ Lãm xuống chiếu rằng kẻ nào ăn cướp lúa mạ và tài vật của dân, nếu đã lấy rồi thì xử 100 trượng, nếu chưa lấy được nhưng làm cho người bị thương thì xử tội lưu… Năm ấy lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ[22].     Khi đã sửa soạn xong đâu vào đó năm 1044 vua Lý Thái Tông thân chinh đi đánh Chăm Pa. Nghe tin Chăm Pa đem quân và voi bày trận ở bờ Nam sông Ngũ Bồ, vua Lý truyền cho quân bỏ thuyền lên đánh bọ 6. Quân Chăm Pa nhanh chóng thua trận, Quách Gia Di chém được đầu vua Chăm Pa là Sạ Đậu tên phạn ngữ là simhavarman II, bắt sống tướng sĩ địch hơn năm nghìn người, và tước được hơn ba mươi thớt voi đã luyện tập thuần thuộc. Người Chăm Pa bị quan quân Việt giết chết xác chất đầy nội. Vua động lòng thương, ra lệnh cấm quân sĩ tàn sát dân Chăm Pa. Rồi kéo quân vào thành Phật Thệ tức thành Vijaya (thành Đồ Bàn), bắt được gia thất của vua Chăm Pa và những cung nữ giỏi ca múa khúc điệu Ấn Độ. vua sai sứ đi khắc các làng xóm, phủ dụ nhân dân. Rồi rút về nước[23].      Tháng 9 năm đó khi quân Việt về đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự của vua Thái Tông.Khi đến hành điện Ly Nhân, sai nội nhân thị nữ Chăm bị bắt tên là Mỵ Ê là vợ của vua simhavarman II (Sạ Đậu) sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết.Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân[24].             Sự kiên này thể hiện rõ lòng trinh và tấm gương ngời sáng lịch sử, ngày nay tại Phủ Lý, Hà Nam vẫn còn đền thờ của bà. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có đôi dòng chép về bà như sau: «  Phu nhân giữ nghĩa không chịu nhục, chỉ theo một chồng cho đến chết, để toàn vẹn trinh tiết của người đàn bà.Người làm tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu nhân. Vua khen là trinh tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau là đáng lắm… »[25] .      Vua Thái Tông từ Chăm Pa về đến kinh sư, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi.Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho 5000 ngàn tù binh Chiêm đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang (nay là Tương Dương, Nghệ An) đến Đăng Châu (nay là đất Yên Bái và Lào Cai), đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chăm Pa[26].      Chiến thắng lần này trước Chăm Pa có ý nghĩa rất lớn nó làm tăng vị thế của đối với nhà Lý nước Chăm Pa và các nước lân bang, đồng thời nhờ nó mà tình hình miền nam yên ổn hẳn đến hơn 20 năm sau, Chăm Pa cũng thường xuyên đưa sứ giả và cống vật sang[27].       Như đã nói ở trên, cuộc chiến này là cuộc chiến do Đại Việt phát động nhưng chủ yếu là bắt nguồn từ sự bỏ cống nạp hằng năm và thường xuyên qua phá bờ biển Đại Việt là một lý do mà cho đến hôm nay vẫn còn mâu thuẫn ( vì bộ sách Cương Mục đã xác nhận không có việc Chăm Pa sang đánh cướp rồi vua Thái Tông mới đi chinh phạt, trong khi bộ Toàn Thư thì xác nhận như vậy[28] thì rõ rằng chúng ta chưa thể đưa ra được kết luận. Còn có những ý kiến nhận định về cuộc chiến này, trong Toàn Thư thì ca ngợi công đức của Thái Tông khi ra lệnh cho binh lính không được thảm sát dân chúng, còn bộ Cương Mục thì lại có lời trách ngầm vua Thái Tông[29].   2.2.        Vua Lý Thánh Tông chinh phạt Chăm Pa năm 1069:     Năm 1068 vua Chăm Pa lúc bấy giờ là Rudravarman III (Chế Củ) nuôi chí báo thù, bỏ triều cống sang đánh phá nước Đại Việt. Thế là vua Lý Thánh Tông quyết định đưa quân chinh phạt Chăm Pa[30]. Trước khi vua đi đánh Chăm Pa vua xuống chiếu đóng và sửa chữa nhiều chiến thuyền, nhà vua giao cho Nguyên Phi Ỷ Lan trông coi việt nước, tự cầm 5 vạn quân sang chinh phạt Chiêm Thành. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy[31].        Theo sách Việt Sử Lược cho biết ngày 24 tháng 3 năm 1069 vua xuống chiếu đánh Chăm Pa, ngày 5 tháng 3, vua, các tướng và quân sĩ làm lễ thề ở Long Trì , ngày 8 tháng 3 đoàn quân hành quân theo đường biển theo gió bắc tiến vào nước Chăm Pa. Đoàn quân đi đến vùng biển Nhật Lễ vào ngày 23 tháng 3, một nhóm nhỏ của thủy quân chiêm xông ra kháng cự,Thánh Tông sai Đại liêu ban Hoàng Kiên(còn gọi là Hoảng Kiệt) dẫn quân đánh tan thuyền của quân Chăm, rồi đoàn quân tiếp tục đến cửa Tư Dung theo đường biển. Đầu tháng 4 thuyền quân ta đến cửa Thi Lị Bì Nại (cửa Thị Nại, Quy Nhơn ngày nay) mà lúc đó chính là gần kinh thành nước Chăm Pa.Vua chia quân theo hai hướng tiến vào kinh thành Đồ Bàn  (Vijaya, Bình Định)[32].       Thành Phật Thệ, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây.Tướng Chăm là Bố Bì Đà La dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh.Quân Lý xông lên giết được Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ. Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới tới kinh đô Chăm Pa. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý tràn vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ phải xin hàng[33].       Trong khi vua Thánh Tông đang đánh Chăm Pa thì ở trong nước Nguyên Phi Ỷ Lan chấp chính với sự phụ giúp của Lý Đạo Thành tình hình đất nước ổn định, dân chúng yên vui, quốc gia thịnh trị Vua Thánh Tông đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, bèn đem quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nói: “Người đàn bà trị nước còn làm được như thế, ta là nam nhi lại không làm dược việc gì hay sao?”[34]. Vua Thánh Tông liền quay trở lại đánh Chăm Pa. Lý Thường Kiệt đem quân theo phía Nam.Tháng 4 quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp (Campuchia), qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà tiếng Chăm gọi là Panduranga. Tháng 4 Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế Củ ở biên giới Chân Lạp. Vua Chăm Pa vốn có cựu thù với nước Chân Lạp nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm tù[35].        Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua Chiêm, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy.Trước khi về nước Thánh Tông còn không quên sai đếm tất cả nhà của dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660 căn đều thiêu rụi sạch, san bằng kinh thành rồi ra lệnh rút về nước.  Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh về tới Thăng Long.Vua Thánh Tông lên bộ ngự trên xe, quân thần cỡi ngựa theo sau. Vua Chăm Pa mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng xương gai, tay bị trói sau lưng do 5 người lính Võ đô dắt. Thân thuộc, gia quyến cũng bị trói đi theo sau vua Chiêm. Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu, vua Lý Thánh Tông dâng trình việc thắng trận. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi và mở rộng đất đai của nước Đại Việt[36].       Vua Rudravarman III bị bắt làm tù binh, để được thả về nước quyết định dâng  ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bồ Chính  cho Đại Việt, vua Thánh Tông chấp nhận[37] . Kể từ đó lãnh thổ nước Việt bắt đầu được mở rộng về phía Nam, điều đó cũng đồng nghĩa là cương vực của vương quốc Chăm Pa đang dần dần suy thoái.       Như vậy cuộc Nam Chinh kéo dài gần 2 tháng trời của vua tôi nước Việt đã giành được thắng lợi quan trọng và có ý nghĩa rất là quan trọng trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Nhờ cuộc chiến này Đại Việt đã thị uy được thế lực và tầm ảnh hưởng của mình đến nước Chăm Pa nói riêng và các nước lân bang nói chung. Cũng chính nhờ thắng lợi này mà lần đầu tiên lãnh thổ Đại Việt được mở rộng về phía Nam ở phần lãnh thổ mà ngày nay là các khu vực Nam Quảng Bình và Bắc Quảng Trị, Từ đó làm bàn đạp quan trọng của quá trình Nam Tiến sau này[38].       Theo một số chuyên gia nguyên cứu cho rằng nguyên nhân chiến tranh còn có thể bắt nguồn từ sự tiếp tay, hậu thuẫn của Trung Hoa lúc bấy giờ là vương triều nhà Tống. Chiến tranh bùng nổ một phần còn là vì lý do mà Chăm Pa thường lén lút thần phục Nhà Tống, thậm chí còn thường xuyên mượn danh Thiên Triều phá rối Đại Việt, trả thù cho những thất bại trong các cuộc chiến 980, 1044…[39]      Cũng từ đó báo hiệu những cuộc chiến liên tục giữa hai nước lân bang, những sự kiện bang giao như việc Chiêm Thành thường sang cống, hay hai bên thường thông sứ, giao hảo của hai nước chỉ là bề ngoài, một mối quan hệ mà lúc nào phía Chăm Pa cũng chịu mất đất, và Chăm Pa tự bấy lần không khi nào từ bỏ việc gây chiến tranh giành lại những vùng đất đã bị Đại Việt xáp nhập vào lãnh thổ. 2.3.         Những cuộc giao tranh sau này (đến hết thời Lý) của hai nước:           Như đã nói ở trên vào năm 1074, Nhà
0 Rating 1.2k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 5, 2016
Huỳnh Thiệu Phong Dẫn nhập Dân tộc Chăm – một trong số 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên lãnh thổ dân tộc Việt Nam đã từng có một thời kỳ huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Ngày nay, mặc dù Vương quốc Chăm Pa đã không còn nữa, người Chăm hiện diện với tư cách là một tộc người bộ phận trong đại gia đình các dân tộc anh em của Việt Nam; song, những giá trị cả về lịch sử lẫn văn hóa mà Vương quốc Chăm nói chung, con người Chăm nói riêng để lại vẫn còn nguyên vẹn. Có những giá trị đã được phơi bày trước ánh sáng khoa học; nhưng đồng thời cũng có những giá trị vẫn còn là một dấu chấm hỏi đặt ra để thử thách giới khoa học. Vương quốc Chăm Pa trong lịch sử là vương quốc được hình thành từ sự hợp nhất của bộ tộc Cau và bộ tộc Dừa. Sự hình thành của Vương quốc Chăm được đánh mốc từ năm 192, sau khi Khu Liên (Kurung) nổi lên chống lại phong kiến nhà Đông Hán và thành lập Vương quốc Lâm Ấp – tiền thân của Chăm Pa. Với việc hình thành nhà nước từ sớm, trải qua quá trình phát triển lâu dài, người Chăm có đời sống văn hóa rất phát triển, đặc biệt là đời sống tinh thần. Trong đó, vì nằm trên địa bàn thuận lợi về giao thông biển cho nên “… từ văn hóa Sa Huỳnh, cư dân nơi đây đã có mối liên hệ giao lưu trao đổi với văn hóa Ấn Độ…” [6: 147]. Cho đến hiện nay, về cơ bản thì các nhà nghiên cứu tạm chia người Chăm ra làm 4 nhóm: Chăm Ahier – Chăm Awal – Chăm Islam – Chăm H’roi. Văn hóa là một phạm trù rộng lớn vô cùng, bao gồm hai thành tố nhỏ hơn là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa tinh thần bao gồm những thành tố như: Tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội, … Thực chất, tôn giáo và tín ngưỡng là hai nội hàm khái niệm hoàn toàn khác biệt nhau. Nếu tôn giáo là một tổ chức có hệ thống phân chia rõ ràng thì tín ngưỡng chỉ dừng lại ở mức là một niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên nào đó, chưa có một hệ thống rõ ràng để lý giải và chúng chủ yếu lưu truyền trong dân gian. Trong chừng mực nhất định, chúng tôi chỉ tập trung vào mảng tín ngưỡng Chăm, phân tích một hình thức tín ngưỡng đặc sắc trong văn hóa Chăm. Cũng như người Việt, bên cạnh việc ảnh hưởng từ yếu tố tôn giáo (cụ thể ở đây là Bàlamôn giáo), người Chăm cũng có tín ngưỡng bản địa của riêng mình. Một trong số đó là tín ngưỡng thờ Mẹ. Điều này được thể hiện qua hình tượng Yang Po Inâ Nâgar – vị Mẫu thần mà người Chăm tôn thờ và gọi bà là Mẹ Nữ thần Xứ sở. Thông qua bài viết, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ cơ sở hình thành, các truyền thuyết liên quan đến vị Mẫu thần này, đồng thời cũng sẽ đưa ra mối quan hệ giữa hình tượng Yang Po Inư Nâgar của người Chăm và Thiên Yana Thánh Mẫu của người Việt. Theo thống kê của cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, dân số của tộc người Chăm hiện nay là khoảng 161. 729 người. Các nhà nghiên cứu nhận định: “Đây là cư dân bản địa thuộc loại hình nhân chủng Indonesien…” [1: 6]. Do các biến cố lịch sử, hiện nay người Chăm tập trung phân bố chủ yếu ở các tỉnh duyên hải miền Trung, và tập trung đông tại khu vực An Giang. Yang Po Inâ Nâgar: Cơ sở hình thành và các truyền thuyết liên quan Cơ sở hình thành hình tượng Yang Po Inâ Nâgar    Trong lịch sử loài người, chế độ Mẫu hệ (Matrilineality) là một hình thái tổ chức xã hội chủ đạo của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Nguyên nhân xuất phát từ tiến trình phát triển của loài người. Từ thuở xa xưa, đàn ông là người phụ trách công việc đi săn bắn, tìm kiếm nguồn lương thực chủ yếu trong mỗi gia đình. Song nguồn thực phẩm này rất bấp bênh vì không phải lần đi săn nào cũng thu được kết quả. Trong khi đó, người phụ nữ lại ở nhà phụ trách việc trồng tỉa chăn nuôi (hoặc đi hái lượm hoa quả trong thời tiền sử). Do đó, mặc dù nguồn lợi thực phẩm không dồi dào như đi săn, nhưng nó lại đảm bảo sự ổn định. Ta có thể xem đó là yếu tố tiên quyết, là nguồn gốc sâu xa của việc con người ngày trước chỉ biết có mẹ mà không biết đến cha vì vai trò của người đàn ông rất mờ nhạt.    Như vậy, có thể hiểu chế độ Mẫu hệ là hệ thống mà hậu duệ được tính theo người mẹ và họ mẹ. Song có một điều ta cần lưu ý đó là việc chế độ Mẫu hệ không đồng nhất với Mẫu quyền (Martriarchy). Trong phân tích về nguồn gốc chế độ Mẫu hệ của người Chăm, Phú Văn Hẳn đã căn cứ đến 4 yếu tố mà theo ông, chính đó là nguyên nhân lý giải cho việc người Chăm theo Mẫu hệ. Bốn yếu tố đó bao gồm: Nguồn gốc lịch sử, chính trị – kinh tế, nguồn gốc nhân chủng – yếu tố tình cảm [1: 34].Từ nhận thức và sự tư duy đơn giản lúc ban đầu, hình tượng người mẹ trong tâm thức của người Chăm (và rất nhiều tộc người khác, trong đó có người Việt) đã dần trở nên linh thiêng và mang tính cao cả. Chính đó là nguyên nhân cơ bản để việc tôn thờ người mẹ được đẩy lên và trở thành một tín ngưỡng dân gian độc đáo – tín ngưỡng thờ Mẫu.    Như vậy, một câu hỏi đặt ra là: “Tín ngưỡng thờ Mẫu là gì ?”.Trước hết, chữ “Mẫu”(母) là một từ Hán Việt, có nghĩa là “mẹ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu có nghĩa là tín ngưỡng thờ người mẹ, ý chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng hô của con đối với người sinh ra mình.Vai trò của người mẹ đã được giáo sư Vũ Ngọc Khánh đề cập trong công trìnhTục thờ Thánh – Mẫu ở Việt Nam: “Mẹ sáng tạo ra con, chăm sóc con từ ngày con ở trong nôi cho đến lúc mẹ từ giã cõi đời. Những ngày đầu tiên của lịch sử nhân loại, con người chỉ biết có mẹ, không biết có cha. Xã hội hình thành cũng phải trải qua chặng đường đầu tiên là thời kỳ mẫu hệ. Do đó trong quan niệm của loài người, không thể thiếu hình ảnh người mẹ” [4: 11]. Về sau, quan niệm ấy dần được mở rộng hơn về phạm vi. Con người ai cũng có mẹ, vậy thì ông Trời mặc dù là đấng tối cao, nhưng cũng phải có mẹ; rồi vạn vật trên trái đất này đều có mẹ, tất cả đều phải tuân theo quy luật đó. Và từ những quan niệm đó thì những yếu tố và hiện tượng tự nhiên như: Mây, mưa, nước, núi, đất, … cũng đã “có” mẹ. Và đó cũng chính là nguyên nhân lý giải cho sự ra đời của “nguyên lý Mẹ”.    Tộc người Chăm cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Sự bắt gặp của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Chăm và người Việt về sau đã tạo điều kiện cho một sự tiếp biến văn hóa diễn ra; kết tinh của sự giao thoa và tiếp biến văn hóa đó chính là hình tượng Thiên Yana Diễn Ngọc Phi mà phần sau cùa bài viết sẽ đề cập.    Vậy thì Yang Po Inâ Nâgar – người được mệnh danh là “Mẹ Nữ thần Xứ sở” của người Chăm đã được xây dựng như thế nào ? Và ẩn dưới lớp vỏ bọc bên ngoài đó còn có những điều kiện nào quy định hay không ? Các truyền thuyết liên quan Về nguồn gốc của vị nữ thần này, căn cứ vào các nguồn tư liệu, Ngô Đức Thịnh đã phân thành hai nhánh truyền thuyết: Một mang tính vũ trụ luận tôn giáo, một mang tính dân gian phi tôn giáo. Về truyền thuyết mang tính vũ trụ luận tôn giáo thì cho rằng: “… Bà là vị thần từ cõi trời xuống trần gian, Bà có 97 người chồng, 36 người con tượng trưng cho 37 màu máu, 37 màu máu biến thành 37 giống cây trồng, vật nuôi và các tục lệ cúng thần khác. Thân thể bà đồng nhất và tượng trưng cho các phần khác nhau của vũ trụ: Thân của bà chính là bầu trời, đầu của bà chính là mũ đội của các vị vua, của các sư cả Bàlamôn, cánh tay của bà tượng trưng cho Sao Cày, đôi chân bà là sao Bắc Đẩu, răng của bà rìu đá của thần Sấm Sét, …” [7: 203, 204]. Một dị bản khác thì cho rằng: “Theo người Chàm, nữ thần Pô Nagar với tên gọi đầy đủ là Pô Yang Ino Nagara được sinh ra từ mây trời và từ bọt biển, nữ thần đã hiện thân dưới hình dáng một khúc gỗ kỳ nam nổi trên mặt biển. Bà có 97 người chồng, trong đó Po Yang Amô là người yêu có nhiều mãnh lực nhứt, và bà đã sinh 38 người con gái, đều cũng đã trở thành nữ thần như mẹ. Bà đã tạo sinh ra đất đai, cây kỳ nam và lúa gạo, không khí chung quanh bà đượm mùi thơm của lúa và chính bà đã đem sinh khí cho cây sung thần” [2: 225, 226]. Như vậy, hai truyền thuyết về vị nữ thần này dù có sự khác nhau đôi chút về phương diện mô tả, song tất cả đều hướng đến một mục đích là khẳng định vai trò to lớn của Yang Po Inâ Nâgar trong việc lập quốc. Về một truyền thuyết khác mang tính dân gian, phi tôn giáo, nhà nghiên cứu Trương Văn Món (Sakaya) đã dẫn lại văn bản cổ của người Chăm có ghi lại sự tích của Mẫu thần Yang Po Inâ Nâgar, có thể tóm lượt như sau: Ngày xưa có hai vợ chồng già lấy nhau lâu năm nhưng không có con. Hai người làm rẫy và cho trồng dưa hấu tại chân núi Lang Liri (núi Đại An). Khi đó, ông Trời đã phái một cô gái còn trẻ xuống rẫy hái trộm dưa. Hằng đêm cô đều xuống phá dưa làm cho hai ông bà rất tức giận; và do vậy, hai người đã lập mưu rình bắt người đã hái trộm dưa. Quả nhiên cô gái bị hai ông bà bắt được nhưng vì còn trẻ nên được hai ông bà nhận làm con nuôi. Ở chung được vài năm, trong một lần tắm sông, cô đã hóa thân vào khúc trầm hương và trôi ra biển lớn. Khúc gỗ trôi lên biển Bắc và rơi vào tay hoàng tử của Trung Hoa. Hoàng tử cho vớt khúc gỗ đem về cung. Sau đó ít lâu thì khúc gỗ hóa thân thành một cô gái xinh đẹp và hai người nên duyên vợ chồng. Chung sống với nhau và có được hai người con (đặt tên là Hai và Tray), về sau hai người xảy ra sự bất đồng kết hợp với việc nhớ cha mẹ già, cô đã nhập vào thân trầm để trở về quê hương. Sau khi nhận tin cha mẹ đã mất, cô đã ở lại để chỉ người dân kiến thiết đất nước, cho dạy chữ, hướng dẫn người dân cày cấy, trồng bông, dệt vải, xây tháp, … Sau khi mất thì cô hiển linh. Để ghi nhớ công lao của cô nên người dân đã suy tôn cô thành Mẹ Nữ thần Xứ sở – tức Yang Po Inâ Nâgar và cho xây dựng đền tháp để thờ phụng [7: 205, 206]. Như chúng ta đã biết, thờ Yang Po Inâ Nâgar không phải là tín ngưỡng duy nhất trong văn hóa bản địa của cộng đồng người Chăm, mà bên cạnh đó, họ còn có một hình thức tín ngưỡng rất phổ biến chính là tín ngưỡng phồn thực. Nếu chỉ xét ở bề nổi của tín ngưỡng này, thoạt nhiên ta thấy có vẻ như hai tín ngưỡng này có sự tách biệt và phân chia rạch ròi. Song, nếu chú ý kỹ ta sẽ thấy mối liên hệ giữa hai hình thức tín ngưỡng này. Trong truyền thuyết về vị Mẫu thần này, Bà có đến hơn 30 người con. Và đây chính là minh chứng cho sự sinh sôi nảy nở, phù hợp với nội dung của tín ngưỡng phồn thực. Cũng cần nói thêm rằng, trong quan niệm của người Chăm, vị Mẫu thần này còn được biết đến là Nữ thần Trầm hương. Tất cả các hoạt động ngày trước liên quan đến việc vào rừng để tìm trầm (gọi bằng thuật ngữ của cư dân địa phương là “Đi điệu”) đều gắn với vị nữ thần này, vì họ tin rằng Bà chính là người quyết định đến việc “cho” ai tìm được trầm. Hiện nay, tại một số di tích đền tháp Chăm còn sót lại, ngoài các vị thần “ngoại lai” được du nhập vào tôn giáo của người Chăm từ việc tiếp nhận Bàlamôn giáo, Yang Po Inâ Nâgar vẫn là vị nữ thần được tôn thờ nhiều nhất trong các đền tháp. Những di tích đền tháp này tập trung chủ yếu ở khu vực Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên [7: 209]. Trong những di tích đó, đáng kể nhất là tại Nha Trang với quần thể di tích Tháp Bà. Một điểm khá thú vị mà Ngô Đức Thịnh đã rút ra được trong công trình Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1) chính là: “… các di tích thờ Pô Inư Nưgar từ Nha Trang trở ra đến Huế đã bị Việt hóa, thành nơi thờ phụng các nữ thần mang danh thần Việt, như Thiên Yana, Bà Chúa Ngọc…” [7: 209]. Sự giao thoa văn hóa Việt – Chăm trong tiến trình lịch sử “Hoành Sơn, một dãy núi ngang, ở vào 10 thế kỷ trước, nó chẳng những là ranh giới giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành mà còn là ranh giới giao tiếp của hai nền văn hóa lớn của nhân loại: phía Bắc là vùng ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán, phía nam chịu ành hưởng của văn hóa Ấn Độ giáo”[2: 225]. Tuy nhiên, những biến thiên của lịch sử đã biến vị thế của ngọn núi ấy, tưởng chừng như là rào cản lớn lao, trở nên vô nghĩa. Sự mở rộng lãnh thổ của Đại Việt và thu hẹp lãnh thổ của vương quốc Chăm về phương Nam đã tạo nên một hình tượng mới trong văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Việt. Thiên Yana “ra đời” như một điều tất yếu ! Quá trình đi về phương Nam của người Việt đã đồng hành với quá trình Nho giáo hóa ở vùng đất mới; tuy nhiên, vốn là vùng đất từng tồn tại một nền văn hóa rực rỡ, không đơn giản cho những người chủ mới (người Việt) biến đổi tính bản địa của văn hóa khu vực này một cách nhanh chóng mà ngược lại, “… người Việt đã tiếp xúc với việc thờ cúng nguyên mẫu các thần Chăm, trong đó có thần Pô Yang Ino Nagar”[2: 230]. Thiên Yana là ai ? Nói như Ngô Văn Doanh, Bà là một nữ thần bản địa của người Chăm đã được Việt hóa, là một Thượng đẳng thần và được người dân địa phương tôn kính thờ phụng [5: 272]. Đây có lẽ là câu trả lời ngắn gọn nhất nhưng chưa phải là rõ ràng nhất, nhất là trong việc ta muốn làm rõ tính hỗn dung văn hóa Việt – Chăm. Hiện nay, đa phần các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng hình tượng Thiên Yana và Yang Po Inâ Nâgar chính là một chỉnh thể duy nhất, song là hai vị nữ thần của hai dân tộc khác nhau. Cơ sở của sự tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar của người Chăm thành nữ thần Thiên Yana theo chúng tôi bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính: (1) Sự trùng hợp về việc tôn trọng vai trò người phụ nữ trong văn hóa truyền thống – (2) Sự hỗn cư của hai tộc người Việt – Chăm trong lịch sử. Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp, vai trò người phụ nữ luôn được đề cao. Sự ảnh hưởng của Nho giáo sau này mới làm cho vai trò và vị trí của người phụ nữ bị giảm sút. Trong khi đó, như đã đề cập, người phụ nữ trong văn hóa Chăm vốn dĩ đã trở nên vĩ đại với việc họ tôn sùng người khai sinh ra dân tộc là một vị nữ thần – Nữ thần Yang Po Inâ Nâgar. Sự hỗn cư của hai tộc người Việt – Chăm trong lịch sử đã tạo ra bước ngoặc trong việc giao lưu và tiếp biến văn hóa. “… Lâu nay, khi nói về quá trình Nam tiến đó, thì nhiều người nghĩ đơn giản là cứ mỗi lần mở rộng phạm vi lãnh thổ quốc gia Đại Việt, người Việt tiến sâu về phương nam thì người Chăm càng co dần rút về tụ cư ở vùng đất Ninh Thuận Bình Thuận ngày nay. Thực ra không hoàn toàn là như vậy, mà cơ bản người Chăm vẫn bám trụ đất cũ, cùng cộng cư với người Việt mới tới và diễn ra quá trình người Chăm đồng hóa người Việt…” [7: 227]. Còn một nguyên nhân phụ khác, theo chúng tôi cũng nên đề cập mặc dù nó không phải là nguyên nhân chính. Đó chính là việc tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar  lúc ban đầu của người Việt chính là biểu hiện của việc tôn trọng tổ tiên của vùng đất này trước đây. Hai nguyên nhân chính và một nguyên nhân phụ chính là tiền đề cho việc hình thành hình tượng “Thiên Yana Diễn Ngọc Phi”. Danh xưng đầy đủ của vị nữ thần này là “Thiên Yana Diễn Ngọc Phi”. Trong việc phân tích danh xưng đầy đủ của vị nữ thần người Việt này, Nguyễn Hữu Hiếu đã có những kiến giải rất hợp lý. Thiên Yana là sự Việt hóa từ khái niệm Devayana, trong đó Thiên = Yang = Deva = Trời; Yana = phần còn lại của Devayana. “Diễn Ngọc Phi” hay “Diễn Phi Chúa Ngọc” phản ánh sự kiện vào năm 1797, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành cho xây dựng đền thờ Bà Chúa Ngọc trên núi Diễn (Khánh Hòa) để mong vùng đất này không bị cọp quấy nhiễu [2]. Như vậy, ngay trong danh xưng của hai vị nữ thần này ta đã thấy có sự trùng hợp về mặt ngôn ngữ. Sự tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar của người Chăm và đưa vào hệ thống điện thờ của người Việt đã vấp phải những rào cản nhất định. Thực chất hiện nay, ở mỗi địa phương khác nhau, hình tượng Thiên Yana đã có sự biến đổi tương đối. Sự biến đổi ở đây có thể là biến đổi về danh xưng (Thiên Yana – Bà Chúa Ngọc – Bà Bô Bô – Bà Thu Bồn – Bà Mẹ Đất) hoặc có thể là biến đổi về chức năng thờ cúng (có thể Bà là Mẹ Đất, Mẹ Sông, …) [6, 7]. Theo chúng tôi, đặc điểm này được quy định bởi yếu tố địa – văn hóa. Bởi vì, ở một số địa phương, Thiên Yana được thờ phụng cạnh một số dòng sông và khi đó, danh xưng lẫn chức năng của vị nữ thần này cũng đồng thời bị biến đổi. Mặt khác, ở địa phương không có sông suối, bà lại trở lại thành Bà Chúa Ngọc hay Thiên Yana. Dấu ấn của sự giao thoa văn hóa được thể hiện rõ nét nhất chính là tại quần thể di tích Tháp Bà ở Nha Trang. Ai trong chúng ta cũng đều biết, đây vốn là một công trình đền tháp của người Chăm xây dựng nhằm tôn thờ Mẹ Nữ thần Xứ sở của họ. Tuy nhiên, hiện nay, tại đây lại để cụm chữ “Tháp – Thiên – Y – Thánh – Mẫu” và có vẻ như đã phủ nhận hoàn toàn hình tượng Yang Po Inâ Nâgar (?). Và một thực tế là du khách khi đến tham quan tại quần thể di tích Tháp Bà hiện nay quan sát đều có thể thấy, cộng đồng người Chăm tại khu vực này còn tập trung rất ít, các nghi lễ thờ cúng do người Việt phụ trách là đa số. Nhìn chung, có thể xem thờ Mẫu là một điểm chung giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm: “… sự hỗn cư giữa người Chăm và người Việt, thì tín ngưỡng thờ Mẹ [của người Chăm – HTP] vẫn được duy trì bảo lưu và có sự gia nhập của người Việt, mang trong tinh thần Việt tục thờ Mẫu hội nhập với tục thờ Mẹ của người Chăm…” [6: 146]. Ta có quyền tự hào về hình tượng Thiên Yana – một sản phẩm minh chứng rõ nét cho quá trình giao lưu văn hóa Việt – Chăm trong dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc. Kết luận    Thờ Mẫu của người Chăm ẩn chứa trong đó nhiều giá trị đậm tính nhân văn, nội dung truyền thuyết chứa đựng khát khao mưu cầu một cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc của người Chăm.Trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống luôn là một trong những việc làm mang tính lâu dài và cấp thiết. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Chăm qua việc tôn thờ hình ảnh Po Yang Inâ Nâgar xứng đáng là một giá trị văn hóa đặc sắc cần được bảo tồn và phát huy. Đồng thời, vì điều kiện lịch sử, giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm đã diễn ra sự chung đụng, quá trình tiếp biến văn hóa đã diễn ra như một quy luật tất yếu như nhận định của Nguyễn Thừa Hỷ “Trên thế giới, các nền văn hóa không đứng cô lập và bất biến” [3: 12]./. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
0 Rating 1.2k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 13, 2014
QUÁ TRÌNH DU NHẬP HỒI GIÁO Ở CHAMPA 1.      Đặt vấn đề  Trong quá khứ, Hồi giáo được du nhập vào vương quốc Champa (một vương quốc cổ tồn tại trong giai đoạn 192 đến 1832, tài khu vực miền Trung và Tây Nguyên Việt Nam). Ngày nay vương quốc Champa không còn nữa, nhưng Hồi giáo vẫn duy trì trong cộng đồng người Chăm, như đã nêu trên. Vì vậy, muốn nghiên cứu sự du nhập Hồi giáo vào Việt Nam thì chúng ta phải quay ngược quá khứ để nghiên cứu sự du nhập của nó vào vương quốc Champa cổ. Khi nghiên cứu thời điểm du nhập của Hồi giáo vào vương quốc Champa, giới nghiên cứu thường phân ra làm ý kiến khác nhau : một bên cho rằng thời điểm Hồi giáo du nhập vào Champa là khoảng thế kỷ X – XIII, nếu chấp nhận ý kiến này, các học giả cho rằng Hồi giáo được du nhập trực tiếp vào Champa từ các nhà truyền đạo đến từ Trung Đông; trong khi bên kia lại phủ nhận quan điểm đó và xác định thời điểm muộn hơn là khoảng thế kỷ XV – XVII, điều này có nghĩa theo các tác giả Hồi giáo ở Champa chỉ được du nhập từ Hải đảo Đông Nam Á, mà trực tiếp nhất là thông qua Mã Lai.   Trong bài viết này chúng tôi xin nêu lên những hai hướng nhận định và ý kiến trên. Hầu từ đó, đánh giá, tổng kết và đưa ra ý kiến của chúng tôi về quá trình du nhập Hồi giáo vào Champa trên hai bình diện : thời điểm du nhập và nguồn gốc quốc gia hay vùng văn hóa du nhập. 1.      Hai hướng nhận định về quá trình du nhập Hồi giáo vào Champa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, nhóm các nhà nghiên cứu ủng hộ ước thuyết thứ nhất gồm E. Aymonier, Ed. Huber, P. Ravaisse, G. Maspero… Đầu tiên, E. Aymonier, dựa vào một biên niên sử của hoàng gia Panduranga - Champa, đưa ra lập luận rằng từ năm 1000 đã có một ông vua Hồi giáo mang tên Po Awluah ( biến âm của Alla), vì vua đầu tiên của tiểu quốc phía nam này, nên từ đó ông nhận định Hồi giáo đã du nhập vào Champa sớm nhất là thế kỷ thứ X[1].  Khoảng năm 1922, P. Ravaisse lại cho công bố hai bia ký chữ Arab, được một sĩ quan Pháp khai quật được ở miền Trung. Bản thứ nhất là một ngôi mộ của một người tên Abu Kamil có niên đại 1039. Tấm bia thứ hai, có niên đại khoảng 1025 – 1035, đó là một thông báo cho cộng đồng Hồi giáo ở đây phải đối xử như thế nào với dân bản xứ khi tiếp xúc với họ. Từ kết quả này tác giả cũng nhận định, khoảng thế kỷ XI, đã có một cộng đồng Hồi giáo ở Champa[2].   Tiếp đó, Ed. Huber và G. Maspero[3]khi nghiên cứu tài liệu của Tống Sử (thư tịch Trung Hoa), nhận thấy một lễ thức dùng trâu để tế lễ thần kèm theo lời khấn: “Allah Akhar”, từ đó hai tác giả đưa ra nhận định có thể Hồi giáo đã được du nhập vào Champa từ thế kỷ IX.  Mặc khác, từ thế kỷ thứ XIII, các nghiên cứu cho thấy rằng, vị vua Champa là Jaya Sinharvarman III (Chế Mân), đã cưới một công chúa Jawa, được ghi nhận với tên Bia Tapasi (hoàng hậu Tapasi), từ đó các nhà nghiên cứu như G. Maspero cho rằng Islam giáo đã hiện hữu trong cung đình Champa từ thế kỷ XIII. Hay một số ghi nhận rãi rác trong các thư tịch của Trung Hoa như Tống Sử nói đến những người sứ giả họ Bồ, (Bố để chỉ người Arab đến từ Champa) cũng trong thế kỷ XIII[4]…  Nhưng sau đó, lại xuất hiện một nhóm ý kiến khác cho rằng, chỉ từ thế kỷ XV – XVII, Hồi giáo mới du nhập mạnh mẽ vào Champa, và nó là kết quả của sự giao lưu tiếp xúc của người Champa với Thế giới Mã Lai, chứ không phải từ Trung Đông như trước đây. Năm 1979, P.Y.Manguin là người đầu tiên phản đối quan điểm của P. Ravaisse đã nêu ở trên, ông cho rằng hai tấm bia đó chỉ xuất phát từ một quốc gia khác ngoài Champa[5]. Trong một hội thảo về bia ký Đông Nam Á (11/2011) Gs. Ludvik Kalus lại góp thêm những tư liệu và lập luận mới phát triển, làm rõ thêm ý tưởng nghiên cứu của P.Y. Manguin trước đó. Một nhà nghiên cứu khác, Haji Adi Taha lại cho rằng Hồi giáo được du nhập vào Champa từ những thủy thủ Mã Lai mang đến, hoặc do chính người Champa trực tiếp học đạo từ người Mã Lai.  Trong thời điểm này, theo nhiều nguồn tư liệu, Champa và Mã Lai có những mối quan hệ hết sức thân thiết, trong đó có đề cập đến cuộc viếng thăm của vua Po Kabrah đến viếng thăm Malayu[6], hay sự kiện năm 1594 vua Champa còn giúp đở một tiểu quốc là Sultan chống quân Bồ Đầu Nha[7].  Cũng vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào thời Po Rome (1627 – 1651), các văn bản Chăm như Damnay Po Rome, Damnay Po Tang Ahaok, Damnay Po Rayak (tiểu sử vua Po Rome, Po Tang Ahaok, Po Rayak)…ghi nhận các sự kiện quan trọng như sự kiện vua Po Rome sang viếng thăm Kelantan, kết hôn với công chúa Malai và học đạo Islam, ngoài ra Po Tang Ahaok, Po Rayak cũng được cử sang Mã Lai để học về tôn giáo, bùa phép, quân sự[8]… Bên cạnh đó, cũng trong thời điểm này, thông qua các biên niên sử hoàng gia, các gia phả hoàng tộc của Mã Lai như Hikayat Seri Kelentan (gia phả dòng họ tiểu vương Kelentan), Riwayat Kelentan Sejarah Melayu (lịch sử Malayu)… ghi nhận rằng nhiều vị tướng Mã Lai cũng đến Champa như Ungku Omar, Abdul Hmid, tại đây, họ đã dạy giáo lý Hồi giáo cho dân chúng địa phương…[9]. Theo các tác giả trên, sự du nhập mạnh mẽ của Hồi giáo và sự hình thành cộng đồng Hồi giáo bản địa ở Champa hay là người Chăm Awal/Bani ngày nay phải bắt đầu từ thế kỷ XV, đặc biệt thế kỷ XVII và đó là kết quả của cuộc giao lưu văn hóa với Thế giới Mã Lai, chứ không phải từ Trung Đông.  2.      Xác định niên đại và nguồn gốc du nhập Hồi giáo vào Champa  Về phía chúng tôi, trong quá trình nghiên cứu, nhận thấy một số điểm sau: theo nhóm nhận định thứ nhất thì từ thế kỷ X –XIII, Hồi giáo đã bắt đầu du nhập vào Champa, và đó là kết quả của cuộc tiếp xúc với các thương thuyền buôn bán của người Ảrập từ Trung Đông. Nhưng những cứ liệu đó rất tản mạn, không có nhiều căn cứ và chưa cho thấy rằng trong thời kỳ này đã hình thành một cộng đồng Hồi giáo bản địa ở Champa, chưa đủ để tạo nên một cộng đồng người Chăm Awal/ Bani như ngày nay. Trước hết, hai văn bia được tìm thấy vào năm 1922, có niên đại khoảng thế kỷ XI, chỉ cho thấy sự tồn tại rải rác của một cộng đồng Hồi giáo từ Trung Đông trên con đường buôn bán trên biển của họ đến Champa. Hai tấm minh văn này được viết bằng ngôn ngữ Arabic, một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với người dân Champa thời bấy giờ, ngay kể hôm nay, chữ Arabic chỉ được sử dụng một cách hạn chế trong giới tăng lữ Hồi giáo của cộng đồng ChămAwal/ Bani (các Po Acar). Đó chỉ là những chỉ dấu mờ nhạt và không đủ chứng minh rằng Hồi giáo đã du nhập vào Champa từ lúc đó, có thể những nhà truyền đạo đã ở đó, nhưng hoạt động của họ không đủ để du nhập một thứ tôn giáo mới vào Champa, tạo ra một cộng đồng Hồi giáo bản địa.   Về ý kiến của E. Aymonier, khi cho rằng Hồi giáo xuất hiện ở Champa vào thể kỷ thứ X, vì trong biên niên sử hoàng gia Panduranga – Champa ghi nhân một ông vua Po Awluah, ông vua đầu tiên của biên niên sử, được ghi nhận là đã học đạo ở Mecca và trở về làm vua Champa từ thế kỷ X. Đây chỉ là một giả thuyết thiếu cơ sở thực tiễn, chỉ mang tính huyền thoại. Trên thực tế, biên niên sử Panduranga là một phả hệ về các vị vua của tiểu quốc Panduranga, được viết bằng ngôn ngữ Chăm hiện đại (akhar thrah), một thứ ngôn ngữ chỉ xuất hiện từ thế kỷ XVII, qua bia ký ở tháp Po Rome (Ninh Thuận). Nói cách khác, biên niên sử này được viết sau thế kỷ XVII và do đó không thể cung cấp một minh chứng chính xác về Po Awluah, vị vua đầu tiên xuất hiện trong biên niên này. Hơn nữa, Po Dharma, khi nghiên cứu về biên niên sử này lại xác nhận Po Awluah chỉ là một vị vua huyền sử (cùng với 4 vị vua kế tiếp trong biên niên sử)[10]. Hay các sự kiện được Tống sử ghi nhận về một lời khấn vái Hồi giáo, về những người họ Bồ ở Champa… chỉ cung cấp những chỉ báo hết sức nhạt mờ về ảnh hưởng Hồi giáo vào Champa giai đoạn X – XIII, đây có thể chỉ là những dấu hiệu cho thấy các thuyền buôn Hồi giáo từ Trung Đông đã xuất hiện ở Champa, nghĩ ngơi tại đó để lấy nước ngọt, tiếp nhiên liệu để tiếp tục đi sang Trung Hoa. Sự kiện vua Champa kết hôn với một công chúa Jawa chỉ cho thấy một mối giao thiệp và bước đầu tiếp xúc với các quốc gia Hồi giáo của Champa, nhầm tìm liên minh quân sự với các nước Đa Đảo… Trên thực tế, hầu hết các tài liệu vẫn ghi nhận, trong thời kỳ này (thế kỷ X – XIII và XIII – XV) ảnh hưởng của Hindu giáo và Phật giáo trong hoàng gia vẫn còn giữ vai trò thống trị trong hệ thống tín ngưỡng Champa. Trong khi đó, tuyệt đại dân chúng, vẫn theo tín ngưỡng bản địa. Không có một căn cứ, một nguồn thông tin nào cho thấy đã xuất hiện một cộng đồng Hồi giáo người bản địa ở Champa vào thời điểm trước thế kỷ XV, cộng đồng Hồi giáo bản địa đầu tiên là cộng đồng Chăm Awal/Bani chỉ xuất hiện sớm nhất sau thế kỷ XV. Theo hướng giả thuyết số hai, chúng tôi nhận thấy có nhiều ý kiến, nhận định xác đáng hơn. Như đã nói, các học giả theo giả thuyết này đã cung cấp những tư liệu hết sức phong phú (đã nêu ở trên) ở cả Champa và Mã Lai cho thấy trong khoảng thế kỷ XV – XVII, Champa và Mã Lai đã có mối quan hệ thân thiết, đặc biệt là về tôn giáo, tín ngưỡng bằng chứng là vua Po Rome sang học đạo và gửi các cận thần của mình sang Mã Lai học về giáo lý, tín ngưỡng Hồi giáo, ngược lại các vị tướng, tu sĩ người Mã Lai cũng sang Champa để truyền đạo. Sự du nhập Hồi giáo từ Mã Lai vào Champa và những tác động xã hội của nó còn được khắc họ rõ nét qua tác phẩm văn học nổi tiếng Champa: Nai mai meng Makah (công chúa đến từ Kelantan – Mã Lai)[11]…  Ngoài ra, sở dĩ chúng tôi tán đồng với nhóm giả thuyết này, vì chúng tôi cho rằng, cộng đồng người Chăm Awal/Bani ngày nay, có những nét sinh hoạt tôn giáo, phong tục, quan niệm của mình rất gần gũi với Hồi giáo ở Mã Lai, hơn là Hồi giáo ở Trung Đông. Biểu hiện cụ thể, điển hình là trong lễ hội Rija Proang của người Chăm, một nghi lễ quan trọng của cộng đồng Chăm Awal, có mối quan hệ rất gần gũi với lễ Mak Yong vủa Mã Lai, từ nguồn gốc lễ là xuất phát từ việc hai hoàng tử Mã Lai sang thăm Champa, đến việc hành lễ, đồ tế lễ, nhạc cụ trong lễ đều rất gần gũi với nhau, cho đến các bài khấn vái trong lễ cũng bằng tiếng Mã Lai[12]…  3.      Kết luận  Trước kia vấn đề niên đại và nguồn gốc truyền bá Hồi giáo vào Champa dù có hai hướng ý kiến và nhận định khác nhau. Nhưng có thể khẳng định, quan điểm xuất hiện sau này cho rằng Hồi giáo được du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ XV, đặc biệt XVII, thông qua con đường buôn bán, giao lưu với thể giới Mã Lai (Đông Nam Á hải đảo) là có căn cứ và cơ sở hơn cả.  Như vậy, có thể khẳng định, dù trong thời điểm khoảng thế kỷ X – XIII đã có sự xuất hiện của cộng đồng Hồi giáo từ bên ngoài đến thông thương và có thể truyền đạo với Champa nhưng dường như không hiệu quả. Hindu giáo và Phật giáo vẫn chiếm một vai trò chủ đạo trong vương quốc này.  Hồi giáo chỉ thật sự du nhập vào Champa trong giai đoạn thế kỷ XV – XVII, mà đó là kết quả của cuộc giao lưu và tiếp xúc giữa hai nền văn hóa Champa và Mã Lai. Kết quả của quá trình đó là sự hình thành cộng đồng người Chăm Awal/Bani ở Ninh Thuận – Bình Thuận. Sau này, trên cơ sở cộng đồng này, mới xuất hiện của một cộng đồng Hồi giáo chính thống ở Nam Bộ. Đây là hai cộng đồng Hồi giáo duy nhất ở Việt Nam hiện nay.   •        Tài liệu tham khảo:   1.      Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003): “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay” đăng trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, BFEO, Kuala Lumpur.  2.      E. Aymonier (1890): Légendes historiques des Chams, in Excursions et Reconnaissances XIV 32, pp. 145 206.  3.       G. Maspero (1928): Le Royaume de Champa, Paris.  4.      P. Ravaisse (1922): «Deux inscriptions çoufiques du Campa”, in Journal Asiatique XX, pp. 247 289. 5.      P-Y. Manguin (1979): “L’Introduction de l’Islam au Campa”, BEFEO LXVI, pp. 255 – 257.  6.      P-B. Lafont (1988): “On relations between Champa and Southeast Asia”, trong Proceedings of the Seminar On Champa, Paris.  7.      Po Dharma (1999): “Quatre Lexiques malais – Cam anciens”, EFEO, Paris. 8.      Po Dharma, G. Moussay, Abd. Karim (2000): Nai mai meng Makah, Kualalumpua, EFEO.   9.      Po Dharma (2013): Vương quốc Champa: lịch sử 33 năm cuối cùng, Champaka 12, IOC. 10.  Sakaya (2008): “Raja Praong Ritual: a Memory of the Sea in Cham- Malay Relations”, in Ocean and Earth Sciences, Institute of Ocean and Earth Sciences, University of Malaya, Monograph, Series 3, pp. 97- 111. 11.  Sakaya (2013): Tiếp Cận Một Số Vấn Đề Văn Hóa Champa, Nxb Tri Thức, HN. [1]E. Aymonier (1890): “Légendes historiques des Chams”, inExcursions et Reconnaissances XIV 32, pp. 145 206.  [2]P. Ravaisse (1922): « Deux inscriptions çoufiques du Campa”, in Journal Asiatique XX, pp. 247 289.  [3]Sakaya (2013): Tiếp Cận Một Số Vấn Đề Văn Hóa Champa, Nxb Tri Thức, HN, tr 96.  [4]G. Maspero (1928): Le Royaume de Champa, Paris,pp. 3.  [5]P-Y. Manguin (1979): “L’Introduction de l’Islam au Campa”, BEFEO LXVI, pp. 255 – 257.  [6]Po Dharma (1999): Quatre Lexiques malais – Cam anciens, EFEO,  Paris , pp. 5.  [7]P-B. Lafont (1988): “On relations between Champa and Southeast Asia”, trong Proceedings of the Seminar On Champa, Paris, pp. 65 – 75.  [8]Sakaya (2013): Sđd, tr 592.  [9]Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003): “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay”, đăng trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, BFEO, Kuala Lumpur, pp. 169.  [10]Po Dharma (2013): Vương quốc Champa: lịch sử 33 năm cuối cùng, Champaka 12, IOC, tr 62.  [11]Xem thêm: Po Dharma, G. Moussay, Abd. Karim (2000): Nai mai meng Makah, Kualalumpua, EFEO.   [12]-->Sakaya (2008): “Raja Praong Ritual: a Memory of the Sea in Cham- Malay Relations”, in Ocean and Earth Sciences, Institute of Ocean and Earth Sciences, University of Malaya, Monograph, Series 3, pp. 97 - 111. Jashaklikei  
0 Rating 1.2k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 21, 2017
D?ch sang ti?ng Vi?t b
0 Rating 1.1k+ views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On March 23, 2017
  1. Trung tuần tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, người Việt có tục cúng đất, từ Đèo Ngang đổ ra gọi là cúng Thổ công và từ Đèo Ngang vô trong gọi là cúng Tá thổ. Cũng là cúng đất, nhưng người xứ Bắc Đèo Ngang cúng Thần Đất của chính họ, nên gọi là cúng Thổ công. Ngược lại, người miền Nam Đèo Ngang cúng Thần Đất của người Chăm nên gọi là cúng Tá thổ (借 土, mượn đất), ai cúng thì được "kỳ yên" (an lành), ai quên cúng thì chịu quả báo. Nói thêm, cúng Tá thổ tức là nghi lễ của những lưu dân người Việt xin mượn đất người Chăm, dẫu rằng mượn hơn 700 năm mà vẫn chưa trả! Vì mượn nhưng chẳng bao giờ trả nên Tổ tiên của những lưu dân người Việt đến từ miền Thanh Nghệ Tĩnh đã có một thái độ hết sức khiêm nhường, bởi họ luôn tâm niệm rằng những linh hồn Chăm mới là chủ nhân của miền đất mà họ đang "tá túc". Vị Thần Đất của người Chăm, thường được hóa thân thành Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Ngọc, Bà Hời, Bà Vú ... được những lưu dân người Việt mời về "đồng lai cộng hưởng" bằng những lễ vật rất Chăm như củ khoai lang, chén mắm cái, đĩa đậu phộng, bát cơm nấu từ gạo Chiêm ... và đặc biệt phải có tam sinh, tức là một con cua cái sống, một tợ thịt heo sống và một hột vịt sống. Bái tất, lễ vật được đem treo ở những cây đa hay giữa ngã ba làng cho các linh hồn Chăm thụ hưởng. Tính độc đáo của lễ cúng "Tá thổ", cúng cho chủ đất cũ, chính là lối ứng xử hết sức nhân văn của người chiến thắng (Việt) đối với người chiến bại (Chăm). 2. Gần đây, đọc bài "Khóc ở Mỹ Sơn" trên tường của chị Kiều Kiều Maily, rồi đọc thêm bài "Không khóc ở Mỹ Sơn" của anh Inra Sara mà mình khóc òa. Lẽ nào con cháu của những người "mượn đất" lại đối xử với con cháu của "chủ đất" tệ đến thế sao? Người Việt đã "mượn" hết tất cả đất của người Chăm rồi, bây giờ con cháu người Chăm về hành hương đất tổ Mỹ Sơn thì bị người Việt bắt trả tiền mua vé! Cái cảm giác "uất nghẹn" này thì tôi đã nếm. Bà cố nội của tôi là người tộc Trần ở Hội An. Cách đây 5 năm, tôi về nhà thờ tộc Trần (21 Lê Lợi, Hội An) để thắp ba cây nhang thì bị chặn ở ngoài cổng. Người ta bắt tôi phải mua vé mới được vào. Ô hô, con cháu đi cúng bái ông bà tổ tiên mà còn phải mua vé hay sao? 3. Ngày Cồn Dầu bị san ủi cũng là ngày núi Phước Tường bị sạt lở. Có tâm linh gì không, hay là người ta phá núi quá nhiều nên chỉ sau mấy trận mưa mà Phước Tường sạt lở? Cách đây hơn ngàn năm, thời Champa (vương triều Đồng Dương), trên mảnh đất Đà Nẵng ngày nay, đã có một tòa thành gọi là Rudrapura उत्तरकाण्ड, thành phố Thần Bão tố (*). Núi thiêng của thành là ngọn Phước Tường, sông Thiêng của thành là dòng Cẩm Lệ, đất Thiêng của thành là Cồn Dầu. Thành Rudrapura có nội cảng Nại Hiên Tây và có tiền cảng Nại Hiên Đông, ngay bãi Tiên Sa, dưới chân núi Sơn Trà. Đất Quảng Đà vốn là đất Chăm, thiêng lắm. Cách đây vài năm, có ông lãnh đạo thành Đà ăn đất vô hậu, phá núi tàn canh nên bị quả báo, ung thư tủy sống. Ổng tốn hơn 3 triệu USD sang Mỹ chữa bệnh mà có mua được mạng sống đâu? Cái đó gọi là quả báo nhãn tiền. Nay, có bọn lãnh đạo khốn nạn nào đó đan tâm phá nát bãi Tiên Sa, băm sạch núi Sơn Trà cho thỏa lòng tham. Coi chừng có ngày bị ung thư ... Houston, 22/3/17ĐBT theo facebook.com
0 Rating 1.1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 21, 2014
TỪ PANDURANGA ĐẾN PHỦ BÌNH THUẬN (mối quan hệ Đàng Trong và Champa thế kỷ XVII) ĐỔNG THÀNH DANH (bài viết đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 450, tháng 8/ 2014, tr. 32 – 35) v     Đặt vấn đề             Lịch sử quá trình mở cõi về phương Nam của người Việt và mối quan hệ giao lưu giữa Đại Việt và Champa trên mọi bình diện ghi nhận những sự kiện quan trọng vào giai đoạn thế kỷ thứ XVII – XVIII. Nhưng cho đến nay, những sự kiện đó vẫn được ít ai biết đến hoặc chỉ được nhắc đến một cách rất sơ lược, đó là lý do tạo ra những nhận thức còn nhiều hạn chế và sai lầm về một giai đoạn đầy biến động trong tiến trình mở cõi của dân tộc Việt Nam, giai đoạn mạt kỳ của vương quốc Champa, cũng như mối bang giao hai nước trong giai đoạn ấy.             Những hạn chế trên có nguyên nhân của nó. Xuất phát từ những ghi nhận ít ỏi của các cổ sử Việt Nam viết về Champa sau năm 1471 (tức là năm Lê Thánh Tông chính phạt Champa, đánh đến tận kinh đô Vijaya) các nhà khoa học khi khai thác các nguồn tài liệu này thường đưa ra hai mốc niên đại đánh dấu cho sự suy vong của vương quốc Champa đó là 1471 (G. Coedes và G. Maspero)[1] và 1692 (Lê Thành Khôi)[2].             Nhưng trên thực tế, vương quốc Champa vẫn còn tồn tại sau năm 1471, vua Lê Thánh Tông chỉ sát nhập vùng đất phía Bắc đèo Cù Mông vào lãnh thổ Đại Việt (sau này vùng đất mới này được vua Thánh Tông đặt là thừa tuyên Quảng Nam hay là xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng), còn phần đất phía Nam đèo Cù Mông được chia ra làm ba nước Hoa Anh, Nam Bàn và Đại Chiêm. Vùng đất Đại Chiêm chính là vương quốc Champa bị thu hẹp lại ở hai xứ Kauthara (Khánh Hòa nay) và Panduranga (Ninh – Bình Thuận nay) do Bồ Trì Trì (một hàng tướng người Chăm) làm vua. Chính vì thế, Champa vẫn còn là một quốc gia độc lập, nhưng lệ thuộc vào Đại Việt dưới thân phận chư hầu[3].              Xa hơn thế nữa, dù năm 1692, biên niên sử triều Nguyễn là Đại Nam Thực Lục ghi nhận về việc Chúa Nguyễn sát nhập vùng lãnh thổ cuối cùng của Champa (Panduranga – Champa)[4]. Nhưng, trên thực tế nếu đối chiếu với văn bản hoàng gia Panduranga – Champa, vương quốc này vẫn còn tồn tại trong các vùng tự trị riêng biệt xen lẫn với phủ Bình Thuận của xứ Đàng Trong, được các văn bản của chúa Nguyễn ghi nhận dưới tên gọi trấn Thuận Thành.             Chính vì những lẽ ấy, trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một cách khái quát về vương quốc Champa sau năm 1471, đặc biệt là những diễn biến quan trọng trong mối bang giao Đại Việt và Champa thời kỳ chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ thứ XVII. Một giai đoạn lịch sử được ghi nhận với sự hoàn thành việc sát nhập lãnh thổ Champa (tiểu quốc Panduranga) vào xứ Đàng Trong và sự hình thành trấn Thuận Thành, phủ Bình Thuận. Hầu từ đó, minh định và làm sáng tỏ các vấn đề lịch sử vẫn còn ít được quan tâm và hiểu biết đầy đủ.   1.      Vương quốc Panduranga – Champa trước năm 1692 Sau cuộc chiến tranh Đại Việt – Champa năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy phần đất từ phía Nam sông Thu Bồn đến phía Bắc đèo Cù Mông (tức là vùng Thừa tuyên Quảng Nam thời Lê, xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận - Quảng). Phần đất còn lại của Champa ở phía Nam được chia làm ba vùng : Đại Chiêm, Nam Bàn và Hoa Anh[5]. Trong đó, Đại Chiêm lả lãnh thổ của của Champa bao gồm tiểu quốc Kauthara, Panduranga và sau này còn có thêm tiểu quốc Aiaru ở phía Bắc Kauthara, tức là lãnh thổ của nước Hoa Anh trước kia. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sau khi vào trấn thủ Thuận - Quảng sai Văn Phong đánh Champa và lấy đất Aiaru lập ra dinh Phú Yên[6]. Sau biến cố này lãnh thổ Champa thu hẹp vùng đất phía Nam Đại Lãnh, biên niên sử của hoàng gia Panduranga – Champa còn ghi lại niên biểu các vị vua thuộc thời kỳ này. Trong đó, có triều đại Po Mưh Taha với vị vua Po Rome nổi tiếng (1627 -  1653). Đây là vị vua có công giúp nhân dân Champa xây dựng đặp thủy lợi Maren (Ninh Thuận), xây dựng mối đoàn kết giữa các tôn giáo Champa và các cộng đồng dân tộc miền núi vùng cao với miền đồng bằng Champa, xây dựng một nền văn hóa Champa bản địa rực rỡ. Dưới thời kỳ trị vì của vị vua này, nền thương mại của Champa tiếp tục phát triển, Champa tiếp tục xuất khẩu các mặt hàng quý hiếm như kỳ Nam, trầm hương và nhiều hương liệu khác, trong thời kỳ này Champa  không chỉ giao thương với các quốc gia trong khu vực mà còn bắt đầu giao thương với các thuyền buôn phương Tây như Hòa Lan, Bồ Đầu Nha…[7]. Xây dựng được một quốc gia có nền văn hóa rực rỡ và có nền kinh tế phát triển, vua Po Rome và các vị vua kế vị liền tính ngay đến chuyện lấy lại vùng đất cũ. Trong giai đoạn đầu Champa đã cố gắng tìm kiếm cho mình một ý thức hệ tôn giáo, chính trị mới thay thế ý thức hệ Hindu giáo có nguồn gốc Ấn Độ bằng ý thức hệ Hồi giáo. Thông qua đường thương mại, vua Po Rome đã tiếp xúc với ý thức hệ mới này từ các nước Hải Đảo (Mã Lai) và du nhập nó vào Champa. Mặt khác, thông qua mối quan hệ này ông muốn tạo một liên minh quân sự với các tiểu quốc ở Mã Lai hầu xây dựng thực lực quân sự - chính trị nhầm làm đối trọng với chúa Nguyễn ở phía Bắc, không phải ngẫu nhiên mà thời kỳ này vũ khí là mặt hàng giao thương phổ biến giữa Champa với nước ngoài…[8]. Đây có thể là giai đoạn huy hoàng cuối cùng của nền văn mình này trước khi họ chính thức tính toán đến một kế hoạch hầu chiếm lại vùng đất Aiaru xưa (nay đã thuộc xứ Đàng Trong). Năm 1653,  Po Nraop (sử Việt gọi là Bà Tấm hay Bà Thấm) có lẽ là vị vua trị vì sau Po Rome, đã thực hiện thay ông tham vọng của mình hầu chiếm lại vùng đất cũ. Nhưng cuộc phản công này đã thất bại, hoặc chỉ là những dấu hiệu quấy phá nhỏ lẻ ở vùng biên giới. Nhưng đó cũng là cái cớ cho chúa Nguyễn cử binh chinh phạt Champa. Cùng năm đó, chúa Nguyễn sai quân chinh phạt Champa, sát nhập vùng Kauthara – Champa vào xứ Đàng Trong, đặt thành dinh Thái Khang[9]. Đến đây, lãnh thổ Champa chỉ còn thu hẹp lại ở vùng Panduranga. Từ lúc ấy, vương quốc Panduranga cũng chính là vương quốc Champa bị thu hẹp và được gọi là Panduranga – Champa. Nếu như trước năm 165 3, hoạt động ngoại thương của Champa còn phát triển thì sau niên đại này họ hoàn toàn bị co cụm và cô lập, chúa Nguyễn đã kiểm soát toàn bộ bờ biển và từ đây những lưu dân Việt cũng bắt đầu tiến dần về Nam thông qua đường biển đến xứ Gia Định- Đồng Nai để khai phá. Không chịu khuất phục trước chúa Nguyễn, dù vẫn thường xuyên tỏ ra quy thuận, các ông vua Champa vẫn chờ cơ hội phản công. Các vua Champa sau này, tiếp tục nỗ lực tìm kiếm những liên minh quân sự với các nước trong khu vực hầu làm đối trọng với xứ Đàng Trong. Năm 1682, một giáo sĩ Pháp ở Ayudhya đã báo cáo cho tòa sứ về việc nhà vua Champa đã dâng một lá thư thỉnh nguyện về sự liên kết giữa hai nước cho nhà vua Xiêm, đây là một chỉ dẫn thú vị cho bằng chứng về việc người Champa vẫn cố gắng trong nỗ lực tìm kiếm đồng mình trong những giai đoạn cuối cùng này[10].  Một tài liệu khác cho thấy sự cố gắng tìm kiếm một liên minh quân sự với vùng Malacca của vua chúa Champa trong giai đoạn hậu kỳ này, thông qua một tài liệu ghi nhận của William Dampier, nhà thám hiểm người Anh này cho ta biết ngày 13 tháng 5 năm 1687, một đoàn thuyền Champa ghé tại Pulo Ubi (Xiêm) để dừng chân từ đó tiếp tục đến Malacca[11]. 2.      Từ trấn Thuận Thành đến phủ Bình Thuận hay quá trình sát nhập và ổn định vùng đất mới (1692 – 1697) Khi đã nhận thấy mình đủ sức chống lại chúa Nguyễn, vua Champa lúc bấy giờ là Po Soat (1660 -1692) mà sử Việt gọi là Kế Bà Tranh hay Bà Tranh[12],  quyết định tập hợp quân lính, dựng đồn lũy và tấn công vào phủ Diên Ninh thuộc dinh Bình Khang (trước là dinh Thái Khang) với nỗ lực lấy lại vùng đất này. Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh, lúc bấy giờ đang là Cai cơ trấn thủ ở dinh Bình Khang, tập hợp quân đội đẩy lui cuộc nổi loạn và lấy cớ đó, chúa Nguyễn tiếp tục cử binh vào lãnh thổ cuối cùng của Champa ở Panduranga. Đại Nam Thực Lục chép chi tiết về sự kiện này như sau: “…Mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật bấy giờ gọi là Lễ tài hầu; chữ Tài, có chỗ viết là Thành, lại là Hòa) làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh…Quý dậu, năm thứ 2 [1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy. Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành…”[13].       Sau chiến thắng này, lãnh thổ Panduranga – Champa hoàn toàn sát nhập vào lãnh thổ của xứ Đàng Trong, chúa Nguyễn đổi khu vực này thành danh xưng trấn Thuận Thành, chia vùng đất mới này làm 3 khu vực riêng biệt, do các vị tướng đã tham gia cuộc hành quân cai quản. Theo đó, khu vực Phố Hài (Pajai) do Cai đội Nguyễn Trí Thắng nắm giữ, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí (Parik), Cai đội Chu Kim Thắng giữ Phan Rang (Parang)[14]. Tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận, như vậy chúa Nguyễn, chính thức sát nhập phần lãnh thổ mới này vào xứ Đàng Trong. Nhưng do điều kiện của một vùng đất mới tiếp nhận, còn có đông người bản địa cư tụ và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu dân Việt vào định cư sau này. Chúa Nguyễn (với sự tham mưu của Nguyễn Hữu Cảnh) thực hiện chủ trương sử dụng quan lại người Chăm ở địa phương, chúa Nguyễn lấy Tả trà viên Kế Bà Tử (Po Saktiraydapatih) em của Kế Bà Tranh làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về để vỗ yên lòng dân[15]. Mặc dù vậy, do buổi ban đầu tiếp xúc và có nhiều cách biệt, nhân dân bản địa vẫn chưa chấp nhận sự cai trị của chúa Nguyễn và các quan lại người Việt, điều này khiến họ nhanh chống dấy lên một phong trào đấu tranh phản kháng vào tháng 12 năm 1693[16]. Trước làn sống đấu tranh quyết liệt và dựa vào khẩn cầu của Kế Bà Tử, tháng 8 năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu quyết định hủy bỏ phủ Bình Thuận và tái lập lại trấn Thuận Thành, phong cho Kế Bà Tử làm Thuận Thành vương, hằng năm dâng cống cho chúa Nguyễn như một phiên quốc phụ thuộc[17]. Sau một thời gian nhận thấy tình hình đã ổn định, người bản địa không còn chống đối, những lưu dân người Việt đã vào lập làng, xóm ở vùng đất mới ngày một đông. Năm 1697, chúa Nguyễn lại đặt phủ Bình Thuận, chia phủ Bình Thuân ra làm hai huyện là An Phước và Hòa Đa. Bên cạnh đó, nhầm tránh tạo xáo trộn và tránh những xung đột như năm 1693, chúa Nguyễn vẫn duy trì trấn Thuận Thành, một khu vực hành chính tự trị của người Chăm, trực thuộc phủ Bình Thuận. Trấn Thuận Thành này, khác với trấn Thuận Thành năm 1694. Nếu trấn Thuận Thành của năm 1694 là một đơn vị hành chính tương đương với phủ Bình Thuận, còn trấn Thuận Thành của năm 1697, chỉ là một đơn vi hành chính tự trị riêng biệt của người Chăm, nằm rãi rác và xem lẫn với các khu định cư của người Việt trực thuộc phủ Bình Thuận. Đây là một quy chế tổ chức hành chính hết sức đặc biệt trong hoàn cảnh mới tiếp quản vùng đất mới, trong điều kiện cộng đồng người Việt đến định cư và khai phá, sống xen lẫn với các khu vực của người Chăm bản địa. Đại Nam Thực Lục, tài liệu duy nhất nói về trấn Thuận Thành không cung cấp nhiều chi tiết về khu vực hành chính đặc biệt này. Nhưng biên niên sử Champa cho thấy trấn Thuận Thành, sau năm 1697, chỉ là cách triều đình chúa Nguyễn gọi về vương quốc Panduranga – Champa với một triều đình, luật pháp, quân đội riêng…vẫn được duy trì, lệ thuộc vào phủ Bình Thuận của xứ Đàng Trong và tồn tại cho đến thời cải cách hành chính của Minh Mạng (1832 – 1833)[18]. Mặc khác, những tài liệu trích dẫn của phương Tây cũng cho thấy sự hiện diện của đặc khu hành chính tự trị của người Chăm này trong giai đoạn thế kỷ XVIII. Tài liệu của một chiến thuyền Pháp đã nhắc đến một triều đình người Chăm đóng đô ở Bal Chanar (Phan Rí) vào năm 1745. Họ còn miêu tả bên cạnh các ông vua ngươi Chăm này là một viên quan cố vấn người việc có vai trò quan trọng trong mọi quyết định của hoàng gia[19].   Nếu như đối chiếu và so sánh biên niên sử của chúa Nguyễn và của người Chăm Panduranga – Champa, cũng như những tài liệu của các thuyền bè phương Tây, chúng ta có thể nhận thấy rõ dấu hiệu hiện diện của mô hình đặc biệt này trong giai đoạn 1697 đến 1832. Đây là một đặc khu hành chính được hình thành trong giai đoạn người Việt vừa mới tiếp quản vùng đất mới, di dân Việt mới đến định cư ở vùng đất mới, cư dân người Chăm bản địa chưa quen sự thống trị của tộc người khác, hai dân tộc bước đầu cộng cư chắc chắn sẽ có nhiều hiểu nhầm và mâu thuẫn. Do đó, việc hình thành trấn Thuận Thành có vai trò chuyển tiếp trước khi chính thức sát nhập các địa hạt của người Chăm vào lãnh thổ Bình Thuận một cách ổn định không tạo nên những mâu thuẫn và xung đột giữa hai cộng đồng. Chính vì những lẽ ấy, vai trò của trấn Thuận Thành trong lịch sử mở cõi của người Việt và mối quan hệ giao lưu, hòa hảo giữa hai dân tộc có một vai trò và vị trí rất quan trọng, nó cần được lịch sử ghi nhận một cách chi tiết và công minh. v     Kết Luận Bài viết này của chúng tôi vừa phác thảo về một giai đoạn đầy biến động trong hành trình mở cõi của người Việt về đất phương Nam và mối giao lưu giữa hai cộng đồng tộc người Việt – Chăm thế kỷ XVII. Nó ghi nhận lại một giai đoạn trong lịch sử hai dân tộc với những xung đột, giao tranh, nhưng bên cạnh đó và hơn hết nữa là mối quan hệ giao lưu, cộng cư giữa hai cộng động tộc người, sự hình thành phủ Bình Thuận và trấn Thuận Thành lệ thuộc nó là một sự kiện lịch sử có thật cần được ghi nhận. Từ sự kiện ấy, lịch sử của vùng đất Ninh – Bình Thuận (ngày nay) sẽ được khắc họa một cách sinh động, từ đó chúng ta có thể nhận thức rõ ràng và đầy đủ về một giai đoạn chuyển tiếp từ xứ Panduranga (Champa) sang phủ Bình Thuận (Đàng Trong). Đó là một thời kỳ mà hai dân tộc Việt – Chăm cùng cộng cư, lao động, tiếp biến và trao đổi các giá trị văn hóa tạo nên một bản sắc văn hóa phong phú và đa dạng của địa phương nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung. v     Tài liệu tham khảo 1.      Abdullah Zakaria bin Ghazali, “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay” đăng trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur, (2003). 2.      Coedes (G), Les Etats hinduisés d’Indochine et d’Indonésie, De Boccard, Paris, 1964. 3.      Dampier (William), A New Voyage Round the World, The Argonaut Press, London, 1927. 4.      Dohamide – Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Saigon, 1965. 5.      Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005. 6.      Danny Wong Tze Ken, The Nguyen and Champa during 17 and 18 century, IOC – Champa, San Jose, 2007. 7.      Lê Thành Khôi, Le Vietnam: Histoire et Civilisation, Edit de Minuit, Paris, 1955. 8.      Lafont (P-B), “On relations between Champa and Southeast Asia”, trongProceedings of the Seminar On Champa, Paris, (1988). 9.      Maspero (G), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris, 1928. 10.Nhiều tác giả, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2003. 11.Po Dharma, Le Panduranga(Campa) 1802-1835, EFEO, Paris, 1987. 12.Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,  Đại Nam Thực Lục – Tiền Biên, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.   [1]
0 Rating 1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 15, 2015
 Written by Ts. Po Dharna     Nhân đọc bài viết của Quảng Đại Tuyên về “Bước đầu tìm hiểu về triết lí âm dương thông qua hình ảnh cánh diều Chăm” đăng trên web của Inrasara, những bài thuyết trình của Pgs. Ts. Thành Phần về “âm dương” ở TPHCM và quan điểm của một số trí thức Chăm thường nhắc đến “âm dương” ăn sâu vào văn hoá Chăm, một số độc giả trong nước xin Champaka.info trả lời cho biết dân tộc Chăm có triết lý “âm dương” hay không? Nếu có, thì đâu là nguồn gốc của sự du nhập triết lý “âm dương” vào nền văn hoá Chăm?   Để trả lời cho câu hỏi này, BBT Champaka.info xin Ts. Po Dharma, chuyên gia về lịch sử và nền văn minh Champa, cho biết thế nào là quan điểm của ông về triết lý âm dương Chăm.   Dân tộc Chăm không bao giờ có triết lý âm dương Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)   Trong quá trình lịch sử, Đông Nam Á là khu vực tập trung nhiều quốc gia và chủng tộc chia làm hai khối rỏ rệt. Dân tộc Chăm, Campuchia, Lao, Thai và Mã Lai Đa Đảo, v.v. chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, trong khi đó dân tộc Việt theo khuôn mẫu văn hoá của Trung Quốc. Phát xuất từ hai nền văn minh khác nhau, dân tộc Việt và Chăm đã đón nhận hai khái niệm hoàn toàn khác nhau về qui luật cấu trúc vũ trụ. Đối với dân tộc Việt, “âm dương” là triết lý nhằm giải thích cho sinh tồn của “vũ trụ”, trong khi đó dân tộc Chăm lại dựa vào qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực-cái / nam-nữ) để làm nền tảng để giải thích cho mối liên hệ giữa Chăm Ahier (Balamon) và Chăm Awal (Hồi Giáo). Chính đó là trọng tâm của vấn đề cần cứu xét lại trước khi đi đến kết luận dân tộc có chịu ảnh hưởng triết lý “âm dương” của dân tộc Việt hay không?   Triết lý âm dương của dân tộc Việt   Âm dương (tiếng Hán: Ying Yang) là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập, tạo nên toàn bộ vũ trụ, bao gồm những qui luật liên quan đến nền tảng của không gian học, thiên văn học, triết học, y học, vật lý học, v.v. Theo triết lý này, “âm” thể hiện cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm mại... đối lập nó là “dương” thể hiện sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn.. Qui luật giải thích “vũ trụ” dựa trên âm và dương được gọi là triết lý “âm dương”.   Ai cũng biết, “Âm dương” là qui luật phát sinh từ nền văn minh Trung Quốc. Kể từ đó, các chuyên gia về Đông Phương học đưa ra kết luận rằng “âm dương” là triết lý chỉ dành cho các dân tộc nằm trong không gian văn hoá của Trung Quốc, đó là xã hội người Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn trong đó có Việt Nam. Người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, không bao giờ có triết lý “âm dương” như dân tộc Việt mà chỉ có qui luật: tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ)   Biểu tượng âm dương của dân tộc Việt   Qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” của dân tộc Chăm   Qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ) là khái niệm phát xuất từ qui luật Linga và Yoni nằm trong nền văn minh Ấn Giáo, không liên hệ gì với triết lý âm dương của dân tộc Việt. Theo triết Ấn Giáo, Linga biểu tượng cho dương vật và Yoni biểu tượng cho âm vật, là hai hình tượng thiêng liêng nhất được tồn thờ trong nền văn min Ấn Giáo.   Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tín ngưỡng này gắn liền với triết lý dựa vào mối kết hợp giữa dương vật của đàn ông và âm vật của đàn bà, cấu thành động cơ của mọi sự sáng tạo. Theo triết lý này, vũ trụ sẽ bị diệt vong, nếu vũ trụ này chỉ có Linga (dương vật) nhưng không có Yoni (âm vật), hay ngược lại. Và vũ trụ này cũng bị tiêu diệt, nếu vũ trụ này có cả hai yếu tố Linga (dương vật) và Yoni (âm vật), nhưng không kết hợp với nhau một cách sung túc về tình dục.   Người Chăm là cộng đồng chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo. Tục thờ Linga và Yoni vẫn còn thể hiện hôm nay qua nhiều tục lễ của người Chăm nhất là lễ Kate và Ca-mbur trên đền tháp. Và mối liên hệ giữa Linga và Yoni vẫn còn đó, nhưng người Chăm gọi là qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực-cái / nam-nữ).   Đối với người Chăm, “tanaow-binai / lakei-kamei” là triết lý của hai thực thể đối lập nhau nhưng không thể tách rời với nhau. Hoàn toàn khác hẳn với triết lý “âm dương” của dân tộc Việt, qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” của dân tộc Chăm chỉ áp dụng vào không gian rất giới hạn nhằm giải thích cho mối liên hệ giữa Awal và Ahier, tức hai thực thể tín ngưỡng hoàn toàn khác nhau về triết lý và nghi lễ, nhưng lúc nào cũng gắn liền với nhau một cách có hệ thống, không thể tách rời nhau được. Awal và Ahier là hai thuật ngữ có nguồn gốc lịch sử riêng:   • Awal là từ Á Rập có nghĩa “trước, khởi đầu”. Chăm Awal ám chỉ cho những người Chăm đã theo Hồi Giáo “trước” triều đại Po Rome, tức là Chăm Bani hôm nay.   • Ahier cũng là từ Á Rập, có nghĩa là “sau, cuối cùng”. Chăm Ahier ám chỉ cho những người Chăm chấp nhận Po Uluah là đấng thượng đế “sau” triều đại Po Rome, tức là Chăm Balamon hôm nay.   Cho đến hôm nay, người ta không biết triết lý “tanaow-binai / lakei-kamei” đã xuất hiện trong xã hội Chăm từ lúc nào. Theo truyền thuyết Chăm cho biết, trước vương triều Po Rome, Hồi Giáo đã có mặt tại vương quốc Champa, nhưng sự hiện diện của Hồi Giáo chỉ nằm bên lề của xã hội. Các chức sắc Acar của Chăm Bani không đóng vai trò gì trong triều đình bên cạnh vua chúa Champa như các vị tu sĩ Basaih của Chăm Balamon. Sự cách biệt này đã gây ra bao xung đột giữa hai cộng đồng, buộc vương triều Po Rome phải giải quyết vấn đề bằng cách triển khai qui luật "tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ) để làm biểu tượng cho sự gắn bó giữa Chăm Awal và Chăm Ahier, tức là hai tín ngưỡng hoàn toàn đối lập nhau, nhưng không thể tách rời với nhau được, như mối liên hệ giữa nam và nữ.   Chăm Awal và Chăm Ahier là hai cộng đồng tín ngưỡng biểu tượng cho hai thực thể: tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ). Kể từ đó, tất cả những gì nằm trong hai tín ngưỡng này đều được phân chia thành hai thực thể khác nhau, hoặc Tanaow-lakei (nam) hay Binai-kamei (nữ), dù đó là các bậc tu sĩ, những vật dụng, thức ăn, màu sắc áo quần mà người Chăm thường dùng trong lễ tục. Tanaow-lakei (nam) hay Binai-kamei (nữ) là hai yếu tố đối lập nhau nhưng luôn luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời với nhau được trong tín ngưỡng của người Chăm, cấu thành yếu tố cơ bản để Awal và Ahier cùng nhau phát triển và tồn tại. Những thuật ngữ đối lập nằm trong hệ thống tín ngưỡng Awal và Ahier là:   • Tanaow (đực) – Binai (cái) • Lakei (nam) – Kamei (nữ) • Klam (ám chỉ cho nam, những gì có màu rực rở nếu là khăn vải, có thịt nếu là thức ăn và có nhiều hương ngọt nếu là bánh trái) – Yuer (ám chỉ cho nữ, những gì có màu lờ nhạt nếu là khăn vải, không có thịt hay ít ngọt nếu là thức ăn) • Pagruak (úp lại, ám chỉ cho cách nằm của đàn ông khi làm tình) – Pa-ndang (nằm ngữa, ám chỉ cho cách nằm của đàn bà khi làm tình)   Dựa vào qui luật vừa nêu trên, người Chăm đưa ra hàng loạt danh sách của các biểu tượng tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) trong cách cấu trúc tín ngưỡng Awal và Ahier như sau:   Biểu tượng Lakei-Kamei • Basaih biểu tượng cho lakei (nam) – Acar biểu tượng cho kamei (nữ). Vì Basaih ngồi trong nghi lễ như đàn ông (crah kanal) trong khi đó Acar ngồi như đàn bà (jaoh angua) • Basaih > kamei (nữ) – Acar > lakei (nam). Vì Basaih để tóc dài trong khi đó Acar cạo đầu như con trai • Basaih > kamei (nữ) – Acar > lakei (nam). Vì Basaih mang bị túi có hình dạng âm vật và Acar mang bị túi có hình dạng dương vật   Tu sĩ Chăm Awal ngồi theo phong cách đàn bà Tu sĩ Chăm Ahier ngồi theo phong cách đàn ông   Biểu tượng Klam-Yuer Trong các lễ tục, một số dụng cụ, khăn vải, áo quần hay thức ăn, v.v. cũng đều mang biểu tượng cho Lakei (nam) và Kamei (nữ), luôn luôn đi đôi với nhau:   • Kaya klam, ám chỉ cho “lakei”, bao gồm bánh tét, bánh bột gạo hấp (kur) và chuối – Kaya yuer, ám chỉ cho “kamei”, gồm có nếp, bánh bột gạo hấp (kur) và chuối • Aw klam, ám chỉ cho “lakei”, tức là áo có màu rất đậm – Aw yuer, ám chỉ cho “kamei”, tức là áo có màu hơi phai dợt • S’alaw klam ám chỉ cho “lakei”, vì s’alaw klam là mâm cúng có thịt – S’alaw yuer ám chỉ cho “kamei”, mâm cúng không có thịt.   Biểu tượng Atau pa-ndang–Yang pagruak Atau là thuật ngữ ám chỉ cho thần linh có nguồn gốc từ hệ thống Hồi Giáo và Yang là thần linh mang tính cách bản địa.   • Trong các lễ tục dành cho thần linh thuộc về “Atau”, thì người Chăm phải để nãi chuối nằm ngữa trên mâm cúng hay trải chiếu nằm ngữa (pa-ndang). • Trong các lễ tục dành cho thần linh thuộc về “Yang”, thì người Chăm Ahier hay Awal phải để nãi chuối nắm úp lại trên nâm cúng hay trải chiếu nằm úp lại (pagruak).   Biểu tượng Tanaow-binai   Vào dịp cúng tế Po Yang In, người Chăm thường tổ chức lễ Paper Kalang (lễ thả diều). Lễ tục này có nguồn gốc từ Mã Lai. Trong lễ này gồm có hai con diều mang tên là Kalang tanaow (diều đực) và Kalang binai (diều cái). Đây là hai biểu tượng nằm trong hệ thống tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) của dân tộc Chăm, không liên hệ gì đến triết lý “âm dương” của người Việt như một số người thường hiểu lầm, để rồi từ đó họ tự chế biến ra bao lý thuyết mơ hồ nhằm giải thích cho sự hòa hợp các yếu tố: trời-đất, đực-cái, đất-nước, mặt trời-mặt trăng, không trung-mặt đất, hình tròn-hình vuông, vân vân, không liên hệ gì đến truyền thống lễ Paper Kalang (lễ thả diều) của dân tộc Chăm.   Tóm lại, người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Giáo, không bao giờ có qui luật “âm dương” của Trung Quốc như dân tộc Việt. Nếu một số trí thức Chăm hôm nay thường bàn về triết lý “âm dương” trong nền văn hoá Chăm, thì đó chỉ là quan điểm mang tính cách suy diễn, không dựa vào cơ sơ khoa học nào, vì những lý do sau đây.   1). Yếu tố ngôn ngữ Trong kho tàng ngôn ngữ, người Chăm không có cụm từ để ám chỉ cho “âm dương”. Thế thì từ “âm dương” xuất hiện từ đâu đến? Có chăng “âm dương” chỉ là cụm từ do một số trí thức Chăm vừa sáng chế ra dưới chế độ xã hội chũ nghĩa, mang tính cách suy đoán, phát xuất từ sự nhằm lẫn giữa qui luật tanaow-binai / lakei-kamei (đực-cái / nam-nữ) của người Chăm và triết lý “âm dương” của dân tộc Việt.   Một khi ngôn ngữ Chăm không có từ vựng để ám chỉ cho “âm” và “dương”, thì người ta có quyền đưa ra kết luận ngay: văn hoá Chăm không có qui luật “âm dương” hay chịu ảnh hưởng ít nhiều về qui luật này.   2). Yếu tố lịch sử Người Chăm là thần dân của vương quốc Champa xưa kia. Sau tám thế kỷ đương đầu với cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt, chấp nhận cúi đầu sống dưới nền đô hộ của nhà Nguyễn kể từ năm 1692 và chịu bao thống khổ của chính sách đồng hoá và diệt chủng của hoàng đế Minh Mệnh kể từ năm 1832, nhưng dân tộc Chăm không tiếp thu từ những yếu tố gì mang tính cách văn hoá, tín ngưỡng hay nghệ thuật của dân tộc Việt, ngoại trừ một vài chi tiết rất nhỏ nhoi nằm bên lề của nền giao lưu văn hoá, như:   • Vây mượn vài từ tiếng Việt: klan thu = trần thủ, lik kleng = lý trưởng, aen ngai = ơn nghĩa, cip = chịu, v.v., • Vẽ biểu tượng “âm dương” trên trống baranang mà người Chăm cũng không biết tên gọi biểu tượng này là gì. Sự hiện diện của biểu tượng “âm dương” trên trống của người Chăm chỉ bắt đầu dưới thời vua Minh Mệnh, tức là vào lúc Minh Mệnh buộc dân tộc Chăm phải mời người Kinh diễn tuồng hát bội trong lễ múa Rija để phô trương cho tinh thần đoàn kết dân tộc Chăm-Việt. • Bắt chước vài món ăn có dầu mỡ: cien = chiên, sao = xào… • Văn hoá ăn đủa thay vì ăn bóc kể từ thời Ngô Đình Diệm   Hát bội (hình trên hết) trong lễ Rija Chăm dưới thời Minh Mệnh Biểu tượng âm dương trên trống Chăm kể từ thời Minh Mệnh   Ai cũng biết, tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) là qui luật ra mời vào thời Po Rome (1627-1651), tức là vào thời kỳ hưng thịnh của Champa, một quốc gia độc lập không bao giờ chấp nhận những yếu tố văn hoá của dân tộc Việt ở phương bắc xâm nhập vào đất nước này. Kể từ đó, là tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) là qui luật riêng của dân tộc Chăm dựa vào triết lý Linga và Yoni của Ấn Giáo, chứ không phải là qui luật chịu ảnh hưởng triết lý “âm dương” của dân tộc Việt.   3). Yếu tố biên giới Mặc dù nằm trong khu vực Đông Nam Á, nhưng dân tộc Chăm có khái niệm về biên giới hoàn toàn khác biệt so với các dân tộc khác. Theo truyền thống, biên giới Champa là ranh giới mang tính cách chính trị và tín ngưỡng, có yếu tố thần quyền trấn giữ, nhằm   • Ngân cấm bất cứ ai dùng bạo lực để xâm nhập vào lãnh thổ của mình. • từ chối mọi yếu tố văn hoá hay nghệ thuật của dân tộc khác du nhập vào lãnh thổ của mình, dù văn hoá này là triết lý âm dương của người Việt đi nữa.   Và biên giới thần quyền này vẫn còn có hiệu lực cho đến thời Việt Nam Cộng Hoà. Mặc dù chung sống trên địa bàn dân cư ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, nhưng phong tục Chăm không bao giờ chấp nhận người Kinh xây dựng nhà cửa trong biên giới thôn làng của họ. Ngay trong gia đình, con em người Chăm cũng không có quyền nói tiếng Việt, vì truyền thống Chăm xem đây là tiếng nói ngoại lai, không thể xử dụng trong biên giới văn hoá và xã hội của dân tộc này.   *   Dân tộc Chăm và Việt là hai cộng cồng chịu ảnh hưởng hai nền văn minh hoàn toàn khác biệt. Nếu dân tộc Việt có triết lý “âm dương” thì dân tộc Chăm cũng có qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ). Đây là hai triết lý phát xuất từ hai nguồn gốc khác nhau và có hai mục tiêu hoàn toàn khác nhau.   Để giải thích cho hai thực thể đối chọi nhau nhưng không thể tách rời với nhau trong văn hoá Chăm, thì các nhà nghiên cứi nên dựa vào qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” để phân tích vấn đề, chứ không nên xoá bỏ qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” để thay vào đó triết lý “âm dương” của dân tộc Việt, không liên hệ gì với yếu tố văn hoá của dân tộc Chăm.   Theo Champaka.info  
0 Rating 984 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2012
VĂN HÓA CHAMPA 1. Sơ lược lịch sử vương quốc Chămpa Trên dải đất Việt Nam ngày nay vào thời xưa đã từng tồn tại ba quốc gia. Về đại thể thì miền bắc là lãnh thổ Đại Việt, miền trung là địa bàn của vương quốc Chămpa và miền nam là một phần lãnh thổ của vương quốc Phù Nam. Các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học, dân tộc học, sử học… ngày càng chứng minh rõ ràng hơn về cội nguồn của ba quốc gia cổ đại ấy. Có thể nói một cách khái quát là văn minh Đại Việt bắt nguồn từ văn hóa Đông Sơn, văn minh Chămpa phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam mà một phần quan trọng là văn hóa Óc Eo có nguồn gốc từ văn hóa Đồng Nai. Vào thời ấy cương vực, bờ cõi, biên giới giữa các quốc gia cổ đại luôn là vấn đề không bao giờ rành mạch rõ ràng. Tuy vậy nếu theo phân bố hành chánh ngày nay thì có thể coi các tỉnh ven biển miền Trung – từ Quảng Bình đến Bình Thuận – và các tỉnh khu vực Tây Nguyên là thuộc địa bàn của vương quốc Chămpa cổ xưa.  Trong quá trình phát triển vương quốc Chămpa được ghi chép trong các biên niên sử với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, từ thế kỷ IX là Chămpa (hay Chiêm Thành). Vương quốc Chămpa có nhiều thành phần tộc người, xuất hiện từ đầu công nguyên. Tại khu di tích Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) có một tấm bia của vua Paksadarma Vikrantavarma I (nửa đầu thế kỷ VII) ghi lại truyền thuyết về sự hình thành vương quốc Chămpa. Theo đó thì đã có một người Ấn Độ tên là Kaudinay (có nghĩa là người Bàlamôn vĩ đại nhất) đến và lấy nữ chúa Soma, con gái vua rắn Naga và sáng lập ra một vương triều. Đây là một huyền thoại phổ biến ở khu vực Đông Nam Á – như sự hình thành vương quốc Phù Nam cũng là một người Kaudinay lấy nữ chúa Liễu Diệp – huyền thoại thể hiện truyền thống văn hóa bản địa mang đậm tính chất Mẫu hệ có từ trước khi nền văn minh phụ hệ/ phụ quyền từ Ấn Độ ảnh hưởng đến khu vực này. Lịch sử vương quốc Chămpa qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt, Khmer, Java… phản ánh những nét khái quát như sau. Thư tịch cổ của Trung Quốc đã ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực nam vùng đất mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua). Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới thành lập này có tên Lâm Ấp, “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc” như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử (khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Tư Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong và ngoài nước thì vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala hay là một vương quốc bao gồm một liên minh/ liên lập của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề cận nhau và tương đồng về văn hóa tộc người. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác – mà trên lý thuyết là những chư hầu của họ. Như đã nói ở trên, địa bàn vương quốc Chămpa ở miền Trung, khu vực địa hình hẹp chiều ngang tây – đông mà kéo dài theo chiều bắc – nam, lại bị chia cắt bởi các đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là những dòng sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng tây – đông. Những dòng sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng khu vực. Vùng hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp, cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên hệ với các tiểu vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng – tiểu quốc tập hợp thành vương quốc Chămpa. Những chuyến điền dã của giáo sư Trần Quốc Vượng và cộng sự tại miền Trung trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã phát hiện mô hình một tiểu quốc Chămpa dựa trên trục quy chiếu là các dòng sông lớn ở mỗi tiểu vùng địa hình. Theo mô hình này thì mỗi tiểu quốc phải có ba thiết chế – ba trung tâm, tính theo dòng chảy của sông từ núi (tây) ra biển (đông) là: trung tâm tôn giáo, hay là thánh địa, thường ở phía thượng nguồn các dòng sông – trung tâm chính trị, hay là thành cổ, thường ở vùng đồng bằng hạ lưu và ở phía nam dòng sông – trung tâm kinh tế thương nghiệp, thường là các cảng nơi cửa sông, cửa biển. Điển hình như tiểu quốc Amavarati vùng Quảng Nam, với dòng sông Thu Bồn ta thấy có thánh địa Mỹ Sơn, thành cổ Trà Kiệu và cảng thị Đại Chiêm – Đại Chiêm hải khẩu (Hội An). Do địa hình chung của cả vương quốc như vậy nên mỗi tiểu vùng – tiểu quốc phát triển tương đối độc lập và luôn tranh giành ảnh hưởng và địa vị đứng đầu cả vương quốc. Tiểu quốc và vị Tiểu vương nào hùng mạnh hơn sẽ có ảnh hưởng bao trùm và trở thành trung tâm và Quốc vương đứng đầu cả vương quốc. Tiểu vùng Amavarati lớn mạnh hơn cả có lẽ nhờ thương cảng Đại Chiêm hải khẩu Chămpapura, đã tập hợp được các tiểu quốc thành vương quốc, đặt kinh đô đầu tiên ở thành phố Sư tử Trà Kiệu Simhapura và Mỹ Sơn Srisambhubhadresvara là thánh địa. Đây là một trong những trung tâm quy mô và quan trọng nhất của vương quốc Chămpa. Các trung tâm lớn – tiểu vùng quan trọng – khác là Bình Định (Vijaya), Phú Yên – Khánh Hòa (Kauthara) và Ninh Thuận - Bình Thuận (Panduranga). (1) Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ theo Ấn Độ giáo, quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc. Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể là Brahma – Visnu – Siva. Tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả. Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Siva là Chúa tể của muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng ngẫu tượng sinh thực khí nam giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền, các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Siva. Người Chăm cổ có nền kinh tế đa thành phần, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa, dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang sức và mỹ nghệ vàng bạc… Đặc biệt người Chăm cổ giỏi nghề buôn bán bằng đường biển và đường sông. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn, người Chăm cổ đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… Sự phong phú và đa dạng của những di tích di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Vương quốc Chămpa nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa, buôn bán, trao đổi giao lưu với những quần đảo ở biển Đông và xa hơn, đến Trung Quốc và Ấn Độ do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn minh lớn của thế giới. Truyền thống văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài văn hóa nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước) còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của những tộc người cư trú ven biển và trong các quần đảo trong biển Đông, trong đó có người Chăm. theo http://diendankienthuc.net
0 Rating 981 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 3, 2014
MIỀN TRUNG VIỆT NAM VÀ VĂN HOÁ CHĂMPA (MỘT CÁI NHÌN ĐỊA - VĂN HÓA)  Trần Quốc Vượng   I. Lời mở Từ một hai thế kỷ đầu Công nguyên cho đến các thế kỷ XVII-XVIII, trên dải đất miền Trung Việt Nam hiện tại, chủ yếu là từ Đèo Ngang cho đến Hàm Thuận, nhiều thời bao gồm cả Tây Nguyên, đã nảy sinh, phát sáng rực rỡ rồi tắt dần một nền văn minh độc đáo, ta gọi là văn minh Chămpa mà sợi dây liên kết (theo F. Engels: "sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước" (xem Nguồn gốc gia đình tư hữu và Nhà nước, 1882) là các nhà nước mà sử sách Trung Hoa, Đại Việt gọi bằng những tên Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, với các miền lãnh thổ - cũng có thể là các "tiểu quốc" xuất hiện trong sử sách Hoa Việt dưới những cái tên Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, châu Ô, châu Lý, Chiêm Động, Cổ Lũy, Thi Bị, Thượng Nguyên, Bôn đà lãng..., hay trong bi ký Phạn - Chàm với những tên Chămpapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga, Virapura, v.v... Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn, các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, Chăm H'roi, Raglai, Jarai, Rhaday... Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc), Bình Thuận hay là các phế tích "thành lồi', "giếng Hời", "cánh đồng chăm" theo cách gọi của người Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết..., những "thánh địa" (sanctuaive) Mỹ Sơn, Đồng Dương, Phong Nha, những cụm/nhóm đền - tháp Chămpa trong thung lũng, trên sườn đồi, chân núi, ven biển, trong rừng sâu..., những dòng họ Ông, Ma, Trà, Chế... với những con người da đồng hun, mũi cao, mắt sâu, tóc xoăn, những huyền tích, những lễ hội Katé, nhiều di tích Chăm và ảnh hưởng văn hóa Chăm còn "nhìn" thấy được và có thể tìm hiểu, nghiên cứu được ở Thanh, Nghệ, Tĩnh, ở châu thổ Bắc Bộ, ở ngay nội đô và ven đô Hà Nội... Và ngôn ngữ Chăm vẫn là sinh ngữ (Ngôn ngữ là sản phẩm/thành phần văn hóa). Người ta bảo "chính trị qua đi, văn hóa ở lại" (Les poliques passent, les cultures restent)". Văn hóa Chămpa đã và vẫn là một bộ phận hợp thành, là những thành tố của phức thể (multiplex) văn hóa việt Nam... Dưới đây, tôi muốn trình ra một cái nhìn địa - văn hóa về Chămpa dựa trên những kết quả thăm dò điền dã nhiều năm qua từ những làng Việt vốn là khu biệt cư (isolat) Chăm ở châu thổ sông Hồng và đặc biệt ở miền Trung, từ chân đèo Ngang tới Xuân Lộc - Biên Hòa, lưu vực Đồng Nai thượng, hạ... Tôi rất yêu quý tộc người Chăm - một tộc người có một nền văn hóa đặc sắc trải mấy phong sương... Một anh bạn Chămpa học (không bao giờ nghĩ rằng tôi giỏi như và hơn anh ấy) bảo rằng có lẽ vì tôi nặng tình với Chămpa nên có duyên với các di tích Chămpa. Có lẽ vậy... II. Bối cảnh và tảng nền địa văn hóa miền Trung 1. Trong bài này, tôi xin phép không nói đến Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng thuộc miền Trung, đúng hơn Bắc Trung bộ. Có nhà địa lý học nói rằng trên một ý nghĩa nào đó thì châu thổ sông Mã, sông Lam chỉ là sự "nối dài" của châu thổ Bắc bộ. Tôi không dám nghĩ thế, song về văn hóa - khảo cổ học, từ trước Công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là thuộc không gian văn hóa Đông Sơn (chỉ cần kể hai khu di chỉ mộ táng lớn: Đông Sơn (Thanh Hóa), Làng Vạc (Nghệ An). Trước đó nữa, di chỉ Cồn Chân Tiên, xứ Thanh hoàn toàn có chất Gò Bông (Phùng Nguyên) - Đồng Đậu của sơ kỳ Kim khí trung châu sông Nhị và gốm Hoa Lộc (sơ kỳ Kim khí đặc trưng ven biển xứ Thanh) tìm thấy ở nhiều di chỉ xứ Đoài miền Bắc (Gò Mả Đống, Gò Ghệ, Gò Giạ). Trước đó nữa, thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về không gian văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc - văn hóa học đều xem miền núi Thanh - Nghệ là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc Bắc bộ. Cố nhiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là không gian Việt cổ (Lạc Việt) và cũng như Giao chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân, Ái châu (Thanh), Diễn châu, Hoan châu (Nghệ), Đức châu (Tĩnh) từ đầu Công nguyên (Hán) đã nằm chung trong "lồng" Bắc thuộc Giao Châu rồi An Nam đô hộ phủ thời Hán - Đường, và cùng giành quyền tự chủ chung ở thế kỷ X. Thế kỷ X và đầu thế kỷ XI. Ranh giới phía Nam của Đại Cồ Việt - Đại Việt là Đèo Ngang - Hoành Sơn hayNam Giới (vùng cửa Sót, Hà Tĩnh nay, bên bắc đèo Ngang một chút). Tuy nhiên, cũng cần để ý đến ba chuyện: + Nhiều nhà khảo cổ học cho rằng văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ) là cội nguồn của văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình) và văn hóa Bàu Tró lại là cội nguồn của văn hóa Sa Huỳnh (Trung Trung bộ): Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ có quan hệ hữu cơ về Di truyền văn hóa. + Thời gian gần đây đã tìm được trống đồng loại I Heger và đồ đồng Đông Sơn ở nhiều địa điểm Quảng Bình (Phù Lưu), trống Thanh Khê (thố) (Bố Trạch), Quảng Trị (Dak Krông, Hướng Hóa), rìu lưỡi xéo, trống đồng Thừa Thiên (Ô Lai, Phong Điền)... Ngược lại, cũng tìm khuyên tai hai đầu thú kiểu Sa Huỳnh ở Xuân An (nay là thị trấn Xuân An, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) dưới chân dải Hồng Lĩnh bên hữu ngạn sông Lam. Gốm Sa Huỳnh ở Cồn Yàng[1] (Hương Trà, Huế) có nhiều mô típ trang trí kiểu Phùng Nguyên - Đông Sơn. Do vậy: + Cái giả thuyết khoa học cho rằng Bình - Trị - Thiên là khu đệm trước công nguyên dăm thế kỷ giữa văn hóa Sa Huỳnh từ Trung Nam Trung bộ tỏa ra và văn hóa Đông Sơn từ Bắc Trung Bộ lan vào, hay đó là vùng giao thoa văn hóa Sa Huỳnh - Đông Sơn vẫn tỏ ra có lý, tuy các di tích cả Sa Huỳnh, cả Đông Sơn, tìm và đào được ở Bình Trị Thiên còn khá mờ, khá ít, thua xa Sa Huỳnh Quảng Nam hay Đông Sơn Thanh Nghệ. Có lẽ còn cần thâm canh khảo cổ sơ kỳ kim khí ở Bình Trị Thiên nhiều hơn nữa mới hiểu được cội nguồn văn hóa Chămpa. + Nghệ An có người Bồ Lô (Poulo = Đảo nhân) ở Cửa Lò, cửa Hội, có Bà Lỗ Man ở cửa Cờn Quỳnh Lưu, Diễn Châu mà sử biên niên ghi ở thế kỷ X (thời Lê Hoàn). Từ đầu Công nguyên, Cửu Chân (Thanh Nghệ), Nhật Nam (Quảng Bình - Quảng Nam) luôn luôn theo biên niên sử Trung Hoa - phối kết nổi dậy chống Bắc thuộc, đặc biệt năm Xích Ô 11 (248) Lâm Ấp đánh chiếm đến Hoành Sơn thì ở xứ Thanh có khởi nghĩa Bà Triệu. Lâm Ấp, Chiêm Thành thường đánh phá Cửu Đức, Đức Châu (Tĩnh) và có lúc chiếm Thanh Nghệ một thời gian (đầu IX). Do vậy cần lý giải thêm quan hệ tộc người và văn hóa Việt (Thanh - Nghệ - Tĩnh) - Chăm (Bình Trị Thiên) ở vùng này. Tôi cho rằng có cư dân ngữ hệ Mã Lai - tiền Chăm ở vùng ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh, chủ nhân các văn hóa Hoa Lộc, Bàu Tró. + Chưa kể sau này (từ XI-XII trở đi) văn hóa Mường - Việt được lan truyền từ Thanh Nghệ Tĩnh vô Bình Trị Thiên và giao thoa với văn hóa Chămpa vùng Bắc. + Hay lại có giả thuyết cội nguồn tiếng nói và tộc người Tiền Việt - Mường hay/và Việt - Mường chung là từ miền Tây Nghệ - Tĩnh - Bình lan tỏa ra miền Bắc của nhiều học giả trong và ngoài nước (P. Ferlus, P. Schneider, G. Diffloth...). + Và từ H. Quarich Wales, Olov Janse ở thập kỷ 30 cho đến nay vẫn có giả thuyết là Chămpa đã là một trong những người thừa kế văn hóa Đông Sơn như G. Condominas đã tìm ra di duệ nghệ thuật Đông Sơn ở cột đâm trâu Tây Nguyên. Vậy cứ còn phải nghiên cứu nữa, nghiên cứu mãi... mà vai trò khảo cổ học là có tầm quan trọng quyết định đối với văn hóa Chămpa. Tiếc rằng Bình Trị Thiên cũng như Tây Nguyên còn là miền yếu của Khảo cổ - Văn hóa học Việt Nam. 2. Kèm theo đây là một sơ đồ - mô hình địa văn hóa Việt Nam, thể hiện cái nhìn của tôi về các vùng địa - văn hóa đa dạng của một Việt Nam thống nhất hôm nay. Nhưng bài này chỉ nói về miền Trung và văn hóa Chămpa. 3. Nói đến miền Trung, ai cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc - Nam. Tây là dải Trường Sơn, người Pháp gọi là Chaine annamitique; GS.TS Trần Kim Thạch chia đoạn Trường Sơn Nam, từ Quảng Nam đến Vũng Tàu, gọi nó là Nam Sơn. Trường Sơn mênh mông rừng rậm, với nhiều tầng cây nhiệt đới. Có một dải đồi ở miền chân núi (piérmont) mà người Nga gọi là miền trước núi (pretgorie = sơn cước). Từng đoạn, từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh; đi từ Bắc vô Nam Trung bộ là ta cứ lần lượt vượt ra "một dèo, một đèo, lại một đèo": đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả... ấy là ta chỉ kể các đèo lớn, chứ thật ra còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo Hoàng Mai - Khe nước lạnh - Lèn Hai Vai khoảng giữa Thanh Nghệ, đèo Lý Hòa - núi Lễ Đế (hay núi Ma Cô - tên này có ghi trong sử) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng giữa Quảng Ngãi và Bình Định... Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông ra biển, sông ngắn, nước xanh biếc, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu, tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền (landing) rất tốt. Vận động tạo sơn còn "ném" ra biển xa các đảo và quần đảo. Chưa kể các quần đảo san hô xa khơi (Hoàng Sa, Trường Sa), chỉ nói các đảo gần bờ như Hòn Mê - Biện Sơn - Nghi Sơn (Thanh), Song Ngư, Hòn Mát (Nghệ Tĩnh), Hòn Cỏ - Hòn La (2 Hòn La), Hòn Nồm (2 Hòn Chùa), Hòn Gió (Quảng Bình), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hòa)... tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông. Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới năm 1994, song lại bị đảo Hải Nam"thút nút" ở bên ngoài. Chất văn hóa biển của Giao Châu - Đại Việt buổi đầu là nhạt. Bắt đầu từ miền Trung, đường bờ biển Việt Nam "ưỡn" cong, "lồi" ra phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn hóa Chămpa ngày trước, văn hóa các vùng Trung bộ Việt Nam ngày nay rất mặn mòi, như chượp, mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, các loại đặc sản miền Trung. Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 4). Ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xưa bà con ta gọi là "gió Lào") nên, nói như một câu ca dân gian Quảng Trị: "Tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn...". Bốn năm liền, từ 1992 đến 1995, cứ vào tháng 7 - tháng 8 tôi vô công tác Quảng Trị, Quảng Bình và hưởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn cát nóng khô. Càng nóng càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chămpa - Trung bộ (Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cách giải thích hiện tượng này). 4. Để dễ hình dung, tôi đã mô hình hóa miền Trung thành hình hộp chữ nhật đứng - cạnh Tây là núi đồi - cạnh Đông là biển, với các đèo - sông, chia nó thành các xứ - vùng hình chữ nhật ngang. Từ đó với phương pháp tiếp cận tổng thể (system analysis), tôi "nhìn" miền Trung như một phức sinh thái (multiplex), với 7 hằng số địa lý sau: a) NÚI ĐỒI là sự ngăn cách mà cũng là sự nối tiếp: ĐÈO chính là cái gạch nối: Đèo nối Đông Tây: - Mụ Giạ (Nghệ Tĩnh) - Cha Lo (Quảng Bình) - Lao Bảo (Quảng Trị) - nay là cửa khẩu Quốc tế - Đèo Kiền Quảng Nam, đèo An Khê (Bình Định) qua Gialai và Kontum, Daklak, Dakmil... Đèo nối Bắc - Nam: Đèo Ngang chẳng hạn, mà nhà thơ PTD nói vui: núi ngang (T-Đ), đèo dọc chứ (B-N), sao gọi Đèo Ngang? Hay ở đó có câu của cổ nhân (Bùi Dương Lịch): Thạch thành Lâm Ấp trúc Lục lộ Tử An bình (Lũy đá Lâm Ấp xây Đường bộ Tử An đắp) - Ngô Tử An thời Lê Hoàn được sai làm đường vượt đèo Ngang sang miền Địa lý của Chiêm Thành: "Mùa thu, tháng Tám, Nhâm Thìn (992), sai Phụ quốc là Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam giới đến châu Địa lý" (Toàn thư, Bản kỷ, q.I). Hè 1995, tôi đã di dọc dài lần theo cái gọi là "Lâm Ấp thế lũy" này, từ Hoành Sơn quan (Đông) đến vùng núi Chóp Chài, Quảng Lưu - Quảng Trạch (Tây); Dân gian cũng có người gọi là "Lũy Hoàn vương" - Lũy này là đắp nối các đỉnh của dải đồi trước núi Hoành Sơn về phía Nam (phía Quảng Bình), kè đá tảng rất to chắc, bề mặt có nơi đo được 25m, cao 3-5m (tuy nay bị phá đã nhiều). Sách Tấn thư (q.95) chép năm Vĩnh Hòa thứ 3 (347) vua Lâm Ấp là Phạm Văn đánh Nhật Nam, thông báo với thứ sử Giao Châu Chu Phiên (Phồn) đòi lấy Hoành Sơn làm phân giới, Phạm Văn sai lấy đá đắp lũy và cũng bắt đầu xây thành Khu Túc trên sông Thọ Linh (sông Giang theo Đào Duy Anh). Thơ văn Nguyễn Hàm Ninh (giữa XIX) nói về núi Chóp Chài và núi Vọng Bái ở Quảng Lưu, Quảng Trạch có câu: "Tảng đá vua Lồi còn sót lại[2] Việc công hầu giành giật núi Thành Thang" Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, chúa Nguyễn Nam sông Gianh) sử dụng - cải tạo lại thành Cao Lao (≈ thiềng Kẻ Hạ ≈ thành Khu Túc (theo đoán định của Đào Duy Anh), còn ở Bắc Bố Chính (Bắc sông Gianh), chúa Trịnh cải tạo sử dụng lại hệ lũy Lâm Ấp và núi Vọng Bái. Cũng thơ văn Nguyễn Hàm Ninh viết: Cột cờ chúa Trịnh đổ rồi Dấu dinh lũy còn chơn vơn trên hòn Vọng Bái (Vọng Bái, nay thuộc thôn Tam Đa, xã Quảng Lưu, Quảng Trạch). Thời chống Pháp, chống Mỹ, đây là chiến khu Trung Thuần, với các tướng lĩnh Trần Hường, Đồng Sỹ Nguyên... Các nhà quân sự, từ Chămpa, qua Trịnh - Nguyễn đến ngày nay đều "nhìn" ra tầm quan trọng của các vị trí chốt trên các địa hình vùng Đèo Ngang là việc thường của binh pháp. Theo cán bộ và dân gian Quảng Bình, khoảng năm 1970, tướng quân Võ Nguyên Giáp cũng đã vô đây tổ chức các binh đoàn để chuẩn bị chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (tháng 3-1971). b) Chúng ta cũng nên "nhìn" SÔNG - BIỂN như đã "nhìn" NÚI - ĐỒI - ĐÈO, đó là cái nhìn biện chứng, vừa thấy mặt cắt ngăn vừa thấy mặt nối tiếp. Do một trăm năm nay, từ thời thực dân Pháp, với tư duy giao thông bộ, hễ cứ thấy miền nào bị sông ngăn (mà họ lại ít xây dựng cầu đường) là nhà cầm quyền chia đôi bờ sông thành hai đơn vị hành chính khác nhau: ở Bắc: Sơn Tây/Vĩnh - Phúc Yên, Thái Bình/Nam Định (qua sông Hồng)... Bắc Giang/Bắc Ninh (qua sông Cầu)... Ở miền Trung: Nghệ/Tĩnh (qua sông Lam), Bình/Trị (qua sông Sa Lung), Trị/Thiên (qua sông Ô Lâu), v.v... Thật ra, qua tư duy giao thông thủy của bản sắc văn hóa sông nước của việt Nam và miền Trung, đôi bờ sông chỉ là hai nửa của một, từ một làng, một huyện đến một tỉnh, xứ... Từ Chămpa đến Đại Việt - Việt Nam chẳng hạn, đôi bờ sông Thu Bồn - sông Chợ Củi chỉ là hai nửa của một Amaravati - Quảng Nam, đôi bờ sông Côn chỉ là hai nửa của một Vijaya - Bình Định... Sông không chỉ được "nối" bằng các bến đò ngang và hình ảnh "các cô lái đò" đã vào rất sâu folklore và văn hóa Việt Nam. Sông còn là sự nối tiếp Núi - Biển bằng các con đò dọc, bằng bè mảng... Tôi rất thích câu ca dao của hai cảng Hội An, Thi Nại - hai cảng rất cổ từ thời Chămpa đến nay: Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le (mít non) chở xuống, cá chuồn gửi lên. Hè 1994, tôi lên công tác ở một huyện trung du xứ Quảng và làm ra cái vẻ có "hiểu biết" về kinh tế, tôi hỏi cán bộ huyện: "Sao các đồng chí không học lối nuôi "cá lồng" dọc sông của miền Bắc?" và được trả lời: "Có đấy, nhưng thất bại vì dân tôi quen ăn đồ hải sản rồi, mà ngày nào chả có thuyền ngược lên đây mua bán hải sản!" Sự ngu ngốc này của tôi có cội nguồn lịch sử: Tôi là người Hà Nội, thuộc châu thổ Bắc bộ đã ở quá xa biển (# 100km) và ở thế hệ bố - mẹ - ông - bà tôi, hầu hết người Hà Nội đều không thích/không ăn được đồ biển, từ cá thu phải nấu lót bằng lá chè tươi (nhiều chất tanin khử mùi tanh) và "chả Sài Gòn" (nem rán) có "đệm" thêm thịt cua bể với thịt lợn, giá, miến... Qua kinh nghiệm điền dã ở miền Trung và cả Tây Nguyên, tôi thấy dân vùng này hay "xài" đồ biển. Tôi cho đó là bản sắc địa - văn hóa, được người Việt thừa kế từ người Chăm, cũng như nươc smắm, mắm nêm, chượp... và rau diếp cá (cho đến nay đa số người châu thổ Bắc bộ không thích/không ăn được rau diếp cá, họ chỉ dùng làm một vị thuốc nam). Bà tiến sĩ Pamela Gutman, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Đại học Sidney (Australia) có thông báo cho tôi biết rằng: Các nhà khảo cổ học biển (maritime archaeology) đã tìm thấy một con tàu đắm chở các thùng nước mắm từ Chămpa sang bán cho Roma cổ đại. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong một cuốn sách của L. Ferrand về các nguồn tài liệu của Ả Rập - Ba Tư từ thế kỷ VIII - đến thế kỷ XIV, khách thương hồ quốc tế đều gọi biển Đông là biển Chămpa. Biển là cái gạch nối giữa không gian văn hóa Sa Huỳnh - Chămpa - Óc Eo với thế giới Đông Nam Á hải đảo - Mã Lai và các không gian văn hóa biển khác, từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ dương và v.v.... c- Ngoài NÚI - ĐỒI - ĐÈO - SÔNG - BIỂN, Chămpa cổ miền Trung nay còn có CỒN - BÀU - ĐẦM PHÁ... Để tiện theo dõi có hệ thống, tôi và bạn tôi là GS Mai Đình Yên sẽ đề cập đến các hệ sinh thái ở ngay sau đây. 5. a) Những nghiên cứu mới nhất (xem Mai Đình Yên, Trần Quốc Vượng và các tác giả khác, Môi trường học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994) đã phân loại các hệ sinh thái tự nhiên làm 3 nhóm: - Nhóm các hệ sinh thái trên cạn. - Nhóm các hệ sinh thái ở nước. - Nhóm các hệ sinh thái ngập nước. Như đã nói ở phần trên (mục 4) miền Trung nay - Chămpa cổ - nằm hẹp giữa núi và Biển, có đầy đủ các kiểu sinh thái trên cạn chính, như: - Hệ sinh thái núi cao; hệ sinh thái hang động. - Hệ sinh thái núi trung bình và thấp. - Hệ sinh thái đồi gò. - Hệ sinh thái châu thổ (đồng bằng). - Hệ sinh thái ven biển. - Hệ sinh thái các đảo. Với cấu trúc đặc trưng là các thảm thực vật - thành phần quan trọng của quần xã rất phồn tạp (GS.TS Thái Văn Trừng, nhà lâm - sinh học tài danh, từ 1978 đã phân thành 19 kiểu thảm thực vật). Các hệ sinh thái ở nước cũng được phân thành các nhóm, các kiểu khác nhau như sau: + Nhóm hệ sinh thái nước ngọt, nước đọng. - Ao - Vũng - Hồ - Đầm (miền Trung gọi là Bàu) - Ruộng nước - Đập nước (Chămpa, theo Ấn Độ, gọi là Barak) - Đất ngập nước Đất ngập nước, từ Quảng Bình đến Nam - Ngãi... nằm giữa hai dải cồn cát Đông/Tây (theo L. Cadieriè) hay Đại/Tiểu Trường Sa (theo Lê Quý Đôn). Dưới chân các Cồn (Dune), thường có các Bàu (Stew) hay các rạch nước. Các nhà khảo cổ thường phát hiện được các di chỉ cư trú ở ven bàu và di chỉ mộ táng ở trên cồn. Vài ví dụ về văn hóa Bàu Tró và Sa Huỳnh - tiền Chămpa: Quảng Bình - Bàu Khê, Bàu Tró, Cồn Nền, Ba Đồn, Cường (Khương) Hà... Quảng Trị - Bàu Đông, Cồ
0 Rating 977 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On February 10, 2015
  Di sản Champa trong lòng Quảng Trị Trong diễn trình lịch sử của Quảng Trị có một thời gian khá dài gần một thiên niên kỷ đất này thuộc lãnh thổ vương quốc cổ Chămpa. Trước khi khi chịu sự phán quyết nghiệt ngã của lịch sử trong quy luật tồn tại, bộ phận dân cư của dân tộc này đã vừa phải kiên trì vật lộn với những thử thách nghiệt ngã của tự nhiên, vừa phải đương đầu với nhiều thế lực của xã hội trong cuộc giành giật sinh tử để không ngừng tạo lập và phát triển vương quốc. Quá trình xây dựng và đấu tranh để sinh tồn của bộ phận cư dân Chămpa trên vùng đất quảng Trị không chỉ tạo ra được những cơ sở có tính chất tiền đề cho sự phát triển vững chắc của vùng đất này mà còn để lại nhiều dấu tích về một nền văn hóa hết sức phong phú và độc đáo, góp phần tạo nên sự đa dạng của văn hóa Quảng Trị.Đến nay, văn hóa Chămpa đã không còn là một bộ phận tồn tại độc lập và song hành với chính chủ nhân của nó. Tất cả đã hòa chung vào dòng chảy của văn hóa người Việt Quảng Trị - lớp người kế nhiệm/kế tục/kế thừa những gì trước đó, biến hóa cái của tiền chủ thành cái của hậu chủ. Sự “hợp thức hóa" khá mềm dẻo, khôn ngoan của người Việt trên nền các di sản văn hóa người Chăm ở cả lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần để làm đa dạng, phong phú cho vốn liếng di sản của mình âu cũng là một thế ứng xử rất văn hóa của người Quảng Trị nói riêng, người Việt Nam nói chung. Văn hoá Chămpa ở Quảng Trị cho đến nay tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau nhưng nhìn chung tập trung vào các loại hình tiêu biểu đáng chú ý là: Đền tháp - thành luỹ - hệ thống các công trình khai thác nước và mộ táng. 1. ĐỀN THÁP Quảng Trị hôm nay, các đền tháp Chăm không còn soi bóng xuống các dòng sông Sa Lung, Bến Hải, Vịnh Định, Thạch Hãn, Cổ Hà nữa, song vẫn còn có rất nhiều những địa điểm có dấu tích về sự hiện diện của các công trình đền tháp. Qua nhiều năm nghiên cứu, khảo sát thực địa ở các địa phương trên cơ sở xác minh những địa điểm đã được người Pháp thống kê cũng như những địa điểm mới được phát hiện thêm, chúng tôi đã thống kê được một danh mục gần 30 phế tích thuộc dạng đền tháp. Trong số này bao gồm: Duy Viên (xã Vịnh Lâm), Nam Sơn, Huỳnh Xá (xã Vĩnh Sơn), thuộc huyện Vĩnh Linh; An Xá (xã Trung Sơn), Phường Sỏi (xã Do Phong), Hà Trung (xã Do Châu) thuộc huyện Do Linh); Kim Đâu (xã Cam An), Định Xá, Lâm Lang (xã Cam Hiếu) thuộc huyện Cam Lộ; Trương Xá (phường IV), Đông Hà (Phường III) thuộc thị xã Đông Hà; Trâm Lý (xã Hải Quy), Trà Lộc (xã Hải Xuân), Câu Hoan (xã Hải Thiện), Trung Dân (xã Hải Thành), Trường Sánh (xã Hải Trường) thuộc huyện Hải Lăng; Thạch Hãn (phường 2) thuộc thị xã Quảng Trị); Dương Lệ, Võ Thuận (xã Triệu Thuận), Trà Liên (xã Triệu Giang), Ngô Xá (xã Triệu Trung), Bích La (xã Triệu Đông), Nhan Biểu, Đa Nghi (xã Triệu Thượng), Quảng Điền (xã Triệu Đại), Phương Sơn, Thượng Trạch (xã Triệu Sơn) thuộc huyện Triệu Phong. Các địa điểm di tích này được gọi tên theo tên địa danh của các làng. Một vài nơi khác như An Lộng, Bích Khê, Đại Hào, Liêm Công... có được các nhà nghiên cứu người Pháp lưu ý đầu thế kỷ nhưng nay đã không còn dấu vết gì . Do những biến động mạnh mẽ và thường xuyên của các điều kiện tự nhiên, xã hội nên cho đến nay, tất cả các địa điểm mang dấu tích đền tháp kể trên chỉ còn tồn lưu dưới dạng phế tích với những cồn đất mang các tên gọi như Cồn Giăng, Lùm Giăng, Lòi Giăng...; với các đống gạch vụn nát, các thành phần kiến trúc, các phù điêu, các đối tượng nguyên là các vị thần Chăm nằm ngổn ngang và bên trên đó thường là những ngôi miếu thờ của người Việt. Những năm gần đây, nhiều địa điểm di tích bị huỷ hoại một cách nghiêm trọng, một phần do bom đạn của chiến tranh, nhưng phần khác là do nhân dân địa phương đào bới để lấy đất, lấy gạch hoặc tìm những cổ vật quý Chăm pa. Cách đây gần trọn một thế kỷ, vào năm 1905, linh mục Cadière đã tiến hành khảo sát và lập một danh mục khá đầy đủ về các địa điểm có dấu tích đền tháp Chăm trên toàn khu vực Bình Trị Thiên, trong đó Quảng Trị là địa bàn có số lượng nhiều di tích hơn cả. Từ đó cho đến nay, lần theo những trang tư liệu có tính chất gợi mở này, các nhà nghiên cứu đã một mặt xác định lại tính chân thực của những địa điểm đã phát hiện; mặt khác cũng đã tìm thêm được một số địa điểm mới. Có di tích do bị đào bới mà tình cờ phát hiện, lại có di tích đã được các nhà nghiên cứu tiến hành khai quật; nhưng dù cố gắng đến mấy thì trên một thực tế của sự hoang tàn, đổ nát như vậy, các kết quả nghiên cứu, thẩm định cũng chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát, mô tả, cao hơn một chút là sự đánh giá, phác thảo một chân dung mờ nhạt dựa trên cơ sở những gì có thể nhìn thấy được, cảm nhận được chứ khó có thể đạt đến do chính xác hoàn toàn như những gì mà di tích vốn có. Tuy nhiên, với những gì hiện còn, có thể thấy rằng ở một địa bàn không lấy gì làm rộng lớn như Quảng Trị thì việc tồn lưu một số lượng đền tháp như thế quả thật xứng đáng để gọi là "xứ tháp" của khu vực Bình - Trị - Thiên. Đó là một đặc điểm nổi trội hơn hẳn trong toàn khu vực.  Địa bàn phân bố của các đền tháp nằm rải rác khắp nơi từ vùng ven biển lên tận vùng đồi trung du, nhưng mật độ nhiều nhất vẫn là ở đồng bằng - nơi nguyên là những làng cổ Chăm. Cũng như các nơi khác trong lãnh thổ của vương quốc Chămpa, đa số các đền tháp ở Quảng Trị thường được dựng trên những mô đất cao vùng gò đồi hay ven triền các cồn cát. Một số khác dù nằm giữa vùng đồng ruộng (như tháp Kim Đâu, Trung Đơn, Ngô Xá, Bích La, Quảng Điền) thì địa điểm tọa lạc đều ở các cồn đất có địa hình dương từ 5 - 10m. Trên từng bậc địa hình từ đông sang tây ở đâu chúng ta cũng có thể bắt gặp các dấu tích đền tháp: Phía tây cồn cát ngoài gần biển (Đại Trường Sa) là di tích ở Phương Sơn/An lưu. Giữa hai dãi cồn/đụn cát (thuộc vùng đồng ruộng) là các di tích ở Bích La, Trung Đơn, Dương Lệ, Quảng Điền, Ngô Xá... Trên dải cồn/đụn cát trong (Tiểu Trường Sa) là các di tích ở Trà Lộc, Câu Hoan, Hà Trung, Đa Nghi... Vùng tiếp giáp các đồi trung du là các di tích ở Phường Sỏi, Huỳnh Xá, Duy Viên, Lâm Lang, Trương Xá, Đông Hà, Nhan Biểu...Vùng trên cùng, ở cuối địa hình đồi là tháp An Xá. Quy mô các đền tháp Chăm ở Quảng Trị nói riêng, vùng phía bắc vương quốc Chăm pa nói chung thường có kích thước vừa và nhỏ, ít có những khu đền tháp lớn, tập trung với những ngôi tháp đồ sộ, uy nghi như Mỹ Sơn, Đồng Dương, PÔ Naga... Đền tháp là công trình kiến trúc tôn giáo của người chăm chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ nên các kalan là hình ảnh thu nhỏ của "trung tâm vũ trụ” trên núi Mêru, nơi ngự trị của các thần linh theo tín ngưỡng thờ các vị thần ở hạ giới nên được tuân thủ theo những quy định chặt chẽ. Do là bố cục hướng tâm, các trục xoay ra bốn hướng, mặt tiền cũng như cửa chính quay về hướng đông - hướng của các vị thần linh và cũng là hướng của tầm nhìn chiến lược về biển của người Chăm. Bên cạnh những khu đền tháp được xây dựng tập trung theo mô hình một kalan thờ thần chính (thường là bộ ngẫu tượng Linga - Yoni: thể .hiện quan niệm thờ sinh thực khí, biểu trưng của sáng tạo bằng sự sinh sôi, nảy nở) ở trung tâm và vài kalan thờ các thần phụ (thuộc bộ 3: Brahma - đấng sáng tạo, Shiva - đấng hủy diệt, Visnu - đấng bảo tồn hoặc các vị thần liên quan gần gũi với "tam vị nhất” theo này) vây xung quanh là những đền tháp được xây dựng theo mô hình đơn lẻ, dưới dạng độc tháp. Các khu tháp được xây dựng có quy mô lớn, tập trung vốn là "thánh địa" của một vùng, nơi hành hương, hành lễ hàng năm, còn các tháp nằm đơn lẻ vốn chỉ là các đền thờ của một hay nhiều grama (làng xã), nơi nhân dân vẫn đến lễ bái thường ngày. Có bốn địa điểm thuộc di tích đền tháp ở Quảng Trị qua các dấu tích hiện còn có thể thấy chúng là những trung tâm tôn giáo của mỗi vùng trong toàn bộ địa bàn này. Đó là: - Hà Trung - ngôi đền Indrakantesvara của Hoàng hậu Tribhuvanadevi và An Xá - trung tâm tôn giáo của vùng châu Ma Linh. - Trương Xá (thượng nguồn sông Hiếu) và Dương Lệ - trung tâm tôn giáo của vùng bắc châu ô. - Câu Hoan - trung tâm tôn giáo của vùng nam châu ô. Trong số này, ngoại trừ ngôi đền Indrakantesvara thì các khu đền tháp khác đều lấy biểu tượng của bộ sinh thực khí Linga - Yoni làm đối tượng thờ chính, đặt ở tháp trung tâm và vây quanh nó là từ ba đến bốn kalan trở lên. Đặc biệt, Ở khu tháp Dương Lệ, với những dấu vết hiện còn qua các cấu kiện kiến trúc, nền móng..., nhất là kích thước to quá cỡ của bệ Yoni, có thể coi đây là một cụm tháp lớn hơn cả và hẳn là nó đã giữ vai trò như một thánh địa không chỉ của vùng bắc châu Ô xưa mà còn là của cả một vùng khá rộng lớn thuộc vùng bắc vương quốc Chăm pa (ít nhất là từ nam châu Rí đến châu Ma Linh dưới các thế kỷ từ VII đến XIII). Ngoài các khu đền tháp có quy mô lớn như đã nêu trên, các đền tháp còn lại ở Quảng Trị hoặc được xây dựng theo mô hình một vài tháp với quy mô nhỏ, hoặc dưới dạng tháp đơn lẻ (chỉ có 1 kalan). Những tháp này cũng đều thờ Linga/Mukhalinga - Yoni. hoặc những vị thần khác như Nandin, Shiva, Buddha, Dvarapata... Các đền tháp Chăm ở Quảng Trị qua những dấu tích còn lại cho thấy đa phần đều sử dựng nguyên liệu chính là gạch nung. Một số tháp sử dụng kỹ thuật kết hợp gạch nung với đá (sa thạch - mè), nhưng thường rất ít, chỉ ở những cấu kiện trụ cửa, bậc cửa, lin tau, các khối đá bó vỉa ở móng tháp, bệ thờ, đài thờ, vật trang trí... (như Hà Trung, An Xá, Bích La, Dương Lệ, Trà Liên, Trung Đơn...), còn một số tháp khác hầu như chỉ xây bằng gạch (như Trà Lộc, Quảng Điền, Lâm Lang, Trương Xá, Trường Sánh, Nhan Biểu...). Trong số các công trình có sử dụng vật liệu đá thì Hà Trung là tiêu biểu. Ỡ đây theo khảo tả của H.Parmentier là thuộc một dạng kiến trúc đặc biệt, có năm tảng đá khổng lồ bằng sa thạch (hiện còn bốn tảng) nguyên là cột của một gian nhà lớn kiểu như ngôi nhà cột Đồng Dương và PÔ Naga; bên cạnh nhiều cột ốp (ít nhất là 10 cột) cùng với rất nhiều các cấu kiện khác có kích thước lớn được sử dụng bằng đá, cụ thể là tập trung vào công trình mà ông cho là thuộc một kiến trúc thấp như Mỹ Sơn B5 hay kiến trúc dài của Tháp Bạc. Đó là chưa kể các bệ cột, các đài thờ, các trang trí kiến trúc khác. Ngô Văn Doanh thì cho rằng: "Hà Trung là khu kiên trúc Chăm pa duy nhất hiện được biết dùng nhiều đá nhất để làm các bộ phận kiến trúc khác nhau” Việc những người thợ Chămpa xây cất nên các công trình sử dụng nhiều khối đá sa thạch có kích thước lớn tại một vùng đất hoàn toàn vắng bóng nguồn vật liệu này, quả là một bí ẩn kỳ tài về phương cách vận chuyển và tạo tác. Cách thức, kỹ thuật xây dựng những tháp gạch Chămpa ở Quảng Trị cũng giống như nhiều nơi khác trên khu vực miền Trung, cho đến nay vẫn còn là những ẩn số. Tuy nhiên, trên thực tế tại các phế tích đền tháp đã sụp đổ, một đặc điểm chung là người ta khó tìm thấy (hoặc có thì cũng rất ít) những viên gạch còn nguyên vẹn mà chỉ toàn là những mảnh vỡ vụn nát không định hình, thậm chí ở một vài nơi, dù đào bới đến phần móng cũng chỉ thấy những lớp gạch dã mụn ra thành đất. Điều này bởi nhiều lý do, trong đó có sự tác động mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, điều kiện lịch sử phức tạp và đầy biến động của vùng đất này; nhưng xét cho cùng thì cũng có thể thấy rằng các tháp Chăm ở Quảng Trị đều được sử dụng loại gạch có độ nung thấp. Ớ một số nền móng tháp như Hà Trung, An Xá, Dương Lệ... tuy còn một ít gạch nguyên được tìm thấy trong các đợt khai quật nhưng độ nung không cao. Đó là những viên gạch có kích thước lớn hơn nhiều so với gạch người Việt hiện đại; độ dày, mỏng, to, nhỏ tương tự nhau; chúng thường có màu nâu non và ở bên trong có lõi màu nâu đen. Giữa các viên gạch hoàn toàn không tìm thấy những dấu hiệu về việc sử dụng chất kết dính mà chỉ như là được xếp chồng lên nhau theo từng lớp. Vấn đề về cách thức và kỹ thuật xây dựng tháp Chăm mặc dù còn tồn nghi với nhiều giả thiết đang tiếp tục được các nhà nghiên cứu tìm tòi, song có thể nói bên cạnh những đặc điểm chung thường thấy ở các nơi thì chắc chắn những người thợ xây dựng các tháp Chăm ở Quảng Trị đã có một trình độ kỹ thuật cao, một sự sáng tạo vượt bậc và có sự linh hoạt chút ít trong phương pháp để tùy thuộc vào điều kiện của địa phương mình. Điều đáng ngạc nhiên là cho đến nay, trên các phế tích đền tháp ở Quảng Trị, chúng tôi vẫn chưa phát hiện ra những viên gạch Chăm có trang trí. Điều này có lẽ do tất cả những lớp gạch có trang trí ở các đền tháp đã bị mủn nát, không còn nguyên hình dạng nên không thể nhìn thấy được các hoạ tiết trang trí. Về niên đại xây dựng các đền tháp Chăm thì cho đến nay chưa có một dấu hiệu nào để có thể làm căn cứ xác nhận được một trong số hơn. 20 địa điểm mang dấu tích đền tháp ở Quảng Trị có trước thế kỷ VIII. Dĩ nhiên, không thể loại trừ một số ngôi tháp được xây dựng vào thời gian trước đó mà do nhiều lý do khách quan cũng như chủ quan, chúng ta chưa có điều kiện tiếp cận. Tháp có niên đại sớm nhất mà chúng tôi biết được qua phong cách nghệ thuật điêu khắc đá là Bích La Trung. Tấm phù điêu lá nhĩ (tympan) tạc hình Shiva múa điệu vũ trụ (tandra) hiện đang trưng bày ở Bảo tàng nghệ thuật Chăm Đà Năng được mang về từ tháp Bích La đã được các nhà nghiên cứu xác định là thuộc phong cách Hòa Lai (đầu thế kỷ IX). Tuy nhiên, theo pho tượng Shiva khất thực tìm được ở Trâm Lý mà chúng tôi nghi là thuộc tháp Trà Lộc thì địa điểm này có khả năng thuộc thời kỳ sớm nhất: phong cách Mĩ Sơn El (thế kỷ VIII). Tháp có niên đại muộn hơn cả là Trung Đơn được xác định bởi phù điêu thủy quái Makara mang phong cách Trà Kiệu (thế kỷ XI). Các ngôi đền tháp khác như Hà Trung, Dương Lệ, Câu Hoan, Trà Liên, Duy Viên, An Xá... qua những dấu vết còn lại đều cho thấy chúng hoặc sớm hoặc muộn đều thuộc thời đại Đồng Dương (cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X). Có một địa điểm được xác định niên đại xây dựng tương đối chính xác là khu đền tháp Hà Trung. Thông qua nội dung của cột bia ký chạm dày đặc chữ Chăm cổ ở cả bốn mặt, nhà nghiên cứu Majumdar xác định ngôi đền được xây dựng vào năm 838 saka (năm 916 tây lịch) dưới thời vua Indravarman. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học của Trung tâm Văn hoá Việt Nam (Đại học quốc gia Hà Nội) và Bảo tàng Quảng Trị trong đợt khai quật khu tháp An Xá tháng 7-1993 cũng đã khẳng định cụm tháp này được xây dựng trong thời đại đầu Đồng Dương. Như vậy, có thể nói trong bốn thế kỷ từ VIII đến Xi là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật kiến trúc đền tháp Chămpa trên vùng đất Quảng Trị. Sau đó, vì không thể chống cự nổi trước sức mạnh Nam tiến của người Việt nên lãnh thổ Chăm pa ngày một thu hẹp dần kể từ cuộc chinh phạt của Lý Thường Kiệt đầu thế kỷ XI cho đến khi mất hết quyền sở hữu đất đai, kể cả quyền sở hữu các công trình văn hóa để tan biến vào trong cộng đồng người Việt tại xứ này sau thế kỷ XIV. Điều này lý giải vì sao các đền tháp ở Quảng Tri không có niên đại muộn hơn thế kỷ XI. 2. THÀNH LŨY Trên toàn địa bàn tỉnh Quảng Trị qua những cứ liệu thực tế và sự lưu truyền trong dân gian cho thấy hiện có hai địa điểm liên quan đến những công trình kiến trúc thành lũy mà cho dù trải qua thời gian đã trở nên hoang phế nhưng vẫn còn để lại những vết tích đáng tin cậy. Đó là địa điểm Bến Lũy thuộc làng Cổ Lũy, xã Vinh Giang, huyện Vĩnh Linh và địa điểm nằm ở phía tây nam khu chợ Thuận thuộc làng Vệ Nghĩa, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Cả hai công trình hiện chỉ cỏn những dấu tích mờ nhạt, nhưng dựa vào những chứng cứ về khảo cổ học trên trục lịch đại với các hiện vật thuộc nền văn hóa trước và trong thời kỳ Chămpa cũng như sự quy chiếu về mặt địa lý, lịch sử... trong khu vực tọa lạc của những địa điểm này, các nhà nghiên cứu đã bước đầu phục dựng lại được quy mô, cách thức xây dựng, phác họa được bối cảnh ra đời, sự tồn tại và ý nghĩa của các công trình nói trên và khẳng định chủ kiến tạo ban đầu là thuộc về một dân tộc bản địa có trước người Việt: người Chăm. Đây chính là hai tòa thành được gọi theo hai tên: thành Cổ Lũy (gọi theo tên địa danh) và thành Thuận Châu (gọi theo cách hiểu là thành cũ của châu Thuận từ thời nhà Trần). Thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu đều được xây dựng trên vùng đồng bằng ven biển, gần các con sông chính trong vùng là sông Bến Hải/Hiền Lương (sông Hồi/sông Minh Lương) và sông Thạch Hãn, đặc biệt là gần hai cửa biển: Cửa Tùng (cửa Tùng Luật), Cửa Việt (cửa Việt Yên) nhằm tạo ra tại những nơi này các lỵ sở hành chính gắn kết với các thị tứ để vừa thiết lập nên trung tâm chính trị, đồng thời làm nhiệm vụ trấn giữ những địa bàn xung yếu ven biển - nơi nối thông từ bên ngoài với các vùng đồng bằng dân cư rộng lớn ở hai phía bắc và nam của khu vực Quảng Trị. Người Chăm với con mắt nhìn chiến lược về biển cũng như có nhiều lợi thế về mặt quân sự biển nên các trung tâm chính trị, quân sự được đặt không xa so với cửa biển. Từ đây theo các trục sông về phía tây là những trung tâm tôn giáo (đền tháp/thánh địa) nối kết chặt chẽ với các trung tâm thương mại (cảng sông, cảng biển) về phía đông để tạo ra thế liên hoàn. Sự gắn bó mật thiết giữa trung tâm chính trị, quân sự, trung tâm văn hóa và kinh tế đã trở thành một mô hình tương đối trọn vẹn, có ý nghĩa nhiều mặt trong chiến lược quốc phòng và phát triển dân sinh. Thành lũy của người Chăm ở Quảng Trị là kết quả của nghệ thuật sử dụng triệt để những gì đã có của tự nhiên như địa hình, cung đường, sông nước... để phát triển lên một trình độ hoàn thiện, làm cho nó trở thành những pháo đài phòng thủ chắc chắn, tiện cho việc giao thương về kinh tế, văn hóa, xã hội trên vùng mà nó chi phối. Thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu là hai tòa thành cổ giữ vai trò trọng yếu trong hai khu vực thuộc châu Ma Linh và Châu Ô xưa. Kiến trúc của thành đều được đạp bằng đất, thường có hình chữ nhật, bốn mặt là các lũy đất. Cấu tạo của lũy là nền đất nện chặt, kè đá củ đậu (đá cuội) hoặc đá ong lẫn lộn. Chiều cao của lũy không lớn (cao nhất chỉ chừng hơn 5m). Ớ một vài nơi của hệ thống tuy, qua thực tế hiện còn cho thấy có dấu hiệu về sự tồn tại của những mảng tường thành được đạp bằng gạch, tuy nhiên đấy có thể chỉ là những điểm nguyên là cổng thành hoặc là bề mặt của thân thành phía bên trong. Xung quanh lũy là hệ thống hào thành rập rờn sông nước được tận dụng từ chiều uốn khúc của các con hói, nhánh sông. Bên trong là bãi đất bằng rộng dùng xây dựng các dinh thự, kho tàng. Bên ngoài thành là khu vực thị tứ, nơi giao lưu buôn bán tấp nập nhờ mạch nối của các trục đường giao thông thủy, bộ. Thời điểm có sự hiện diện của thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu trên vùng phía Bắc vương quốc Chăm pa có thể đã bắt đầu từ thế kỷ IV - V trong thời kỳ hình thành và phát triển của vương triều Gangaraja. Những tài liệu hiếm hoi về các tòa thành cổ Chămpa đã không cho phép chúng ta khẳng định qui mô, cách thức và kỹ thuật xây dựng, càng không thể biết được điều gì chính xác về thời gian hình thành. Tác giả Phan Khoang trong "Việt sử xứ Đàng Trong" cho rằng "từ đời Phạm Văn, người Chăm đã biết thuật xây thành, đắp lũy, họ kiến trúc những tường thành bằng gạch, có những tháp canh bằng đá để bảo vệ những thành thị". Chúng tôi cho rằng rất có thể người Chăm đã biết kỹ thuật đắp các lũy thành bằng đất sớm hơn. Song dù sao, qua một số nguồn thư tịch cổ Trung Hoa và Đại Việt cho chúng ta biết rằng vùng đất Bình Trị Thiên chính thức thuộc về người Chăm từ giữa thế kỷ IV, dưới thời Phạm Văn nên việc xây dựng các công trình quân sự để phòng thủ, chống lại sự xâm lấn của thế lực phong kiến Trung Hoa hẳn đã phải thực hiện trong khoảng thời gian này. Cố nhiên, các thành lũy Chăm pa chắc chắn là sự nâng cao hơn, hoàn thiện hơn từ những đôn lũy của chính quyền đô hộ Trung Hoa tại quận Nhật Nam. Nó cũng như về sau này, khi còn xẩy ra cuộc tranh chấp Chăm - Việt (thế kỷ XI - XIV), nhà Trần đã sử dụng và sửa sang lại thành Thuận Châu và Hóa Châu. Học giả Đào Duy Anh cho rằng "chỗ thành Thuận Châu của nhà Trần, xưa kia có lẽ là trị sở Ô Châu của Chiêm Thành. Chúng tôi ngờ rằng thành Chu Ngô của nhà Hán ở vào khoảng ấy”. Như vậy, rất có thể thành Thuận Châu được xây dựng trên nền tảng của thành Chu Ngô - một thời gian từng là quận trị của quận Nhật Nam; còn thành Cổ Lũy là sự nâng cấp từ một đồn lũy quân sự trấn giữ, bảo vệ cảng biển Cửa Tùng dưới thời nhà Hán. Thành Cổ Lũy có thể đã chấm dứt vai trò của mình từ trước thời nhà Trần (thế kỷ XIII); còn thành Thuận Châu vẫn được người Việt sử dụng suốt trong các thế kỷ XIV - XV - XVI. Sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng chọn ái Tử để xây dựng thủ phủ Đàng Trong của nhà Chúa Nguyễn (cách Thành Thuận 2km về phía tây) thì tòa thành này chỉ còn được sử dụng làm lỵ sở của một huyện: huyện Vũ Xương (sau đổi thành Đăng Xương). Tầm nhìn chiến lược về biển của người Chăm đến đây đã được thay thế bằng con mắt nhìn chiến lược về vùng núi và trung du của người Việt. 3. CÁC CÔNG TRÌNH KHAI THÁC NƯỚC Trên vùng đất luôn khô rát, cháy bỏng bởi gió Lào mà người Quảng Trị từ xưa đến nay phải gánh chịu thì nhu cầu về nước luôn là nỗi khát vọng ám ảnh và trở thành nỗi trăn trở ngàn đời buộc các thành phần cư dân nơi đây phải luôn tìm cách tạo ra cho mình những cách thức kỹ thuật cốt làm sao khai thác được nguồn nước phù hợp với điều kiện địa lý, thủy văn của vùng đất mình cư trú. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, các thế hệ người dân Quảng Trị thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau đã không ngừng vật lộn với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, không ngừng sáng tạo và liên tục kế thừa những thành tựu văn hóa của nhau trong lĩnh vực khai thác nguồn nước, trong đó có thành quả quan trọng của một bộ phận cư dân Chăm pa. Hệ quả của sự sáng tạo và kế thừa này đã sản sinh ra hàng loạt những công trình khai thác nước cổ với tính chất, quy mô, kỹ thuật giống và khác nhau tồn tại cùng thời gian cho đến tận ngày nay. Hệ thống các công trình khai thác nước cổ ở Quảng Trị rất phong phú và đa dạng theo sự ảnh hưởng của điều kiện địa hình. Nếu không tính các công trình thuộc sản phẩm riêng biệt của người Việt giai đoạn sau này thì hệ thống khai thác nước cổ (mà chúng tôi cho là của người Chăm) ở Quảng Trị bao gồm các loại hình với các đặc điểm sau đây: a. Hệ thống các công trình khai thác nước gồm nhiều thành phần cấu trúc phức tạp, liên hoàn, đa hình dạng, đa chức năng, nằm ven các triền đồi đất đỏ bazan hoặc ven các triền đồi cát vùng đồng bằng và ven biển để nhằm khai thác mạch nước nổi (phun lộ thiên hay phun ngầm). Hệ thống này bao gồm những công trình mang tính chất “dẫn thủy nhập điền" có vai trò thủy lợi cao, được nhân dân các địa phương quen gọi là giếng với các tên gọi: giếng Bà, giếng Ông, giếng Lợi, giếng Gai, giếng Kình, giếng Đào, giếng Côi, giếng Dưới, giếng Trạng, giếng Máng, giếng Tép, giếng Pheo, giếng Đàng, giếng Mới... Ở vùng đất đỏ bazan tây Do Linh (Do An, Do Sơn); giếng Đắn, giếng Ba Vòi, giếng Mài Rạ... Ở vùng đất đỏ đông nam Vinh Linh (Vinh Hiền, Vinh Thành), giếng Mới, giếng Làng, giếng Chùa, giếng Đá Ở vùng cồn cát đông Do Linh (Do Mỹ). Hệ thống này vận dụng triệt để những ưu điểm tự nhiên vốn có tại các bề mặt địa hình để tạo ra những cấu trúc, cách thức kỹ thuật phù hợp trên cơ sở sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ. Có loại cấu trúc gồm nhiều thành phần phức tạp, liên hoàn với nhau tạo thành hệ thống (systèms) với sự có mặt của các bể lắng (bassin supérieur), máng/vòi dẫn diệc dễ cu ve), bể hứng (bassin d'alimentation), vũng (puits'), các mương phai bên cạnh những hồ chứa, đập nước cùng tham gia vào quá trình lưu thông dòng chảy (như giếng Đào, giếng Trạng làng An Nha, giếng Máng làng Long Sơn, giếng Gái làng Thanh Khê xã Do An...); lại có loại chỉ cấu trúc đơn giản, gồm một, hai thành phần với. bể và mương dẫn (như giếng ông, Giếng Bà, giếng Tép Giếng Gai làng Hảo Sơn xã Do An...) hoặc chỉ là những hố đào sâu xuống đất có kè đá xung quanh dạng vuông hay tròn nằm độc lập để nhận nước ngầm thấm ra từ vách của một giếng bên trên (như giếng Đắn, giếng Mới, giếng Trạng làng Liêm Công xã Vĩnh Thành...). Có loại không hề sử dụng nguyên liệu đá mà chỉ đắp bằng đất, hoặc kè chắn xung quanh thành giếng bằng một ít gạch, các tấm gỗ, cọc tre (như các giếng ven cồn cát làng An Mỹ xã Do Mỹ, các giếng Khai, giếng Mới, giếng Chùa Ở làng Thủy Tú, Vĩnh Tú, Vĩnh Linh); cũng có loại sử dụng nguyên các viên đá từ trong tự nhiên (đá ong, đá bazan) hoặc được chế ra theo cách chế tác giản đơn để xây những bể lắng bể hứng, mương dẫn bằng kỹ thuật xếp, kè đá (các giếng đá xếp ở các làng Hảo Sơn, An Nha, An Hướng, Phường Xuân, Thanh Khê xã Do An); bên cạnh đó, lại có loại xây dựng công phu bằng cách xếp chồng những bi đá hình tròn được chế tác theo kỹ thuật đẽo, mài trình độ cao để tạo ra bể chứa (có nơi lại có lỗ thoát nước ra ngoài qua thành giếng) hay xếp những viên đá được chế tác có bề mặt nhẵn dùng lát nền quanh thành giếng (như giếng Pheo, giếng Mới, giếng Đàng, Giếng Boong Ở tây Do Linh (Tân Văn, Do An), giếng Đá Ở đông Do Linh (Như Thượng, Do Mỹ).
0 Rating 896 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 30, 2017
    Nhi?u ng??i Vi?t Nam th??ng ngh? r?ng, ??t n??c này là n?n nhân c?a nh?ng cu?c xâm l?ng, nh?ng th?c t? l?i không hoàn toàn nh? v?y. Nhi?u ng??i ngh? s?ng c?nh Trung Qu?c khó, nh?ng s?ng c?nh ng??i Vi?t m?i th?c s? là n?i b?t h?nh ??i v?i b?t k? m?t s?c dân nào, dù v?n minh, hay còn ? tr?ng thái bán khai . Nh?ng ng? nh?n! ??i Vi?t ngày Th? k? X - XI và các qu?c gia, vùng lãnh th? láng gi?ng Ng? nh?n th? nh?t: Ch?ng xâm l?ng, qu?t c??ng ?ánh tr? ngo?i xâm ?úng nh?ng thi?u m?t v?: ng??i Vi?t ?i xâm l?ng nhi?u h?n ch?ng xâm l?ng. T? khi l?p qu?c (938) t?i nay, ng??i Vi?t g?p ph?i m?y ??i th? l?n nh? Trung Qu?c, Pháp, và c? Hoa K? và c?ng ch? có ba ?? qu?c này t?ng ?óng chân t?i Vi?t Nam trong nh?ng quãng th?i gian nh?t ??nh. Trong khi ?ó danh sách n?n nhân c?a ??i Vi?t thì dài d?ng d?c. 1.   1. Ng?u H?ng – m?t qu?c gia là t?p h?p c?a các b?n m??ng ng??i Thái t?i Tây B?c, ??n th? k? XV danh x?ng Ng?u H?ng bi?n m?t trong các b? s? Vi?t. T? hàng ch? h?u vào c?ng lãnh th? Ng?u H?ng tr? thành c??ng th? ??i Vi?t, tàn d? còn r?i r?t l?i là Khu t? tr? Tây B?c b? xóa s? n?m 1975.        2. ??i Nguyên L?ch; vùng lãnh th? ??c l?p n?m ? khu v?c Cao B?ng, b? Lý tri?u xóa s? vào n?m 1022. 3.    3. ??i Lý: Sau tr?n chi?n 1014, ??i Vi?t ?ánh b?t th? l?c ??i Lý kh?i khu v?c sông H?ng – Sông Lô, hoàn toàn qu?n tr? ???c khu v?c Tuyên Quang và sáp nh?p Hà Giang vào b?n ??. 4   4. Khu v?c ?ông B?c là lãnh ??a t? tr? c?a các t?c Tày Nùng b? khu?t ph?c hoàn toàn vào n?m 1041, sau khi cha con Nùng T?n Phúc – Trí Cao th?t b?i trong vi?c gây d?ng n?n ??c l?p.  5.    5. Chiêm Thành: Sau m?t ngàn n?m t?n công, ??i Vi?t xóa s? hoàn toàn liên bang này. 6.    6. Ngay c? T?ng (t?c Tàu, t?c Trung Qu?c) c?ng là n?n nhân c?a ??i Vi?t. Cu?c vi?n chinh n?m 1075 c?a Lý Th??ng Ki?t b?t gi?t 10 v?n ng??i T?ng; riêng Ung Châu có 58 nghìn ng??i, quân Lý gi?t s?ch, ch? ch?a m?ng nào. 7.   7. B?n Man nay là Xiêng Kho?ng c?a Lào, Lang Xa, Lão Qua ??u tr? thành n?n nhân c?a cu?c chinh ph?t n?m 1478 d??i tri?u Lê Thánh Tông. 8.    8. Chân L?p hay Kh? Me. ?àng Trong ?ã b?ng m?i ph??ng cách c? quy?n l?c m?m, l?n v? l?c quân s? chi?m ???c khu v?c ?ông – Tây Nam B?. Sang ??n th?i Nguy?n – Minh M?nh, trên lãnh th? Kh? Me, thành Tr?n Tây ???c l?p v?i toan tính 50 n?m bi?n ng??i Kh? Me thành ng??i Vi?t. 9.    9. Th?y Xá Qu?c – H?a Xá Qu?c – m?t thành t? - ho?c m?t b? ph?n trong liên bang Ch?m, b? bu?c ph?i th?n ph?c ??i Nam, sau này ng??i Pháp ?em khu v?c Tây Nguyên sáp nh?p vô b?n ?? An Nam, Th?y Xá – H?a Xá không còn. 1   10. Siam. ??i Nam và Siam tranh ch?p ?nh h??ng khu v?c Cao Miên (Kh? Me) và Ai Lao (Lào). ??i Nam dành th?ng l?i quân s?, sáp nh?p ??i b? ph?n lãnh th? Cao Miên vào b?n ?? g?i là tr?n Tây Thành. Cu?c vi?n chinh g?n ?ây nh?t c?a ng??i Vi?t k?t thúc ch?a ??y 30 n?m v? tr??c, ân nhi?u oán c?u c?ng l?m. Trong 1000 n?m có t?i m??i m?y qu?c gia, vùng lãnh th? là n?n nhân các cu?c chinh ph?t, lãnh th? Vi?t Nam hình ch? S r?ng ch?ng 336.363km2 (g?p kho?ng g?n 10 – 15 l?n th?i l?p qu?c) là do chinh ph?c, t?m máu lân bang mà có ???c. Ng? nh?n th? 2. T? th?a mang g??m ?i m? cõi S?ng c?nh ng??i Vi?t Nam khó kh?n ??n d??ng bao! Hàng xóm b? ta ?ánh ??n t?t nguy?n là còn may, r?i thì ch?t m?t xác, không còn chút t?m tích nào. L??i g??m m? cõi c?ng là l??i g??m xâm l?ng, chu?c bi ai cho láng gi?ng. Xem s? ta, s? tây, s? tàu coi khi Tàu, Tây xâm l?ng có v? nào h? b?t nào 5 v?n ng??i Vi?t ?em v? n??c? Có v? th?m sát nào nh? ta gi?t B?n Man? Có hành ??ng s? nh?c nào nh? vi?c Lý Thái Tông mu?n hi?p M? Ê, Quân chúa Nguy?n nh?t r? vua Po Romé? Có dã man nào nh? lính nhà Nguy?n gi?t ng??i Ch?m vào m?i bu?i sáng ?? l?y ti?n? + Th?m sát B?n Man: n?m 1478, d??i tri?u Lê Thánh Tông, ??i Vi?t ti?n ?ánh B?n Man, k?t thúc chi?n tranh, v??ng qu?c này t? 9 v?n h? còn .... 2000 ng??i. N?u th?ng kê này chính xác thì h?n 99% dân s? B?n Man b? quân ??i ??i Vi?t gi?t, ch?t ?ói, ch?t vì b?nh t?t, ho?c ch?y t? tán tìm ???ng s?ng. + Vua Po Romé c?a Panduranga Champa (ti?u v??ng qu?c Champa cu?i cùng). Tr? vì t? 1627 - 1651, ông b? quân chúa Nguy?n b?t, nh?t vào c?i s?t ?em v? Phú Xuân. Quá ph?n u?t, nhà vua ?ã tìm ??n cái ch?t. Tàu, Tây dù xâm l?ng h? v?n ?em l?i cho ng??i Vi?t l?i ích ch?ng h?n nh? h?c thu?t, ph??ng cách tr? n??c làm nên n?n v?n hi?n ngàn n?m, hay ch? qu?c ng?, ?ô th?, th??ng c?ng ki?u ph??ng tây, ???ng s?t r?i ki?n trúc, ?iêu kh?c, v?n h?c... Còn ta khi xâm l?ng thì ch? chém gi?t, ??y ti?ng oán h?n; th?m chí có dân t?c ch? còn m?ng nào mà nuôi d??ng s? oán h?n ?y. Ng? nh?n th? 3: Tàu ?áng s? vì luôn l?m le thôn tính ta Th?c t? quan h? Vi?t – Tàu trong ngàn n?m khá là ?n, hai bên ?ánh nhau c? th?y 8 l?n (k? c? Mông – Nguyên ?ánh Vi?t 3 l?n), bình quân c? 120 n?m m?i ph?i ??ng ??n binh ?ao m?t l?n (chi?n s? th??ng kéo dài 6 tháng). Sau chi?n tranh c? hai bên ??u l?y hòa bình, phát tri?n buôn bán (v?i nhau) làm tr?ng. Vi?t c?ng tàu, thì Tàu c?ng tr? l? v?i giá tr? t??ng ???ng, th?m chí nhi?u h?n. Hài h??c nh?t là Tàu không ?áng s? b?ng Tây. Pháp ?ánh Vi?t Nam n?m 1858 sau 30 n?m thì ??i Nam ??u hàng, n?m 1956, Pháp rút quân hoàn toàn kh?i Vi?t Nam, t?ng th?i gian quãng tr?m n?m; th?i gian cai tr? tr?c ti?p g?n 70 n?m. Nh?ng Tàu ch? có th? ?ô h? Vi?t Nam trong 20 n?m (1407 – 1427), ?VSKTT chép k? thu?c Minh ch? có 3 n?m (1414 - 1417), t? 1407 ??n 1414 thu?c v? nhà H?u Tr?n; 1417 tr? ?i chép vào K? nhà Lê. Ng? nh?n th? 4, dân t?c anh hùng nh?ng l?i yêu chu?ng hòa bình. Th?c t?, n?u không ph?i ch?ng xâm l?ng thì ng??i Vi?t s? ?i xâm l?ng, tàn phá lân bang; nhàn, không ?ánh nhau v?i ai thì anh em trong nhà chém nhau cho ... ?? khát. Riêng Lê – M?c ?ánh nhau 66 n?m (1527 – 1592); Tr?nh – Nguy?n giao tranh 7 l?n su?t th?i gian t? (1627 – 1672) có khi l?y ??i l?y, tr?ng tr?n h?a mai sáng r?c tr?i ?êm ròng rã ??n 5 n?m tr?i; Tây S?n kh?i lo?n 30 n?m (1771 – 1802), Chi?n tranh Vi?t C?ng – Qu?c Gia 20 n?m (1955 – 1975). T?ng c?ng th?i gian n?i chi?n ??c 160 n?m ??y là ch?a k? lo?n 12 s? quân, lo?n cu?i Lý, cu?i Tr?n, cu?i Lê s?, Tàn d? nhà M?c cát c? Cao B?ng – Tuyên Quang (60 n?m); chúa Tr?nh d?p nông dân kh?i lo?n th? k? XIIX, N?a cu?i th? k? XIX, nông dân làm lo?n kh?p n??c, th?m chí câu k?t v?i ngo?i xâm ?? m?u cát c?, chia c?t ??t qu?c gia nh? cu?c phi?n lo?n (1861 – 1856) c?a Lê V?n Ph?ng. Tính t?ng c?ng l?i th?i gian n?i chi?n ??c b?ng 1/4 t?ng th?i gian t? ngày l?p qu?c ??n nay, con s? này là g?n g?p ?ôi th?i gian ch?ng xâm l?ng và b? ngo?i bang ?ô h?. N?i chi?n thì chém gi?t còn ??m máu h?n c? ch?ng xâm l?ng; ??n t?n ngày nay, ng??i Vi?t v?n ch?a h?c ???c cách ch?p nh?n nhau và s?ng hòa bình v?i ... chính ng??i Vi?t. M?i ng??i m?t góc nhìn, ?úng sai tùy ý b?n, nh?ng s? th?t v?n là s? th?t.   Theo Hantimesblog.blogspot.com
0 Rating 880 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 2, 2013
Chó hú bu?i tr?a Tác gi?: qu?ng ??i gi?i Lúc nh? tôi thích ?i câu cá l?m ch? nh?t nào c?ng ?i .hôm ???c ngh? tôi xin ba ?i câu cá, ba tôi h?i :”mày ?i câu ? ?âu ?“ d? g?n nhà ông t? lát ák ba. “?! G?n ?ó thôi ??ng qua g?n cây mít” ,sao v?y ba? ”ng??i ta nói ?n c?p mít thì mày tính làm sao nh? ?ó c?m” con bi?t r?i! Lulu ?i thôi .su?t m?t bu?i sáng lèo phèo tr? ???c con cá nào.?ang b?c mình tr?t nh? ra m?y ??a b?n nói qua ch? cây mít có nhi?u con cá to l?m? , Th? là l?i c?i ??n ch? ?ó . cây mít kà lulu ch? ?ó câu mát ?ó ?i thui! ,tôi t? ngh? ...tr?i cây mít to th? này mà tr? có trái nào ,ch?c không có ai nói mình ?n c?p ?au nh? !,ng?i xu?ng câu,câu su?t c? bu?i tr?a mà tr? ???c con nào b?c,v?a câu v?a ch?i m?y th?ng b?n,” m?y th?ng này ch?i mình ?ây mà” ,m?t lát sau ??t nhiên lulu hú lên nó c? hú và nhìn lên cây mít ,?ang lúc b?c tôi héc lên mày im ?i lulu” nh? ai ?ó ?ang ti?n l?i g?n” ,nó lùi l?i g?n tôi và c? hú nh? v?y ,tôi c? nhìn v? phía tr??c tr? th?y gì c?,b?t ch?t có cái gì ?ó thoáng qua m?t l?n...l?n n?a, hình nh? là bóng c?a m?t ng??i ?àn bà ?ang bé ??a con thì ph?i? Bi?n m?t trong choát lát , tôi t? an ?i mình ch?c là ?o giác thui! ,lát sau nghe vân v?n ?âu ?ây ti?ng m?t ??a tr? khóc....?m ?m...! ,tôi ngh?:tr?i !tr?a n?ng th? này mà ai b?m con ?i bi?t n?a? bà m? c?t ti?ng ru con “con ?i ! m? không s? gì h?t m? ch? s? c?c chì ,v?i roi mây” . nghe xong tim tôi nh? mu?n r?t ra , b?ng d?ng gió th?i ngày càng m?nh ,làm cho tôi xù lông gà tôi b?t ??u th?y s? ,tôi l?y c?n câu ??nh v? nhà ,tr?i ?! c?n câu ?ang run ..run.. tôi nghi! là con cá nào ?ó dính zùi,tôi c? gi?t th?t m?nh nh?ng không ???c,càng gi?t m?nh thì nó c? kéo vào.....anh...h?..!,cái con nh? này ,mày làm gi?t mình tao mày...!,qua ?ây làm chi? ba kêu anh ?i ?n c?m kà...tao bi?t zùi! . nh? em h?i:” su?t bu?i tr?a ,mà không có con cá nào h?! i tr?i anh nhìn kìa móc câu dính vào cành cây kìa! N?y gi? ?ang kéo cái này ák h?n? v? thui anh ba ?ang ch? ?ó”,? thì v?, tr?i ngh? quê ghê .v? nhà không dám k? v?i ba , th? là ?n c?m xong tôi ch?y sang nhà ông ngo?i ch?i ,tôi ngh?: s?n ti?n k? luôn chuy?n bu?i tr?a nay, vì ông ngo?i là th?y cúng nên bi?t nhi?u chuy?n trong làng l?m ,nh?t là ba cái chuy?n l? h?i tr?a nay ,tôi k? cho ông nghe ,ông nói :”cháu g?p ma zùi ?ó” tr?i thi?t không ngo?i?” ?? ông k? cháu nghe cách ?ây m?y n?m thì nhà ông t? lát có ??a con gái, c? mà không m?t thì gi? g?n 33 tu?i r?i,tu?i tr? l? d?i mang b?u, b? ng??i yêu b? ,c? ngh? qu?n ,cây mít là n?i c? t? t? n?m n?m ?y ,t?t c? nh?ng gì cháu nghe và th?y là c? ??y.” nghe xong x?ng tóc gá ,ngh? ??n là rùn ...mình,à! Ngo?i ?i! cháu không hi?u sao lulu nó hú v?y? nó c?ng th?y h? ngo?i? ,lulu không nh?ng th?y mà còn th?y rõ h?n cháu n?a .cháu bi?t không loài chó là c?n v? trung thành nh?t c?a loài ng??i ,nó xua ?i nh?ng r?i ro,không may c?a loài ng??i, ??c bi?t loài chó th?y ng??i th? gi?i c?i âm thì nó báo cho loài ng??i ??ng th?i còn b?o v? ?? tránh ?i ?i?u không may ?ó .cháu bi?t không khi l?y máu con chó bôi lên m?t , t?i bu?i ?ám tan ng??i ch?m thì s? nhìn th?y m?i ho?t ??ng c?a th? gi?i c?i âm và truy?n này ngo?i ch? k? cháu nghe thôi ??ng b?t tr??c gì c?, vì ngo?i ?ã th?y nhi?u tr??ng h?p nh?ng ng??i mà làm nh? th? này không có k?t qu? t?t ??p gì c?:”không ch?t thì c?ng b? ?iên n?ng” v?y h? ngo?i? “?”. Thôi mây cho cháu ?êu s?i dây bùa không thì b? ‘c? b?t ?i bé con cho c? luôn r?i...haha...”ngo?i này z?n hoài ! Ch?ng ngày hôm sau ông ngo?i ?i cúng t?i cây mít ?? siu h?n ng??i ?àn bà ?ó . The end
0 Rating 879 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2014
" Katê - lễ hội bản địa truyền thống Champa: Sự tiếp nối của văn minh Sa Huỳnh"  ( CHAU DONG KIEU-pleirem)  Nguồn: https://www.facebook.com/groups/LichsuChampa/ Gần đây xuất hiện một chùm ý kiến trái chiều với dòng chảy tự nhiên của truyền thống Kate. Một nhà nghiên cứu hàng đầu người Cham đã có cách tiếp cận, nhìn nhận và đánh giá lễ hội Kate đang thực hiện ở hải ngoại theo một cách khác thường và “phát minh” ra hai định nghĩa khác nhau về Kate mà sự thật, Kate chỉ có một ý nghĩa duy nhất vốn có được các thế hệ người Chăm tiếp nối nhau lưu giử. Tên gọi Kate có thể khác, hình thức tổ chức có thể khác nhau theo thời gian, không gian nhưng “định nghĩa”, nội dung và ý nghĩa Kate thì chỉ có duy nhất một. Kate từng có nhiều tên gọi khác nhau như là lễ hội truyền thống, lễ hội tin ngưỡng bản địa, và là lễ hội dân gian đó là theo GS-TS Trần Ngọc Thêm, TS Phan Quốc Anh. Trong tài liệu nghiên cứu của mình ThS Trương Văn Món, Ngô Văn Doanh và ThS Đàng Năng Hòa cho Kate là lễ hội truyền thống dân gian đặc sắc nhất. Đặc biệt theo nghiên cứu của TS Phan Quốc Anh, ThS Đàng Năng Hòa và tư liệu trong Đại Nam Nhất thống Chí cho rằng Kate là lễ hội dân gian có qui mô lớn như tết nguyên đán. Dân gian là yếu tố bản địa trung tính không phụ thuộc tôn giáo. Theo đa số các nhà Champa học, Kate là lễ hội bản địa dân gian truyền thống. Trong nghiên cứu của Harak Champaka 40, 41 và PGS-TS Po Dharma, Kate chỉ là lễ tục Ahier, lại còn có phát hiện ra định nghĩa khác tại hai hội đoàn Champa ở Hoa Kỳ mâu thuẩn với Kate ở quê nhà. Qua bài viết ngắn này, chúng tôi không có tham vọng nói hết về Kate, vẫn còn nhiều điều bí ẩn cần nhiều nghiên cứu thêm mới giải mã được, chỉ muốn nhấn mạnh ở hai điểm mà độc giả có thể tự mình kết luận được là: 1/. Kate có một định nghĩa duy nhầt hay có thể có hai định nghĩa như Harak Champaka đã tìm thấy ở hai hội đoàn khác nhau tại Mỹ và khác với ý nghĩa Kate bên nhà hay không? 2/. Kate là lễ tục Ahier hay là lễ hội truyền thống dân gian? Do phát hiện mới này, khiến tất cả các bài nghiên cứu liên quan đến Kate, tất cả các DVD, you tube về Kate phải được duyệt lạI, để thấy, và mừng là Kate luôn hoành tráng và sinh động, nhất là Kate 2009 được xem là Kate lớn nhất từ trước đến nay. A/. Kate, có duy nhất một định nghĩa hay nhiều định nghĩa?: PGS-TS Po Dharma định nghĩa Kate, trong trang 15 và 16, Harak CPK 41, cho là theo ý nghĩa Ahier (tàn dư Balamon) Kate là lễ tế Yang Po amư là duy nhất nam thần Shiva; Theo ý nghĩa tín ngưỡng địa phương là lễ tạ ơn ba vị thần linh Po Klaung Garai, Po Rame, Po Ana Nagar, cũng là biểu trưng của thần Shiva và Bhargavati. “..lễ tục Kate truyền thống, một khi đến xứ Hoa Kỳ, đã trở thành hai lễ hội và mang hai ý nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của từng hội đoàn.” Còn Kate bên nhà: Theo báo Du Lịch Việt Nam, Kate: “như là ngày tết, là lễ hội thiêng liêng để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, tổ tiên ông bà, tạ ơn các thần linh đã giúp mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.” Trong báo Bình Thuận: “ nhằm tưởng nhớ đến những người đã khuất, anh hùng dân tộc, các vị Vua (được người Cham tôn vinh làm thần), tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên.” Theo Sakaya ThS Trương Văn Món: “Đây là lễ hội của người Chăm nhằm tưởng nhớ các vị Nam thần như Pô Klong Garai, Pô Rôme (vua)… Và tưởng nhớ ông bà tổ tiên, trời đất đã phù hộ độ trì cho con người.” Quê hương online cho rằng: “ Kate là tết Cham nhằm tưởng nhớ anh hùng liệt sĩ, tổ tiên ông bà, tạ ơn thần linh”. Theo TS Phan Quốc Anh, đây là lễ trọng như ngày tết nguyên đán, cúng tế thần- vua, cầu cúng thần linh, ông bà tổ tiên phù hộ độ trì, chúc tụng nhau may mắn, phát đạt. Nhiều nhà Champa học đã dẫn ở trên và các báo đài đều ý chung như nhau. Tóm lại Kate có duy nhất một định nghĩa: LÀ LỄ TƯỞNG NIỆM VÀ TẠ ƠN THẦN- VUA, ANH HÙNG, TIỀN NHÂN, ÔNG BÀ, TỔ TIÊN, CẦU MONG AN BÌNH, HẠNH PHÚC CHO CON CHÁU CHAMPA. Căn cứ trên hiện thực nêu trên và thực tế đại lễ Katê tại Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa và Hội Truyền Thống Champa Hoa Kỳ các năm qua, chúng tôi thấy hoàn toàn đúng như Kate bên nhà, cần thiết phải ghi công họ vì đã tổ chức liên tục các Lễ hội Kate mẫu mực để đời cho ngàn năm con cháu mai sau tự hào. B/. Kate là Lễ tục Chăm Ahier hay là lễ hội dân gian?: Theo PGS-TS Po Dharma trang 18, Harak CPK 41: “Trong hệ thống tín ngưỡng người Chăm, cũng như tín ngưỡng của nhiều dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo trong khu vực Đông Nam Á, dân tộc Chăm Ahier và Awal chỉ có lễ tục (culte, cérémonie) chứ không bao giờ có lễ hội (fête, festival)”. Ông ta nhìn thấy Kate chỉ là lễ tục Ahier thờ thần Shiva và Bhargavati. Trên lý thuyết và thực tiển trong sinh hoạt tâm linh của người Ahier không có tên Shiva và Bhargavati, như GS-TS Trần Ngọc Thêm trong phần “Balamon và văn hóa Việt Nam” có đề cập: “đối với số đông người dân Chăm, thần Siva, tượng Linga,v.v.. chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung.” Hơn thế nữa, ý nghĩa Kate hôm nay ít hoặc không liên quan đến Shiva, Brahma, Vishnu, hay Bhargavati thuộc văn minh Balamon vì các lẽ sau: 1/. Truyền thống thờ mẫu và văn hóa mẫu hệ không bị phai nhạt, dù trải qua thời kỳ đầu lập quốc Lâm Áp, ảnh hưởng Trung Hoa văn hóa trọng nam, (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) sau đó tiếp thu văn minh Ấn độ trong nhiều thế kỷ, cũng phụ hệ, đến thế kỷ thứ X, nhận thêm văn minh Hồi giáo là phụ hệ, trọng nam. Ngày nay người Cham vẫn nguyên vẹn tôn vinh Po Ana Nagar, là Nữ Thần Mẹ Xứ Sở, được người Việt tiếp thu và lưu giử truyền thống thờ mẫu, với những tên gọi khác như: Thiên Y Ana, Bà Chúa Sứ, Chuà Thiên Mụ, Muk Juk. Đất nước Chămpa lúc cực thịnh là một vương quốc giào có kháp nơi đền đài, dinh thự, vàng bặc châu báo và lễ hội múa hát quanh năm (theo Wikipedia và Đại Việt Sử Ký toàn thư). Một trong các lễ lớn đó chắc chắn là dấu vết của Kate, vì Kate chỉ có duy nhất ở Champa, có sẵn, không là yếu tố ngoại nhập (theo Huỳnh Ngọc Trảng). Phải Chăng đó là lễ hội Po Ana Nagara? Hoặc dể hiểu nhất là tại khởi nguồn Vương quốc Champa, chưa có vua, thì lời tụng của On Kadhar lúc bấy giờ chắc chắn chỉ có một Po Ana Nagar. 2/. Từ thế kỹ 15, Champa là quốc gia hồi gíao: Kể từ thời Po Kabrah (1448-1482/ 1460-1494) các vua ở Pangduranga đều theo Hồi Giáo Bàni, nhưng vẫn còn giử những nghi lễ truyền thống của hoàng gia. Khi đó nếu có Kate thờ Thần- Vua, liệu người Cham có còn chấp nhận Vua là thần Shiva nữa hay không Hay là Vua chính là thiên sứ của Allwah, vẫn mô hình Thần- là Vua trị vì vương quốc Champa?!! Trong triều đình Po Rame, đa số theo đạo Hồi giáo. Quyền lực trong tay nhưng yếu tố bản địa và tàn dư Balamon vẫn được tôn trọng trong các sinh hoạt tâm linh theo phương châm “hoà hợp hòa đồng tôn giáo”. Đó là sự tiếp tục tham dự của Ahier và “Gru urang” trong lễ lớn Kate của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên trong lời tụng ca công đức các ngài của On Kadhar có đề cập đến các thần Islam: Po Allwah, Po Li, Po Phuatimâh, Po Biruw, Po Hanim Pan, Nai Mâh Ghang Tang Nagar, v.v. (trong Po Dharma, HCK 41, T.17). 3/. Tháp Cham là của chung Champa, đền thờ Ahier là thang Banrach: Trong lời tụng ca của tất cả các On Kadhar hiện nay trong cung thỉnh, ca ngợi công đức các ngài, và cung tiển, vào dịp lễ Kate, không bao giờ thấy xuất hiện từ Shiva, Vishnu, Brahma, hay Bhargavati. Luôn có tên của các vị vua Champa, là của chung của mọi người Cham, không thể của riêng Ahier. Các tháp Chàm là những tượng đài, lăng tẩm tưởng niệm các vì vua không thể hiểu nhầm là nhà thờ Balamon hay Ahier. Nhà thờ Balamon, hay Ahier là Thang Banrach trụ trì bởi các Po Dhia (theo Mai Tường & Bá Đại Long). 4/. Người Bani có dự Kate Cham không?: Theo lời kể của một cụ già làng Phước Nhơn dịp Kate 1993 trên tháp Po Rame: “Trước 75, dòng tộc Po Rame tại Phước Nhơn dến lễ ngài thường xuyên hằng năm bằng lễ vật và tiền mặt. Chúng tôi tập trung ở thang Po Yang giửa làng Phước Nhơn rồi cùng nhau đến thẳng Danauk Po Rame và lên tháp làm lễ ngài. Nay khó khăn nên thưa thớt hơn.” Theo lời kễ của các nhân sĩ trí thức Cham gốc Islam như mik Yasin Ba, Thanh Ngoc Co, Dohamide và một số bạn trẻ từng là vũ công trong đoàn văn nghệ: “ Kate ở Mỹ từng là ngày hội rất lớn và vui, người Cham Islam đông nên đảm trách hầu hết các khâu chuẩn bị lễ hội Kate…” Được Qasim Từ khẳng định: ““gần 13 năm, kể từ năm 1982 đến năm 1995, Katê trở thành một lễ hội Champa tại hải ngoại (ở Pháp, ở Danmark, ở Hoa Kỳ) do hội CSC-Champa và IOC-Champa tổ chức mà đa số thành viên của hội này là bà con Chăm Bani và Chăm Islam. Và trong ngày đại hội Katê này lúc nào cũng có sự hiện diện của nhiều sắc tộc Champa khác như Jarai, Bahnar, Stieng ở hải ngoại và hai nghệ sĩ Chế Linh (Chăm Ahiér) và Từ Công Phụng (Chăm Islam)” PGS-TS Po Dharma cũng khẳng định trong trang 19 Harak Champaka 41: “…số lượng người Chăm Awal tham gia trong ngày lễ hội Kate tại quê nhà hôm nay rất đông đảo. Sự hiện diện của họ đã chứng minh rằng dù Kate là lễ tục của Chăm Ahier nhưng đã trở thành di sản văn hóa chung của vương quốc Champa mà mỗi người Chăm phải có bổn phận bảo tồn và phát triển.” Năm 2000 và 2004, Lễ hội Kate tại Ninh Thuận co sự tham gia của tất cả các địa phương có người Cham cư trú, có cả Cham Islam Nam Bộ. Gần đây cộng đồng Cham Bani Bình Thuận đã lên làm lễ Katê năm 2009 tại Bimong Po Sah Inư, theo nhiều nguồn tin, báo Binh Thuận, Xalo tin tức và Doanh Nhân Sài Gòn. 5/. Vai trò quan trọng của người Raglai- Lễ rước hoàng bào ngày trước Kate: Đáng chú ý là hoàng bào của Vua từ các đền tháp ở Ninh Thuận và Bình Thuận đều được người Raglai, gia đình Ja Angui, đồng loạt cất giử: ngày cuối tháng 6 (Cham lịch) tất cả các đền tháp đều cử người làm lễ rước hoàng bào từ nhà Ja Angui đến Danauk để ngày Kate đón lên các đền tháp làm lễ. Nghi lễ này hiện nay còn thực hiện tại tháp Po Klaung Garai, Po Rame, Po Sah Inư, Đền Po Inư Nưgar, Đền Po Binthor, Po Dam, Po Klaung Mưnai, nhà thờ hoàng tộc Cham tại Bình Thuận. Vậy thì Kate là lễ hội dân gian chung của dân tộc Cham không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng. C/. Kate là lễ tục hay hễ hội?: Theo PGS-TS Po Dharma trong Harak CPK 41, trang 19: “..lễ tục Kate truyền thống, một khi đến xứ Hoa Kỳ, đã trở thành hai lễ hội và mang hai ý nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của từng hội đoàn.” “…biến lễ tục cổ truyền Kate sang mô hình hiện đại của ngày kỷ niệm bậc tiền nhân Champa cũng như sự dân chủ hóa lễ hội này thành ngày quốc lễ Champa… quyết định ngày quốc lễ và mô hình kỷ niệm anh hùng liệt sĩ Champa.” Và ông ta tự mình trả lời: “Nếu Kate tại Việt Nam hôm nay đã trở thành một ngày lễ rất trang nghiêm trong phần lễ tục và rất linh đình và nhộn nhịp qua phần lễ hội, là vì Kate được tổ chức trong biên giới cổ truyền của nó, từ ý nghĩa của lễ tục cho đến nội dung của lễ hội, không mang nội dung chính trị, không trang điểm màu sắc văn chương đấu tranh, không bài diễn văn và cũng không có lời cảm tưởng, cảm tạ, cám ơn, v.v. chỉ làm phiền hà quần chúng đang chờ xem lễ hội.” Tuy với chung một ý nghĩa, tưởng niệm- tạ ơn tiền nhân, nhưng hình thức thể hiện lại phong phú vô cùng. Ví dụ: năm 2000 tại tháp Po Klaung Garai, phó chủ tịch tỉnh Ninh thuận đọc bài diễn văn khá dài và khá tai tiếng: “…Kate của người Cham Balamon…” để nhận được góp ý ngay từ các nhà nghiên cứu đến tham dự như: Ngô Văn Doanh, TS Nguyễn Chí Bền và nhân sĩ trí thức Cham. Kate làng tổ chức tại văn phòng của Hợp tác xã, thường có một phút mật niệm. Kate tại mỗi gia đình thì sự đa dạng và phong phú đến bất ngờ, tùy điều kiện và cảm nhận của gia chủ. Đây là sự thật vì nhiều người quan niệm rằng có lợi cho con cháu hơn là cho tiền nhân, giúp giáo dục con cháu luôn nhớ về cội nguồn không bị mất bản sắc khi đi xa quê, xa gia đình, nơi chốn thị thành nhiều cám dỗ. Quả vậy, chỉ cần đọc lại các bài mô tả và xem các DVD về Kate, ta có thể cảm nhận được không khí linh thánh của lễ hội, sự sôi động, nhộn nhịp, hoành tráng lạ thường, như không phải do con người tạo nên, chói lòa, bừng vở, lan tỏa khắp nơi từ đền tháp-xã hội- cá nhân, cộng đồng, địa phương, đất nước, vùng người Cham cư trú rất tự nhiên. Vậy thì Kate luôn là lễ hội truyền thống dân gian Champa hoành tráng, đặc sắc và độc đáo nhất Đông Nam Á, vẫn luôn hoành tráng, nhân bản, làm ngây ngất lòng người dù là Cham hay Việt hay người nước ngoài, theo như sự khẳng định của nhà Champa học, TS Phan Quốc Anh: “… lễ hội luôn diễn ra trong một không gian lớn từ các đền tháp đến làng, dòng họ và cuối cùng là gia đình. Katê cũng là dịp để người Chăm từ mọi miền đất nước trở về quê cha đất tổ để cùng đoàn tụ cùng gia đình bạn bè, dòng họ. Lễ hội Katê là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm, là tấm gương phản chiếu sinh hoạt cộng đồng; nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc. Do đó, lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính – nơi hội tụ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật của nền văn hóa Chăm mà còn gắn với những yếu tố khác của văn hóa như: đồ cúng tế, ẩm thực, y phục…Đặc biệt, đến với lễ hội Katê quí khách sẽ thưởng thức một nền âm nhạc độc đáo, với những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nước. Lễ hội còn những phần biểu diễn trước công chúng một nền ca – múa - nhạc dân gian với một phong cách riêng, độc đáo.” D/. Chúng ta cần làm gì? Đến đây thì chúng ta thấy rõ ngày lễ hội Kate là ngày giổ tiền nhân, quốc tổ, và gia tiên Champa, là di sản quý báo, lưu truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Người Cham tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ cần đoàn kết và bản sắc trên con đường phát triển và hội nhập, rất nên phát huy những gì cộng đồng mình đã đạt được. Cái khác biệt nếu có trong chúng ta là “cách nhìn nhận về Kate” mà mọi người đều có trách nhiệm. Hãy ngồi lại với nhau, tôn trọng nhau, mọi khác biệt, nếu có, sẽ tiêu tan, để cùng nhìn về một hướng. Giá như những “lễ hội Kate đó”, trong 13 năm (từ 1982 đến1995) tổ chức chung (theo Qasim), được liên tục thì cộng đồng Cham ở Hoa Kỳ có lẽ đã tiến một bước dài, có thể chúng ta đã có một đại diện Dân biểu trong chính quyền tiểu bang, và thấy nhiều đám cưới của con em Cham mình với nhau trên đất Hoa Kỳ này. Dù là Aval, Ahier, Islam, Tin Lành hay Thiên Chúa, chúng ta vẫn còn điểm chung Kate Cham, Champa. Hãy ngồi lại với nhau trước khi quá muộn, lúc chúng ta không còn gì chung để nói chuyện và cải vã nhau. Hãy vì con cháu mà cảm thông tha thứ cho nhau, điều lành sẽ đến với con cháu Champa. p\S CHAU DONG KIEU-pleirem.
0 Rating 869 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On June 5, 2015
Ts. Po Dharma Đại Hội Champa 2015 là diễn đàn dành cho thanh niên Chăm để định hướng lại thế nào là vai trò của họ đối với sự sống còn của dân tộc Chăm trong thế kỷ thứ 21. Trên diễn dàn có nhiều bài phát biểu, trong đó có bài phát biểu bằng tiếng Anh của Pgs. Ts. Po Dharma, một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử và nền văn minh Champa mà chúng tôi chuyễn ngữ sang tiếng Việt.     Những biến cố quan trọng trong lịch sử Champa   Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)   Champa là một vương quốc cổ chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, nằm ở miền Trung Việt Nam kể từ thế kỷ thứ 2. Vương quốc Champa theo thể chế liên bang, tập trung 5 tiểu vương quốc: Inrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Dân tộc Champa bao gồm dân tộc Chăm ở vùng đồng bằng và người Tây Nguyên sinh sống ở miền cao. Mỗi dân tộc thường đóng một vai trò riêng biệt trong hệ thống tổ chức chính trị và xã hội của quốc gia này.   Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, dân tộc Chăm Việt Nam có hơn 160 000 người và Chăm ở Campuchia, khoảng 200 000. Riêng về người Tây Nguyên, dân số ước tính khoảng hơn một triệu người.   Tổ chức chính trị và xã hội   Trong suốt chiều dài của lịch sử, vương quốc Champa chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh riêng biệt. Trước 1471, tức là năm đánh dấu ngày thất thủ thành Đồ Bàn (Vijaya) trước đoàn quân hùng mạnh của Việt Nam, Champa là vương quốc hoàn toàn theo nền văn minh Ấn Giáo, từ phong cách sinh hoạt xã hội, cách cấu trúc gia đình hoàng gia cho đến hệ thống tổ chức tín ngưỡng và ngôn ngữ Phạn. Sau 1471, Champa tìm cách xa lánh dần dần những yếu tố văn hóa và tôn giáo vây mượn từ Ấn Độ để tạo cho mình một nền văn minh mới dựa vào các yếu tố mang tính cách bản địa của tiểu vương quốc Panduranga, pha trộn với nền văn hóa Hồi Giáo do người Mã Lai mang đến kể từ thế kỷ XVI.   Lịch Sử   Trong suốt 800 năm tồn tại từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 10, Champa là một quốc gia hòa bình và thịnh vượng. Sự ra đời của trung tâm Ấn Giáo vô cùng đồ sộ ở Mỹ Sơn (thế kỷ thứ 4-13) được UNESCO công nhận vào năm 1999 là di sản văn hoá của nhân loại và công trình xây dựng nhiều cơ sở Phật Giáo ở Đồng Dương (thế kỷ thứ 8-9) cho thấy rằng Champa là vương quốc có nền văn minh cao độ.   Sự chuyển mình của Việt Nam trên bàn cờ chính trị ở Đông Dương sau ngày độc lập vào cuối thế kỷ thứ 10, là móc ngoặc mới cho tương lai của vương quốc Champa. Kể từ đó, lịch sử của Champa hoàn toàn bị chi phối bởi các cuộc chiến đẫm máu chống lại chính sách mở rộng đât đai về phía nam của dân tộc Việt.   Năm 1069 đánh dấu sự thất bại đầu tiên của Champa trước cuộc nam tiến của Việt Nam. Vào năm đó, Việt Nam đã thành công thôn tính lãnh thổ của Champa nằm ở hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị.   Trong suốt 237 năm đấu tranh để khôi phục lại lãnh thổ bị chiếm đóng vào năm 1069, vương quốc Champa không đạt đến mục tiêu, nhưng cũng không mất một tắt đất đai của mình. Tiếc rằng, vì lời hứa kết hôn với công chúa Huyền Trân, vua Jaya Simhavarman III chấp nhận giao nhượng cho Việt Nam vào năm 1306, một phần lãnh thổ của mình nằm trong khu vực Thừa Thiên-Huế.     Một thế kỷ rưỡi sau đó, tức là vào năm 1471, Việt Nam phát động một chiến dịch quân sự hùng mạnh nhằm tiêu huỷ thủ đô Vijaya (Bình Định), tức là trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo của vương quốc Champa và di dời biên giới phía nam của mình đến đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên).   Từ trái sang phải: Sary (Châu Đốc), Po Dharma, Farina So (Campuchia), Châu Văn Triển (Ninh Thuận), Từ Công Thu (Ninh Thuận), Gs. Coroline Valverde   Theo chúng tôi, sự thất thủ thành Đồ Bàn vào năm 1471 không đánh dấu cho sự suy vong của vương quốc Champa, mà là sự sụp đổ của nền văn minh Ấn Giáo đã từng thống trị đời sống chính trị và tâm linh của dân tộc Champa trong suốt 13 thế kỷ.   Và sau ngày thất thủ Vijaya vào năm 1471, cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt phải đối mặt với sự kháng cự vô cùng mãnh liệt của nhân dân Panduranga, một tiểu vương quốc nằm phía nam của Champa. Bởi vì Việt Nam phải mất hơn ba thế kỷ rưỡi để chiếm trọn lãnh thổ đất đai của tiểu vương quốc nhỏ bé này.             Năm 1611, Việt Nam xua quân xâm chiếm Phú Yên và tiến vào Nha Trang vào 1653. Ba năm sau, tức là năm 1658, Việt Nam chiếm đóng Saigon và đưa đẩy Champa vào một tình thế địa dư mới: Vương quốc Champa đã trở thành một vùng trái độn nằm ngay trong lãnh thổ của Việt Nam.   Năm 1692, Việt Nam mở thêm cuộc tấn công chống lại vương quốc này, thay đổi tên gọi Champa (Chiêm Thành) thành Trấn Thuận Thành và biến Champa thành quốc gia đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Huế.   140 năm sau, tức là năm 1832, hoàng đế Minh Mệnh quyết định xóa bỏ danh xưng Champa trên bản đồ Đông Dương và khởi động chiến dịch tiêu diệt dân tộc Champa vô cùng dã mang và tàn bạo về tội theo Lê Văn Duyệt để chống lại triều Huế.   Vào năm 1841, hoàng đế Thiệu Trị bãi bỏ chính sách của vua cha (Minh Mệnh) đối với người Chăm và ban cho dân tộc này một qui chế tự trị dưới lá cờ của Huyện Thổ Dân, tức là huyện dành riêng cho người Chăm bản địa.   Tình hình sau năm 1832   Vào cuối thế kỷ XIX, chính quyền Pháp ở Đông Dương đưa ra chính sách nhằm bảo vệ dân tộc Tây Nguyên và Chăm trước mối đe dọa của sự diệt chủng. Ngày 27-5-1946 chính quyền Pháp hình thành “ Quốc gia người Thượng ở miền nam Đông Dương” (Pays Montagnard du Sud Indochinois-PMSI), tức là lãnh thổ tự trị dành dành cho dân tộc Tây Nguyên, đặt dưới quyền kiểm soát của chính phủ Pháp thuộc.   Ngày 21-5-1951, “Quốc gia người Thượng ở miền nam Đông Dương” trở thành khu vực “Hoàng Triều Cương Thổ” của triều đình Huế, nhưng hưởng quyền tự trị đặt dưới quyền chỉ đạo của chính phủ Pháp.   Cũng vào thời điểm đó, dân tộc Chăm trở thành cộng đồng đặt dưới quyền cai trị của chính phủ Pháp ở Đông Dương, theo Hiệp ước Harmand đã ký vào ngày 25-8-1883 tại Huế. Theo hiệp ước này, người Chăm nộp thuế trực tiếp cho chính phủ Pháp và có một lãnh thổ tự trị do người Chăm quản lý.   Năm 1955, Ngô Đình Diệm lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam, đưa hàng trăm ngàn người Việt lên định cư ở vùng cao nguyên Champa. Biến cố này đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tồ chức xã hội và gia đình của người dân bản địa, kéo theo những cuộc xung đột hàng ngày giữa hai dân tộc: Việt và Tây Nguyên.   Trước sự hiện diện quá đông đảo của người Kinh trên cao nguyên, người Thượng và Chăm tìm cách vùng dậy để bảo vệ lợi ích kinh tế và quyền tự quyết của mình dưới ngọn cờ của phong trào Bajaraka ra đời vào năm 1955 và tổ chức vũ trang Fulro vào năm 1964.   Để giải quyết những yêu sách của Fulro, chính quyền Sài Gòn công nhận phong trào Fulro là một lực lượng đấu tranh chính trị có pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người dân bản địa. Ngày 16-12-1967, chính quyền Sài Gòn ký nghị định hình thành Bộ Phát Triển Sắc Tộc có trách nhiệm điều hành các chương trình có mối liên hệ với dân tộc Tây Nguyên và Chăm, và chấp nhận Bộ Trưởng của Bộ Phát Triển Sắc Tộc là người bản địa đã từng tham gia trong phong trào Fulro. Thông qua chính sách này, dân tộc Tây Nguyên và Chăm có cơ hội để làm chủ trên định mệnh của mình, tìm lại bản sắc chính trị, văn hóa và nhân phẩm của họ với tư cách là người dân bản địa.   Tình hình dưới chế độ cộng sản   Năm 1975, đoàn quân miền bắc chiếm đóng miền nam và xây dựng chế độ theo chủ nghĩa cộng sản. Biến cố này đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, đạo đức và tâm linh của dân tộc Tây Nguyên và Chăm.   Trước năm 1975, dân tộc Tây Nguyên và Chăm sống chủ yếu về ngành nông nghiệp và hưởng qui chế tự trị. Cũng nhờ qui chế đặc biệt này, dân tộc Tây Nguyên và Chăm làm chủ tuyệt đối trên nền kinh tế của mình và nắm sẳn trong tay bao quyền lực để phát triển các cấu trúc xã hội và gia đình của họ và sống một cuộc sống thanh bình và thịnh vượng.   Vừa nắm chính quyền vào năm 1975, chế độ cộng sản quyết định xoá bỏ quyền sở hữu của người Thượng và Chăm, tịch thu tất cả đất đai tư nhân và cộng đồng của dân tộc này nhưng không bồi thường một cách thỏa đáng những tài sản của họ bị tịch thu.   Đối với người Chăm và Tây Nguyên, quốc hữu hóa đất đai của dân tộc bản địa không phải là cuộc cải cách đất đai để xóa bỏ sự độc quyền về kinh tế, mà là hành động cướp đoạt tài sản của họ bằng vũ lực một cách trắng trợn.   Sống trong chế độ không công ăn việc làm và cũng không có quyền sở hữu đất đai, người Chăm và người Thượng trở thành tập thể đang lâm vào cảnh nghèo đói và bần cùng.Tình hình kinh tế thảm khốc này đã buộc các giới thanh niên bản địa rời khỏi thôn làng để tìm công ăn việc làm trong các thành phố lớn. Lợi dụng cơ hội này, các công ty Việt Nam không ngừng tìm cách biến giới thanh niên Chăm và Tây Nguyên trở thành tập thể nô lệ của thời đại mới: nộ dịch vô cùng vất vả với đồng lương vô cùng thấp, nhưng còn bị đối xử tồi tệ và không có bảo hiểm y tế một khi bệnh tật hay gặp tai nạn.   Người dân bản địa vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Để tìm miếng cơm sống qua ngày,người Chăm và Tây Nguyên phải tìm cách vây mượn tiền bạc người Kinh để phát triển kinh tế với số lãi vượt hơn 100% hàng năm. Vì không có phương tiện để trả nợ, người dân bản địa chỉ còn có cách là mang cả đất đai và tài sản của mình để nộp cho chủ nợ người Kinh.   Nghèo đói và bần cùng là hai yếu tố có tầm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và nền giáo dục của những người Thượng và Chăm. Đối với dân tộc này, mối quan tâm chính của họ không phải là vấn đề giáo dục đối với con em của họ, mà là làm thế nào để tìm được 15.00 đola mỗi tháng hầu nuôi gia đình.   Sống trong một đất nước mang danh nghĩa là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, người Chăm và Tây Nguyên không được hưởng qui chế bảo hiểm xã hội một khi lâm vào bệnh tật hoặc tai nạn. Để được có giấy phép vào bệnh viện, người Thượng và Chăm phải nộp trước tiên tiền lệ phí đăng ký, chi phí thuốc men và giường ngủ. Nếu không có phương tiện tài chính, người dân bản địa không có quyền hưởng sự chăm sóc thuốc men cần thiết, một khi lâm vào bệnh tật.   Trong lúc các cuộc cải cách ruộng đất đang tiến hành vào năm 1975, nhà nước Việt Nam tung ra hàng loạt bộ máy cải tạo nhằm biến người Tây Nguyên và Chăm thành tập thể vô sản, luôn luôn trung thành với chế độ cộng sản. Chính quyền Hà Nội còn ngân cấm những người dân bản địa phát triển di sản văn hóa và tôn giáo của họ mà Đảng Cộng sản xem đó là các tập tục mê tín dị đoan.   Việt Nam là quốc gia theo chế độ độc tài và đảng trị, ngân cấm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp. Những nhà bất đồng chính kiến luôn luôn bị sách nhiễu, hăm dọa, tra tấn và bỏ tù. Đối với chính quyền Hà Nội, dân tộc Chăm và Tây Nguyên chỉ là thành phần ủng hộ chế độ cũ Sài Gòn, là nhóm đánh thuê cho quân đội Mỹ và là những kẻ phản động theo tổ chức Fulro. Chính vì nguyên nhân đó mà hai dân tộc bản địa này đã trở thành nạn nhân đầu tiên của chế độ cộng sản.   Đàn áp tôn giáo, hạn chế tự do, hoàn cảnh nghèo đói và bần cùng đã trở thành yếu tố cơ bản giải thích cho những cuộc vùng dậy lớn của những người Tây Nguyên vào năm 2001 và 2004 nhằm chống lại chính sách của Hà Nội, kéo theo phong trào di dân lớn của người Thượng sang Campuchia.   Ts. Po Dharma đang ký tặng tác phẩm Lịch sử Champa     Kết Luận   Việt Nam là quốc gia đã ký vào Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về “Quyền của dân tộc bản địa”, được thông qua vào năm 2007. Kể từ khi ban hành Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Hà Nội chưa thực hiện một dự án gì để cải thiện tình hình của dân tộc Chăm và Tây Nguyên bản địa tại quốc gia này.   Hôm nay, Việt Nam vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại rằng người Chăm và Tây Nguyên hôm nay chỉ là thành phần dân tộc thiểu số, chứ không phải người dân bản địa, mặc dù hai dân tộc này đã có mặt ở miền Trung Việt Nam kể từ thế kỷ thứ hai. Thái độ này đã chứng minh rằng chữ ký của Việt Nam trên bản Tuyên Ngôn về "Quyền của dân tộc bản địa" chỉ là hiệp ước quốc tế không có giá trị gì.   Sau năm 1975, các cơ cấu tổ chức kinh tế, xã hội và gia đình của người Tây Nguyên và Chăm đang đối mặt với bao sự thay đổi, kể từ khi cộng sản lên nắm chính quyền. Thêm vào đó, chính quyền Hà Nội xoá bỏ quyền tự quyết dành cho người Tây Nguyên và Chăm được ban hành dưới thời Việt Nam Cộng Hoà. Việc bãi bỏ qui chế đặc biệt này không cho phép người dân bản địa có quyền tự do phát triển hệ thống kinh tế, xã hội, gia đình và văn hóa của họ nữa.   Vì quá đơn phương đối mặt với chính sách “Việt Nam hóa” của chế độ cộng sản, không ai có thể tiên đoán rằng liệu dân tộc Tây Nguyên và Chăm có thể tồn tại với tư cách là người dân bản địa tại Việt Nam trong những thập niên sắp tới của thế kỷ 21 này. theo Champaka.info
0 Rating 833 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On May 8, 2016
+Văn hoá Sa Huỳnh Khu vực ven biển miền Trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình Thuận và một phần Tây Nguyên từ lâu đã là địa bàn sinh tụ của các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo - Polynesien, trong đó người Chăm là đông nhất.   Phát hiện khảo cổ học về các khu cư trú và mộ táng của người cổ ở vùng này cho thấy có một trung tâm nông nghiệp trồng lúa thuộc thời đại kim khí phát triển từ tiền Sa Huỳnh tới Sa Huỳnh với các giai đoạn văn hóa Xóm Cồn (Khánh Hòa), văn hóa Long Thạnh, văn hóa Bình Châu và văn hóa Sa Huỳnh liên tục cách ngày nay khoảng 3.500 - 2.200 năm. Thời tiền Sa Hùynh, cư dân cổ tại đây sở hữu những đồ đất nung gồm chum, vò hình trứng có nắp đậy trang trí hoa văn thừng, khắc vạch… được tô màu, miết láng. Thời Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) cư dân đã có nhiều nghề cơ bản: đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, dệt vải, nấu thủy tinh, chế tạo đồ trang sức và buôn bán thương mại mà di vật còn lại là các loại khuôn đúc đồng, xỉ đồng, công cụ và vũ khí bằng sắt, đồ trang sức bằng đá quý, thủy tinh trong đó có vật đeo hai đầu thú, các loại khuyên tai đa dạng: loại khối tròn phía ngoài có 3 mấu hình tam giác, loại tròn phình quăn như con đỉa… làm bằng đất nung, đá quý hoặc thủy tinh, kim loại đồng… và đồ gốm với các hình dạng, hoa văn đặc trưng: bát chân cao có hai lỗ dưới chân trang trí văn chấm dải, nồi miệng loe có hai lỗ trên cổ… đặc biệt là tục chôn người chết trong các loại vò gốm [51, tr.11] với đủ loại đồ tùy táng như đồ trang sức, đồ gốm, vũ khí… được chế tác tinh xảo. Văn hóa Sa Huỳnh được xem là tiền đề của văn hóa Champa. Bát chân cao:  Bát được tạo hình như một chiếc đĩa bồng chân cao hơi loe nhưng đường kính chân chỉ nhỏ bằng nửa so với miệng bát. Vành miệng có thành hơi xiên. Bát được nặn bằng tay, nung nhẹ lửa, văn chấm dải. + Văn hoá Chămpa (TK II- TK XVII) Năm 179 tr. CN, mảnh đất miền Trung - Sa Huỳnh cùng chung số phận với Âu Lạc - Đông Sơn khi Triệu Đà xâm lược. Năm 111 tr. CN, miền đất này thuộc nhà Hán, được gọi là quận Nhật Nam. Nhưng cùng với nhân dân Giao Chỉ và Cửu Chân ở phía Bắc, nhân dân Nhật Nam nhiều lần khởi nghĩa đòi quyền độc lập và đã trở thành bộ phận đầu tiên giành được độc lập: Năm 192, Khu Liên (Srimara?) lãnh đạo nhân dân huyện Tượng Lâm thuộc Nhật Nam đuổi được quân Hán thành lập nước với tên gọi là Lâm Ấp có nghĩa là xứ rừng. Đến TK VII, Sambhuvarman (Phạm Chí) khẳng định tên nước là Champa mà thủ đô trước đó ở Sinhapura (Trà Kiệu). Tuy nhiên người Trung Quốc lại gọi Champa là nước Hoàn Vương (758 - 859) và sau đó gọi là nước Chiêm Thành. Lịch sử Champa hiện nay còn nhiều điểm chưa rõ ràng nhưng về đại thể có thể chia làm các giai đoạn như sau:  - Giai đoạn Sinhapura - Trà Kiệu (192 - 750): bước đầu thống nhất.  - Giai đoạn Virapura (750 - 850): khẳng định vị thế.  - Giai đoạn Indrapura - Đồng Dương (850 - 982): bắt đầu phát triển  - Giai đoạn Vijaya - Bình Định (982 - 1471): thịnh đạt và đi vào khủng hoảng.  - Từ năm 1471, khi bị vua Lê Thánh Tông chia làm 3 nước nhỏ, vương quốc Champa chấm dứt sự tồn tại. Sau đó, các chúa Nguyễn Đàng Trong dần kiểm soát đất đai còn lại của Champa, năm 1693, kiểm soát miền đất cuối cùng Phan Rang - Bình Thuận. Tuy nhiên người Chăm vẫn được chúa Nguyễn và nhà Nguyễn phong vương kéo dài đến năm 1822 khi vua Chăm cuối cùng là Po Chơn Chan bỏ sang Campuchia thì vương triều Champa thật sự chấm dứt.  Dân tộc Chăm cơ bản được hình thành từ hai thị tộc: Cau (Caramukar) ở phương Nam và Dừa (Narikelanamsa) ở phương Bắc. Về không gian sinh tồn, vương quốc Champa có 5 vùng: Amaravati tương ứng với Quảng Bình - Huế, Indrapura (Quảng Nam – Đà Nẵng), Vijaya (Quy Nhơn – Bình Định) với kinh đô là thành Chà Bàn (Đồ Bàn), Kauthara (Khánh Hòa), Pandurangar (Bình Thuận – Đồng Nai).  Qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Champa đã xây dựng nên một nền văn hóa độc đáo mang đậm tính bản địa và chịu ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ trong đó chủ yếu là Bà la môn giáo và Phật giáo. Trong đạo Bà la môn, người Chăm tôn thờ Shiva trong tam vị nhất thể, Vishnu và Brahma ít quan trọng hơn. Từ khoảng thế kỷ XI đạo Hồi xuất hiện trong cộng đồng Champa.  Champa đã để lại một khối lượng di tích và di vật rất lớn về kiến trúc, điêu khắc đá, các loại đồ đồng, đồ gốm, đồ thờ cúng bằng vàng, bạc, các loại đồ trang sức… các loại hiện vật này phản ánh những nét sinh hoạt trong xã hội Champa xưa, từ đời thường đến tôn giáo và cung đình, chúng có giá trị về nhiều mặt, nhất là về nghệ thuật. Đặc biệt có một quần thể kiến trúc đền tháp thuộc tôn giáo của Chămpa ở Mỹ Sơn (Quảng Nam) còn gọi là “thánh địa Mỹ Sơn” được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới vào tháng 12 năm 1999. Ngoài ra, người Chămpa còn để lại các di sản ca múa nhạc thể hiện một phần trên điêu khắc đá: các tượng vũ công hoặc người chơi nhạc cụ.  - Kiến trúc Champa chủ yếu là các loại đền tháp (kalan) bằng gạch được xây dựng theo một kỹ thuật đặc biệt với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo trên gạch. Trong quá trình tồn tại, người Champa đã xây dựng hàng trăm đền tháp nhằm thờ cúng thần và các vị vua, tuy nhiên khi người Champa suy yếu các tháp đã bị bỏ hoang và bị phá hoại nghiêm trọng, hiện nay còn lại khoảng 70 tháp, rải rác ở Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Đaklak... tập trung nhiều ở Quảng Nam, nhất là Mỹ Sơn nơi được coi là vùng đất thánh dùng xây đền tháp thờ các vị vua đã qua đời mà mỗi vị vua được xây dựng một cụm kiến trúc gồm 4 tháp (tháp cổng, tháp nước, tháp lửa và tháp thờ). Tháp Chăm thường có mặt bằng vuông, dùng gạch làm vật liệu xây dựng chính, chỉ có một ít bộ phận bằng đá như mi cửa, trụ cửa, bậc cửa. Mỗi tháp có ba tầng, nhỏ dần khi lên cao theo dạng núi Meru - nơi trú ngụ cùa các thần Bà la môn, tháp chỉ mở một cửa chính hướng về phía Đông, 3 cửa còn lại đóng kín. Theo quan niệm của người Chăm thì hướng Đông là hướng của thần linh, Bắc là hướng của ma quỷ, Tây Nam là hướng của dân chúng nên nhà cửa của người Chăm thường mở cửa về hướng Tây Nam.  - Điêu khắc đá Champa là một bộ môn nổi tiếng được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX. Các nhà nghiên cứu đã định ra được các phong cách tạo hình của Champa từ giai đoạn trước TK VII (chịu ảnh hưởng nghệ thuật Amaravati của Ấn Độ) cho tới giai đoạn nửa sau TK VII trở đi, đã tạo ra được những nét riêng của điêu khắc đá Champa qua 8 loại phong cách: Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chánh Lộ, Tháp Mắm, Yang Mun, Pô Rô Mê. Hiện nay sưu tập điêu khắc Champa tập trung ở các Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, Bảo tàng Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Tổng hợp Huế, Bảo tàng Bình Định và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –Tp. HCM. Nghệ thuật điêu khắc Champa rất phong phú với nhiều tác phẩm phù điêu, tượng tròn gắn với sinh hoạt tôn giáo Bà la môn, trên những tác phẩm này thường bắt gặp nét chủng tộc, y phục, trang sức Chăm hòa trộn với hình ảnh các vị thần Bà la môn, hoặc những nét tả thực cũng như cách điệu thể hiện trong hình ảnh con người, loài vật… hết sức sinh động. - Nữ thần Devi: Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt mở to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên một cảm giác thánh thiện. Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija kula hara Devi, là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương, triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ, nên sau khi mất bà được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng tháp thờ.    - Thần Shiva: Shiva là thần Bà la môn giáo được người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao. Khoảng TK IV, sự tôn thờ Shiva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi vua Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Shiva gọi là Shiva giáo mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Shiva vừa mang tính hủy diệt vừa mang tính sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn loài vừa là phúc thần bảo vệ đời sống của cư dân Champa. Shiva thường thể hiện dưới dạng một nam nhân có ba con mắt với mắt thứ ba ở giữa trán, ba mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, ngọn lửa thế gian, và có thể nhìn thấy hết quá khứ, hiện tại, tương lai. Tay Shiva có khi cầm đinh ba biểu tượng cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu biểu hiện cho sự tuyệt đối hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một tay ban phúc lành. Shiva cũng là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó, khác nào như biển là nơi qui tụ tất cả mọi dòng nước trong, nước đục.  Biểu tượng của Shiva là Linga. Linga cũng là biểu hiện của tam vị nhất thể với chỏm đầu hình cầu tròn là Shiva, phần giữa là Vishnu có tám cạnh và phần cuối là Brahma có bốn cạnh. Chiếc Linga đầu tiên xuất hiện dưới triều vua Bhadravarman thế kỷ IV. Nhà vua cho xây tại thánh địa Mỹ Sơn một đền thờ thần Shiva Bradravarman, mà biểu tượng là một Linga. - Thần Ganesha: Là con của Shiva và Parvati, được thể hiện dạng đầu voi mình người với cái bụng to ăn quá no bị vỡ phải quấn con rắn Naduki bó lại. Theo thần thoại Ấn Độ, thần Ganesha có đầu voi là vì do trong một cơn nóng giận, Shiva lỡ chặt mất đầu Ganesha. Ngay sau đó Shiva sửa chữa sai lầm bằng cách lập lời nguyền sẽ lấy đầu kẻ nào gặp trước tiên để gắn vào thân hình Ganesha cho Ganesha sống lại, nhưng sinh vật mà Shiva gặp đầu tiên sau khi chém con mình lại là một chú voi nên Ganesha đành mang đầu voi mình người. Ganesha được coi là thần tài, thần hạnh phúc. Ở những quốc gia theo Ấn giáo, Ganesha rất được sùng kính. Ganesha Chăm được thể hiện như trong thần thoại với tư thế ngồi, đầu đội vương miện, có con mắt thứ ba giữa trán,bụng cuốn con rắn Naduki. Tượng bị mất cả 2 cánh tay.   - Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, TK X - XI) Sư tử, người Chăm gọi là “Rimon”, là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc biệt là ở kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử) - Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu. Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức.  - Đồ gốm: Nghề gốm ở Champa ít được biết đến. Khoảng nửa cuối TK XX mới có một số công trình đề cập về gốm Champa nhưng từ đó đến nay những hiểu biết về dòng gốm này vẫn còn ít ỏi so với lãnh vực kiến trúc và điêu khắc của vương quốc Chămpa. Tuy nhiên điều chắc chắn là đã từng tồn tại những lò gốm cổ trong địa bàn cư trú của người Chăm ở Bình Định như các lò Gò Sành, Gò Hời, Gò Trường Cửu, Gò Cây Me, Gò Ké… mà niên đại thuộc thời Vijaya. Điểm quan trọng khác là sản phẩm loại gốm này chủ yếu được phát hiện trong những công trình khảo cổ không những ở Hoa Lư, Thăng Long thuộc Đại Việt, Đại Làng, Đại Lào (Lâm Đồng) mà còn tìm thấy trên con tàu đắm ở Padanan (Philippine), ở cảng Altur thuộc bán đảo Sinai (Trung Cận Đông) [31, tr.236-242] … Điều đó cho thấy gốm Champa thực sự là một loại sản phẩm có chất lượng được tin tưởng sử dụng ở ngoài Champa. Đây có lẽ cũng là một dạng gốm xuất khẩu mà không sử dụng trong nội địa tương tự như gốm Chu Đậu Việt Nam thời Lê.   Sản phẩm gốm Champa rất đa dạng từ các loại gạch, ngói, vật trang trí phục vụ việc xây đền tháp, thành trì hoặc kiến trúc nhà ở cho đến các loại đồ đựng như bát đĩa hũ chóe, âu, bình, vò... Gốm đồ đựng Champa có nét riêng về dáng kiểu và đặc biệt là màu men với các loại men nâu ngả đen, da lươn, men ngọc, men sắt… mà bao giờ phần chân hiện vật cũng được để mộc. Gốm đồ đựng Champa được trang trí kiểu khuôn in, đắp nổi hoặc khắc vạch với những họa tiết hoa sen, dây lá, hình kỷ hà, sóng nước, mặt Kala… cho thấy đây là những thủ pháp trang trí đặc thù của các loại men độc sắc TK XIII - XIV trước khi xuất hiện gốm men xanh trắng. - Lokesvara (Thế tự tại Bồ tát) Người Champa xem Lokesvara là hình thức thể hiện sự kết hợp giữa Shiva (Bà la môn giáo) và Avalokitesvara (Phật giáo) với hình tượng nam nhân, được thờ phổ biến nhất tại vùng Indrapura (Đồng Dương - Quảng Nam), nơi đây tìm thấy nhiều tượng Lokesvara bằng kim loại (đồng, vàng, mạ vàng hoặc bạc) đa số được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM và Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Lokesvara được thể hiện trong tư thế đứng hoặc ngồi, ngực nở eo thon, mang nhiều trang sức ở tai, cổ, bắp tay, cổ tay, cổ chân… khuôn mặt đầy đặn. Đôi mắt mở, tóc búi cao có miện chạm Avalokitesvara. Tượng thường có hai tay, cầm hoa sen, chuỗi hạt hoặc bình nước cam lồ. Nghệ nhân Champa đã thể hiện Lokesvara với ý nghĩa thuần túy bằng trực giác, những biểu trưng của Phật giáo phù hợp với ước vọng và niềm tin của xã hội Champa xưa.   - Tượng Phật Đồng Dương - TK IV Người Chăm gọi Đức Phật là “phịh”. Tượng Đồng Dương mặc áo choàng hở vai trong tư thế đứng trên tòa sen, tóc hình bụt ốc, tai dài gần đến vai, đôi mắt mở, khuôn mặt thon và đầy đặn.  Tượng Phật được thể hiện khá vạm vỡ, mang đậm phong cách Ấn Độ đến nỗi có nhà nghiên cứu cho rằng tượng được mang từ Ấn Độ sang. Trong các công trình nghiên cứu về Champa, nghề đúc đồng ít được quan tâm nhưng có một điều đáng lưu ý là trong các di vật Champa hầu như không có tượng Phật bằng đá và ngược lại không thấy các loại tượng Bà la môn được đúc bằng đồng. Ảnh hưởng của Phật giáo với Champa thể hiện mạnh nhất vào thời kỳ Indrapura. Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn   Theo baotanglichsuvn.com  
0 Rating 801 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On January 24, 2016
  Chương 12 - CÁC THÀNH PHẦN DÂN TỘC CHAMPA của cuốn sách "Bangsa Champa: Tìm về với một cội nguồn cách xa". Xin thưa cùng mikwa, Xin gởi mikwa Chương 12 này, có thể đọc thẳng trên FB hay tải chương này về với dạng PDF để dành đọc. Cuốn sách này có cả thảy 15 chương, và hiện nay dahlak đã ghép hết hình ảnh vào các trang giống như trong sách, nhưng còn đang tiếp tục tìm và ghi lại tất cả các chú thích (footnote) ở cuối trang. Chuyện này cũng sắp xong. Hiện nay dahlak đã làm tới Chương 13, nhưng sợ mikwa chờ lâu nên xin đăng lên từng chương cho mikwa đọc và đồng thời giúp chỉnh sửa chính tả dùm vì còn có nhiều chổ mà chử ở dạng Unicode bị biến dạng khi chuyển sang Microsoft Word. Dahlak ráng cố gắng tìm nhưng không thể thấy hết lổi, vậy nếu đọc thấy những chổ lổi đó, xin mikwa báo cho biết để sữa lại cho đúng. Đwa karun. Ysa Cosiem --------------------------------------- Chương 12 - CÁC THÀNH PHẦN DÂN TỘC CHAMPA Xuất phát từ cội nguồn thời thượng cổ, và trong tương quan với các bangsa khác trên đời, chỉ có một Bangsa Champa duy nhứt. Tuy nhiên, trên quá trình tồn tại và phát triển, khi đạt trình độ và quy mô quốc gia dân tộc, cơ cấu bangsa được tổ chức theo một nề nếp nhứt định, tính đa dạng đã đưa đến sự hình thành các thành phần không nhứt thiết cùng gắn liền vào một chủng tộc, một giống dòng. Về mặt hình thức, các thành phần này có thể được gọi là các “sắc tộc” cùng hợp thành dân tộc gắn liền với quốc gia nói chung, và cũng có thể cùng được gọi ngang bằng nhau là “dân tộc” trong một quốc gia nhiều dân tộc. Ngoài ra, còn có các thực thể được gọi là “dân tộc” mà thật ra chỉ là những hư cấu dân tộc học. 1. THỂ CHẤT NHÂN LOẠI HỌC BANGSA CHAMPA Trong một phút bất chợt, được đọc trên đất Hoa kỳ một đoạn văn đầy chân tình của bác sĩ Trần văn Tích, một cây bút chuyên khảo kỳ cựu của tạp chí Bách Khoa Thời Đại tại Saigon trước năm 1975: Cuối đời Trần, ở cổ thành phủ Triệu Phong có thành Thuận Châu, tương đương với đất châu Ô của Chiêm Thành nhường cho nhà Trần. Như thế, đồng hương Quảng trị đã ra đời và lớn lên trên đất cũ của người Chàm; chắc không nhiều thì ít đều có mang những gen của Chế Mân, Chế Củ, Chế Bồng Nga. Qua những đợt di dân trong lịch sử, những đoàn người từ châu thổ các sông Hồng, sông Mã đã đến lập nghiệp ở Triệu Phong, Hải Lăng. Chắc phải có những chàng trai tứ chiến giang hồ từ phuơng Bắc tới gá nghĩa cùng các nàng Mỵ Ê thôn dã địa phương để trở thành viễn tổ của người viết bài này.(*)  Nhận xét kể trên của học giả Trần văn Tích nói lên hiện tượng giao lưu nhân chủng, một thực trạng không ai phủ nhận được là trong xã hội Việt Nam ngày nay, nhứt là tại các vùng nguyên là lãnh địa cũ của vương quốc Champa, một số người thực sự có mang dòng máu Champa trong người mặc dầu trong sanh hoạt thường ngày, không thấy có chỉ dấu bề ngoài nào chứng tỏ còn dính dấp đến người Champa ngày xưa nữa. Thực sự, đó là những người dân Champa mà tổ tiên đã không chịu rời bỏ quê nhà khi vùng đất, trong lịch sử, đã bị nhượng lại hoặc bị thôn tính để rồi theo thời gian, trải qua nhiều thế hệ, đã sống hòa đồng với người Việt định cư sau này. Người ta cũng liên tưởng đến những nghệ nhân Champa, trong lịch sử, đã được đưa sang Đại Việt qua nhiều đời khác nhau chắc phải có con cháu mang huyết thống của mình đang sống trong các cộng đồng xã hội người Việt ngày nay.  Tiêu biểu cho thành phần người gốc Chăm đang sống như người Việt này là vừa qua, một số người ở miền Trung Việt Nam, khi cho biết ngày xưa, cha ông thuộc các họ Ôn, Ma, Trà, Chế…... của dân tộc Champa, đã phải đổi thành họ Nguyễn, Trần, ... nhứt là dưới thời vua Minh Mạng, nguyên có một chánh sách Việt hóa quyết liệt đối với dân tộc Champa. Một vài người thuộc diện này đã gây không ít ngạc nhiên cho nhiều người không am tường, và bao nhiêu xúc động cho những ai có mang dòng máu Chăm trong người, khi ngỏ ý tha thiết muốn được quay về với cội nguồn Chăm thực sự của cha ông. Cụ thể nhứt, trong một bức thư trần tình nhận được, lên tiếng về một sự việc xảy ra trong cộng đồng người Chăm, một người tự giới thiệu là Chăm lai Việt “hãnh diện về văn hóa Chăm, và yêu con người Chăm”, hiện đang chuyên viết tiểu luận văn học, cho biết đang lập thủ tục hành chánh cần thiết xin nhà nước Việt Nam cho “nhập tộc Chăm”. Hỏi ra thì mới biết, tại Cọng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, người dân được xếp loại, chánh thức ghi trên giấy căn cước, thuộc thành phần dân tộc Kinh và các dân tộc khác, trong đó, có dân tộc Chăm, nên vị này vì ý thức và tha thiết với gốc nguồn, xin được “nhập tịch Chăm”. Trong các cộng đồng người Champa còn tồn tại đến ngày nay, cũng có một số người gốc Việt hoàn toàn, đã do một số hoàn cảnh cá biệt, nhứt là do hôn nhân hoặc điều kiện sanh sống, đã hội nhập vào xã hội người Chăm, đã và đang sống hoàn toàn như người Chăm tại các gia đình người Chăm. [H80. Một phụ nữ Việt lập gia đình với người Chăm] Trong bối cảnh kể trên, ngày nay, thật khó mà tìm được một mẫu người trong xã hội người Chăm còn tồn tại để nhận diện là người Chăm thuần túy, để xác định các đặc tính nhân chủng cần thiết. Hoàn cảnh chiến chinh và giao lưu với các dân tộc lân cận đã tạo nên những sắc thái nhân dạng phức hợp ngay tại các thôn ấp người Chăm còn sống tập trung và còn duy trì phần nào cuộc sống cổ truyền thể hiện qua cách ăn mặc và ngôn ngữ.  Dầu vậy, các nhà nghiên cứu cũng đã cố gắng làm việc này. Cụ thể, sớm sủa nhứt, có thể kể công trình nghiên cứu khoa học đã được M.E. Farinaud ghi nhận cho thấy công thức máu của người Chăm rất gần gũi với người Rha-đê và người Bahnar, và khá gần gũi với người Sê-đăng cư ngụ tại vùng cao nguyên. Tính gần gũi trong công thức máu này cho người ta ý niệm sơ khởi về quan hệ ruột thịt giữa người Chăm và các sắc dân anh em sống trên vùng đất Cao nguyên Trung Phần. Trong thập niên 1950, hai bác sĩ Pháp Georges Olivier, tại Phan Rang, và Henri Chagnoux,(**) tại Phnom Penh (Cam bốt) đã thực hiện cuộc quan sát và thu thập các dữ kiện một cách có hệ thống để phân tích, sau khi lọai trừ một cách khoa học các yếu tố lai giống của các dân tộc có tiếp xúc hoặc hội nhập. Từ 165 mẫu người Chăm (92 ở Kampuchea và 73 tại Trung Việt), công trình nghiên cứu xác định một mẫu nhân chủng học của người Chăm thuộc chủng tộc Indonesian, khác biệt với các dân tộc khác của Đông Dương tức Việt, Khmer. Người Chăm có nước da sáng sủa của giống người nằm trong đường ranh giữa nước da ngâm ngâm và da vàng, mái tóc đen, dợn sóng (60,5%), có chứng hói đầu (38,2%) và chứng tóc bạc (6,5%), hình dạng mang các sắc nét thanh lịch, xác định sự pha lẫn các yếu tố nhân chủng Indonesian nguyên khởi đã chịu ảnh hưởng gốc Nam Ấn Độ, sau đo, lại hòa lẫn với sắc thái Mông Cổ. Chiều cao trung bình của người Chăm là 1,60m và có cùng công thức huyết rất gần gũi với người Ê-đê, người Bahnar, người Sedang ở Cao nguyên Trung Phần. Chỉ số sọ là 83,1, chỉ số xuyên qua gò má là 89,5, và chỉ số mặt trung bình là 87,4%. Điều đáng lưu ý là người Chăm còn sống ở mãnh đất cũ tại Trung Phần Việt Nam thân hình thoạt trông có vẽ nhỏ thó hơn người Chăm ly hương định cư ở trên đất Kampuchea, một số khá đông có quan hệ hôn nhân với người Mã Lai. Theo giới am hiểu, một công trình nghiên cứu khoa học về sọ người Chăm, dưới quyền điều khiển của cố giáo sư Trần Anh, trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, cũng đã được tiến hành, đưa đến một số kết quả bước đầu, nhưng đã bị bỏ dang dở do biến cuộc năm1975. 2. CÁC THÀNH PHẦN CỦA DÂN TỘC CHAMPA (1) Chăm & Champa Các nhà nghiên cứu buổi đầu thời thuộc Pháp, nhứt là nhóm Trường Viễn Đông Bác Cổ, khi tìm hiểu Champa thường liên tưởng ngay đến, và giới hạn, thành phần người dân nước này chỉ có người Chàm mà sử sách Việt còn gọi là người Chiêm. Bản thân người Chàm xưa nay vẫn tự gọi mình là người Chăm chớ không phải "Chàm" hoặc "Chiêm" như trên.  Các bia ký cổ xưa viết bằng chữ Phạn, được khai quật cho đến nay, chưa thấy ghi từ "chăm" mà chỉ có từ "champa". Tuy nhiên, nếu căn cứ vào sự kiện này mà lập luận rằng từ “chăm” không liên quan đến từ “champa” thì cũng giống như khi người ta nói, từ “Việt” không liên quan gì đến tên nước “Đại Cồ Việt”, “Đại Việt” hoặc “Việt Nam” cả. Nhân dịp này, tưởng cần mở ngoặc ghi nhận, các từ “Hời”, “Lồi” ở Trung Phần cũng như từ “Chà và” ở Tây nam Nam phần, thường được người Việt dùng có thể là không có một định kiến nào cả để ám chỉ một sắc dân mà thôi; ngay cả cố thi sĩ Chế Lan Viên trong những bài thơ ca ngợi thời vàng son của dân tộc Champa cũng đã dùng chữ “Hời”, cụ thể là trong bài “Trên đường về”, nhưng trên thực tế, đối với người Chăm, các từ này gợi lại một quá khứ chẳng lấy gì làm đẹp, mang tính miệt thị gây mặc cảm với người Chăm, không nên sử dụng trong các quan hệ trao đổi với người Chăm, cũng như từ “mọi” đối với người Thượng vậy. Xin đóng lại dấu ngoặc. Trong cuộc hội thảo tại Viện Đại học Copenhague ngày 23 tháng 5 năm 1987 được tổ chức bởi Trung tâm văn hóa - xã hội Champa Pháp, Viện Văn hóa – Xã hội Campa - Đan Mạch, có bài phát biểu thể hiện quan điểm mới về thành phần dân tộc Champa.(***) Theo bài phát biểu này, từ năm 1975, Giáo sư lão thành Pierre Bernard Lafont (Pháp) đã kết hợp các nhà nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học Paris, thực hiện một công trình quy mô diễn dịch ra tiếng Pháp các bản thảo xưa cũ bằng chữ Chăm cùng các sử biên niên hoàng gia Champa bằng chữ Chăm và chữ Trung Hoa nạp bản tại các thư viện Pháp và Trường đại học Cornell (Hoa Kỳ), đối chiếu một cách có hệ thống với các kết quả nghiên cứu của những người đi trước. Kết quả nghiên cứu này đã soi sáng về thành phần dân tộc Champa, xác định dân tộc Champa ngày xưa, thật ra, không phải chỉ bao gồm toàn người Chăm sống ở vùng duyên hải Trung Phần Việt Nam mà còn có những sắc dân Champa với một số tên gọi khác sống trên vùng cao nguyên. Trong lịch sử, vùng Phan Rang – Phan Rí, Trung Phần Việt Nam, nơi nhóm người Chăm còn tồn tại, trước thuộc chủ quyền của triều đình Huế, bị đặt dưới chế độ bảo hộ của Pháp, sau đó từng bước mới chuyển thành vùng đất trực trị của Pháp trên thực tế. E. Aymonier là viên chức người Pháp đã sớm quan tâm nghiên cứu về người Chăm, đầu tiên khi đến Phan Rang năm 1884, đã được gặp và tiếp xúc với một số người được xác định không phải là người Việt và tự giới thiệu là người Chăm. Trong khi ở Kampuchea, E. Aymonier đã nắm được thông tin về Vương quốc Champa, nên suy luận ngay chỉ người Chăm là con dân của Vương quốc Champa. Các nhà nghiên cứu đi sau đã noi theo E. Aymonier, cứ theo lối mòn đinh ninh một cách máy móc, người Chăm là con dân duy nhứt của Vương quốc Champa. Trong khi đó, khi việc tiếp xúc với dân chúng trên vùng Cao nguyên Trung Phần, người Pháp không thông qua triều đình Huế, mà qua các đoàn thám sát địa thế (nổi tiếng là đoàn Pavie, Henry Maitre, bác sĩ Alexandre Yersin. . .) xâm nhập từng khu vực, thiết lập giao dịch với các lãnh đạo địa phương, rồi từ đó, mới áp đặt một bộ máy thống trị riêng cho toàn vùng, nơi sanh sống của các nhóm thần dân vùng cao của vương quốc Champa ngày xưa, lập nên “Pays Montagnard du Sud d’Indochine” gọi tắt là PMSI có quy chế chánh trị và hành chánh biệt lập, tách biệt hẳn, không còn dính líu đến vùng duyên hải Trung Phần nữa. Đến thời kỳ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng thì đổi danh xưng là “Hoàng triều Cương thổ”, tiếp tục quy chế chánh trị và hành chánh biệt lập. (2) Xếp thành phần theo địa bàn cư trú Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ F.M. Lebar, G.C. Hickey, J.K. Musgrave, căn cứ vào địa bàn cư trú trong Nagar Champa thời cổ, đã phân chia một cách có hệ thống, dân tộc Champa thành 2 nhóm chủ yếu:  1) Nhóm Chăm đồng bằng (low land Cham); 2) Nhóm Chăm cao nguyên (high land Cham). Người Chăm đồng bằng sống trên các vùng đất thung lũng dọc theo duyên hải, một phần sống về nghề nông trên những thửa ruộng hẹp, còn phần lớn là những thủy thủ cang cường, chuyên nghề đi biển, chài lưới, hoặc thương buôn đường dài, một thời nổi danh trong vùng biển đông. Trong khi các sắc dân cao nguyên sống trong vùng núi non hiểm trở, thiếu giao lưu với bên ngoài, một số làng mạc sống theo nề nếp du canh du cư đốt rừng làm rẩy, canh tác ruộng khô, phải di chuyển theo định kỳ để đất luân phiên phục hồi mầu mở. Việc phân chia dân tộc Champa thành 2 nhóm căn cứ vào địa bàn sanh sống kể trên là sự phân chia theo kỹ thuật phân tích của các nhà nghiên cứu, chớ không phải là sự phân chia lịch sử của chính dân tộc Champa, bởi lẽ các văn bia, các văn bản lịch sử Champa còn lưu lại không có sự phân chia này. Trong ngôn ngữ Champa, khi nói orang Champa là bao gồm cả người dân Champa sống tại các vùng đồng bằng lẫn miền núi của vương quốc Champa, không phân biệt nguồn gốc hoặc sanh quán của họ. Tuy nhiên, vì mỗi sắc dân trên vùng Cao nguyên Trung Phần, trên quá trình phát triển ở các địa phương, đều đã có và tự hào với những tên gọi riêng như Ê Đê, Jarai, Bahnar, Churu, Kaho, v.v. . .thể hiện căn sắc dân tộc (ethnic identity) của mình cũng như người Chăm vùng duyên hải, nên một số thành phần trí thức Thượng thị thành mà thời thế đã nâng lên đến một địa vị nhứt định trong bộ máy chánh quyền Việt Nam Cọng hòa trước năm 1975, mặc dầu vẫn xác nhận thuộc thành phần dân tộc Champa trong lịch sử, đã tỏ ra không mấy mặn mà nếu không nói là phủ nhận lối gọi chung người Thượng là “Chăm vùng cao”. Đúng ra, đây chỉ là vấn đề thuật ngữ không hơn không kém. Trong môi trường sống bao quanh bởi núi rừng hiểm trở, khác biệt với người Chăm ở vùng duyên hải, người dân Champa miền núi còn sống gần với thiên nhiên, trong những tập thể xã hội ngăn cách nhau, thiếu phưong tiện giao lưu tối thiểu nên thường được các nhà dân tộc học ngoại quốc, trong quá khứ, nhận diện theo từng bộ tộc thể hiện qua các biểu hiện thực thể văn hóa mà thực chất chỉ là những hư cấu dân tộc học (ethnographic fictions) cho nên có những tên gọi do sách vở đặt cho, nhưng chính người dân trong cuộc lại tự gọi mình với tên gọi khác. Cụ thể như tên gọi Radhê đã được sách vở nghiên cứu ghi từ non một thế kỷ nay thì chính người dân trong cuộc lại thích tự gọi mình là Ê-Đê xuất xứ từ tên gọi Anak H'Đê có nghĩa là con của H'Đê nghe có vẽ trang trọng hơn. Căn cứ vào ngữ học, dân tộc Champa được xếp thành hai nhóm chủ yếu, nhóm Mã lai đa đảo và nhóm Môn khmer. Nhóm Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian), còn gọi là Austronesian (Nam đảo) trong đó, có người Chăm, bao gồm có các tộc người chánh yếu, người Roglai, Churu, Ê-đê, Jarai, Hroy v.v.., trong ngôn ngữ, có những âm chính rất gần gũi nhau và thông cảm nhau dễ dàng được học giới Tây phương xếp vào loại “Chamic”: - Người Roglai gần gũi nhứt với người Chăm, sống trong rừng núi phía Tây Nha Trang, trong khu vực Tây Bắc Phan Rang (Ninh Thuận) và rải rác trong vùng Phan Rí (Bình Thuận).  - Người Churu sống trong vùng thung lũng Đa Nhim (Đa Lạt, mà theo thông tin truyền khẩu, được xem là tộc người lai Chăm và Roglai, Koho, còn được người Chăm vùng duyên hải gọi là Chăm-Ro tức Chăm t nạn đã trốn chạy trước làn sóng Nam tiến của quân binh nhà Nguyễn. - Người Ê-Đê tại Buôn Ma Thuôt, vùng sanh sống về phía Tây giáp giới với Kampuchea. - Người Jarai sống trong vùng Kon Tum, Pleiku, trên một địa bàn nới rộng đến biên thùy Kampuchea về phía Tây và giáp ranh với khu vực người Ê-Đê ở phía Nam. Trong giới người Jarai, có những nhân vật lãnh đạo có tiếng là Patao Apui, tức Vua Lửa từng đựợc triều đình nhà Nguyễn phong là Hỏa xá, Patao Ea, tức Vua Nước, mệnh danh là Thủy Xá; ngoài ra, còn có Patao a-ngin tức Vua Gió... uy danh đượm nhiều màu sắc thần thoại, được dân chúng địa phương kính trọng. - Người Hroy, sanh sống ở phía Tây Cheo Reo, chính là người Chăm, nhưng môi trường sanh sống, theo thời gian, đã khíến họ hội nhập vào sống nếp sống gần gũi hơn với nếp sống văn hóa và xã hội người vùng cao.  Nhóm Môn – khmer còn gọi là Austroasiatic tức Nam Á, chủ yếu gồm có các tộc người Bahnar, Seđang, Mnong, Halang, Jeh, Koho, Mạ, Stiêng, Ta Ôi, K’Yu, Bru-Vân Kiều, v.v...: - Người Bahnar sống tại vùng An Khê (Pleiku) và Kontum. - Người Seđang sống tại vùng Tây Bắc Kontum. - Người Halang ở Kontum và giáp giới Nam Lào. - Người Jeh, ở Đaksut, gần biên giới Lào. - Người Koho, vùng Đa lạt. - Người Stiêng, vùng Biên Hòa - Thủ dầu một, v.v... Ngoài sự gần gũi về ngôn ngữ, có những bằng chứng cho thấy mối quan hệ gắn bó không tách rời của người Chăm và các bộ tộc cao nguyên với tánh cách là dân tộc Champa trong lịch sử. Trước hết, giữa người Chăm và các sắc tộc vùng cao có những quan hệ dòng họ. Trong người Ê-đê là sắc tộc lớn có nhiều bậc trí thức nhứt Cao nguyên, có họ Êchăm là dòng họ ngoại hôn thuộc dòng tộc Eban. Họ R’Com là một dòng họ lớn của người Jarai thường được xem bao gồm những người “văn minh” nhứt do được tạo điều kiện sớm tiếp cận với nền giáo dục trường lớp thời thuộc địa Pháp. Về mặt từ nguyên, từ R’Com rất gần gũi nên có thể là một biến thể của từ R’Chăm. Người Roglai còn có họ Chamalê cũng xuất xứ từ từ “Chăm”. Trong số những vị vua Champa, có một vị vua sanh quán tại vùng cao, đáng chú ý nhứt là Vua Pô Romê, vị vua cho đến nay còn được tôn thờ tại một ngọn tháp ở Phan Rang, được dân chúng cúng bái hằng năm, là người gốc Chu Ru. Một vị vua khác là Pô Top đã lên ngôi năm 1655 là con một người con gái của hoàng hậu người Ê-đê của vua Pô Rômê (tức là cháu ngoại của Pô Rômê). Tiếp nối truyền thống quan hệ này, sau khi vương quốc Champa không còn nữa, người dân Roglai hàng năm vẫn cùng nhau xuống đến tận tháp Pô Romê ở Phan Rang cùng người Chăm tham dự lễ Katê là một lễ hội dân gian hàng năm của dân tộc Champa. Trong lịch sử, các vua Champa trong các lễ vật cống nạp triều đình Trung Hoa, người ta nhận thấy có các lọai gỗ quý giá cùng các hương liệu thì chính xuất xứ từ người Roglai và các sắc tộc vùng cao khác dâng nạp. Ngoài ra, còn có sừng tê giác, bạch tượng, quế, vàng, mật ong... đều là sản phẩm của vùng cao mới có, chứng tỏ mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ tộc cao nguyên với triều đình Champa ngày xưa trong sanh hoạt quốc gia. Vua quan Champa ngày xưa có lúc đã phải nương náu trong sự bảo bọc của người dân Champa vùng cao khi bị yếu thế trong các cuộc xua quân xâm nhiễu của triều đình Đại Việt, hoặc của Trung Hoa từ phía Bắc, hoặc của triều đình Phù Nam từ phía Tây Nam. Tuy nhiên, trong học giới, người ta cũng ghi nhận một khuynh hướng phân cách không tán đồng lập luận thành phần dân tộc Champa bao gồm toàn bộ các bộ tộc Cao nguyên miền Nam. Trong một bài phát biểu tại Hội nghị quốc tế về Champa và thế giới Mã Lai tại Viện Đại học California, Berkeley (Hoa kỳ) năm 1990 do Trung tâm nghiên cứu Á châu (Center for Southeast Asia Studies) và Văn Phòng quốc tế Champa (International Office of Champa) kết hợp tổ chức, một vị phát biểu, chỉ có người Churu mới có điều kiện được kể là thành phần dân tộc Champa, còn các dân tộc Cao nguyên khác từ nhiều ngàn năm, đã hình thành và duy trì những trật tự xã hội khác biệt, có truyền thống văn chương truyền khẩu và các hệ thống cúng tế địa phương riêng biệt.  Một lập luận phân cách khác của nhóm người dân miền núi từ Cao nguyên Trung Phần Việt Nam sang tỵ nạn tại Hoa kỳ sau năm 1975, phản ảnh trong trang nhà Internet của tổ chức hội đoàn “Montagnard Dega Foundation”, trong thập niên gần đây, nhứt là qua trang nhà trên Internet, tự gọi một cách tự hào là dân tộc Dega (chử “Dega” được dẫn giải là “các bộ tộc”). Các lập luận trao đổi về mặt này sẽ bất tận nếu người ta không thỏa hiệp với nhau trước ở tiền đề về một số tiêu chuẩn cần thiết, bởi lẽ khái niệm tùy thuộc vào một thành phần dù của dân tộc nào, đều mang tính nhiệm ý, thể hiện ít nhiều xúc cảm chủ quan, chịu dưới tác động của bối cảnh bao quanh, không thể né tránh vào đâu được. Trong số các thành phần dân tộc một nước, bao giờ cũng có một loại thành phần mang tính cốt lõi, thành phần nắm giữ vai trò chủ động áp đảo trong việc hình thành và phát huy dòng chánh lưu (mainstream) về văn hóa, kinh tế, chánh trị, xã hội, v.v. cho toàn dân tộc. Các thành phần khác trong khi lúc nào cũng có khuynh hướng bảo tồn căn sắc của mình, vẫn phải khép mình hội nhập vào dòng chánh lưu. Sau khi vương quốc Champa không còn nữa, dân tộc Champa - theo đúng nội dung bao gồm cả người Champa vùng duyên hải và các bộ tộc Champa vùng cao - không còn duy trì được một bộ máy chánh quyền vương quốc từ trung ương làm chất kết dính các thành phần đa dạng trong lòng dân tộc Champa như trong lịch sử. Trong lịch sử, thực hiện chánh sách tầm thực trong cuộc Nam tiến vào thế kỷ 19, nhà Nguyễn nước Đại Việt đã cắt bỏ phần đất vùng cao của vương quốc Champa lập thành hai nước khác: Hoa Anh, Nam Phan đặt trực thuộc triều đình nhà Nguyễn. Tiếp theo, nhà cầm quyền thực dân Pháp, sau khi áp đặït bộ máy thống trị Việt Nam, đã thực hiện chủø trương chia để trị, cô lập vùng cao nguyên Trung Phần với phần đất còn lại và từ đó, mới xuất hiện từ ngữ “montagnard”chỉ định các sắc dân thiểu số Champa sống trên đó, đồng thời xây dựng một lớp trí thức tự hào với một căn sắc biệt lập mới. Đến khi chuyển giao chủ quyền cho chánh quyền Bảo Đại vào năm 1949 thì lập nên Hoàng triều cương thổ, gọi các sắc dân montagnard kể trên là “Thượng” được quen dùng đến ngày nay. Trong khuôn khổ các sự kiện kể trên và qua thời gian kéo dài đã non một thế kỷ, tính gắn bó dân tộc Champa, do thiếu điều kiện giao lưu thông suốt của quá khứ, mặt khác, lại phải phấn đấu sống còn tại địa phương, dù muốn dù không, vẫn phải đi đến chỗ phân cách trong không gian. Ngay trong cùng một bộ tộc, cũng lại có khuynh hướng tách rời và có tên gọi mới thọat nhận, có thể nghĩ là không phải cùng thuộc một bộ tộc. Các tên gọi mới này trong một số trường hợp cũng là do quan hệ hôn nhân với bộ tộc lân cận tạo thành một nhóm mới biệt lập. Do đó, tại Việt Nam ngày nay, khi nói đến người Chăm, người ta phải nói rõ là người Chăm Phan Rang - Phan Rí hay người Chăm Châu Đốc, người Chăm Kampuchea. Người Jarai thì có Hđrung, Habau, A-Rap, Tô-buan, Hroy, v.v...; người Ê-Đê thì có Ê-Đê - Kpa, Adham, Ktul, Blo, Epan, Bih, v.v...  Mặc dầu có những sự kiện nêu trên, sự song tồn của thành phần đa số và thành phần thiểu số trên cùng một lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng là một thực tế mà mọi người dù muốn dù không cũng phải chấp nhận. Khái niệm dân tộc Champa trong nội dung bao gồm người Chăm và các bộ tộc Champa cao nguyên, vốn là thần dân của vương quốc Champa ngày xưa, dù sao, vẫn có giá trị lịch sử, không ai có thể chối bỏ được. Để tránh những tranh cãi không đi đến đâu, nghĩ có thể dung hòa bằng cách, khi nói đến “dân tộc Champa” trong lịch sử thì sẽ bao gồm toàn bộ các sắc dân đã xuất phát từ một cội nguồn từ thời cổ, đã từng sống đùm bọc gắn bó với nhau ngày xưa trong vương quốc Champa. 3. DÂN TỘC VÀ BANGSA Các thành phần gọi là dân tộc Champa kể trên ngày nay không phải chỉ sanh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong lịch sử, vương quốc Champa và vương quốc khmer có những quan hệ khi thì thân thiện khi thì thù địch giết hại lẫn nhau, hậu quả là có một số người Chăm bao gồm cả những nhân vật thuộc hoàng gia Champa sang định cư tại Kampuchea. Ngoài ra, khi nhà Nguyễn nước Đại Việt xua quân thôn tính Panduranga là phần đất có chủ quyền cuối cùng của Champa, thì đã diễn ra những đợt dời cư ồ ạt của người Chăm kể cả dòng tộc hoàng gia còn sót lại sang lánh nạn và đã định cư vỉnh viễn đến ngày nay trên đất nước Kampuchea. Một chi tiết đặc biệt cần được lưu ý là số người Chăm sanh sống tại Kampuchea hiện nay, sau khi đã là nạn nhân của chánh sách tàn sát diệt chủng thời Khmer đỏ sau năm 1975, theo ước lượng của giới có thẩm quyền, là vào khoảng 400 ngàn người, đông hơn Việt Nam (ước khoảng 130 ngàn người) mặc dầu vương quốc Champa ngày xưa nằm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay chớ không phải Kampuchea. Dưới thời Việt Nam Cọng Hòa trước năm 1975, các thành phần thiểu số đều được gọi là các “sắc tộc thiểu số” bao gồm sắc tộc Chàm và các sắc tộc Cao nguyên Trung Phần gọi chung là “đồng bào Thượng”; còn người Việt, đối lại, thì được gọi là “người Kinh”. Từ “dân tộc” chỉ dùng cho toàn dân tộc Việt Nam mà thôi. Chuyển sang chế độ Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi thành phần dân tộc Champa ngày xưa, từ sau năm 1975, đều được chánh thức gọi là “dân tộc” (dân tộc Chăm, dân tộc Jarai, dân tộc Chu Ru, dân tộc Ê Đê, v.v. . ) còn dân tộc Việt là dân tộc Kinh thủ giữ vai trò trội yếu của dòng chánh lưu cùng các dân tộc anh em, tất cả, trên nguyên tắc, hợp thành đại gia đình dân tộc Việt Nam.  Tại Kampuchea, là một nước có dân số gốc Chăm nhiều nhứt thế giới, và người Chăm đã đạt trình độ thăng tiến xã hội đáng kể, thì một có sự kiện nghịch lý là không còn được gọi là “Chăm”. Lý do: cựu Quốc vương Sihanouk, từ trước năm 1975, dựa vào lý do tránh phân biệt chủng tộc, đã ban hành quyết định không gọi người Chăm là “Chăm” nữa, mà chánh thức gọi chung người Chăm là “Khmer Islam”. Nhưng cho đến ngày nay, trong nội bộ người Chăm vẫn tự gọi là “Chăm”.  Riêng người Chăm sang định cư tại Malaysia thì được gọi một cách trang trọng là “Orang Malayu Champa”. Mặc dầu tên gọi chỉ thể hiện mặt hình thức, không nhứt thiết phản ánh trung thực nội dung phong cách đối xử, cách gọi khác biệt như vậy theo thời gian rồi cũng có tác động vào tâm trạng của những người trong cuộc ở những mức độ nhứt định và theo những chiều hướng phát triển khác nhau, qua những tình huống mà họ phải đối phó hoặc xử lý trong cuộc sống thường ngày.  Trong biên cương chánh trị của các nước, nói một cách khác, thân trạng của người Chăm lệ thuộc vào chánh sách của nhà nước nơi đang định cư. Sự lệ thuộc này, cộng với tác động của dòng chánh lưu về văn hóa, xã hội, nhứt là về ngôn ngữ, qua nhiều thế hệ, có hậu quả làm xói mòn và cuối cùng phá vỡ tính thuần nhứt của nền tảng tinh thần dân tộc Champa thời vương quốc Champa còn tồn tại. Tính thuần nhứt này, trái ngược lại, vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, mỗi khi được gợi lên, trong tinh thần Bangsa vốn không lệ thuộc vào sự thay đổi địa bàn sanh sống, không lệ thuộc vào những tình huống hoặc những sự kiện đương thời, bởi lẽ Bangsa Champa là cội nguồn, là gốc gác của ông bà tổ tiên; cội nguồn là một yếu tố vốn bất di bất dịch không ai có thể tự mình thay đổi được, kể cả khi một cá nhân, vì một lý do nào đó, thực tâm muốn thay đổi. Theo chiều hướng này, không cần biết hiện đang sống tại đâu, những ai còn ấp ủ tiềm tàng trong lòng tính gắn bó và niềm tự hào về Bangsa Champa thì đều là thành phần của dân tộc Champa. (*) Trần văn Tịch "Quê Cũ, Sách Xưa", trong tạp chí Làng Văn, số 150, tháng 2, 1997, tr. 40. (**) Olivier, Georges & Chagnoux, Henri. “Anthropologie Physique des Chams”. Trong Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, Tập XXVI, số 3, Tam cá nguyệt 3, 1951, tr. 272-318. (***) Gay, Bernard. “Vue Nouvelle sur la Composition Ethnique du Campa” trong Actes du S éminaire sur le Campa. Paris: Travaux du Centre d’Histoire et Civilisation de la P éninsule Indochinoise, 1988, tr. 50-58.
0 Rating 778 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
1. ?ôi nét v? s? hình thành v??ng qu?cChampa Qua nh?ng ghi chép trong th? t?ch c?, bia ký và nh?ng di tích kh?o c? trên m?t và trong lòng ??t, ??a bàn V??ng qu?c Champa trùng h?p v?i ??a bàn phân b? c?a n?n v?n hoá th?i S? s? – v?n hoá Sa Hu?nh. Theo th? t?ch Trung Hoa c?, vào cu?i th? k? II (n?m 192) Khu Liên ?ã l?p ra n??c Lâm ?p.M?c dù còn nhi?u ý ki?n khác nhau xung quanh v?n ?? v? trí, tính ch?t c?a Lâm ?p và m?i quan h? gi?a Lâm ?p v?i Champa, nh?ng m?t ?i?u c?n l?u ý, s? hình thành v??ng qu?c Champa là quá trình ti?n hoá c?a c?u trúc xã h?i trong kho?ng th?i gian vài th? k? và n?m trong qu? ??o phát tri?n chung c?a khu v?c ?ông Nam Á. Trên c? s? nh?ng t? ch?c xã h?i ti?n nhà n??c ?ã phát tri?n t?i nh?ng vùng ??a ph??ng c?a v?n hoá Sa Hu?nh (??c bi?t là ? nh?ng l?u v?c sông l?n) và d??i tác ??ng c?a nhi?u y?u t? bên trong và bên ngoài, vào kho?ng th? k? II ??n th? k? IV AD m?t s? chính th? d?ng nhà n??c s? khai ?ã hình thành ? mi?n Trung Vi?t Nam. Tài li?u kh?o c? thu th?p ???c qua khai qu?t Trà Ki?u (sông Thu B?n, Qu?ng Nam), C? Lu?-Phú Th? (sông Trà Khúc, Qu?ng Ngãi) và thành H? (sông ?à R?ng, Phú Yên) cho th?y t? nh?ng th? k? sau Công nguyên ? nh?ng khu v?c này ?ã có nh?ng trung tâm quân s?-chính tr?-kinh t? ?óng vai trò quan tr?ng trong m?i l?u v?c sông t??ng ?ng. Di tích và di v?t kh?o c? c?ng ch?ng t? nh?ng chính th? d?ng nhà n??c s? khai này có cùng trình ?? phát tri?n kinh t?-xã h?i và quan h? gi?a chúng là quan h? v?a theo xu h??ng liên minh, liên k?t v?a theo xu h??ng thu ph?c và c?nh tranh. ??n kho?ng th? k? V AD nh?ng xu th? này d?n ??n s? ra ??i c?a v??ng qu?c Champa. 2.Nh?ng y?u t? tác ??ng ??n s? hình thành nhà n??c ? mi?n Trung Vi?t Nam.K?t qu? khai qu?t Trà Ki?u, Gò C?m (Duy Xuyên, Qu?ng Nam), di ch? H?u Xá I (H?i An)… cho th?y t?ng v?n hoá s?m nh?t ? nh?ng ??a ?i?m này có niên ??i kho?ng th? k? I, II AD và trùng h?p v?i niên ??i c?a th? t?ch c? v? m?t nhà n??c s?m. N?u so sánh th?i gian ta th?y có s? trùng khít gi?a th?i ?i?m k?t thúc c?a v?n hoá Sa Hu?nh (nh?ng khu m? chum Sa Hu?nh mu?n nh?t ? Gò D?a (Duy Xuyên, Qu?ng Nam), Bình Yên (Qu? S?n, Qu?ng Nam), Lai Nghi (?i?n Bàn, Qu?ng Nam), Hoà Diêm (Cam Ranh, Khánh Hoà)… ???c xác ??nh có niên ??i k?t thúc kho?ng th? k? I ??n II AD) v?i niên ??i kh?i ??u c?a nh?ng nhà n??c s? khai ? mi?n Trung Vi?t Nam. Trong tình hình nghiên c?u hi?n nay, t? li?u ??a t?ng và hi?n v?t kh?o c? ch?a nhi?u ?? tìm hi?u ??y ?? b?n ch?t và n?i dung c? th? quá trình chuy?n ti?p và chuy?n bi?n gi?a hai n?n v?n hoá Sa Hu?nh- Champa. Tuy v?y, s? trùng h?p v? không gian phân b?, th?i gian kh?i ??u, k?t thúc và ti?p n?i c?a hai v?n hoá; s? n?i ti?p trong s?n xu?t và s? d?ng c?a m?t s? lo?i hình hi?n v?t nh? ?? g?m gia d?ng, ?? trang s?c b?ng mã não, thu? tinh; s? ti?p t?c t?n t?i c?a táng t?c ho? thiêu gi?a hai n?n v?n hoá; s? phát tri?n c?a nh?ng thi?t ch? chính tr? phân t?ng; s? chuyên hoá ? m?c ?? nào ?ó c?a s?n xu?t th? công và c?u trúc xã h?i d?a trên c? s? t?ng l?p c?a xã h?i th?i Sa Hu?nh (n?n t?ng ?? hình thành c?u trúc chính tr? m?i – nhà n??c)… m?t m?t h??ng các nhà nghiên c?u t?i vi?c tìm ki?m nh?ng ngu?n g?c b?n ??a c?a v?n hoá Champa, m?t khác giúp ?ánh giá ?úng m?c vai trò c?a nh?ng y?u t? ngo?i sinh bao g?m c? ti?p xúc, trao ??i v?n hoá, kinh t?, làn sóng d?ch chuy?n dân c? trong vi?c hình thành nh?ng ??c tr?ng v?n hoá m?i. ?a s? ý ki?n ??ng thu?n v?i gi? thi?t v?n hoá Champa n?y sinh t? v?n hoá Sa Hu?nh, ng??i Ch?m c? là con cháu ng??i Sa Hu?nh c?. Theo Hà V?n T?n ch? nhân v?n hoá Sa Hu?nh là c? dân Ti?n Ch?m hay S? Ch?m, có ngh?a c?ng là c? dân nói ti?ng Nam ??o nh? ng??i Ch?m sau này. D??i ánh sáng c?a kh?i t? li?u m?i hi?n nay v? tính ??a ph??ng c?a v?n hoá Sa Hu?nh giai ?o?n mu?n ? hai vùng Trung Trung B? và Nam Trung B?, có th? gi? thi?t r?ng, nh?ng nhóm t?c ng??i thu?c m?t s? ng? h? khác nhau ?ã ?óng góp vào quá trình kh?i d?ng n?n v?n minh Champa, trong ?ó vai trò ch? ??o là c?a c? dân nói ti?ng Nam ??o.B?t k? c?u trúc Lâm ?p và nh?ng chính th? t??ng ???ng Lâm ?p nh? th? nào, nh?ng nghiên c?u m?i nh?t cho th?y nh?ng chính th? này ??u ???c b?t ngu?n t? nh?ng d?ng v?n hoá-xã h?i b?n ??a. Nh?ng y?u t? v?n hoá ngo?i sinh Trung Hoa, ?n ??… ?ã có m?t tr??c khi nh?ng chính th? này ra ??i. T? Sa Hu?nh qua Lâm ?p ??n Champa là c? quá trình di?n bi?n d?n d?n và lâu dài mà trong ?ó c? hai nhóm ngu?n l?c n?i sinh và ngo?i sinh có m?i quan h? ch?t ch? và t??ng h?. 3.C?u trúc c?a v??ng qu?c ChampaTr??c ?ây, d?a vào s? li?u Trung Hoa, nhi?u h?c gi? ?ã cho r?ng v??ng qu?c Champa ???c t? ch?c theo mô hình chính quy?n quan liêu t?p quy?n ki?u T?n-Hán. Nh?ng k?t qu? nghiên c?u m?i nh?t c?a C. Jasques, O.W. Wolter, K. Taylor ?ã ch?ng minh r?ng Champa, Phù Nam (th?m chí c? V?n Lang, Âu L?c) là nh?ng liên hi?p, liên minh c?a nhi?u ti?u qu?c có nhi?u nét t??ng ??ng v? v?n hoá. Theo GS. Tr?n Qu?c V??ng, mô hình m?t ti?u qu?c Champa d?a trên tr?c quy chi?u là dòng sông ph?i có ba thi?t ch? – ba trung tâm (tính theo dòng ch?y c?a sông, t? núi ra bi?n) là: trung tâm tôn giáo, t?m g?i là Thánh ??a (th??ng v? phía Tây, ??u ngu?n sông) – trung tâm chính tr? (th??ng n?m ? b? Nam sông) và trung tâm th??ng m?i – kinh t? (th??ng n?m ? g?n sát c?a sông – c?a bi?n).hoáT? th?p k? 60 tr? v? tr??c, nhi?u h?c gi? ph??ng Tây nh? G. Coedès, H. Maspéro… th??ng coi Champa là m?t qu?c gia ?n hoá. Trên th?c t?, ?nh h??ng v?n hoá-tôn giáo c?a ?n ?? ??i v?i Champa là r?t m?nh m? và không th? ph? nh?n. Song, ng??i ta c?ng nh?n th?y nhi?u y?u t? phi ?n, khác ?n ? ?ây. Paul Mus nh?n m?nh t?i nh?ng ??c ?i?m b?n ??a – Ti?n ?n ?? hoá – trong v?n hoá Champa. Trong quá trình ti?p thu v?n hoá Trung Hoa, ?n ??… c? dân Champa ?ã k?t h?p hài hoà gi?a y?u t? v?n hoá ??a ph??ng (n?i sinh) và v?n hoá bên ngoài (ngo?i sinh) trên c? s? phù h?p v?i ?i?u ki?n môi tr??ng sinh thái, tính cách, tâm lý t?c ng??i, ?i?u ki?n xã h?i và l?ch s? ??c thù ?? sáng t?o ra n?n v?n hoá c?a mình có nh?ng nét chung, song có nhi?u nét riêng so v?i nh?ng v?n hoá láng gi?ng khác ? ?ông Nam Á cùng ch?u ?nh h??ng c?a v?n minh ?n ??.T? li?u kh?o c? h?c c?ng cho th?y ?nh h??ng c?a v?n hoá Trung Hoa, ?n ?? và v?n hoá ?ông S?n ??i v?i v?n hoá Sa Hu?nh t? nh?ng th? k? BC. Nh?ng ?nh h??ng này ???c di?n ra qua trao ??i buôn bán hàng hoá, ??ng th?i c?ng là trao ??i k? thu?t gi?a các khu v?c. M?i quan h? – ?nh h??ng v?n hoá – này ???c ??y m?nh t? ??u thiên niên k? I Công nguyên. Theo các nhà nghiên c?u, nguyên nhân ch? y?u c?a vi?c t?ng c??ng các ?nh h??ng c?a v?n hoá ?n ?? chính là nhu c?u th??ng m?i. Các ngu?n t? li?u khác nhau cho bi?t, ngu?n h??ng li?u, g? tr?m, các lo?i d?u th?m, long não, cánh ki?n tr?ng và ??c bi?t là vàng vô cùng phong phú ? ?ông Nam Á ?ã thu hút các th??ng nhân ?n ?? t?i ?ông Nam Á nói chung và Champa nói riêng. Theo sau các th??ng nhân, hay cùng các th??ng nhân là các tu s? Hindu giáo, các nhà s? Ph?t giáo…. Do thâm nh?p ch? y?u qua v?n hoá mà l?i b?ng nh?ng ph??ng th?c hoà bình, t? nguy?n, nên quá trình ti?p xúc và trao ??i v?i v?n hoá ?n ?? (và v?i c? v?n hoá Trung Hoa, v?n hoá ?ông Nam Á) ?ã th?m th?u và ?? l?i nh?ng d?u ?n ??m nét trong m?i khía c?nh ??i s?ng v?n hoá Champa t? v?t ch?t ??n ??i s?ng tinh th?n-tâm linh.ChampaT? cu?i th? k? XIX, v?n hoá Champa ?ã ???c nhi?u h?c gi? n??c ngoài, ??c bi?t là ng??i Pháp, quan tâm nghiên c?u. H? ?ã ti?n hành nhi?u ??t kh?o sát s?u t?m nh?ng di tích ki?n trúc và ?iêu kh?c Champa. ??c bi?t t? n?m 1898 v?i vi?c phát hi?n khu di tích M? S?n, vi?c nghiên c?u Champa càng ???c ??y m?nh. Nh?ng nghiên c?u giai ?o?n này ??t nhi?u thành t?u ?áng k? và ??t n?n móng c? b?n cho nh?ng giai ?o?n sau. Tuy v?y, nh?ng nghiên c?u c?a ng??i Pháp ch? t?p trung vào các l?nh v?c ki?n trúc, ?iêu kh?c và bia ký. Giai ?o?n này h?u nh? không ai quan tâm nghiên c?u ??i s?ng sinh ho?t c?a c? dân qua di tích và di v?t kh?o c? h?c.T? sau ngày ??t n??c th?ng nh?t (n?m 1975), vi?c nghiên c?u v?n hoá Champa ???c ??y m?nh trên nhi?u l?nh v?c và ch? y?u do các nhà nghiên c?u Vi?t Nam ti?n hành. Tuy v?y, cho ??n n?m 1985, v?n ch? là nh?ng cu?c ?i?u tra s?u t?m v?i hai cu?c khai qu?t nh? c?a ?HTH Hà N?i và các m?ng, các ?? tài nghiên c?u còn r?t h?n h?p. H?u nh? chúng ta ch?a có ý ni?m gì v? n?i c? trú, v? ??i s?ng sinh ho?t, v? các ngành ngh? th? công, v? c? c?u kinh t? c?a c? dân.T? sau n?m 1985, ??c bi?t t? th?p k? 90 tr? l?i ?ây, tình hình nghiên c?u Champa ???c ??y m?nh lên m?t b??c m?i. K? th?a thành t?u nghiên c?u c?a các th? h? h?c gi? ?i tr??c, nh?ng ng??i nghiên c?u giai ?o?n này ?ã b? sung và hoàn thi?n h?n k?t qu? nghiên c?u trong các l?nh v?c ?ã ???c th?c hi?n tr??c ?ây nh?: ki?n trúc, ?iêu kh?c, v?n bia…. D??i góc ?? kh?o c? h?c, h? ?ã tri?n khai nhi?u ?? tài m?i nh?: khai qu?t các di ch? c? trú; nghiên c?u ?ô th?, thành c?, th??ng c?ng; vi?c s?n xu?t ?? g?m, ?? trang s?c và các ngành ngh? th? công khác; k? thu?t tr? thu? và s? d?ng n??c; ??i s?ng tâm linh…. Thành t?u l?n nh?t trong giai ?o?n này là vi?c phát hi?n và nghiên c?u nh?ng n?i c? trú c?a c? dân Champa, ngh? làm ?? g?m và g?ch ngói c?ng nh? trang trí, v?t ph?m dâng cúng b?ng ??t nung…. Các cu?c ?i?u tra kh?o sát ?ã phát hi?n thêm nhi?u di tích, di v?t m?i nh? các ph? tích ki?n trúc, tác ph?m ?iêu kh?c ?á, ?? g?m… làm phong phú thêm lo?i hình di tích di v?t. T?ng s? ??a ?i?m phát hi?n có di tích di v?t v?n hoá Champa ? ??u th? k? XX ch? là 229, còn vào cu?i th? k? con s? này ???c nâng lên g?n 300 ??a ?i?m.Nhi?u ??a ?i?m ???c khai qu?t trên di?n r?ng và trong nhi?u n?m li?n. Nh?ng v?n ?? th??ng ???c t?p trung gi?i quy?t là ngu?n g?c, m?i quan h? c?a v?n hoá Champa v?i v?n hoá Sa Hu?nh, ?nh h??ng mang tính “xúc tác” c?a các y?u t? ngo?i sinh Hán, ?n ??, ?ông Nam Á…. Nh?ng v?n ?? khác nh? di v?t hay các lo?i hình c? trú, th? t?, th??ng c?ng và bi?n pháp tr? thu?… c?ng ??t ???c nhi?u k?t qu? ?áng khích l?.Ngh? s?n xu?t ?? g?m c?a c? dân Champa ? giai ?o?n s?m thu hút s? quan tâm ??c bi?t c?a các nhà nghiên c?u trong và ngoài n??c. D?a trên kh?i t? li?u kh?ng l? t? các cu?c khai qu?t H?u Xá, Trà Ki?u, Nam Th? S?n, Bãi Làng, Lý S?n, C? Lu?, thành H?… nhi?u nh?n xét và k?t lu?n v? ch?t li?u, hoa v?n, k? thu?t s?n xu?t g?m ?ã ???c ??a ra.V??ng qu?c Champa n?i ti?ng trong th? t?ch v?i nh?ng ?? kim hoàn l?ng l?y b?ng vàng, b?c, thu? tinh, ?á quý… song ch?ng c? t? các cu?c khai qu?t kh?o c? h?c các ??a ?i?m c? trú h?u nh? không cung c?p b?t c? t? li?u xác th?c nào. ?i?u này là tr? ng?i l?n cho vi?c tìm hi?u ??i s?ng ngh? thu?t và tâm linh c?a c? dân. Chúng ta ch? bi?t qua ghi chép và qua các s?u t?p t? nhân, r?t khó xác ??nh chính xác ngu?n g?c xu?t x? và niên ??i.Tóm l?i, th?i gian v?a qua, ngành Champa h?c Vi?t Nam ?ã làm ???c nhi?u vi?c khi ?i sâu nghiên c?u v?n hoá Champa ? khía c?nh ??i s?ng c?a c? dân. Nh?ng di s?n v?t th? và c? phi v?t th? m?i thu th?p ???c này ?ã ?em l?i nh?ng hi?u bi?t m?i ho?c giúp ?i?u ch?nh nh?ng hi?u bi?t c? v? c? dân Champa c?, v?n hoá Champa trong m?i quan h? v?i các t?c ng??i, các v?n hoá, các qu?c gia…. Thêm nhi?u c? li?u m?i, ki?n th?c càng m? r?ng nh?ng c?ng làm n?y sinh nhi?u v?n ?? m?i. Cái ch?a làm ???c cùng v?i cái ?ã làm ch?a xong ??t ra nhi?u thách th?c và trách nhi?m ??i v?i nh?ng ng??i quan tâm ??n n?n v?n hoá r?c r? m?t th?i ? ?ông Nam Á. 6. Tên g?i: K? t? khi ???c phát hi?n l?i, các di tích ki?n trúc b?ng g?ch c?a v??ng qu?c Champa ???c g?i b?ng nhi?u tên khác nhau nh? tháp, tháp-l?ng m?, ??n-tháp…. ??n nay, các di tích ki?n trúc này ???c th?ng nh?t tên g?i là các ??n-tháp Champa (B?n ?nh 35).C? dân Champa ?ã xây d?ng ???c nhi?u công trình ki?n trúc ??n-tháp ?n ?? giáo và Ph?t giáo r?t quy mô v?i m?t k? thu?t ?iêu luy?n, tinh x?o và m?t n?n ngh? thu?t t?o hình ??y cá tính trong su?t nhi?u th? k?. Ngày nay v?n t?n t?i nh?ng nhóm ??n-tháp t?i các di tích n?i ti?ng nh? M? S?n, ??ng D??ng, Po Nagar, D??ng Long… cùng v?i hàng ngàn tác ph?m ?iêu kh?c b?ng sa th?ch và h?p kim tr?ng bày t?i các b?o tàng. M? thu?t Champa ?ã góp ph?n t?o nên di?n m?o ??c ?áo c?a n?n ngh? thu?t ?ông Nam Á bên c?nh m?t n?n ngh? thu?t ?n ?? k? v?. Tháp Po Nagar, Nha Trang Hi?n nay, theo th?ng kê, hi?n còn l?i t?t c? 19 nhóm ??n-tháp ?ang t?n t?i trên m?t ??t, tính t? t?nh Qu?ng Nam ??n Bình Thu?n và ??k L?k ???c phân b? nh? sau:Qu?ng Nam: M? S?n, B?ng An, Kh??ng M?, Chiên ?àn.Bình ??nh: Ph??c L?c, Cánh Tiên, Bánh Ít, Bình Lâm, Th? Thi?n, D??ng Long, H?ng Th?nh.Phú Yên: Nh?n Tháp.Khánh Hoà: Po Nagar.Ninh Thu?n: Hoà Lai, Po Klaung Garai, Po Rôme.Bình Thu?n: Po ?am (Po T?m), Phú Hài.??k L?k: Yang Prong.Niên ??i c?a nh?ng ??n-tháp này tr?i dài t? th? k? th? VII-VIII ??n th? k? th? XVII-XVIII. Theo v?n bia, ph?n l?n nh?ng ??n-tháp tr??c th? k? th? VII-VIII ???c d?ng b?ng g?, nh?ng sau nh?ng c?n binh l?a, nh?ng ngôi ??n này ??u b? thiêu h?y, cho ??n kho?ng th? k? th? VII-VIII m?i xu?t hi?n nh?ng ??n-tháp xây b?ng g?ch nung và sa th?ch.Ki?n trúc Champa ch?u ?nh h??ng ngh? thu?t ?n ??. M?t t?ng th? nhóm ??n-tháp bao g?m m?t ngôi ??n chính, ti?ng Champa g?i là kalan, k?t h?p v?i nh?ng ??n th? nh?, nh?ng công trình ph? và ???c bao quanh b?i nh?ng b? t??ng th?p. Thông th??ng, m?t nhóm ??n-tháp Champa ph?i có ít nh?t 4 công trình là: mandapa (tháp Nhà), gorupa (tháp C?ng), kalan (?i?n th?) và kosa grha (tháp Ho?).Kalan t??ng tr?ng cho ng?n núi th?n tho?i Meru, cái tr?c c?a v? tr?, trung tâm hoàn v?; bao quanh núi Meru là các thiên th? và nh?ng ??i d??ng ???c t??ng tr?ng b?ng nh?ng ngôi ??n nh? và nh?ng b? t??ng th?p. H??ng chung c?a m?t t?ng th? th??ng là h??ng ?ông, h??ng m?t tr?i m?c, n?i m? ??u cho s? v?n hành c?a th?i gian và v? tr?.Kalan Champa là m?t ki?n trúc có bình ?? hình vuông, mái tháp hình chóp có ba t?ng và m?t ??nh tháp b?ng sa th?ch.??n-tháp Champa xây b?ng g?ch nung, ghép v?i nh?ng m?ng trang trí và ch?u l?c b?ng sa th?ch ? ?? tháp, khung c?a, trán c?a (tym-pan), ???ng di?m, v?t trang trí góc và ??nh tháp…V? k? thu?t xây d?ng c?a ng??i Champa c?, hi?n nay còn nhi?u gi? thi?t và ý ki?n khác nhau. Tuy nhiên, ph?n l?n các nhà nghiên c?u ?ã ??ng thu?n v? ch?t k?t dính có ngu?n g?c nh?a th?c v?t.?iêu kh?c: ??n-tháp Champa ???c trang trí tinh t?, c?u k?, th? hi?n s? k?t h?p hài hoà gi?a ngh? thu?t ?iêu kh?c và ngh? thu?t ki?n trúc. Ch? ?? chính trong ?iêu kh?c trang trí tháp là hoa lá, hình ng??i, hình ??ng v?t, các v? th?n, các con v?t huy?n tho?i theo n?i dung tôn giáo ho?c s? thi ?n ?? .D?a vào các y?u t? trang trí, s? thay ??i c?a k?t c?u ki?n trúc, s? xu?t hi?n hay m?t ?i c?a các motif trang trí, k?t h?p v?i nh?ng tài li?u liên quan (bia ký, các ngu?n s? li?u…), ?nh h??ng c?a các phong cách t? nh?ng n?n ngh? thu?t xung quanh nh? ?n ?? và các n??c láng gi?ng khác (nh? Môn, Kh?me, Vi?t, Java…), các nhà nghiên c?u ?ã chia ngh? thu?t trang trí và xây d?ng ??n tháp Champa t? th? k? th? VII ??n th? k? XV ra làm nhi?u phong cách khác nhau. ?iêu kh?c Champa n?i ti?ng v?i phù ?iêu và t??ng tròn. Riêng phù ?iêu c?ng ?ã có nhi?u hình th?c. Ngoài ch?m kh?c trên ch?t li?u ?á còn có ch?m kh?c tr?c ti?p lên g?ch tháp hay t?o hình trang trí trên g?ch tr??c khi nung. Nét ??c s?c c?a ?iêu kh?c Champa là nh?ng hình ch?m kh?c d??i d?ng phù ?iêu ??u mang xu h??ng h??ng t?i t??ng tròn – phù ?iêu n?i cao. T?ng nhân v?t, t?ng nhóm nhân v?t nh? tách r?i nhau, ??c l?p và g?n nh? bi?n thành nh?ng t??ng tròn riêng bi?t.S?u t?p hi?n v?t ?iêu kh?c l?n nh?t hi?n ?ang ???c l?u gi? t?i B?o tàng ?iêu kh?c Champa ? Tp. ?à N?ng. Nhi?u tác ph?m khác ???c gi? t?i các b?o tàng t?nh, các phòng VHTT huy?n, th?m chí ? c? m?t s? UBND xã. M?t s? không ít hi?n v?t l?u l?c ? các b?o tàng n??c ngoài và trong các s?u t?p t? nhân trong và ngoài n??c.Lo?i hình và ch? ?? ?iêu kh?c khá ?a d?ng, liên quan ??n ?n ?? giáo, Ph?t giáo, tín ng??ng b?n ??a… và có các nhóm chính sau:- T??ng th?.- ?ài th?.- Trán c?a (lá nh?/tym-pan).- Các trang trí ki?n trúc trên tháp.6.2. Minh v?nT?m bia Võ C?nh (Nha Trang, hi?n tr?ng bày ? sân B?o tàng L?ch s? Vi?t Nam) có niên ??i cu?i th? k? III ??u th? k? IV (niên ??i tr??c ?ây ??a ra là th? k? th? II) là bi ký s?m nh?t kh?c b?ng ch? Sanskrit. Sau quá trình ti?p bi?n v?n hoá-ngôn ng?, ng??i Champa ?ã sáng t?o ra h? th?ng v?n t? c?a mình ?? ghi ti?ng Ch?m. Minh v?n vi?t b?ng ch? Champa s?m nh?t ???c tìm th?y ? ?ông Yên Châu (Qu?ng Nam) có niên ??i th? k? IV.N?i dung c?a các minh v?n th??ng g?n v?i vi?c l?p ??n th? th?n, d?ng t??ng ho?c ghi nh? m?t s? ki?n quan tr?ng nào ?ó. Minh v?n ???c kh?c trên vách núi, trên bia, c?t ??n, tr? c?a, b? th?…Cho t?i nay, s? minh v?n Champa ?ã bi?t là 208 v?n b?n, trong s? ?ó có 69 b?n ?ã d?ch và công b? ch? y?u nh? công lao và nghiên c?u c?a các h?c gi? Pháp mà ?i?n hình là A. Bergaigne, E. Aymonier. Ng??i Ch?m hi?n nay c?ng không ??c ???c các v?n bia c? vì ?ang s? d?ng m?t h? th?ng v?n t? hoàn toàn khác.6.3. Thành c?Thành c? là m?t b? ph?n h?u c? c?a v?n hoá Champa. Ng??i Champa ?ã xây d?ng nhi?u toà thành trong ph?m vi v??ng qu?c c?a mình. Ph?n l?n nh?ng thành l?y này ?ã b? phá hu? nhi?u l?n, nh?ng do v? th? ??c ??a l?i th??ng ???c tái d?ng, tái s? d?ng qua nhi?u th?i ??i. Vì v?y, thành c? Champa th??ng ?n ch?a trong lòng nhi?u l?p tr?m tích v?n hoá t? s?m ??n mu?n và không ít tr??ng h?p ???c ng??i Vi?t c?u trúc l?i và tái s? d?ng. Nhi?u toà thành ???c xây d?ng trên c? t?ng c? trú s?m h?n, do v?y niên ??i c?a l?p c? trú không th? coi là niên ??i c?a xây d?ng thành. ?i?n hình nh? thành Trà Ki?u, niên ??i c?a t?ng c? trú s?m nh?t c?a Trà Ki?u hi?n nay ???c xác ??nh là t? th? k? I AD, nh?ng k?t qu? khai qu?t t??ng thành Nam cho th?y có l? t??ng thành ???c ??p s?m nh?t t? th? k? III, IV AD. Thành C? Lu? (Qu?ng Ngãi) ???c xây d?ng trên l?p c? trú Champa s?m có niên ??i ??u th? k? II AD và nh?ng ki?n trúc b?ng g?ch s?m nh?t ? ?ây có niên ??i kho?ng t? th? k? IV AD. Nh?ng nghiên c?u m?i ?ây t?i thành H? (Phú Yên) c?ng cho th?y k?t qu? t??ng t?.Theo s? li?u, vào th? k? th? IV, ng??i Champa ?ã h?c ???c cách xây thành t? Trung Hoa. Nh?ng phát hi?n kh?o c? h?c g?n ?ây ? Trà Ki?u, C? Lu?-Phú Th?, thành H? c?ng cho th?y ?i?u này. S? li?u ghi chép ??u tiên v? thành ???c ?? c?p trong Thu? kinh chú (cu?i th? k? V ??u th? k? VI), sau ?ó trong cu?n ?? bàn thành ký (th? k? XIX), thành Chà Bàn ???c mô t? khá t? m? và bên c?nh ?ó còn ?? c?p t?i 12 toà thành khác… B?n v? thành Trà Ki?u c?a ClayesTrên d?i ??t mi?n Trung hi?n nay còn v?t tích c?a m?t s? thành c? Champa nh? thành C? Lu? (Qu?ng Tr?), thành Hoá Châu, thành L?i (Th?a Thiên Hu?), thành Trà Ki?u (Qu?ng Nam), thành Châu Sa, thành C? Lu?-Phú Th? (Qu?ng Ngãi), Tra (Cha) thành, thành ?? Bàn (Bình ??nh), thành H? (Phú Yên), thành Diên Khánh (Khánh Hoà)…. Nh?ng thành này th??ng ???c xây d?ng ? nh?ng v? trí xung y?u, c?a sông, c?n bi?n hay ngã ba sông trong m?t quy ho?ch t?ng th? c?a vùng l?y sông làm tr?c chính và th??ng n?m bên b? Nam c?a sông.Nh?ng k?t qu? kh?o sát và khai qu?t g?n ?ây ? các thành nh? Trà Ki?u, C? Lu?, thành H?… cho th?y, khi xây d?ng toà thành, ng??i Champa ?ã l?i d?ng t?i ?a ??a hình t? nhiên nh? sông, gò, núi… ?? t?ng c??ng tính phòng th?/phòng ng? c?a t??ng thành và hào lu?. Thành Champa th??ng có c?u trúc kép hay th?m chí nhi?u l?p.Tuy v?y, cho ??n nay ch?a có b?t k? m?t thành nào ???c khai qu?t m?t cách có h? th?ng nên ch?a có m?t bình ?? c? th? v? t?ng th? quy ho?ch thành Champa. Có th? vòng thành bên ngoài th??ng có hình d?ng n??ng theo ??a hình, toà thành bên trong ???c ??p khá quy ch?nh. Nh?ng cu?c khai qu?t c?t thành Trà Ki?u hay thành H? m?i ?ây cho th?y: t??ng thành th??ng có m?t c?t ngang hình thang, bên ngoài d?c ??ng, bên trong thoai tho?i, hai bên ?p g?ch, d??i chân thành kè ?á, lòng t??ng ??p ??t lèn ch?t và t??ng thành th??ng ???c gia c? nhi?u l?n.6.4. C?ng th?Ng??i Champa là c? dân h??ng bi?n. Bi?n ?óng vai trò quan tr?ng và ?nh x? trong nhi?u khía c?nh ??i s?ng c?a h?. ??a hình bi?n mi?n Trung (b? và ??o ven b?) c?ng r?t thu?n l?i cho thuy?n bè neo ??u, trú ng?. Ngay t? th?i v?n hoá Sa Hu?nh ? ?ây ?ã hình thành nh?ng c?ng th? s? khai, có vai trò quan tr?ng trong ho?t ??ng ti?p xúc, giao l?u v?n hoá trong ngoài v??ng qu?c Ti?n Ch?mpa trong s?u t?p H? V?n Em, TP.?à N?ng D?a vào nh?ng phát hi?n ?? g?m Trung Hoa, g?m và thu? tinh Islam… t?i nhi?u các c?a sông ven bi?n l?n t? Qu?ng Tr? vào ??n Ninh Thu?n, k?t h?p v?i ghi chép trong th? t?ch c?, m?t s? nhà nghiên c?u ?ã xác quy?t m?t s? v?t tích c?ng th? c?a ng??i Champa. C?ng th? n?i ti?ng nh?t là Champapura th?i Lâm ?p ? C?a ??i (H?i An, Qu?ng Nam) v?i ti?n c?ng chính là Cù Lao Chàm. ? Quy Nh?n, Bình ??nh còn l?u d?u c?ng Th? N?i. Các c?ng này ?óng vai trò quan tr?ng trong vi?c hình thành và h?ng th?nh c?a con ???ng t? l?a qu?c t? trên bi?n vào nh?ng th? k? IX-X và nh?ng th? k? mu?n h?n. Tài li?u kh?o c? h?c c?a các ??t kh?o sát xác nh?n s? t?n t?i các c?ng Ròn, Gianh, Lý Hoà, Nh?t L? ? Qu?ng Bình; c?a Tùng (Lu?t), Mai Xá (trên c?ng c?a Vi?t hi?n nay 3-4km) ? Qu?ng Tr?; c?a Eo, c?a T? Hi?n ? Th?a Thiên Hu?; Nha Trang ? Khánh Hoà, Phan Rang ? Ninh Thu?n… có nhi?u kh? n?ng t?ng là các c?ng th? Champa.Theo các nhà nghiên c?u, c?u trúc th??ng c?ng Champa d??ng nh? khá th?ng nh?t theo m?t bình ?? t? ngoài vào nh? sau: C?a bi?n – ??m n??c – tháp – thành hay th? t? . Tuy v?y, c?n ph?i thêm vào c?u trúc này vai trò che ch?n, ti?n tiêu/ti?n c?ng c?a h? th?ng ??o ven b?. H? th?ng ??o này liên quan m?t cách h?u c? v?i nh?ng c?u trúc trong ??t li?n theo m?t tr?c sông ch? ??o. Ví d? ?i?n hình v? c?u trúc này là Cù Lao Chàm (Chiêm B?t Lao) ngoài c?a sông Thu B?n. Cù Lao Ré ? Qu?ng Ngãi. Có th? nh?n rõ vai trò c?a các ??o-c?a sông khác ngay trên b?n ?? ??a lý mi?n Trung hi?n ??i.6.5. ??a ?i?m c? trúCho t?i nay, ?ã phát hi?n và khai qu?t hàng ch?c ??a ?i?m thu?c v?n hoá Champa. Ph?n l?n di tích có tính ch?t ph?c h?p, ?a ch?c n?ng. D?a trên nghiên c?u v?t tích c? trú còn l?i có th? th?y nh?ng di tích c? trú Champa, ??c bi?t là nh?ng di tích thu?c giai ?o?n n?a ??u thiên niên k? I AD phân b? trùng kh?p v?i ??a bàn c?a v?n hoá Sa Hu?nh tr??c ?ó. Hi?n t??ng chung là trên các khu m? v?n hoá Sa Hu?nh th??ng có l?p v?n hoá Champa, hay nh?ng di tích Champa hay ???c tìm th?y k? c?n nh?ng khu m? chum c?a v?n hoá Sa Hu?nh.Tính ch?t c?a các ??a ?i?m r?t ?a d?ng và ph?c t?p, nh?ng ??a ?i?m này th??ng ?a ch?c n?ng (c? trú, phòng v?, trung tâm chính tr?, kinh t?…), trong khi các cu?c khai qu?t l?i có di?n tích h?n ch?. Thông th??ng các di tích nh? thành hay ??n-tháp trong m?t ph?c h?p di tích th??ng ???c xây d?ng trên n?n c?a l?p c? trú s?m h?n, ví d? ?i?n hình nh? khu di tích Trà Ki?u, C? Lu?, thành H?…Niên ??i c?a các ??a ?i?m: Có hai nhóm hay chính xác h?n có ba giai ?o?n ?ng v?i tính ch?t v?n hoá s?m mu?n c?a các di tích. Nhóm 1: giai ?o?n s?m t? Công nguyên ??n th? k? II, III AD. Nhóm 2: t? th? k? III AD ??n th? k? VII,VIII và nhóm 3: t? th? k? IX-X… v? sau. H?u h?t các ??a ?i?m ??u có niên ??i kéo dài su?t t? nhóm niên ??i 1 ??n 2, ?i?n hình nh? Trà Ki?u, H?u Xá I (di ch?), Tr?ng S?i…. M?t s? khác ch? thu?c nhóm niên ??i 3 nh? Nam Th? S?n, Bãi Làng…7. ??i s?ng c?a c? dânNg??i Champa có m?t n?n kinh t? ?a ngành ngh?. Tr??c tiên là ngh? nông tr?ng lúa n??c, dâu t?m, bông, hoa màu (v?i nhi?u gi?ng cây ngo?i nh?p t? Nam Thái Bình D??ng nh? mía, khoai…); ngh? r?ng, khai thác lâm th? s?n g? quý nh? qu?, tr?m h??ng, h? tiêu…; ngh? bi?n; ngh? th? công (rèn s?t, d?t v?i l?a, làm g?m, g?ch, ngói, ch? t?o ?? thu? tinh, ?á ng?c, khai khoáng và làm m? ngh? vàng b?c…), phát tri?n ngh? buôn bán ???ng bi?n, ???ng sông và ???ng núi. C? c?u kinh t? này là s? k? th?a và phát huy c? c?u có s?n tuy ch?a hoàn ch?nh c?a v?n hoá Sa Hu?nh tr??c ?ó. M?t s? ngành ngh? nh? làm g?m, g?ch, ngói, rèn s?t, ch? t?o ?? trang s?c b?ng thu? tinh, buôn bán b?ng ???ng bi?n ?ã ???c xác nh?n qua nh?ng tài li?u kh?o c? h?c nh?ng n?m g?n ?ây. Nh?ng thành t?u c?a các ngành ngh? khác m?i ch? ???c bi?t qua nh?ng t? li?u gián ti?p, qua nh?ng ghi chép trong th? t?ch c? Trung Hoa, bia ký…M?t trong nh?ng thành t?u n?i b?t c?a Champa là nh?ng ti?n b? v? nông nghi?p. Ng??i Ch?m ?ã t?o ra gi?ng lúa ch?u h?n. Khi di th?c gi?ng lúa này ra châu th? B?c b? (trong s? g?i là lúa Chiêm Thành hay lúa Chiêm, lúa Ch?m), gieo c?y c? hai v?. T? tháng 7 ??n tháng 10, tr?ng lúa tr?ng ? ru?ng b?ch ?i?n, t? tháng 12 ??n tháng 4, tr?ng lúa ?? ? ru?ng xích ?i?n. ?? thích ?ng v?i vùng ??t khô h?n Trung B?, c? dân v??ng qu?c Champa ?ã có hàng lo?t các bi?n pháp tr? thu? và s? d?ng n??c nh? c?n n??c, gi?ng, kênh, h? ??p…. ??c bi?t là h? th?ng khai thác nh?ng ngu?n n??c m?nh n?i hay ng?m, phân c?n, chia dòng ch?y s? d?ng n??c vào các m?c ?ích khác nhau ch?ng xói mòn ? nh?ng vùng ??i gò hay c?n cát… (“thu? h?” ch? dùng c?a Tr?n Qu?c V??ng). Có nhi?u kh? n?ng nh?ng “thu? h?” c?a ng??i Champa mà sau này ng??i Vi?t k? th?a và s? d?ng là m?t trong nh?ng bi?n pháp tr? thu? ??c ?áo, thích ?ng tuy?t v?i v?i môi tr??ng sinh thái v?a khô h?n v?a l? l?t mi?n Trung Vi?t Nam. V?t tích c?a nh?ng “thu? h?” này hi?n nay v?n còn th?y ? nhi?u vùng thu?c các t?nh Qu?ng Tr?, Qu?ng Nam, Ninh Thu?n, Bình Thu?n…. Nh?ng công trình s? d?ng n??c nh? gi?ng hay tr? thu? nh? ??p, kênh mà d?u v?t còn l?i cho ??n t?n ngày nay ? mi?n Trung Vi?t Nam c?ng là minh ch?ng cho chi?n l??c thích nghi này. Ng??i Champa ?ã bi?t khai thác và t?n d?ng m?i th? m?nh c?a các h? sinh thái ? mi?n Trung Vi?t Nam. Nh?ng gi?ng n??c c?a ng??i Champa không nh?ng ph?c v? cho nhu c?u tôn giáo, dân d?ng, mà còn ???c ph?c v? cho m?c ?ích th??ng m?i. Nhi?u s? li?u còn ghi l?i vi?c ng??i Champa bán n??c ng?t cho các thuy?n buôn n??c ngoài. Ngh? làm ngói, g?ch hình thành và phát tri?n t? r?t s?m. T?i nh?ng ??a ?i?m kh?o c? h?c có niên ??i t? ??u Công nguyên nh? Gò C?m, Trà Ki?u, V??n ?ình-Khuê B?c (l?p trên)… ?ã phát hi?n ra nhi?u lo?i ngói khác nhau. Theo các nhà nghiên c?u, ngh? s?n xu?t v?t li?u xây d?ng này có ngu?n g?c t? bên ngoài, có nhi?u kh? n?ng t? Trung Hoa (tr?c ti?p ho?c gián ti?p qua mi?n B?c Vi?t Nam), n?u so sánh lo?i v?t li?u này v?i nh?ng v?t li?u t??ng t? ? Trung Qu?c, Mi?n B?c Vi?t Nam, Nh?t B?n, Tri?u Tiên… cùng giai ?o?n. Theo Chamstudies.wordpress.com
0 Rating 758 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 31, 2017
  Posted on 20/12/2015 by The Observer ( ?o?n cu?i ) Tác gi?: H? B?ch Th?o .......   Ngày 12 tháng 6 nhu?n n?m H?ng V? th? 20 [27/7/1387]  S?c cho ?ô Ch? huy S? ty [20] Phúc Ki?n t?o 100 chi?c thuy?n ?i bi?n; Qu?ng ?ông ch? t?o g?p b?i s? này, trang b? ??y ?? khí gi?i và l??ng th?c t?p trung t?i Chi?t Giang ?? chu?n b? ??n Chiêm Thành b?t b?n gi?c N?y. (Minh Th?c l?c V. 6, t. 2752; Thái T? q. 182, t. 7b) S? d?ng quân th?y, quân b?, g?t hái ???c nhi?u chi?n th?ng; Ch? B?ng Nga t? ra kiêu m?n “d?c ngang nào bi?t trên ??u có ai”, coi th??ng ngay c? Trung Qu?c. Qua m?t s?c d? nh?m u?n n?n ??a con kiêu [21] c?a Thiên t?, Minh Thái T? v?ch cho Ch? B?ng Nga bi?t r?ng y nói m?t ???ng làm m?t n?o, gi? làm ??ng c??p ?n ch?n s? voi n??c Chân L?p [Campuchia] c?ng Trung Qu?c và c? tình l? là trong vi?c tri?u c?ng: Ngày 8 tháng 4 n?m H?ng V? th? 21 [14/5/1388] Sai Hành nhân ??ng Thi?u ??n d? Qu?c v??ng Chiêm Thành Ha ?áp Ha Gi? r?ng: “Ng??i s?ng t?i n?i h?i ??o, hi?u l?nh cho dân Di d??i quy?n, n?u không dùng ân và tín ?? cai tr? nuôi d?y dân chúng, thì làm sao có th? làm ch? m?t ph??ng, truy?n cho con cháu, gi? ???c không có m?i lo. M?i ?ây ng??i sai con ??n tri?u ?ình, ta sai Trung s? ??a v? n??c; r?i viên s? này tr? v? trình r?ng hành ??ng c?a ng??i trái v?i ?i?n l?. Lúc ??u Tr?m ch?a tin, ??n lúc Ma Lâm C? trình bày vi?c trong n??c ng??i, ?em so sánh th?y l?i trên th?t ?áng tin, không ph?i là vu cáo.” Tháng 4 n?m nay l?i ???c An Nam tâu nh? sau: “Hành Nhân L?u M?n trên ???ng ra kh?i Chiêm Thành ??a 52 con voi do Chân L?p c?ng; Chiêm Thành sai ng??i gi? làm k? c??p ?o?t m?t ¼ s? voi cùng b?t 15 tên qu?n t??ng. Ta bi?t r?ng ng??i là Di ph??ng nam; nh?ng không ngh? r?ng ng??i v?a tôn kính Trung Qu?c, l?i l?y vi?c c??p c??p bóc làm ngh? nghi?p. Dù r?ng hàng ngày ng??i c??p bóc làm ?i?u b?t ngh?a, thì c?ng ph?i bi?t k? l?n ng??i nh?, k? trên ng??i d??i! Há l?i ??ng ??u m?t n??c l?i dám buông tu?ng khinh l?n Thiên t?. Nh? n?m ngoái ng??i dâng voi và 2 ng??i qu?n t??ng; t? khi cho con ng??i tr? v?, thì tr?n tránh không dâng ti?p! Vi?c làm c?a ng??i c? ti?p t?c nh? v?y thì m?t ?àng không có lòng th? n??c l?n, m?t ?àng thì m?t s? tín ngh?a ?? giao thi?p v?i lân qu?c; ng??i ph?i suy ngh? s?a ??i, ch? ?? h?i v? sau.” (Minh Th?c l?c V. 7, t. 2864-2865; Thái T? q. 190, t. 1b-2a) Cu?i ??i, tuy Ch? B?ng Nga ch?t tr??c h?ng súng c?a quân nhà Tr?n, nh?ng ng??i ch? ?i?m là m?t viên quan nh? Champa ch?y sang tr?i quân ta, cho bi?t chi?c thuy?n s?n xanh là thuy?n c?a Qu?c v??ng h?n [22] . R?i Th? t??ng La Ngai [23] cho h?a táng xác Ch? B?ng Nga bên b? sông, mang quân Champa tr? v? chi?m n??c, t? lên làm vua. Con và em Ch? B?ng Nga s? b? gi?t, ph?i ch?y sang n??c ta lánh n?n. [24] T?n bi k?ch này ???c dàn d?ng b?i k? n?i thù; th? ph?m chính là La Ngai [25] , s? Tàu g?i là Các Th?ng (Ko Cheng). M?t v?n b?n trong Minh Th?c l?c chép r?ng, sau khi lên làm vua, Các Th?ng sai s? sang Trung Qu?c dâng bi?u b?ng vàng ti?n c?ng, nh?ng b? vua Thái T? nhà Minh c? tuy?t b?i t?i m?u gi?t v??ng n??c này ?? lên làm vua: Ngày 7 tháng M?t n?m H?ng V? th? 24 [2/12/1391] N??c Chiêm Thành sai viên Thái s? ?ào B?o Gia Tr?c dâng bi?u b?ng vàng, ti?n c?ng tê giác, nô t?, v?i vóc. Thiên t? b?o các quan b? L? r?ng: “?ây do viên quan soán ngh?ch! ?? ti?n c?ng ??ng nh?n. Tr??c ?ây viên quan Chiêm Thành là Các Th?ng gi?t V??ng n??c này t? l?p, nên c? tuy?t.” (Minh Th?c l?c v. 7, t. 3157; Thái T? q.214, t. 1a) Chú thích: [1]N?m 1318, nhà Tr?n phong m?t t??ng Champa tên Th? (Patalthor) lên ngôi, hi?u Ch? A N?ng (hay Thành A v??ng, t??ng ???ng v?i t??c phó v??ng c?a ??i Vi?t). Vì không thu?c dòng dõi b? t?c Cau và D?a, Ch? A N?ng liên t?c b? tri?u th?n ch?ng ??i t? 1323 ??n 1326. ?? có s? chính th?ng, n?m 1323 Ch? A N?ng c? em trai là Pao Yeou Patseutcho ?i s? sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nh?n. Hay tin này, n?m 1326 nhà Tr?n mang quân sang ?ánh nh?ng b? ??y lùi. Chiêm Thành s?ng trong thái bình cho t?i 1342. N?m 1336 Ch? A N?ng t? tr?n, con ru?t là Ch? M? và con r? là Trà Hoa B? ?? tranh ngôi vua trong 6 n?m, Chiêm Thành s?ng trong lo?n l?c. N?m 1342 Ch? M? b? ?u?i sang ??i Vi?t, Trà Hoa B? ?? chính th?c lên ngôi. N?m 1353, Tr?n D? Tôn ??a Ch? M? v? n??c nh?ng ??n C? L?y (Qu?ng Ngãi) thì b? quân Chiêm ch?n ?ánh, quân Tr?n rút v?, Ch? M? bu?n r?u r?i qua ??i. T? sau ngày ?ó, quân Chiêm Thành liên t?c tràn sang ?ánh phá Hóa châu và Thu?n châu. N?m 1360, Trà Hoa B? ?? qua ??i, em Ch? A N?ng là Po Binasor (Po Bhinethuor) ???c tri?u th?n tôn lên làm vua, hi?u Ch? B?ng Nga (Che Bonguar). (Theo Nguy?n V?n Huy, “Tìm hi?u c?ng ??ng ng??i Ch?m t?i Vi?t Nam”) BT[2]Hi?n nay, ta chính th?c dùng tên g?i Champa. V?y, ngo?i tr? ph?n trích d?n t? Minh Th?c l?cs? d?ng tên g?i Chiêm Thành theo ng??i Trung Qu?c, còn l?i, xin g?i là Champa. BT [3]N??c th?i Minh g?i là Tây D??ng, nay thu?c qu?n ??o Nam D??ng (T? H?i). [4]Th? c?a vua, có ?óng [d?u] ?n t?. [5]Trung Qu?c g?i các n??c lân bang b?n ph??ng là “T? Di”; nói chung các dân t?c không ph?i là Trung qu?c thì ???c g?i là Di. [6]?: M?t lo?i l?a d?t s?i xiên, có hoa v?n. [7]Chính Sóc t?c ngày ??u n?m, m?ng 1 tháng Giêng. Ngày x?a hàng n?m Trung-Qu?c ban l?ch Chính Sóc cho các n??c lân bang, t??ng tr?ng uy quy?n Thiên t?. [8]Vua nhà T?ng h? Tri?u. Vua m? ??u tri?u ??i là T?ng Thái T? t?c Tri?u Khuông D?n. [9]Gi?c N?y: Trung Qu?c x?a th??ng g?i ng??i Nh?t là N?y. Vào th?i nhà Nguyên, t?i Nh?t B?n có cu?c n?i chi?n. Phe mi?n Nam thua, chi?m c? các ??o nh?, r?i mang quân c??p phá t?i b? bi?n Tri?u Tiên Trung Qu?c; mãi ??n ??i Gia T?nh tri?u Minh, H? Tôn Hi?n, Du ??i Du d?p ???c; s? Trung Qu?c goi là “N?y kh?u”. [10]Qu?c hi?u n??c ta th?i ?ó. BT [11]Tên n??c ta do nhà Minh g?i. BT [12]??i Vi?t S? ký Toàn th?, t?p 2, trang 154. ( NXB Khoa h?c Xã h?i, Hà N?i, 1998). [13]Xích = 0,32 mét. Th?n = 1/10 xích. [14]??ng lý v?n phòng c?a nhà vua. [15]??n v? hành chánh c?p t?nh th?i Minh, có 15 hành t?nh. [16]??i Vi?t S? ký Toàn th?, t?p 2, trang 169. [17]Có th? s? c?nh tranh gi?a các “qu?c gia h?i t?c” ng?u nhiên trùng h?p v?i quy?n l?i Trung Hoa. BT [18]Bát Bách T?c Ph?: tên n??c x?a, n?m trong lãnh th? phía b?c Thái-Lan hi?n nay, T??ng truy?n Tù tr??ng có 800 v? nên ???c ??t tên nh? v?y. [19]Ch?a rõ ? ?âu. [20]Nhà Minh ??t Tam ty t?i khu v?c hành chánh l?n nh? Giao Ch?, Qu?ng Tây v.v… g?m: ?ô Ch? huy s? ty coi v? quân s?, B? chính ty coi v? hành chính, Án sát ty coi v? x? án. [21]Ch? kiêu này m??n t? b?n ch? Hán trong Chinh Ph? Ngâm “tr?m thiên kiêu”. [22]– ??i Vi?t S? ký B?n k? Toàn th?, Quy?n VIII, K? Nhà Tr?n, Thu?n Tông hoàng ?? chép: Canh Ng?, [Quang Thái] n?m th? 3 [1390], (Minh H?ng V? n?m th? 23). Mùa xuân, tháng giêng, ngày 23, ?ô t??ng Tr?n Khát Chân ??i th?ng quân Chiêm Thành ? H?i Tri?u, gi?t ???c chúa nó là Ch? B?ng Nga. Khi ?y, B?ng Nga cùng v?i [17b] Nguyên Di?u d?n h?n m?t tr?m thuy?n chi?n ??n quan sát tình th? c?a quan quân. Các thuy?n gi?c ch?a t?p h?p l?i, thì có tên ti?u th?n c?a B?ng Nga là Ba L?u Kê nhân b? B?ng Nga trách ph?t, s? b? gi?t, ch?y sang doanh tr?i quân ta, tr? vào chi?n thuy?n s?n xanh b?o r?ng ?ó là thuy?n c?a qu?c v??ng h?n. Khát Chân li?n ra l?nh các cây súng nh?t t? nh? ??n, b?n trúng thuy?n B?ng Nga, xuyên su?t ván thuy?n, B?ng Nga ch?t, ng??i trong thuy?n ?n ào kêu khóc. Nguyên Di?u c?t l?y ??u B?ng Nga ch?y v? v?i quan quân. ??i ??i phó Th??ng ?ô quân Long Ti?p là Ph?m Nh? L?c và ??u ng? là D??ng Ngang li?n gi?t luôn Nguyên Di?u, l?y c? ??u B?ng Nga. Quân gi?c tan v?. (http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt13.html) – Sách “Khâm ??nh Vi?t s? thông giám C??ng m?c” chép: “N?m 1389 tháng 10, Chiêm Thành vào c??p Thanh Hóa. Sai Quý Ly ?em quân ?i ch?ng c?. B? thua, Quý Ly tr?n v?. Tháng 11. Quân Chiêm Thành xâm ph?m ??n Hoàng Giang. Tr?n Khát Chân ?em quân ch?ng c?. N?m 1390 tháng giêng, Tr?n Khát Chân ?ánh cho quân Chiêm Thành thua to ? H?i Tri?u, gi?t ???c chúa n??c ?y là Ch? B?ng Nga.” – Giai tho?i k? r?ng: N?m K? T? (1389), quân Champa l?i sang ?ánh. Th??ng hoàng Tr?n Ngh? Tông sai Tr?n Khát Chân làm ?ô t??ng th?ng l?nh quân Long Ti?p ?i ?ánh gi?c. Lúc xu?t quân, Khát Chân và Th??ng hoàng ??u khóc ti?n bi?t. Quân ta xu?t phát t? sông Lô (t?c sông H?ng), g?p gi?c ? Hoàng Giang. Th?y ??a th? không thu?n l?i ?? ch?ng gi?c, Khát Chân bèn lui quân v? gi? t?i sông H?i Tri?u. Th?y quân Champa ?óng ? b? phía Nam, th?y và l?c quân Vi?t ?óng ? b? sông phía B?c. Chi?u 24 tháng Giêng, tên ??u b?p c?a Ch? B?ng Nga tên là Ba L?u Kê dâng lên vua món giò heo h?m ch?a ???c m?m. Vua ?n không ngon mi?ng, sai quân ?ánh Ba L?u Kê 30 hèo. S? b? gi?t, ?êm ?y ??u b?p Ba L?u Kê th?a lúc t?i tr?i ?i thuy?n nh? tr?n sang tr?i quân Vi?t ??u hàng, khai báo binh tình c?a Ch? B?ng Nga, ch? vào chi?n thuy?n s?n xanh, cho bi?t ?ó là thuy?n vua. Sáng 25, hai bên khai chi?n. Khát Chân h? l?nh cho quân s? nh?t t? nã tên ??n vào thuy?n Ch? B?ng Nga, thuy?n b? th?ng ván và B?ng Nga trúng ??n ch?t. Ch? B?ng Nga b? t? tr?n, ch?m d?t m?t trang hùng s?. Có th? nói trong vòng 30 n?m, Ch? B?ng Nga ?ã khôi ph?c l?i nh?ng vùng ?ã m?t t? h?n 300 n?m tr??c ?ó (B? Chánh, ??a Lý và Ma Linh b? m?t n?m 1069; châu Ô, châu Rí n?m 1306). BT [23]Có tài li?u g?i là La Kh?i. BT [24]B? ?ánh b?i n?m 1390, t??ng La Kh?i chi?m ???c xác Ch? B?ng Nga mang ?i h?a táng, r?i thu quân v? n??c. V? ?? Bàn, La Kh?i li?n x?ng v??ng và ch?u tri?u c?ng nhà Tr?n tr? l?i. N?m 1391, La Kh?i xin nhà Minh th?a nh?n nh?ng ??n n?m 1413 con c?a ông là Ba ?ích L?i m?i ???c nhà Minh t?n phong. Chính sách cai tr? kh?t khe c?a La Kh?i gây b?t mãn trong n??c. Vây cánh c?a Ch? B?ng Nga ??u b? La Kh?i thay b?ng nh?ng t??ng s? thân tín, con trai c?a Ch? B?ng Nga tên Ch? Ma Nô Dã Na cùng em là Ch? San Nô s? b? ám h?i ?ã ch?y qua ??i Vi?t xin t? n?n. C? hai ???c nhà Tr?n phong t??c Hi?u chính h?u. N?m 1397, m?t hoàng thân tên Ch? ?à Bi?t, em là M? Hoa, con là Gia Di?p cùng toàn th? gia quy?n sang ??i Vi?t t? n?n. Ch? ?à Bi?t ???c Lê Quí Ly giao tr?ng trách b?o v? biên gi?i phía nam c?a ??i Vi?t ?? phòng nh?ng cu?c t?n công m?i c?a quân Chiêm Thành. N?m 1400, La Kh?i m?t, con là Ba ?ích L?i (Jaya Sinhavarman V) lên ngôi. (Theo Nguy?n V?n Huy, „Tìm hi?u c?ng ??ng ng??i Ch?m t?i Vi?t Nam“) BT [25]La Ngai ?ã c??p ngôi sau khi Ch? B?ng Nga ch?t, còn k? ph?n b?i tr?c ti?p gây ra cái ch?t c?a Ch? B?ng Nga thì nh? chú thích 22. BT.   Ngu?n: Facebook.com  
0 Rating 721 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On June 3, 2012
Tr thanh ton Lời mởi đầu Trong quࠡ khứ, trn di đất Việt Nam n꣠y, c sự tồn tại một nền văn minh champa: Vương quốc Champa, thuộc miền trung ngy nay.Hiện tại tuy n㠳 đ bị st nhập v㡠o nước Việt Nam, nhưng chng ta khng thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn h괳a champa , trong qu khứ, cũng như hiện tại, đối với tổng thể văn ha 54 d᳢n tộc anh em việt nam. Nhất l văn ha tộc người Champa cೳ ảnh hưởng rất lớn.Văn ha champa đ ph㣡t triển một nền văn minh rực rở, bật nhất đng nam suốt gần 15 thế kỷ . Bởi qu䡡 trnh tồn tại, định hnh lịch sử v쬠 văn ha pht triển, c㡳 bề dy đng kể trࡪn 4000 năm(Từ người champa cổ sa huỳnh đến ngy hm nay). Vബ muốn thảo thm vi n꠩t vẽ cho bức tranh lịch sử, văn ha nền văn minh champa cn bỏ ngỏ, n㲪n ti một người con trong dng tộc champa mạo muội đặt vấn đề cho đề t䲠i ny.Ti khഴng muốn ph phn hiện tại vꡠ qu khứ, ti chỉ muốn người vᴠ người nhn thực chất về bản sắc v văn h젳a của nền văn minh champa, giờ đ chn chặc v㴠o lng đất kh cằn, bⴣo lũ miền trung, đầy nhn bản v nh⠢n văn.Trải di hng ngࠠn năm lịch sử, thăng trầm trong vinh quang, khổ đau, tủi hờn rồi thất bại. Thế l họ bắt đầu hnh thଠnh sự khc biệt d rằng họ cṹng một nguồn cội v c chung dೲng mu.Thời gian thấm thot trᡴi , đ qua rồi ci thời gh㡡nh con vượt di Trường Sơn, ci thời gong buồm th㡡ch thức con sng dữ của biển cả, để đi trnh cơn binh đao.Giờ đ㡢y họ đ được yn vui sống tr㪪n mảnh đất được gọi nm na l qu䠪 hương thứ hai mặc d c những nơi họ sống trước kia từng l鳠 lng qu, đất tổ, lઠ đất nước của họ.Cn g s⬳t lại ở họ ngoi dng mಡu đỏ v cht ອt ngữ vựng trong ngn từ.Tại sao con người khng quan t䴢m đến n để ko lại gần sau h㩠ng thế kỉ xa cch ,xin đừng đổi thừa tn giᴡo,tnh phn biệt lu�n khng chấp nhận những g hơi xa lạ đối với m䬬nh. Một cộng đồng tan r, bị dẫm nt qua thời gian, theo d㡲ng lịch sử đau buồn,cần lắm những bn tay xoa diệu để chữa lnh vết thương… Từ nhỏ, nhࠬn chung quanh l những thp chăm u sầu, lở lࡳi với thời gian, lng ti luⴴn hiếu k về vương quốc Champa, hay l bản thể l젠 con chu họ tr champa.??? Sự hiếu kᠬ pha lẫn lng mạng v nuối tiếc một nền văn minh đ㠣 tn lụi, c lẽ một phần bị ảnh hưởng từ tập thơ “Đi೪u tn” của Chế Lan Vin.Vબ đy l vấn đề lớn trong khoa học,t⠴i khng đủ khả năng xy dựng lại diện mạo của n䢳, nn chỉ cố gắng pht họa vꡠi nt m th頴i .Ti nghĩ rằng đề ti n䠠y sẽ gp thm một hạt c㪡t vo bễ ct tri thức mࡪnh mng của loi người hiện tại trong qu䠡 trnh tm hiểu, ph쬢n tch, pht thảo bức tranh nền văn h�a, văn minh tộc người Champa Malayo Polynsien, trong tổng thể văn ha d鳢n tộc việt nam, một cch khoa học v nhᠢn văn. Đặc biệt, việc nghin cứu gi trị của một nền văn minh bị bỏ ngỏ, mai một rất nhiều trong hệ thống văn hꡳa, th việc tm hiểu d쬢n tộc người Champa chnh l điều cần yếu, c� nghĩa cấp thiết, gp phần l�m r hơn bản sắc văn ha Việt Nam, đ峴ng nam Malayo Polynsien ,để ch᩺ng ta c phương php bảo tồn, ph㡡t huy gi trị của n, trong c᳴ng cuộc xy dựng nền văn ha Việt Nam vⳠ đng nam ng䡠y nay.Qui luật của lịch sử nhn loại l sự sinh tồn v⠠ biến đổi một cch biến chuyển lin tục. Sự sụp đổ ho᪠n ton của Vương Quốc Champa vo năm 1832, cho d࠹ bất cứ nguyn nhn nꢠo, cũng đều nằm trong qui luật tất yếu của lịch sử.Tuy nhin, nếu một dn tộc đꢣ c một lịch sử, cho d quốc gia đ㹳 khng cn nữa, lịch sử d䲢n tộc đ vẫn lun lu㴴n cn hiện diện, trong tiến trnh của lịch sử nh⬢n loại, v t ra vẫn c୲n trong k ức của dn tộc đ�, lưu truyền từ đời ny sang đời khc vࡠ mi mi cho đến tận c㣹ng…của lịch sử nhn loại.Nếu một dn tộc đ⢣ c một lịch sử,một nền văn minh đặt th, đương nhi㹪n đ c một cội nguồn.N㳳i đến cội nguồn l ni đến những g೬ rất xa v cũng rất gần.Rất xa v cội nguồn đଣ c từ chốn hồng hoang, từ trong mịt mờ của tiền sử.Rất gần v cội nguồn lu㬴n lun c trong t䳢m tưởng của bất cứ ai cn biết nhớ đến tổ tin, biết y⪪u thương những người, cng chung huyết thống của chủng tộc. Ni huyết thống v鳬 người ta c thể thay đổi tư duy, c thể thay đổi ho㳠n cảnh, c thể thay đổi đức tin, nhưng khng thể thay đổi được d㴲ng mu đồng chủng ,đang lun lưu trong khắp chᢢu thn của mỗi một con người.Đề ti n⠠y chắc chắn rằng sẽ cn nhiều sai xt vⳠ cũng khng t người kh䭴ng đồng , v lịch sử đ� qua l “bất di, bất dịch”, trong khi sử liệu về vương quốc champa qu ࡭t v đang dần chn vഹi theo thời gian Ti mong rằng nhiều người sẽ cng đ乳ng gp v x㠢y dựng thm.Nếu c g곬 sai xt trong bi sưu tầm n㠠y ti rất mong mọi người rộng lng tha thứ v䲠 đng gp th㳪m cho hong chỉnh.THỦY TỔ DࠂN TỘC CHAMPA:Từ trong mịt mờ của tiền sử, khi những thnh tựu tin tiến khoa học h઴m nay, chưa gip được nhn loại vꢩn ln bức mng tiến h꠳a của vũ trụ, chưa gip nhn loại hiểu biết hết về xuất xứ của mꢬnh, từ đu m ra, từ đ⠢u m đến. Con người thường nu lપn sự hiện hữu của mnh trn h쪠nh tinh ny bằng những truyền thuyết. M truyền thuyết lࠠ ci bng của sự thật, được d᳢n gian tưởng tượng v thu dệt bằng những chi tiết ly kỳ, lઠm cho truyền thuyết trở nn hoang đường. Do đ trong truyền thuyết c곳 sự hoang đường v cũng c “bೳng dng” của sự thật. Ni đến truyền thuyết của giai thoại, của lịch sử, l᳠ ni đến bng d㳡ng của giai thoại, đến bng dng của lịch sử. Giữa lịch sử v㡠 truyền thuyết vẫn c lin quan mật thiết với nhau như h㪬nh với bng, v h㠬nh no th bଳng đ. V dụ như: d㭢n tộc champa theo chế độ mẫu hệ từ x hội nguyn thủy cho đến ng㪠y nay vẫn cn. Trong khi đ theo truyền thuyết, người mẹ của xứ sở lⳠ Nữ Thần Po Nưgar. Do đ ci h㡬nh l chế độ mẫu hệ, cn cಡi bng l Nữ Thần Po Inư Nưgar theo truyền thuyết.㠐ể trnh by c젢u hỏi: Ai sanh ra tổ tin Champa v họ từ đꠢu đến? Thật l vấn đề nan giải, ngoi sự hiểu biết vࠠ cch nghĩ của chnh hậu duệ người Champa??? V᭬ tm c hướng về cội nguồn, thⳬ nguồn sẽ c trong tm.Người Champa quan niệm do trời v㢠 đất l Thủy tổ đ sinh ra tổ ti࣪n của họ. Trời (Dyaus) ở ngi Cha, mang dương tnh 䭐ất (Dyaus) ở ngi Mẹ mang m t䢭nh. Sự tc hợp giữa Trời v ᠐ất l sự giao ha khಭ dương v kh ୢm đ tạo thnh vạn vật v㠠 sản sinh ra thủy tổ của dn tộc Champa. Do đ dⳢn tộc Champa chấp nhận thuyết m dương; sự kiện ny cũng ph⠹ hợp với biểu tượng Linga (dương tnh),Yoni (m t�nh)Thần Shiva được thờ tại cc đền Thp Champa. Đᡢy l quang niệm chung cho cc chủng tộc trࡪn thế giới.Nguồn gốc tổ tin champa:Từ kết quả sự khai quật của cc nhꡠ khảo cổ đ khm ph㡡 nền văn ha Sa huỳnh trn phần đất Vương Quốc Champa cổ cũng đ㪣 xc định được tổ tin Champa l᪠ cư dn địa phương trn v⪹ng đất ny ngay từ thời tiền sử. Cng trബnh khai quật ny được diễn tiến như sau:Từ năm 1909 Vinet một vin chức người Phડp tnh cờ pht hiện được (tại 졐ức Phổ – Quảng Ngi), tiếp theo đ từ 1923-1951 như Labarre, Henry Parmentier v㳠 nh Nữ Tiền Sử học tất cả l người Phࠡp lần lượt đến Sa Huỳnh v những địa điểm khc nhau thuộc lࡣnh địa Vương Quốc Champa cổ trước đy, từ Quảng Bnh đến B⬬nh Thuận, để khai quật khm ph được nhiều mộ Chum khᡡc. Mộ chum hay l kho chum cao chừng 0m,80 lm bằng đất nung, trong kho Chum chứa những dụng cụ cần thiết để lࠠm vườn, ph rẩy, chặt cy, nấu nướng như: nồi đất, rựa v.v..vᢠ những vật dụng khc. Sau năm 1951 v chiến tranh Việt Nam, nᬪn cng việc khảo cổ bị khựng lại cho đến sau năm 1975, cng t䴡c khảo cổ được tiếp tục với người Ty Phương ,cng với c⹡c nh khảo cổ Việt Nam trở lại Sa Huỳnh, tiếp tục đo bới lớp đất cũ của v࠹ng cư tr Champa cổ v đꠠo ra nhiều kho Chum mới dọc theo ven biển miền Trung, với những đồi ct trắng phao nối tiếp nhau trong gi lộng của miền biển cả. Những kho Chum được đ᳠o ln chứa nhiều di tch văn hꭳa Sa Huỳnh, với trnh độ pht triển kh졡c nhau, được cc nh nghiᠪn cứu khoa cổ học chia thnh hai nhm , vೠo 2 giai đoạn khc nhau:Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh hay l Tiền Champa:Di tᠭch văn ha cư ngụ sớm nhất của văn ha tiền Sa Huỳnh l㳠 thời đại đồ đ, đồng thau c niᳪn đại cch ngy nay khoản hơn 4 ngᠠn năm.Thời kỳ Sa Huỳnh sắt:Тy l thời kỳ cc dụng cụ mưu sinh được lࡠm bằng sắt như: lưỡi dao, kiếm ngắn, dao quắm, lao, rựa thuổng, x beng, liều hi, đục v.v những đồ sắt nࡠy l dụng cụ khai ph, chặt,t࡬m kế sinh nhai v c loại d೹ng lm vũ kh nhưao, kiếm, daoୠVăn ha Sa Huỳnh sắt l văn h㠳a nối liền với thời kỳ tiền Sa Huỳnh (khng sắt), gắn liền với vng đất m习 cư dn đ chⳭnh l thần dn của nước Lࢢm Ấp v chnh lୠ cộng đồng dn cư của đất Nhật Nam, nơi Khu Lin đ⪣ dấy binh lập quốc đầu tin, với danh xưng Lm Ấp như đꢣ ni trn.Cư d㪢n vng Văn ha Sa Huỳnh v鳠o thời đ thường dng khoan, tai hai đầu th㹺 (hnh hai đầu con d), l쪠 biểu tượng của văn ha Sa Huỳnh. Trn địa b㪠n sinh cư của vng văn ha Sa Huỳnh trước đ鳢y (tức vng miền Trung nước Việt by giờ) đều c颳 nui nhiều đn d䠪 v cho đến ngy nay ta thấy ở cࠡc lng Champa tại tỉnh Ninh Thuận, Bnh Thuଢn c nui D㴪, cc lễ cng giỗ, cẺng Yang c dng thịt D㹪 để cng.Trong cc di tꡭch văn ha Sa Huỳnh, ngoi những kỹ thuật chế t㠡c đồ trang sức bằng thủy tinh hai đầu th (D); những cư dꪢn thuộc vng Vương Quốc Cổ Champa cn sở trường về c鲴ng nghệ đồ gốm, m cc nhࡠ khảo cổ học khai quật được trong những mộ Chum ở dưới lng đất miền Trung VN ngy nay, đều c⠳ hnh loại lm bằng chất liệu đất s젩t pha ct, hoặc pha tạp với những chất khc thường gọi lᡠ Gấu th mu đỏ n䠢u, xm đen, c khi v᳠ng nhạt, đỏ nhạt giống như những loại đồ gốm cc lng champa ở Hựu An, Phan Lᠽ Chăm Bnh Thuận v l젠ng Bn Trc, An Phước, Ninh Thuận ngຠy nay. Champa đ biến mất cch đ㡢y gần 3 thế kỷ, nay chỉ cn để lại cc di t⡭ch Chăm, rải rc ở cc tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trᡠ Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng Dương, Khương Mỹ, Thp Mẫm.. Viện bảo tng Champa, do nhᠠ nghin cứu Php Parmentier thꡠnh lập năm 1919, đ thu thập cc bảo vật, như tượng, bệ, c㡴ng trnh kiến trc, đi캪u khắc của cc đền, cung điện.. từ nhiều nơi để tồn giữ. Nhưng tại đy, trᢣi qua nhiều biến cố lịch sử, cc di sản đặc sắc của văn minh Champa cũng khng thoᴡt qua nhiều sự mất mt, lưu lạc. Ngy 9 thᠡng 12 năm 1946, trong những ngy đầu của chiến tranh Việt-Php, giữa sự hổn loạn vࡠ thiếu an ninh ở Đ Nẵng, viện bảo tng đࠣ bị xm nhập. Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong thư viện đ bi đ⣡nh cắp. Hơn một năm sau, vo năm 1948, Trường Viễn Đng bഡc cổ đ gởi ng Manukus đến để hồi phục lại viện bảo t㴠ng. Hơn 150 bảo vật ny đ được t࣬m lại từ nh dn, trại lࢭnh, phi trường v tận ở Lo (Savanakhet). Năm 1954, Viện bảo tࠠng l nơi tr ngụ của khoảng 300 người dຢn di tản chiến tranh. Năm Mậu Thn 1968, trong trận đnh chiếm lại Huế, Viện bảo t⡠ng ny đ trở th࣠nh trại tập trung v l nơi ăn ở của quࠢn đội Nam Việt Nam. Giửa những sự s bồ, hỗn độn, va chạm v kh䠴ng c sự bảo vệ v bảo tr㠬 như vậy, th sự hư hại, hay mất mc c졡c tượng đ, cc cᡴng trnh điu khắc tất nhi쪪n đ xảy ra. Gần đy trong năm 1996, c㢡c nhn vin viện bảo t⪠ng đ tnh cờ t㬬m ra được 157 mảnh cổ vật đ được chn dưới l㴲ng đất trong khun vin của viện bảo t䪠ng.Champa đ biến mất qua những cơn bảo lịch sử, nhưng di sản của nền văn minh ny cũng đ㠣 chịu đựng nhiều sự cố khng may mắn. Một số phận hẫm hiu của nền văn minh Champa ? Trải qua nhiều thế kỷ, c䪡c ngi thp Champa ở nhiều nơi bị hư hại v䡠 đổ nt bởi thời gian v do thiᠪn nhin tc động. Theo Lꡪ Qu Đn,, Ng� Thế Ln, vo thế kỷ 18, đ⠣ để lại bi thơ, Ch bࠠn cố thnh hoi cổ, cho thấy tࠬnh trạng sơ st, bỏ hoang của cc thᡡp, điện đi của vương quốc Champa cch đࡢy hơn 200 năm.Bng t dừng ngựa đứngMan m㠡c nỗi hư vongLăng uyển lm cha Phật;Cung đ๬nh thnh ruộng cyN࠺i tn trơ thp cổ;Nước cũ hiện thࡠnh hoangThần đạo nguyn v cứ;Cửa t괢y trn khắc bia(bản dịch)Khng khഡc chi tnh trạng hiện nay của nhiều thp cổ khắp miền trung Việt Nam.Trong cuộc chiến vừa qua, di t졭ch Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hon ton do bom đạn . Một mất mࠡc to lớn đối với những thế hệ về sau.Hầu như tất cả những g ta biết về văn minh Champa l đứng từ g젳c độ của người khng phải dn t䢴c Champa. Ngy nay, trong sch giࡡo khoa Đại học của gio sư D. Hall về lịch sử Đng Nam ᴁ , ta c thể biết tổng qut về lịch sử đất nước Champa. Tuy vậy phần lớn dữ kiện từ s㡡ch của Hall l dựa vo những c࠴ng trnh nghin cứu ti쪪n phong của cc học giả Php như G. Coedes, H. Parmentier vᡠ H. Maspero ở đầu thế kỷ 20.Ni chung về khảo cổ v sử của c㠡c nước Champa, Cam Bốt v một số nước khc ở Đࡴng Nam thl chỉ vo đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều m th࠴i. Trước đ khng mấy ai biết nhiều về Cambodia c㴳 một nền văn minh Angkor rực rỡ, cả sử của Nam Dương cũng m tịt cho đến khi Coedes khm ph顡 ra vương quốc SriVijaya ở Sumatra, cn sử của Champa th m⬹ mờ, chỉ biết qua tư liệu của cc nước lng giềng như Việt Nam (Đại Việt sử k᡽ ton thư) hay của Trung quốc (Tống sử, Minh sử..) đến khi Finot, Parmentier, Majumdar v Maspero khࠡm ph ra bằng phương php cᡳ hệ thống. cả trong sử của Ấn độ, trước đy hong đế Ashoka chả ai biết nhiều, chỉ nghe t⠪n trong vi kinh điển Phật gio, đến khi Princep khࡡm ph ra qua bia k lὠ c thật, một nh vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn.Hầu như tất cả kh㠡m ph về vương quốc Champa l từ những kᠽ tự trn đ vꡠ những g biết qua từ sử k của Trung quốc n콳i về cc dn tộc trᢪn. Từ đ lịch sử cc nước đ㡣 được viết v ghi lại. Giải những k tự trཪn đ để biết đến văn minh cổ ở Đng Nam ᴁ cũng khng km kh䩳 khăn v mang tnh cୡch đột ph như giải ra được chữ viết cổ Ai cập qua tảng đ Rosetta của nền văn minh Ai Cập.Phải nᡳi l văn minh Trung Hoa đ đࣳng gp khng lớn v㴠o văn minh nhn loại qua sự pht minh ra giấy v⡠ dng n trong quan triều để ghi v鳠 truyền lại cho hậu thế những tham khảo rất gi trị về cc nước chung quanh. Việt Nam cũng như Trung Quốc cᡳ những tư liệu lịch sử qu gi (như Đại Việt sử k� ton thư), cn cಡc nước khc ở Đng Nam ᴁ, khng c truyền thống viết sử đ䳡nh dấu giai đoạn của cc triều vua, m dᠹng l v đᠡ để viết nay th tất cả chữ viết c gi쳡 trị trn l đều đꡣ ra tro bụi hoặc cn rất t r⭣i rc ở cc thᡴn Chăm, chỉ để lại một vi chữ trn cડc tảng đ m thᠴi.Hiện nay nghin cứu về văn minh v văn h꠳a Champa đ được quan tm v㢠 đ c một số c㳴ng trnh nghin cứu c쪳 gi trị được xuất bản gần đy ở Việt Nam. Đᢢy l một dấu hiệu đng mừng cho sự nghiࡪn cứu Champa học ở Việt nam. Trước đy, trong cc thập ni⡪n 1970 v sau 1975, c sự d೨ dặt trong sự nghin cứu Champa học, v ngꬠnh ny đa số l do cࠡc nh nghin cứu nước ngoઠi, chủ yếu l Php, khai phࡡ v pht triển với sự cộng tࡡc của một số cộng tc vin Chăm v᪠ Việt. Sự d dặt nghi kỵ của người Việt về mục đch ch譭nh trị đối với cc cng trᴬnh nghin cứu Chăm học khng phải l괠 khng c l䳽 do. V đ c죳 nhiều thế lực chnh trị lợi dụng để chia rẽ, hay muốn tch rời địa phận để độc lập l�m kh khăn cho Việt Nam trong những năm chiến tranh chống thực dn, giảm đi tiềm năng v㢠 bước tiến của lịch sử. Nhưng sự d dặt v nghi ngờ n蠠y nếu đi qu cũng c hệ quả l᳠ trong lnh vực Chăm học, “sn chơi” chỉ d㢠nh cho lực lượng người nước ngoi nghin cứu mઠ Việt Nam th chỉ c lưa thưa v쳠i người.Khi ti đề cấp đến sở thch về nghi䭪n cứu văn minh Champa th mọi người đổi thi độ v졠 hơi d dặt lo u, anh trưởng ban chuyển qua đề t袠i về cc lực lượng chống chnh quyền ở T᭢y Nguyn v sau đ꠳ khng cn b䲠n về đề ti Chăm học nữa. Chỉ c bೡc quản gia gi ở thư viện sau đ nೳi chuyện với ti vui vẽ về cc s䡡ch về Chăm học m bc biết rất nhiều từ khi bࡡc lm việc ở đy từ trước năm 1945. Khoảng cuối thập niࢪn 1990, tổ chức Toyota Foundation đ ti trợ cho Gs Trần Kỳ Phương xuất bản bộ s㠡ch tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở Việt Nam như trước đy họ đ t⣠i trợ cho bộ sch về văn minh Đng Sơn do Gs Hᴠ Văn Tấn xuất bản. Khng may l sự việc đ䠣 khng thnh.Ng䠠y nay Việt nam đ khc nhiều v㡠 tự tin hơn về đất nước mnh qua sự chuyển mnh về kinh tế v쬠 tm năng trong tương lai. Tư duy cũng đ thay đổi từ thời chiến qua thời b죬nh mặc dầu c những kh khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin n㳠y cũng thể hiện trong lnh vực văn ha, văn học v㳠 nghin cứu trong những năm gần đy. Viện Nghiꢪn cứu Đng Nam đ䁣 thnh lập. Việt Nam ngy nay lࠠ thnh vin của tổ chức ASEAN. Cộng đồng Champa ở Việt Nam lઠ gạch nối với cc thnh viᠪn Indonesia, M Lai cng t㹴n gio v liᠪn hệ ngn ngữ. Cc nước n䡠y đ c những chương tr㳬nh hoạt động văn ha, nghin cứu chung với cộng đồng Champa. Sợi d㪢y lin hệ giữa Việt Nam v Đ꠴ng Nam sẽ c`ng đan kết v thắt chặc.Lần đầu tin sau nhiều năm qua đણ c một hội nghị Champa học vo th㠡ng 8/2004 ở Singapore qui tụ một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore, Nhật, Anh, Mỹ, Php. Nhiều bo cᡡo, khm ph mới cᡳ gi trị đ được thᣴng bo: những hiểu biết về văn minh Sa Huỳnh v Champa qua địa điểm khảo cổ Trᠠ Kiệu, lin hệ giữa ngn ngữ Champa v괠 cc ngn ngữ dᴢn tộc ở Ty Nguyn. Một điểm đ⪡ng ch trong c꽡c bản bo co lᡠ cc ti liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tᠢm đến nay đ được một số học giả nghin cứu: Minh sử, Tống hội yếu tập cao v㪠 Cửu Phin Ch. “Tổng hội yếu tập cao” cꭳ nhiều thng tin về Champa từ 960-1180 như sự lin hệ của Champa với triều đ䪬nh Tống, Chn Lạp, Srivijaya, Đại Việt (thuộc Giao Chu thời bị Trung quốc đ⢴ hộ v sau khi độc lập năm 960), phong tục Chăm, nng nghiệp, thương mại hഠng hải...Tiếp nối cng trnh bỏ dở của Boisselier khi 䬴ng ny mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đ xuất bản t࣡c phẩm về nghệ thuật Champa qua những bảo vật ở viện bảo tng Đ Nẵng. Sࠡch c gi trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những kh㡡m ph cc di vật khảo cổ mới thu thập được.Ở Việt Nam, cᡡc sch về văn ha, văn học, nghệ thuật Champa của Ng᳴ Văn Doanh, Insara, Trần Kỳ Phương... với những hiểu biết mới cũng đ được xuất bản. Lnh vực Chăm học như c㣳 luồng sinh kh mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong nghin cứu m� trước đy đ bị bỏ qu⣪n, t được quan tm trong một thời gian d�i, sau những cng trnh kh䬡m ph tin phong của c᪡c học giả Php trong giai đoạn nữa đầu thế kỷ 20.Indrapuraᠠvng đất từ Đo Ngang, Ho騠nh Sơn đến đo Hải Vn (Quảng B袬nh, Quảng Trị v Thừa Thin) lઠ vng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc v hướng Nam hải đảo. Đ頢y l vng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di t๭ch Champa trong vng ny c頲n ở Mỹ Đức, Quảng Bnh, H Trung, Thạch An, B젭ch La cũng như ở di cồn ở Cửa Tng, Cửa Việt. Di t㹭ch Thp Champa được tm thấy ở An Xᬡ (Do Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thnh i Tử v` Tr Lin.Tại vહng ny, người ta cũng tm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoଡ Champa v Trung quốc từ thời Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đy cũng cࢳ thể l nơi c cೡc hải cảng thương mại sầm uất khng km cảng Hội An về sau n䩠y.Xa hơn nữa vo thời tiền sử, vng n๠y l nơi chuyển tiếp của giao lưu văn ha Sa Huỳnh vೠ văn minh Đng Sơn qua Đo Ngang. Nơi đ䨢y cn c cⳡc di tch văn ha Sa Huỳnh ở Cồn B�u, đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tng. Đồ đồng Đng Sơn đ鴣 được tm thấy ở Tam Mỹ, Ph H캲a v mới đy tận mࢣi Bnh Định, cn những khuy첪n tai hai đầu th v cꠡc hạt chuổi thuỷ tinh thuộc văn ho Sa Huỳnh, th tᬬm thấy được ở Xun An, Lng Vạc (Nghệ An, H⠠ Tĩnh). Văn ho Sa Huỳnh được cc nhᡠ khảo cổ Việt Nam v nước ngoi cho lࠠ c khng gian ch㴭nh từ Quảng Nam đến Đồng Nai.Thng 8, 2001 ở Thừa Thin, Huế, t᪬nh cờ tm được một ngi th촡p Chăm nhỏ, đỉnh thp đ mất, thᣢn thp cao khoảng gần 2m. Theo Ng Văn Doanh, ngᴴi thp ny (gọi lᠠ thp Mỹ Khnh) cᡳ nin đại ở thế kỷ 8. Như vậy l ng꠴i thp Chăm cổ nhất hiện cn thuộc phong cᲡch Mỹ Sơn E1.Trong chiến tranh chống Mng cổ dưới đời vua Trần Nhn T䢴ng, lin minh Champa-Việt đ th꣠nh cng đẩy lui hiểm họa xm lăng từ phương bắc qua đường bộ v䢠 thủy. Từ sự lin kết ny qua ch꠭nh sch chiến lược sng suốt của vua Trần Nhᡢn Tng, m Jaya Simhavarman III (Chế M䠢n) cũng đ đồng theo lời đề nghị của thượng ho㽠ng Nhn Tng, trong dịp ⴴng rời nơi tu dưỡng ở ni Yn Tử đi viếng Champa, để lấy cꪴng cha Trần Huyền Trn, em gꢡi của vua Trần Anh Tng. Trong hn nh䴢n Champa-Việt ny, lnh thổ Champa l࣠ chu v┠ chu R (Quảng Trị v⭠ Thừa Thin) đ được nhượng tặng cho Đại Việt. Trong thời trị v꣬ của vua Chế Mn, quyền lực Champa rất mạnh tri rộng đến tận T⣢y Nguyn nam phần. Thp Yang Prong ở Tꡢy Nguyn v thꠡp Jaya Simhalingesvara (thp P Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan Rang lᴠ do chnh Chế Mn x�y dựng.Tuy nhin sau khi Nhn Tꢴng v Jaya Simhavarman mất, vua Anh Tng hoഠn ton thay đổi chnh sࡡch. Chiến tranh Champa-Việt trở lại khốc liệt hơn khi Champa đi lại vng đất đ⹣ nhượng.Theo Minh sử, một trong những l do nh Minh đ� gởi tướng Trương Phụ xm lăng Đại Việt l Đại Việt đ⠣ nhiều lần xm phạm lnh thổ Champa. Sứ giả Champa l⣺c ny đ dࣹng chiến thuật ngoại giao rất c tc dụng. Họ đ㡣 bo co thường xuyᡪn rất nhiều lần v nhờ nh Minh trợ gi࠺p qun sự hay mua v kh⵭ để đnh trả Đại Việt. Nhưng cũng chnh sự chiếm đ᭳ng v đ hộ Đại Việt của nhഠ Minh, trong một thời gian đ đưa đến cc nguy㡪n nhn dẫn đến sự suy tn của vương quốc Champa, sau khi Đại Việt d⠠nh lại được độc lập. Theo Wade th c 2 nguy쳪n nhn chnh: Sự chiếm đ⭳ng v quản l của nhའ Minh ở Đại Việt v cc quận ở Indrapura đࡣ mỡ rộng phạm vi Đại Việt, khi qun Minh rt đi Sự chuyển giao kỷ thuật qu⺢n sự (sng ống) của nh Minh vꠠo Đại Việt. ến thời LЪ Thnh Tng, vương quốc Champa hoᴠn ton bị mất thế trong tương quan lực lượng qun sự. Champa bắt đầu tࢠn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị tn ph với dࡢn số một phần bị tiu diệt v phần khꠡc bị bắt lm t binh mang về Đại Việt.Theo Shiro Momoki, qua c๡c tư liệu như “Tống hội yếu tập cao”, “Chư Phin Ch” th꭬ Champa vo thế kỷ 10 đến 11 vẫn cn cಡc cơ cấu x hội, chnh quyền ở ph㭭a bắc đo Hải Vn. Như vậy quan điểm cho rằng người Việt li袪n tục mở rộng xuống pha Nam từ thế kỷ 10 l kh�ng đng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa khng suy t괠n như ta nghĩ, m vẫn pht triển hoạt động thương mại với Trung Quốc vࡠ cc nước trong vng. Vải bṴng, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến cc nước Đng Nam ᴁ hải đảo. Cửa Thị Nại l cảng quan trọng ở biển Nam m Kublai Khan coi lࠠ cảng tiếp nối từ cảng Quảng Chu đến cảng Qui lam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ c thể được coi như lⳠ một chiến thắng len lỏi từ sau lưng.AmaravatiTừ đo Hải Vn (Quảng Nam) xuống ph袭a nam đến gip Bnh Định lᬠ vng trọng điểm của văn minh Champa với cc di t顭ch lớn như Mỹ Sơn, Tr Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chin Đઠn. Nơi đy ở Đồng Dương đ t⣬m thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật (hiện cn tng trữ ở viện bảo t⠠ng Thnh phố SG). Đặc biệt cc tượng điࡪu khắc, kiến trc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật gio đại thừa. Trong tất cả cꡡc di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương l độc đo sࡡng tạo v l nơi duy nhất c࠳ chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tch Đồng Dương hầu như đ bị huỷ diệt ho�n ton trong cuộc chiến tranh vừa qua.Tr Kiệu hay Simhapura (Thࠠnh phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa l sư tử v pura lࠠ thnh phố) l kinh đ࠴ xưa nhất của Champa ở Amaravati. Trước cả 2 thnh phố "sư tử"khc ở Đࡴng Nam l` Singapore (Lion City, từ Singha v pura) v Singburi (Singha vࠠ buri (thnh phố)), gần Ayuthaya, Thi Lan. Xưa kia sư tử cࡲn hiện diện ở Cận Đng v Bắc Ấn (c䠡c vua người Assyria thường đi săn bắn sư tử như trn cc bia khắc đền đꡣ m tả), sau ny sư tử 䠁 chu tuyệt chủng chỉ cn lại sư tử ở Phi ChⲢu. Theo Ng Văn Doanh th từ Tr䬠 Kiệu hiện nay l biến m từ chữ Chăm cổ ya – sࢴng, nước v chữ Phạn: keo - ngọc, m người Việt gọi lࠠ thnh Sng Ngọc để chỉ thഠnh phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn Kim Dung của nhm nghin cứu Việt-Anh-Nhật khai quật ở Tr㪠 Kiệu (1997-2000) v ở G Cam (2000) gần s಴ng Thu Bồn, cch thnh cổ Trᠠ Kiệu 3.5km về pha Đng. Tại đ�y đ tm thấy c㬡c hủ đất giống cc hiện vật ở Tr Kiệu, cᠡc đồ gốm, đồng, dấu ấn thời Hn, di tch nh᭠ gổ cổ nhất (được xc định khoảng ). Dưới tầng khai quật trn l᪠ cc di vật thuộc văn ha Sa Huỳnh, cho thấy cᳳ sự lin tục v người Chăm lꠠ hậu duệ của người Sa Huỳnh. Địa điểm G Cam gần ba di tch mộ ch⭴n Sa Huỳnh: G Miếu ng, G┲ M Voi, G V㲠ng. ng Yamagata cho rằng TrԠ Kiệu v G Cam xuất hiện n_ sau sự suy tಠn của văn ha Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hon Ch㠢u (Tr Kiệu) v G࠲ Cam được thẩm dịnh ở nửa đầu thế kỷ 2.Mỹ Sơn l di tch Champa lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đୢy c nhiều đền, thp, bia k㡽 được nhiều triều đại trong lịch sử Champa xy dựng. Nhờ bia k t⽬m được m người ta biết được l người sࠡng lập ra Mỹ Sơn vo thế kỷ thứ 4 l vua Bhadravarman I . D࠹ thủ đ c dời hay ở nơi n䳠o khc do thời cuộc, cc vua ch᡺a Champa vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ v xy đền thờ. Thࢡnh địa Mỹ Sơn v thế c nhiều kiến tr쳺c khc nhau theo cc phong thᡡi ring của mỗi thời.. Phần lớn những cng tr괬nh kiến trc hiện cn ở Mỹ Sơn được x겢y dựng vo thế kỷ thứ 10 c chung một phong cೡch kiến trc được cc nhꡠ nghin cứu gọi chung l phong cꠡch Mỹ Sơn A1. Trước phong cch Mỹ Sơn A1 l cᠡc nhm thp thuộc thế kỷ 8 đến 9. Qua lịch tr㡬nh pht triển kiến trc Champa thẬ trong 2 thế kỷ 8 v 9, c ba phong cೡch khc nhau được nhận ra l phong cᠡch Mỹ Sơn E1, phong cch Ho Lai vᠠ phong cch Đồng Dương.Trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 v vᠠi di tch ln cận đ� bị ph huỷ khi trng bom mạy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kch. Vo năm 1988, trong một c�ng trnh thủy lợi, người ta tnh cờ kh쬡m ph ra di tch th᭡p An Mỹ, Tam Kỳ với nhiều điu khắc đ như bộ linga-yoni, trang trꡭ kiến trc (đỉnh, cột thp), mảnh vở của tấm bia… Niꡪn đại được thẩm định vo đầu thế kỷ 10, thuộc phong cch chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1.Vࡠo năm 1997, tỉnh Quảng Nam v chnh phủ Việt Nam đୣ đề nghị v xin Lin Hiệp Quốc đưa Trઠ Kiệu, Mỹ Sơn v Đồng Dương ln danh sડch những di sản của thế giới (World Heritage list) để bảo tồn. Đy l những di t⠭ch văn ha xưa nhất ở Trung Việt Nam, lu hơn Huế hơn 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được c㢴ng nhận l một di sản văn ho thế giới.Đồng Dương (Indrapura) một thời lࡠ kinh đ của Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura, do vua Indravarman II sng lập, bắt đầu từ năm 875. C䡡c đền thp của phong cch Mỹ Sơn A1 đều được xᡢy dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ pht triển, kinh thnh Indrapura bị tiᠪu hủy trong trận chiến với vua L Đại Hnh vꠠo năm 982.Năm 1000,vua Champa HarivarmanII rời hẳn thủ đ về Vijaya ở pha Nam.Một số người Champa cũng đ䭣 di cư qua đảo Hải Nam (v hiện nay họ vẫn cn) sau cuộc chinh phạt của Lಪ Hon vo Amaravati. Một tướng của Lࠪ Hon l Lưu Kỳ T࠴ng, phản lại nh L, tự xưng vương ở Amaravati (986-988) đણ cai trị h khắc v huỷ diệt đền đࠠi v nhiều bia k ở Mỹ Sơn, nཪn một số người Champa đ chạy đến đảo Hải Nam (Trung Quốc). Theo sử gia Maspero th, v㬬 bị mất nhiều bia k (thế kỷ 8 – 10), nn trong giai đoạn n�y lịch sử Champa khng được biết nhiều.VijayaMặc dầu Indrapura v Amaravati vẫn l䠠 lnh thổ Champa khi dời đ về Vijaya v㴠o năm 1000, Indrapura v Amaravati đ trở th࣠nh cc tỉnh ngoại vi, khng cᴲn chiếm vị tr quan trọng về kinh tế, chnh trị của Champa. Năm 1286, đất Indrapura ph�a bắc đo Hải Vn nhượng cho Đại Việt khi vua vua Champa cưới c袴ng cha Huyền Trn. Vua Champa Chế Bồng Nga lấy lại được trong chiến tranh với Đại Việt. năm 1390, khi Chế Bồng Nga mất, Indrapura mất hẳn, vꢠ sau đ khng l㴢u Amaravati cũng rơi vo tay Đại Việt.Sau khi bị mất Indrapura v Amaravati vࠠo tay Đại Việt th vng đất từ B칬nh Định đến Ph Yn lꪠ nơi dn tộc Champa rt về tập trung ra sức chống chỏi lại cuộc nam tiến của Đại Việt. Khi d⺢n Việt đi vo định cư, th người Champa cଳ đặc tnh v khuynh hướng l� khng bm trụ ở lại. Đa số họ dời đi chổ kh䡡c xuống pha Nam, chứ khng ở lại với người Việt. C� thể đy v hai văn h⬳a c sự khc biệt nhiều.Tập trung quanh khu vực kinh đ㡴 mới Tr bn (Vijaya), họ cũng cố gắng lấy lại một cࠡch v vọng những vng đất ph乭a bắc đ bị mất. Nhưng đến năm 1471, kinh đ Tr㴠 bn cũng đ bị thất thủ v࣠ tn ph khi vua Lࡪ Thnh Tng đem quᴢn chếm đồ bn.Đy lࢠ cuộc tn st đẫm mࡡu nhất của đại việt với champa, hơn 60000 người bị giết,30000 bị bắt về thăng long,vua champa Tr ton bị bắt vࠠ đ tự st ng㡠y 2 thng 3 năm 1471 trn đường giải về thăng long. L᪪ Thnh Tng đᴣ dng chnh s魡ch ph
0 Rating 692 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On March 25, 2018
0 Rating 684 views 2 likes 0 Comments
Read more