Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On April 6, 2013
Hội Bảo Tồn Văn Ha Champa @ U.S.A P.O Box 62061, Sunnyvale, CA 94088 Email: ccpaoffice@ilimochampa.org Web: www.ilimochampa.org *** Ngy 16 th㠡ng 03 năm 2013 THƯ MỜIVIẾT BI CHO ĐẶC SAN VIJAYA SỐ 9 Knhgởi: - Cc Bậc Thức Giả Champa - C�c Văn Nhn Thi Sĩ Champa - Cc Nh⡠ Hoạt Động Văn Ha-X Hội Champa K㣭nh thưa qu vị: Thấm thot Đặc san Vijaya đ� ra mắt qu độc giả được 8 số với chặng đường di khi�m tốn mười bốn năm, kể từ ngy ra mắt Vijaya số 1 đầu tin vઠo năm 1999. Một lần nữa chng ti xin ch괢n thnh cảm ơn qu vị đୣ v đang đng gೳp bi viết gi trị cho Đặc San Vijaya đến ngࡠy hm nay. Để kịp ra mắt Đặc san Vijaya số 9 vo dịp lễ KATE năm 2013, k䠭nh mong qu vị cng tiếp tay, đ�ng gp bi viết gồm c㠡c chủ đề lin quan đến Văn ha, X곣 hội, Lịch sử v sinh hoạt cộng đồng Champa khắp nơi, truyện cười dn gian Chăm, truyện cổ tࢭch, ca dao tục ngữ, truyện viết bằng tiếng Chăm, tiếng Việt v tiếng Anh. Mọi bi viết vࠠ kiến xy dựng xin gửi về email: BBTVijaya@gmail.com. bằng những bản văn đ�nh my sẵn hoặc c thể gởi qua email hay diskette cᳳ bi viết chứa đựng bn trong để anh em Ban Biપn Tập tiện dụng trong việc sắp xếp ấn bản cho đến cc bi khảo cứu, BBT đều nồng nhiệt đᠳn nhận. Những bi viết đ đăng tr࣪n sch bo khᡡc xin qi vị miễn gởi cho Đặc san Vijaya hay ngược lại. Tất cả những bi đăng tr꠪n Vijaya bản quyền thuộc Hội Bảo Tồn Văn Ho Champa v tᠡc giả. Thời hạn nhận bi viết kết thc vຠo ngy 31 thng 7 năm 2013 Một lần nữa Ban Biࡪn Tập rất mong được sự cộng tc v giᠺp sức của quvị. K�nh cho thn ࢡi v trn trọng, T.M Ban Biࢪn Tập Đặc San Vijaya Trưởng Ban, ( đ k ) L㽢m Gia Tn
0 Rating 452 views 3 likes 0 Comments
Read more
Mn ăn bốn ma của d㹢n tộc Chăm Đo thị Thanh Tuyền Mn ăn dೢn d của người Việt Nam rất nhiều, những mn ăn đặc trưng cho v㳹ng miền thường gắn với giọng ni cũng đặc trưng của vng miền đ㹳. Tỉ như người miền Nam c mn ba kh㳭a, người Huế c cơm Hến, người Bắc ăn mắm t㠴m, người Trung ăn mắm ruốc, người Nam c mắm thi …. Ri㡪ng việc cc loại rau ghp v᩠o mn ăn cũng lm n㠪n những cu chuyện đặc trưng cho kh hậu, thổ nhưỡng từng v⭹ng miền đất v cả sự pht triển lịch sử, văn chương từ đࡳ hnh thnh n젪n những cu ca dao, tục ngữ, cc l⡠n điệu dn ca… Bn cạnh c⪡c mn ăn vng miền, c㹡c mn ăn đặc trưng của cc d㡢n tộc Việt Nam cũng mun vn. Mỗi một cộng đồng cư d䠢n đều c cch ăn, uống kh㡡c nhau, phản ảnh kinh tế, x hội của dn tộc đ㢳. Đặc biệt, mn ăn của cc d㡢n tộc, ngoi vị ngon qua cảm quan, bn trong bản chất cડc mn ăn cn l㲠 những bi thuốc. Theo nhࠠ nghin cứu văn ha Chăm Sử Văn Ngọc, m곹a no thức ấy, mỗi ma c๳ mn ăn ring㪠 l quan niệm về văn ho ẩm thực của người Chăm.ࡠ Người Chăm cho rằng cơ thể con người pht triển theo ma , đối với họ mṳn ăn khng chỉ l cung cấp dinh dưỡng m䠠 cn l những vị thuốc gi⠺p cơ thể chống lại những bệnh tật pht sinh theo ma. Người Chăm ṭt trồng rau m chủ yếu dng c๢y l trn rừng thay rau. Rau rừng l᪠ vị thuốc . Một đặc trưng nữa l người Chăm chỉ tuần ty hai mຳn nướng v luộc , họ t chuộng chi୪n xo . Phải chăng đ cũng lೠ một b quyết giữ gn sức khoẻ bởi tr�nh ăn nhiều dầu mỡ? Vo ma hạ , c๢y rừng nảy đọt non . Ma gặt hi cũng đ顣 xong , mn ăn chủ lực lc n㺠y l chuột đồng . Trn rừng cળ đọt lim (vị cht). Chuột đồng ăn với đọt lim giống như người Việt c “c᳴ng thức” thịt tru nấu l bầu . Nếu kh⡴ng c đọt lim th thay bằng rau giừng l㬠 một loại rau mọc ở bờ suối . Chuột đồng chọn con mập mạp bỏ rơm v thui chy xong lột da , đặc biệt phải lࡠm kỹ (lấy gan để ring). Thịt băm nhỏ rồi xꠠo chn c �t nước để chấm rau l đọt lim hay rau giừng. Tuy nhin vẫn chưa ngon bằng mળn chuột đồng đơn giản chỉ l ướp nước mắm v nướng . Để dࠠnh lm “lương kh” nướng ăn dần , họ ướp muối phơi khഴ. Ring gan v đầu c꠲n chế biến được một mn xo nữa , m㠳n ny đặc biệt thưởng thức ring (nhắm rượu). ઠ Vo ma thu , trời c๳ mưa l ma gi๴ng hay ễnh ương . Đơn giản thi, ễnh ương trụng nước nng gi䳠 , lấy gan ra (c người khng lấy) chặt kh㴺c nấu canh chua . Đồ mu nấu chua đơn giản chỉ lࠠ l me. Nếu xo cũng xᠠo với l me. Con ging hay ễng ương cᴲn được chế biến bằng cch ướp sả , ớt rồi nướng hay phơi kh để dᴠnh nấu canh . Thịt ging ngon nhất l trụng qua nước s䠴i , lm sạch rồi băm nhỏ trộn với đọt cc chua , cೳc hnh hay rau ngạnh lm gỏi . Thịt gi࠴ng nấu chua với l me cũng rất ngon Đến mᠹa cy cấy (xuống đồng, la non) , l຺c ny l m࠹a c đồng , c lᡲng tong. C lc , c᳡ tr, c r꡴ … nấu chua; c lng tong kho khᲴ (hơi mặn) . Rau cng cua mọc đầy dưới ruộng , cắt về ăn thay rau sống. M࠹a ny cũng cn nhiều thứ rau khಡc ngoi ruộng như rau sam , rau muống… Những loại rau ny đều d࠹ng ăn sống. Vo ma l๺a trổ đồng , c to, c nhỏ nhiều l᡺c ny l m࠹a lm mắm cࠡ đồng. Họ cũng lm cc loại mắm kiểu giống như mắm thࡡi người miền Ty . Người Chăm quan niệm cy tất cả những loại “rau”⢠ ăn được đều l bi thuốc . Tỉ như m࠳n “mắm ci, c cỏ” – lᠠ một loại c dại , mọc hoang (giống như c phࠡo) khi chn tri m�u vng , rất dai. Để thưởng thức mn nೠy phải nhai kỹ, chậm ri, đặc biệt loại c n㠠y l một loại thuốc chữa giun sn. Lࡡ me l loại “rau” chủ lực của người Chăm, do đ ngೠy xưa hầu như nh no cũng trồng một cࠢy me , mục đch cung cấp gia vị cho bốn ma (l�, tri), vᠴ tnh đy cũng ch좭nh l bi thuốc gi࠺p họ chống lại bệnh tật (nguồn cung cấp vitamine C) . Do ăn rau rừng , rau đồng ruộng (khng phải gieo trồng) l ch䠭nh nn “nghề”của người phụ nữ Chăm l phải biết rau nꠠo ăn được rau no khng . Sửഠ Văn Ngọc cho rằng : chế độ mẫu hệ của người Chăm rất đng trn trọng. Người đᢠn b tượng trưng cho đất , con người từ đất m ra vࠠ cuối cng cũng đều về với đất . Người phụ nữ l mẹ , l頠 nh , l l࠲ng bao dung, sự vỗ về, che chở; những g m 쪡i nhất của cuộc đời , l những g quଽ gi nhất của cuộc sống. Người Chăm c lễ Chabbul l᳠ lễ tế thần đất , m dn gian quan niệm lࢠ lễ tế mẹ , họ cầu xin thần Đất ban sự sống cho con người v mun loഠi. Người Chăm rất kỹ c ng trong việc ăn uống đối với thai phụ . Họ quan niệm chăm sc v gi㠡o dục con ci phải từ trong bụng mẹ , thng thứ mấyᡠ ăn thức ăn no để sinh con được tinh khiết, th࠴ng minh… Người Chăm khng ăn thịt sống , tiết canh . Đối với người thầy cng chế độ ăn uống phải ki亪ng cữ tuyệt đối Vo ma đ๴ng , thức ăn phải đảm bảo hai gia vị : chua v cay. Vࠠ đến tết , những mn ăn trong lễ hội chủ yếu l c㠡c mn luộc: g luộc , d㠪 luộc … Thịt x ra v lấy nước hầm nấu s頺p (c l me) . Đặc biệt thịt luộc phải chấm muối㡠 ớt thật cay mới ngon. (B i ny đ đăng tr࣪n tạp ch KTNN số 599
0 Rating 450 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
L? h?i m
0 Rating 448 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 30, 2012
Một "thế giới" nhỏ bé người Chăm ở An Giang đã có mấy trăm năm tồn tại. Cộng đồng cư dân này sống rải rác ở huyện Châu Phú, An Phú và thị xã Tân Châu. Họ sống hòa đồng với những dân tộc khác, nhưng vẫn giữ gìn một bản sắc rất riêng. Nhờ vào ý thức cội nguồn sâu thẳm, cùng với giáo luật làm nền tảng, những cộng đồng Chăm tại đây thực sự là một "thế giới" đầy bí ẩn. Bài 1: Bí ẩn những “thế giới” bé nhỏ Trên đường từ Tân Châu sang Châu Đốc, trước khúc quanh dẫn lên chiếc cầu sắt bắt ngang con kinh Vĩnh An thuộc ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, bất ngờ chúng tôi nhìn thấy trên ban công nhà sàn một cô gái Chăm đang ngồi thêu đan. Kín đáo trong bộ trang phục màu xám, chỉ hiện ra một phần gương mặt dưới chiếc khăn trùm, nhưng đó là gương mặt đẹp đến sững sờ. Một vẻ đẹp sâu thẳm, thánh thiện, chỉ thấy trong các tác phẩm hội họa về các thánh nữ. Tích tắc dừng xe ấy trở thành ấn tượng không phai về các xóm Chăm ở đầu nguồn Cửu Long mà chúng tôi có dịp lướt qua trong chuyến đi đầu năm 2010 này, dọc các cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu thuộc tỉnh An Giang. Bangsa – cội nguồn Một cô gái Chăm ở xóm Lama, Vĩnh Trường trong một lễ đặt tên. Đám đặt tên, cưới hỏi, người Chăm có ăn uống, nhưng nói họ ăn nhậu như một số phương tiện truyền thông là họ tức giận, vì rượu, bia bị giáo luật cấm uống. Chúng tôi đã biết gì về những người Chăm anh em sống bên mình đã mấy trăm năm ở đầu nguồn Cửu Long này? Chỉ là con số không. Tìm hỏi vài người quan tâm đến lịch sử vùng đất An Giang, đang sống tại An Giang, hóa ra họ cũng không khác gì. Ám ảnh ấy khiến chúng tôi cố công tìm hiểu để quyết một lần sẽ trở lại với những xóm Chăm An Giang. Trong tiếng Chăm, Bangsa có nghĩa là cội nguồn. Bangsa Chamba là cội nguồn Champa, đó cũng là tên cuốn sách của hai đồng tác giả, mà chúng tôi may mắn gặp được ngay sau chuyến về từ đất cù lao. Hai tác giả, ông Dohamide và Dorohiêm là hai anh em ruột cùng sinh ra, lớn lên ở làng Koh Taboong, ấp Khánh Mỹ, xã Khánh Hòa thuộc huyện Châu Phú, tỉnh An Giang ngày nay. Chúng tôi đã tìm về tận đây, nhưng tiếc thay tất cả những người ruột thịt của hai ông hiện không ai còn sinh sống nơi này. Nhiều tài liệu phổ biến hiện hành vẫn viết rằng, người Chăm An Giang có nguồn gốc từ Bình Thuận, Ninh Thuận di cư vào. Sự thật họ có cùng cội nguồn, tổ tiên họ cùng một dân tộc, là con dân của vương quốc có lịch sử từ vài ngàn năm trước đến thế kỷ 17, hùng cứ dọc dải đất miền Trung của Việt Nam ngày nay. Nhưng người Chăm hiện định cư ở đầu nguồn Cửu Long lại có nguồn gốc từ Campuchia di cư sang, cách nay chỉ vài trăm năm. Vì sao họ di cư, chính xác vào thời điểm nào? Cả sách Bangsa Champa cũng chưa tìm được tài liệu để minh định. Chỉ biết, bể dâu thế cuộc trong quá khứ còn để lại một thực tế: cộng đồng người Chăm hiện sống trên 10 quốc gia thì ở Campuchia là đông nhất, hơn 317.000 người. Trong khi ở Việt Nam, con số này là 133.000. Khi cuộc tiếp xúc đã trở nên cởi mở thân tình, ông quản tự của thánh đường ở ấp Hà Bao 2, xã Đa Phước, huyện An Phú bất ngờ cho chúng tôi một thông tin: theo lời ông bà kể lại thì tổ tiên ông đã theo nhà Nguyễn từ Phnom Penh, Campuchia di cư về đây đã 300 năm. Nếu thông tin này chứng minh được, nghĩa là họ đã di cư trước cả thời Gia Long lên ngôi lập ra triều Nguyễn (1802). Thời các chúa Nguyễn, nước ta có 2 cuộc di binh lớn sang tận Phnom Penh để giúp triều đình Chân Lạp dẹp loạn và an trị: năm 1700 của đại binh Nguyễn Hữu Cảnh và năm 1755 của Nguyễn Cư Trinh. Sử cũ đều chép, cả hai cuộc bình định này đại quân Việt đều có thu nạp vào quân ngũ người Chăm sinh sống ở Campuchia. Và cả hai cuộc can thiệp này đều rút về nước bằng đường thủy xuôi dòng Mekong, lại tiếp tục đồn trú để giữ yên biên ải trên vùng cù lao đầu nguồn Cửu Long. Nếu chứng minh được con số trên dưới 300 năm, thì có thể lắm, đó là cuộc di binh của Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Một “thế giới” để ngỏ Gặp chúng tôi trước chuyến đi, nhà thơ Lê Thanh My, người nhiều năm làm trưởng phân hội văn nghệ Châu Đốc, cho biết: mới tháng trước, có vài bạn văn từ Vĩnh Long sang muốn tiếp cận để tìm hiểu các làng Chăm. Nhưng khi cái hội lang thang này dừng lại trước một thánh đường, một bến nước, một ngôi nhà sàn cổ… để chụp hình, nhìn ngắm là liền có mấy thanh niên Chăm đến dò hỏi có vẻ không thân thiện. Hóa ra sự e ngại của chị My và lo lắng của chúng tôi là chẳng cần thiết. Không kể người trẻ, ngay những người già là chức sắc trong giáo hội đều rất cởi mở khi chúng tôi tiếp xúc. Giáo cả xóm Chăm Koh Taboong, Vĩnh Hòa, cũng là giáo cả của toàn giáo hội Islam An Giang, dù đã ngoài 80, đã qua một lần tai biến tuần hoàn não, vẫn ân cần tiếp chuyện chúng tôi gần cả buổi chiều, tỉ mỉ diễn giải tất cả mọi điều mà chúng tôi cần biết. Ở thánh đường Rohmah, Lama, Vĩnh Trường, hơn 50 đàn ông cả già trẻ ngồi tụ tập trước giờ lễ trưa để giải thích cho chúng tôi từ lễ tục, giới răn của đạo cho đến nếp sống sinh hoạt ngoài đời. Sau khi kết thúc lễ, ông Mohamach Thost còn mời tiếp chúng tôi về nhà để trò chuyện. Cộng đồng người Chăm An Giang quả thật bé nhỏ, chỉ trên dưới 12.000 người sống phân tán thành từng xóm trên hai huyện An Phú, Châu Phú và thị xã Tân Châu. Xóm Chăm luôn nối liền với các xóm Việt trên một trục lộ, hay một bờ kinh mà người qua đường rất khó phân định. Họ sống trên nhà sàn. Nhưng người Việt ở đây cũng sống trên nhà sàn, vì đất này hàng năm có 4 - 5 tháng ngập lũ. Thoạt trông, chẳng khác gì nhau, nhưng bên trong là hai thế giới khác biệt. Đi qua xóm Chăm không thấy phụ nữ trên đường, đàn ông cũng thảng hoặc, chỉ có trẻ con đi học. Lễ hội, tiệc cưới, tiệc vui người Chăm vẫn có mặt người Việt. Ngược lại, họ không dự tiệc tùng của người Việt, không vào quán ăn, quán giải khát của người Việt, không mua thực phẩm ở chợ Việt… Khác biệt một phần bắt nguồn từ giáo luật, phần khác là phản ứng bảo tồn bản sắc một cách tự nguyện xuất phát từ cội nguồn thẳm sâu. Xóm Chăm Lama, Vĩnh Trường được xem là cộng đồng Chăm lớn nhất An Giang với hơn 500 nóc nhà và trên dưới 2.200 con người, nhưng cũng chỉ kéo dài theo trục lộ chưa được một cây số. Nhiều xóm Chăm khác là cụm cư dân nhỏ chỉ vài trăm con người, thế mà mấy trăm năm qua họ vẫn không hề mất đi bản sắc văn hóa. Đó là cả một bí mật lớn lao mà loạt bài này không hề có tham vọng làm sáng tỏ, chỉ mong được kể lại đôi điều mà chúng tôi quan sát, tìm hiểu được.  Theo Vietbao (Theo: queviet.pl)
0 Rating 443 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On August 23, 2012
Ngy 22/8, sau gần một thng tࡡi khai quật di tch Chăm Pa tại Đ Nẵng, lần đầu ti�n đon khảo cổ pht hiện một hố trung tࡢm trong lng thp với nhiều hiện vật lạ m⡠ kết cấu cn gần như nguyn vẹn.> B⪭ ẩn kho bu 'khổng lồ' của vua Chm Trao đổi với VnExpress.net, ᠴng V Văn Thắng, Gim đốc Bảo t塠ng Điu khắc Chăm (TP Đ Nẵng) cho biết, hố nꠠy vung cạnh 4,25 m, su 2m v䢠 được lm bằng gạch Chăm. Trong lng hố được lấp đầy khoảng 30 m3 cಡt, sỏi xếp lớp. Khu hố trung tm chứa nhiều hiện vật lạ vừa được ph⢡t hiện. Ảnh: T Anh. Sau khi mc to꺠n bộ số ct, sỏi ra khỏi hố, đon khảo cổ tiếp tục phᠡt hiện 8 lm chia ra 8 hướng, nằm ở 4 g䵳c v cạnh. Trong mỗi lവm c xếp một vin gạch vu㪴ng nằm ln một vin đꪡ cuội trn. Giữa đy hố c⡲n st lại một dy đ㣡 cuội v thạch anh xếp thnh hࠬnh bn nguyệt. ng Thắng vᔠ cc cộng sự dự đon, rất cᡳ thể dy đ cuội n㡠y trước đy được xy theo h⢬nh trn nhưng do nhiều l do kh⽡c nhau m đến nay bị biến dạng. "Theo tn ngưỡng của người Chăm, ở 8 hướng c୳ 8 vị thần cai quản, do đ c thể đ㳢y l tn ngưỡng tୢm linh ni đến cc vị thần canh giữ", 㡴ng Thắng ni. Về quy m của kiến tr㴺c vừa pht hiện được, đon khảo cổ nhận định nhiều khả năng đᠢy l nền mng của một kiến tr೺c thp Chăm như nhiều khai quật trước đ. Tuy nhiᳪn theo ng Thắng, nếu căn cứ vo nền m䠳ng đồ sộ như vậy th nơi đy đ좣 từng tồn tại một thp Chăm rất lớn, c thể nᳳi phải l thp lớn nhất từ trước đến nay, cho thấy sự tồn tại một trung tࡢm tn gio của người Chăm từ thế kỷ 12. Đền th䡡p Chăm Pa nằm tại lng Phong Lệ (phường Ha Thọ Đ಴ng, Cẩm Lệ, Đ Nẵng) được khai quật giữa năm 2011, nhằm phục vụ cng tഡc bảo tồn, gio dục v du lịch. Tại đᠢy, cc nh khảo cổ phᠡt hiện một vng diện tch rộng lớn l魠 khu đền thp Chăm Pa cch đᡢy khoảng gần 1.000 năm. Giới chuyn mn đang tiếp tục giải m괣 cc hiện vật vừa tm thấy để cᬳ kế hoạch cho việc khai quật tiếp theo. Nguyễn Đng http://vnexpress.net/gl/xa-hoi/2012/08/dau-tich-thap-cham-co-lon-nhat-duoc-phat-hien/
0 Rating 438 views 1 like 0 Comments
Read more
Hoa chăm pa tn khc lꡠ hoa đại, l loại cy được trồng lࢠm cảnh ở hầu hết cc vng ở nước ta, trong vườn, trước cửa cṡc đnh, cha, đền, hang động thờ c칺ng v ở cc vườn hoa. Cࡢy chăm pa mọc hoang, l to, gn lᢡ nổi r, mu l堡 xanh đậm. Cụm hoa mọc ở đầu cnh. Hoa c cೡnh mu trắng, tm hoa mࢠu vng, mi thơm, c๡nh hoa dầy, thường l năm cnh. Quả h࡬nh đậu. Hoa chăm pa được dng lm thuốc chữa bệnh. Theo Đ頴ng y, hoa chăm pa c vị ngọt tnh b㭬nh, thơm, c tc dụng thanh nhiệt, lợi tiểu h㡲a vị, nhuận trng, bổ phổi, hạ huyết p, chữa say sࡳng, vim ruột, lỵ, kh ti곪u, km hấp thụ v suy dinh dưỡng ở trẻ em, vi頪m gan do nhiễm khuẩn, vim phế quản, ho chữa chứng đi ngoi chảy mꠡu. Khng dng cho người suy nhược to习n thn, phụ nữ c thai kh⳴ng dng. Liều dng 10-15g cho thuốc sắc. Một số b鹠i thuốc ứng dụng Chữa lỵ Cch 1: Chăm pa kh 10g, rau sam 10g, lᴡ mơ kh 15g. Sắc uống ngy 1 thang chia 3 lần, mỗi lần uống 50ml, cần uống 3 ng䠠y. Cch 2: Hoa chăm pa 10g, vỏ quả lựu 10g, l vối khᡴ 8g. Sắc uống như bi trn. Chữa ho:ઠHoa chăm pa 5g, cam thảo đất 10g, vỏ rễ du 10g. Vỏ rễ du cạo bỏ lớp vỏ ngo⢠i, thi nhỏ, tẩm mật sao thơm. Sắc chia 3 lần uống trong ngy, mỗi lần uống 60ml, cần uống liền 3 ngᠠy. Chữa đầy bụng:Hoa chăm pa 10g, gừng 5g, trần b, 10g, sơn tr 5g. Sắc uống ngy 3 lần. Chữa viࠪm phế kh quản:Hoa chăm pa 10g, kim tiền thảo 15g. Sắc uống trong ng�y chia 3 lần, mỗi lần 50ml, cần uống liền 3 ngy. Chữa tăng huyết p Cࡡch 1: Hoa chăm pa 20g, hm hoặc sắc lấy nước uống thay tr, c㠳 thể phối hợp thm hoa he 12g, hoa c겺c 12g v thảo quyết minh 12g. Kết quả nghin cứu hiện đại cho thấy, dịch chiết hoa chăm pa cળ tc dụng hạ huyết p khᡡ r rệt. Cch 2: Hoa chăm pa kh塴 100g, hoa cc vng kh꠴ 50g, hoa he kh 50g, hạt thảo quyết minh sao 50g. Tất cả tⴡn thnh bột, chia thnh g࠳i 10g, mỗi ngy dng 1-2 g๳i hm uống thay nước ch. Thuốc c㨲n c tc dụng an thần, g㡢y ngủ nhẹ, hạ huyết p.
0 Rating 436 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 15, 2014
ANTĐ - Câu chuyện thần bí ở Tháp Bà Poh Naga, truyền thuyết có sức sống vô cùng mạnh mẽ trong đời sống... Tháp Bà Poh Naga (Ponagar) toạ lạc trên đồi Cù Lao, bên cạnh cầu Xóm Bóng và cửa sông Cái, phường Vĩnh Phước, TP Nha Trang, Khánh Hoà, được xây dựng từ giữa thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII dưới vương triều Panduranga, thuộc vương quốc cổ Chămpa. Nơi đây thờ nữ thần Poh Naga (người Mẹ xứ sở của dân tộc Chămpa) và cũng là Thiên Y Thánh Mẫu của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.Ngày 23 tháng 3 âm lịch là ngày vía Bà. Những ngày hội lớn, kéo dài từ ngày 20 đến 24 tháng 3 âm lịch hàng năm. Du khách quốc tế thích thú mặc áo dài kín đáo khi vào tham quan Tháp Poh Naga Bà Thiên YANa hay bà chúa Ngọc là tên gọi của người Việt đối với nữ Thần Yang  Poh Nagar (Poh Nagar) của người Chăm. Trong lịch sử “Yang  Poh Inư Nagar” được xem là mẫu, là mẹ của người Chăm; vì “Yang” nghĩa là thần; “ Poh” là tôn kính; “ Inư” là Mẫu, là mẹ; “Nagar” là xứ sở, đất nước. Theo truyền thuyết của người Chăm, Yang Poh Inư Nagar do bọt biển và ánh mây trời sinh ra ngoài biển khơi. Một hôm, nước biển dâng cao đưa bà vào bến nước Yatran ở cửa sông Kauthara (nay là sông Cù, tức là sông Cái – Nha Trang, Khánh Hoà). Đó là một ngày mà trời nổi giông bão, sấm chớp sáng lòa; nước ở trên rừng đổ về chảy ào ạt thành những dòng sông lớn và núi cũng cúi mình xuống để đón bà Yang Poh Inư Nagar giáng trần. Khi bà bước lên bờ, rừng cây cong xuống tỏ lòng thần phục, chim muông kéo đến hát mừng và cỏ hoa nở rộ rực rỡ, khoe sắc muôn màu, tỏa hương thơm theo mỗi bước chân bà. Yang Poh Inư Nagar đi đến đâu dùng phép thuật hóa ra những xóm làng, cung điện nguy nga, cây lúa, cây bắp và cả loại gỗ quý Kỳ Nam (trầm hương) làm cho xứ sở trần gian thêm trù phú. Yang Poh Inư Nagar được xem là nữ thần Mẹ xứ sở, là biểu tượng che chở cho cuộc sống bình yên của muôn loài. Sau khi người Việt đến định cư vùng đất Nam Hoành Sơn (đèo Ngang); tôn trọng tâm linh và tín ngưỡng của người Chăm, người Việt đã lưu giữ phong tục thờ cúng thiêng liêng đối với nữ thần Yang Poh Inư Nagar, tiếp tục coi bà là Mẹ xứ sở của mình, nhưng Việt hóa truyền thuyết nữ thần Yang Poh Inư Nagar thành nữ thần Thiên YANa. Ngày xưa, tại núi Đại An (tức Đại Điền ngày nay) có hai vợ chồng tiều phu già không con cái sinh sống, vỡ đất làm rẫy trồng dưa nơi triền núi. Cứ mỗi mùa dưa, quả nào chín đều bị mất trộm. Một hôm, ông lão bắt được thủ phạm là một cô gái nhỏ nhắn, hiền lành, xinh đẹp, nhưng lại mồ côi. Ông đưa về nhà làm con nuôi; hai ông bà lão không có con nên xem cô gái như con đẻ. Ông bà lão cũng biết được cô gái vốn là tiên nữ giáng trần. Một hôm mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều, buồn bã, khiến tiên nữ nhớ cảnh tiên trên trời. Để xoa đi nỗi nhớ thương, cô gái lấy đá xếp thành hòn giả sơn (hòn non bộ). Thấy việc làm lạ lùng của đứa con nuôi, ông lão rầy la nặng lời, cho rằng việc làm đó không thích hợp đối với con gái. Đang buồn vì nhớ cảnh bồng lai, lại bị cha nuôi ngăn cấm không cho làm hòn giả sơn, cô gái càng thêm tủi khổ. Nhân lúc đó thấy một khúc gỗ Kỳ Nam (trầm hương) từ trên nguồn trôi đến, tiên nữ liền hóa thân biến vào khúc Kỳ Nam và để mặc cho dòng nước đưa đẩy trôi ra biển. Sau một thời gian lênh đênh theo dòng  nước, theo gió, khúc Kỳ Nam trôi đến đất Trung Hoa. Thấy khúc gỗ lạ dạt vào bờ, có mùi hương tỏa ra ngào ngạt, dân trong vùng kéo nhau đến, xúm vào khiêng nhưng không sao nhấc lên được. Thái tử Bắc Hải nghe tin đã đến xem và nhẹ nhàng vác khúc gỗ đem về cung đình. Một đêm nọ, Thái tử bỗng thấy một bóng người từ khúc gỗ Kỳ Nam bước ra ngoài. Sau mấy đêm theo dõi, Thái tử đã bắt được cô gái. Nghe cô gái xinh đẹp kể về thân phận của mình và tự xưng tên là Thiên YANa. Nghe xong, ngày hôm sau Thái tử tâu với vua cha xin cho mình được cưới cô gái làm vợ. Sống với Thái tử, nàng Thiên YANa sinh được một con trai đặt tên là Trí và một con gái đặt tên là Quý. Cả hai đều rất khôi ngô, tuấn tú... Đông đảo du khách thưởng thức vũ điệu Chăm ngay dưới chân Tháp Poh Naga huyền bí Rồi một ngày nhớ quê hương, xứ sở, nàng Thiên YANa dắt hai con nhập vào khúc gỗ Kỳ Nam vượt biển trở về cố quốc. Cảnh cũ còn đây nhưng bố mẹ nuôi đã chết, đau buồn, thương nhớ, bà cho xây đắp lại mồ mả, sửa sang lại nhà cửa thờ phụng bố mẹ nuôi. Thấy dân chúng làng Đại An thật thà, chất phác, nhưng cuộc sống nghèo khổ, bà đã đem những gì học được ở quê chồng như phép tắc, lễ nghi, nghề nông chỉ dạy cho dân làng cày đất trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt vải... Dân Đại An ngày một no đủ, giàu có. Đến một ngày nọ, một con chim hồng hạc từ trên trời cao bay xuống rước Bà cùng hai con về cõi tiên. Nhớ ơn đức Bà, người dân làng Đại An và trong vùng  xây tháp, tạc tượng phụng thờ. Tại xứ Bắc Hải, Thái tử sau khi mất vợ,  ngày đêm buồn rầu, thương nhớ không nguôi bèn kéo quân vượt biển đi về phương Nam tìm vợ. Đến Đại An, không tin vợ và hai con đã theo chim Hạc về Trời; Thái tử đã cho quân lính bắt bớ, tra  khảo dân làng. Bị oan ức và đau đớn, dân chúng đã thắp hương cầu khấn, xin bà về cứu hộ. Lời khẩn cầu đó đã lên đến trời xanh, phút chốc một trận cuồng phong nổi lên, cát, đá bay mù mịt cuốn phăng bọn người từ phương Bắc và cả đoàn tàu thuyền nhấn chìm xuống sông Cái. Bãi đá tương truyền là nơi nhấn chìm cả đoàn tàu thuyền và bọn người phương Bắc... Theo lời người xưa kể lại thì những cụm đá trước cửa Tháp Bà Poh Nagar ở Nha Trang, giữa sông Cái là những tảng đá đánh chìm đoàn thuyền Thái tử xứ Bắc Hải thời xa xưa. Trang phục quyền quý của người Chăm cổ được phục dựng Hai truyền thuyết của hai dân tộc Chăm và Việt về Poh Nagar -  Thiên YANa tuy có phần khác nhau về dị bản, nhưng đó là đặc trưng của dòng văn học dân gian. Theo truyền thuyết của người Chăm, nữ Thần Poh Nagar phản ánh mối quan hệ xã hội Mẫu hệ mà hạt nhân cơ bản vẫn là sự tôn thờ người đã có công lao khai quốc, lập ấp, người bảo vệ, che chở cho muôn loài. Với người Việt, nữ Thần Thiên YANa lại là hình tượng biểu hiện tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước khát vọng sống trong hòa bình, tinh thần chống ngoại xâm... Có lẽ vì thế, tín ngưỡng thờ Thần Poh Nagar của người Chăm đã được người Việt tiếp nhận và Việt hóa, trở thành tài sản văn hóa tinh thần của hai dân tộc Việt - Chăm. Một góc còn nguyên bản của Tháp Poh Naga - Nha Trang, Khánh HoàLối thờ phụng, kiến trúc vô cùng độc đáo của người Chăm cổ. Cho đến nay, vẫn không thể biết người Chăm cổ đã sản xuất loại gạch không bị rêu mốc này như thế nào...Tượng nguyên thuỷ nữ thần Uma (phần âm tính của Shiva) hay nữ thần Poh Naga. Vị thần với 10 tay, tượng trưng cho sức mạnh, trí tuệ, lòng từ bi rộng lớn, để che chở, bảo vệ, độ trì, ban phúc lành và ước nguyện cho muôn dân..., được nhân dân tôn kínhPhần trên ảnh: Thần Shiva với 4 tay, cưỡi ngưu (trâu) thần Nandin, nhảy múa giữa 1 vũ công và 1 người thổi sáo. Phần dưới ảnh: Biểu tượng Linga - Yuni được tôn thờMột pho tượng bị cụt đầu, cụt hai bàn tay, với những dòng chữ Sanrit cổCầu nguyệnLinga và Yuni là hai biểu tượng không thể thiếu của văn hoá phồn thựcThần Shiva, vị thần biểu trưng cho sức mạnh. Trong thế giới tâm linh Ấn Độ giáo hay Bà La Môn giáo, khi mong cầu sức mạnh, người ta hay tưởng nhớ đến thần Shiva, kèm theo câu chú: "Om Namah Shiva"Thần DevaKhỉ thần HanumanThần Ganesha, được thờ ở tháp Tây Bắc. Ganesha là con của thần Shiva, biểu tượng của trí tuệ và sự may mắnTượng sư tử thầnDê - vật cưỡi của thần gió VayuVoi – vật cưỡi của thần IndraThiên nga Hamsa, vật cưỡi của thần Brahma.   Hà Phương   theo 
0 Rating 436 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 30, 2017
  Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Ðông Pháp) Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử duy nhất viết bằng tiếng Akhar Thrah Chăm liên quan đến lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga, chứ không phải là biên niên sử của vua chúa liêng bang Champa đóng đô ở Vijaya. Tiếc rằng, những yếu tố cơ bản lịch sử trong tư liệu có giá trị này đã bị hiểu lầm và sửa đổi theo nhãn quan riêng tư của một số nhà nghiên cứu hay nhà viết lách trong nhiều bài viết đăng tải trên tập san và báo chí viết bằng tiếng Việt ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại gần 40 năm qua. Chỉ cần nhìn lai các bài viết sai lầm về Po Klaong Garai, Po Binnasuar và Po Saong Nhung Ceng, ba nhân vật được ghi trong biên niên sử này, chúng ta đã thấy rằng Sakkarai Dak Rai Patao đã bị thêu dệt tùy theo quan điểm của mỗi tác giả để rồi trở thành nạn nhân của làn sóng nghiên cứu về văn hóa Chăm hôm nay. Một số tác giả cho rằng Po Klaong Garai là vị vua thật sự trị vì vào năm (1151-1295). Họ còn cho rằng Po Klaong Garai là Jaya Indravarman IV vua của liên bang Champa (1147-1160), nhưng họ không bao giờ cho biết tại sao. Tiếc rằng, trong tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao, Po Klaong Garai chỉ là vua huyền sử, một vị thần linh tự sinh ra (éngkat) và được xếp vào triều đại thứ 5 trong danh sách các vua huyền sử này. Sau mấy năm trì vị ở trần gian, Po Klaong Garai trở về trời (nao mâng rup). Po Binnasuar (hay Po Binthuer) cũng là nhân vật được phô trương trong nhiều bài viết. Một số người tự phỏng đoán rằng Po Binnasuar (1316-1361 hay 1328-1373) là quốc vương Chế Bồng Nga (1360-1390). Tiếc rằng, Po Binnasuar và Chế Bồng Nga là hai vị vua khác nhau. Po Binnasuar là vua của tiểu vương quốc Panduranga, gốc làng Bính Nghĩa, Phan Rang lên ngôi năm 1316 hay 1328. Ðền của ngài vẫn còn thờ phượng ở gần làng Bính Nghĩa này. Ngược lại, Chế Bồng Nga là quốc vương của liên bang Champa đóng đô ở Vijaya (Ðồ Bàn), lên ngôi năm 1360. Cuối cùng, Po Saong Nhung Ceng (1799-1822) là quốc vương Panduranga đã chết tại Phan Rí vì bệnh già yếu vào năm 1822 mà cả thư tịch cổ Việt Nam cũng đã chứng minh biến cố này. Ngược lại, một số nhà viết lách cứ cho rằng ngài chạy sang Cao Miên lánh nạn vào năm 1822.  Nguyên nhân của sự sai lầm  Ðiều mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây đó là những sai lầm này chỉ xuất hiện trên mặt sách báo viết bằng tiếng Việt và nó bắt nguồn từ ngày ra đời tác phẩm Dân Tộc Chàm Lịch Sử của Dorohiem và Dohamide xuất bản vào năm 1965. Thế thì đâu là nguyên nhân chính đã đưa các nhà nghiên cứu hay người viết lách bằng tiếng Việt vấp phải lỗi lầm vô cùng tai hại cho lịch sử Champa nói chung và lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga nói riêng. Ðể trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin trình bày sơ lược xuất xứ của các bài nghiên cứu về Sakkarai Dak Rai Patao kể từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến hôm nay. Người nghiên cứu đầu tiên về Sakkarai Dak Rai Patao là E. Aymonier (1890: 145-206). Trong bài nghiên cứu này, E. Aymonier tự đặt bao câu hỏi có chăng Sakkarai Dak Rai Patao chỉ là cốt truyện huyền sử, hoang đường nếu cho rằng tác phẩm này là biên niên sử của vương quốc Champa? Vì rằng danh sách vua chúa ghi trong Sakkarai Dak Rai Patao không có gì liên hệ đến vua chúa Champa đóng đô ở Viyaja, từ niên đại lên ngôi, tên tuổi, thủ đô, v.v. Trong bài viết của mình, E. Aymonier chỉ nêu ra câu hỏi, đặt lại vấn đề liên quan đến xuất xứ của tư liệu này, nhưng ông không tìm ra một câu để giải đáp. Mười lăm năm sau, nhà nghiên cứu Pháp là E. Durand (1905: 377-382) trở lại nghiên cứu tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao. Trong phần kết luận, E. Durand cho rằng đây không phải là cốt truyện huyền sử và hoang đường, mà cũng không phải là biên niên sử của liên bang Champa như E. Aymonier đã nêu ra, mà là biên niên sử của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam, chỉ có thế thôi. Bài nghiên cứu của E. Durand vào năm 1905 đã trở thành một yếu tố lịch sử mà các chuyên gia ở phương Tây đều công nhận cho đến hôm nay. Theo quan điểm của E. Durand, Panduranga không phải là một đơn vị hành chánh tương đương với “Tỉnh” ở Việt Nam, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Chính vì thế, tiểu vương quốc này cũng có một cơ cấu hành chánh riêng, chính trị và quân sự  riêng, kể cả biên niên sử riêng, đó là Sakkarai Dak Rai Patao. Năm 1978, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao trở thành bài luận án phó tiến sĩ của tôi ở đại học Sorbonne, Paris. Trong bài luận án này, tôi cũng chứng minh rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của Panduranga, một tiểu vương quốc của liên bang Champa. Không đọc đến bài nghiên cứu của E. Durand viết vào năm 1905 và những bài bài viết khác đăng tải trong các sách báo khoa học ở phương Tây, và cũng không cần nghiên cứu sâu đậm nội dung của biên niên sử viết bằng tiếng Chăm akhar thrah này, Dorohiem và Dohamide (Dân Tộc Chăm Lược Sử, 1965) chỉ dựa vào bài nghiên cứu bằng tiếng Pháp của E. Aymonier xuất bản vào năm 1980 để phát họa nội dung Sakkarai Dak Rai Patao theo cảm hứng riêng tư của mình. Trong tác phẩm này, Dorohiem và Dohamide, vì vô tình hay là cố ý, đã sửa đổi hoàn toàn quan điểm của E. Aymonier để thay vào đó một quan điểm mới lạ nhưng rất là phi lịch sử, cho rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của vương quốc Champa, nhưng Dorohiem và Dohamide không đưa ra một dữ kiện lịch sử nào để minh chứng nội dung bài viết của mình. Ðúng ra, phong cách “sửa đổi yếu tố lịch sử” này chỉ thường xuất hiện trong các bài viết của người viết lách hơn là của nhà khoa học dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày ra đời tác phẩm Dorohiem và Dohamide vào năm 1965, một số nhà nghiên cứu hay một vài người viết lách chỉ dựa vào tác phẩm bằng tiếng Việt mang tựa đề là Dân Tộc Chàm Lược Sử,  để rồi lặp đi lặp lại bao sự sai lầm lịch sử trong bài viết của Dorohiem và Dohamide. Thế là, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao Cham, kể từ năm 1965, đã trở thành nạn nhân của quan điểm sai lầm do Dorohiem và Dohamide đưa ra, chứ không phải là nạn nhân của các nhà viết lách nữa. Ðể làm sáng tỏ lại vấn đề liên quan đến nội dung của tác phẩm lịch sử có giá trị này, chúng tôi muốn đặt lại vấn đề ở đây có chăng Sakkarai Dak Rai Patao là một tác phẩm huyền thoại như E. Aymonier đã đề nghị vào năm 1890 hay là biên niên sử của vương quốc Champa như Dorohiem và Dohamide đã phỏng đoán vào năm 1965 hay là biên niên sử thật sự của tiểu vương quốc Panduranga như E. Durand đã đưa ra vào năm 1905?  Sơ lược lịch sử Panduranga  Cũng nhờ các bia ký Champa, tư liệu cổ Việt Nam và Trung Hoa, các nhà nghiên cứu phương Tây đã phác họa lịch sử vương quốc Champa một cách tổng thể từ thế thế kỷ thứ 2 đến năm 1471, cũng là năm đánh dấu cho sự thất thủ Vijaya, tức là thành Ðồ Bàn (G. Maspero: 1928); G. Coedes: 1964; Po Dharma: 1978, 1987). Sau năm 1471, các bia ký Champa không còn xuất hiện nữa. Dựa vào sự biến mất của bia ký, các nhà nghiên cứu không còn quan tâm đến lịch sử cận đại của Champa sau thế kỷ thứ 15. Tiếc rằng, người ta đã quên rằng dân tộc Chăm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí vẫn còn lưu trữ rất nhiều văn bản cổ viết bằng tiếng Chăm liên quan đến lịch sử và nền văn minh Champa sau năm 1471 (Po Dharma: 1987; P-B. Lafont: 1980). Trong kho tàng văn chương lịch sử này, Sak Karay Dak Rai Patao là văn bản duy nhất nói về biên niên sử của vua chúa Panduranga. Ai cũng biết, kể từ đầu thế kỷ thứ 20, các nhà nghiên cứu phương Tây (L. Finot: 1903; G. Coedes: 1964; P-B. Lafont: 1980; Po Dharma: 1987; B. Gay: 1988)  đã phân tích một cách khoa học và có hệ thống những nền tảng tổ chức chính trị và hành chánh Champa để rồi đưa ra một kết  luận chung đó là Champa không phải là một quốc gia tập quyền, thống nhất như thể chế chính trị ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, mà là một vương quốc liên bang (fédération) và đôi lúc cũng là một liên hiệp quốc gia (confédération), rất gần gũi với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay. Liên bang Champa tập trung 5 tiểu vương quốc trong đó có Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Ðứng đầu của quốc gia liên bang Champa là quốc vương mang tôn hiệu Rajadiraja (tức là vua của vua), chứ không phải là Patao như Dohamide và Dorohiêm (2004, tr. 263) đưa ra. Quốc vương này còn mang một tôn hiệu khác đó là Po Tana Raya (lãnh chúa toàn diện đất đai) để cai trị quốc gia với «cây lộng duy nhất››, biểu hiện cho uy quyền hoàng gia Champa. Thủ đô liên bang lúc ban đầu đặt tại Indrapura (Quảng Nam) sau đó dời về Vijaya (Bình định) kể từ năm 1000. Nằm ở cực nam của lãnh thổ liên bang Champa, Panduranga là một tiểu vương quốc có một thể chế hành chánh, chính trị và quân sự riêng biệt. Sự hình thành tiểu vương quốc này đã có từ lâu đời. Vì rằng vào năm 1050, bia ký đã nói đến cuộc vùng dậy của nhân dân Panduranga chống lai chính quyền trung ương Champa ở miền bắc. Ðể trả lời cho thái độ bất qui phục này, quốc vương Champa là Jaya Paramesvaravarman I đứng ra chỉ trích kịch liệt thái độ ương ngạnh của nhân dân Panduranga mà ngài gọi họ là «dân tộc phóng đãng (vicieux), ác tâm (malfsaisant), khinh bạc (frivole), luôn luôn phản động chống lai triều đình trung ương» (Maspero, 1928: 37 ; Po Dharma, 1987 : 57). Nhằm phá tan yêu sách đòi tự trị ở miền nam và đưa dân tộc Panduranga phải tôn trọng uy quyền triều đình trung ương, quốc vương liên bang Champa thường biến tiểu vương quốc Pandurang thành một lãnh thổ đặc hữu (apanage) đặt dưới quyền cai trị của một thái tử (yuvaraja) do quốc vương liên bang Champa chỉ định (Finot, 1909: 205-209, Maspero, 1928: 137). Sự hiện diện của thái tử này cũng không ngăn cấm nổi Panduranga trở lại con đường cũ : thua keo này bày keo khác. Vì rằng, Panduranga vẫn là nơi phát sinh một số biến cố chính trị lớn vào thế kỷ thứ 11. Biến cố thứ nhất đó là một nhân vật quan trọng trong triều đình của Panduranga đứng ra kêu gọi nhân dân tách rời ra khỏi liên bang Champa, rồi tự phong mình làm vua ở miền nam, dù rằng vương triều này chỉ kéo dài trong vòng 13 năm. Hết tìm cách xây dựng một quốc gia tự trị, Panduranga còn là nơi trú ẩn dành cho một số nhân vật chính trị từ trung ương ở Vijaya chạy sang lánh nạn (Finot, 1909: 205-209; Maspero, 1928: 137). Với bản chất cương quyết của nhân dân Panduranga đấu tranh cho bằng được quy chế tự trị ở miền nam, một số quốc vương liên bang Champa không còn cách nào khác là công nhận nền tự trị của Panduranga ở miền nam. Ðiển hình nhất là vào thế kỷ thứ 10, tư liệu Trung Hoa cho rằng mặc dù Panduranga vẫn là lãnh thổ trực thuộc liên bang Champa, nhưng tiểu vương quốc này vừa triều cống vua liêng bang Champa ở miền bắc, vừa gởi triều cống đến Trung Hoa như một quốc gia độc lập (Pelliot, 1903: 649). Ngoài yêu sách tự trị, vua chúa Panduranga cũng thường xác nhận họ có một thị tộc riêng biệt. Ðiển hình là vào cuối thế kỷ thứ 11, quốc vương liên bang Champa là Sri Harivarman IV (1074-1081) tự cho mình là người xuất thân từ thị tộc cây câu (Narikela) của dòng thân mẫu ở Panduranga, một thị tộc tinh khiết của chủng tộc Champa. Thân phụ của ngài thuộc thị tộc cây dừa (Kramula) ở Vijaya. Hai thị tộc này thường dùng đến bạo lực để chinh phục uy quyền ở liên bang Champa trong nhiều thế kỷ (Maspero, 1928: 43). Hết sự khác biệt về thị tộc, Panduranga thường đeo đuổi tư thế độc lập của mình về phương diện chính trị đối với miền bắc. Chính vì thế, Panduranga thường không hỗ trợ quân sự cho Vijaya, một khi tiểu vương quốc phía bắc này bị ngoai bang xâm chiếm. Vào năm 1145, vua Cao Miên xua quân xâm chiếm Vijaya và giết chết vua liên bang Champa là Indravarman III. Trước sự tấn công của ngoại bang, Panduranga không hề gởi quân để giúp đỡ quốc vương Champa ở phương bắc. Thêm vào đó, Panduranga còn đón nhận hoàng tử của tiểu vương quốc Vijaya là Rudravarman IV cùng với đứa con trai là Srivanandana chạy sang lánh nạn trên lãnh thổ của mình một khi quân Cao Miên phá hủy thủ đô Vijaya vào năm 1145. Ngoài sự tiếp đón nồng hậu này, dân chúng Pandurang còn tôn vinh hoàng tử Srivanandana lên làm vua Champa ở miền nam lấy vương hiệu là Jaya Harivarman I (Maspero, 1928: 156-157). Thế là vương quốc Champa bị chia đôi thành hai miền rõ rệt. Vijaya đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Cao Miên và Panduranga thì có Jaya Harivarman I. Với sự hỗ trợ của quân đội Panduranga, vua Jaya Harivarman I xuất quân ra bắc vào năm 1149 tấn công Vijaya và giết được tổng tư lệnh quân viễn chinh Cao Miên là hoàng tử Harideva, tức là em rể của vua nước này (Maspero, 1928: 156). Năm 1190, vua Cao Miên là Jayavarman VII giao quyền cho hoàng tử Champa là Sri Vidryanandana sang lánh nạn ở Cao Miên từ năm 1182, đem quân tấn công Vijaya lần thứ hai, bắt được vua Champa là Jaya Indravarman IV đưa về Cao Miên. Một khi thắng trận, vua Cao Miên phong cho em rể của mình lên làm quốc vương Vijaya (Nagara Vijaya) với vương hiệu là Suryajayavarman. Riêng về hoàng tử Sri Vidryanandana, ngài trở lại Panduranga, tự phong cho mình là quốc vương của tiểu vương quốc này với vương hiệu là Sri Suryavarmadeva, đặt thủ đô tại Rajapura (Phan Rang). Thế là vương quốc Champa lai bị chia đôi một lần nữa. Miền bắc do quân Cao Miên trấn giữ. Tiểu vương quốc Panduranga do hoàng tử Sri Suryavarman lãnh đao (Maspero, 1928: 166). Vì không chấp nhận tiểu vương quốc Vijaya bị cai trị bởi ngoại bang, hoàng tử Champa tên là Rasupati vùng dậy vào năm 1191 đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên sau đó lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Indravarman V. Ðể trả thù cho cuộc vùng dậy này, vua Cao Miên chấp nhận trả tự do cho cựu quốc vương Jaya Indravarman IV bị bắt giam tại vương quốc này vào năm 1190. Từ vương quốc Cao Miên, cựu quốc vương Jaya Indravarman IV ghé sang Panduranga cầu cứu quân sự hầu chiếm lại ngai vàng ở phương bắc. Một khi đã nhận lời giúp đỡ, vua Panduranga là Sri Suryavarman xua quân sang miền bắc, đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya. Lợi dụng sự chiến thắng này, vua Panduranga phế truất cựu vương quốc Jaya Indravarman IV ra khỏi ngai vàng, tự phong mình làm quốc vương liên bang Champa kiêm cả chức vua của tiểu vương quốc Panduranga kể từ năm 1192 (Maspero, 1928:165-166). Một năm sau, tức là vào năm 1193, vua Cao Miên Jayavarman VII xuất quân sang chinh phạt Sri Suryavarman ở Vijaya. Bị thất trận vào năm 1203, Sri Suryavarman chạy sang Ðại Việt lánh nạn. Nắm chủ tình hình, vua Cao Miên chiếm lại thủ đô Vijaya và đặt nền cai trị ở miền bắc Champa trong xuốt 17 năm, từ 1203 đến 1220 (Maspero, 1928: 167) Sự đô hộ của Cao Miên ở Champa vào những năm 1203 và 1220 đã đánh dấu một biến cố quan trọng trong văn chương lịch sử ở Champa. Chính trong thời điểm này mà tác phẩm Sakkaray Dak Ray Patao đã ra đời với vị vua đầu tiên là Sri Agarang trị vì vào năm 1193 hay 1205 tùy theo dị bản. Tiếc rằng, không tư liệu nào có thể giúp chúng tôi để nhận diện rằng sự ra đời của Sakkaray Dak Ray Patao ở Panduranga có liên hệ gì với chính sách đô hộ Cao Miên ở Vijaya, miền bắc của Champa? Ðây chỉ là một vấn đề đặt ra nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi này (Po Dharma, 1978). Một khi đã thoát thân ra khỏi nền đô hộ của Cao Miên vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 13, vương quốc Champa lại vướng vào một tai họa khác đó là chính sách Nam Tiến của Ðại Việt. Sau khi thôn tính dần dần một số đất đai ở phía bắc của Champa, Ðại Việt quyết định nuốt trọn thủ đô Vijaya vào năm 1471 và dời biên giới của mình đến đèo Cù Mông, phía bắc Phú Yên. Sự thất thủ thành Ðồ Bàn đã đưa bản đồ dân cư Champa vào một khúc quanh mới. Vì rằng, kể từ năm 1471, Champa bị thu hẹp lại trong lãnh thổ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam mà thôi (Po Dharma, 1987, I, tr. 61-62). Sau khi Vijaya bị thất thủ, tướng Bố Trì Trì sang lánh nạn ở Panduranga, chiếm giữ một phần năm đất đai của tiểu vương quốc này để thành lập một quốc gia riêng biệt. Ngài cũng xin vua Lê Thánh Tông công nhận sự tấn phong của mình và biên niên sử Minh Chê của Trung Hoa vẫn còn nói đến sự liên hệ với Champa của Bố Trì Trì giữa năm 1478 và 1543 (Maspero, 1928: 240). Từ ngày thất thủ thành Ðồ Bàn vào năm 1471 đến năm 1611, tức là gần 140 năm, người ta cứ tuởng rằng chiến tranh không còn tái diễn nữa giữa hai nước láng giềng thù địch, đó là Champa và Ðại Việt. Tiếc rằng sự hòa bình này chỉ là một giấc mơ huyền ảo. Năm 1611, nhà Nguyễn bắt đầu phất cờ Nam Tiến, mà Phú Yên là nạn nhân đầu tiên của chính sách xâm lược này. Năm 1653 quân nhà Nguyễn chiếm đóng Kauthara (Nha Trang) và năm 1658 tràn sang khu vực Sài Gòn tức là đất đai của Cao Miên thời đó (Po Dharma (1987, I: 64-66). Ba mươi chín năm sau ngày thất thủ Kauthara (1653), nhà Nguyễn quyết định nút trọn lãnh thổ Champa còn lại vào năm 1692, thay đổi danh xưng Chiêm Thành thành Trấn Thuận Thành và thành lập phủ người Việt đầu tiên mang tên là phủ Bình Thuận trong biên giới của tiểu vương quốc Panduranga. Ðể trả lời cho chính sách xâm lược này, nhân dân Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm luợc nhà Nguyễn vào năm 1693. Vì không kháng cự nổi, nhà Nguyễn chấp nhận trao trả lại nền độc lập cho Champa vào năm 1694 với điều kiện là Panduranga phải công nhân sự hiện diện của phủ Bình Thuận ở tiểu vương quốc này nhằm quản lý các cư dân Việt sống ở Champa thời đó (Po Dharma, 1987, I: 67-71). Phủ Bình Thuận là đơn vị hành chánh trực thuộc nhà Nguyễn tập trung các làng xã người Việt nằm rải rác trong lãnh thổ Champa. Sự ra đời của phủ Bình Thuận đã thay đổi hoàn toàn địa bàn dân cư Panduranga thời đó. Vì lãnh thổ này không dành riêng cho dân tộc Champa nữa mà là cả cư dân Việt. Mô hình dân cư quá phức tạp này đã đưa hai cộng đồng Chăm và cư dân Việt đến sự xung đột thường xuyên trong những năm kế tiếp (Po Dharma, 1987, I: 70-71). Vào thập niên của cuối thế kỷ thứ 18, Panduranga lại trở thành một bãi chiến trường đẫm máu giữa hai thế lực thù địch người Việt, đó là chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thế thì sự sống còn của Panduranga hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của chiến tranh này. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Ðể đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nhung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này (Po Dharma (1987, I: 83-99). Và Po Saong Nhung Ceng cũng là vị vua cuối cùng nằm trong danh sách của Sakkaray Dak Rai Patao. Những biến cố mà chúng tôi đã nêu ra đã cho độc giả thấy rằng Panduranga có một quy chế chính trị và quân sự rất là đặc biệt trong quá trình lịch sử của Champa. Dù rằng đã mấy lần vùng dậy chống triều đình trung ương để đòi nền tự trị ở miền nam, xuất quân đánh đuổi kẻ xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya ở miền bắc, gởi cả phái đoàn ngoại giao sang triều cống Trung Hoa như một quốc gia độc lập, có vua chúa và quân đội riêng, Panduranga vẫn là một đơn vị hành chánh của Champa. Nhưng đơn vị hành chánh này không thể hiểu là một “Tỉnh” của Champa như một số người thường hiểu lầm từ ngày ra đời tác phẩm của Dorohiêm và Dohamide vào năm 1965, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Dựa vào yếu tố chính trị và hành chánh này, các nhà khoa học thường định nghĩa rằng Champa không phải là một quốc gia thống nhất và tập quyền như thể chế Việt Nam, mà một vương quốc liên bang. Ðây là một thể chế thông dụng mà người ta còn thấy ở liên bang Mã Lai hôm nay tập trung 9 tiểu vương quốc (Dupuis, 1972) hay liên bang Lào trong thời phong kiến tập trung 4 tiểu vương quốc như Luang Prabang, Vientian, Xieng Khoang và Champasak (Saveng Phinith, 1987: 6). Kể từ năm 1905, thể chế liên bang Champa đã trở thành một yếu tố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ ba nhà nghiên cứu duy nhất trên thế giới đó là Lương Ninh, Dohamide và Dorohiêm. Trong bài viết của Lương Ninh xuất bản vào năm 2004, tác giả cho rằng «nếu đem lý thuyết Mandala (liên bang) áp dụng ở Champa, thì tác giả chỉ đồng ý một nữa›› mà thôi. Ðây là lối lý luận khập khiễng. Ngược lại, Dohamide và Dorohiêm thì phủ nhận hoàn toàn thể chế liên bang Champa trong tác phẩm Bangsa Champa xuất bản vào năm 2004. Không cần đưa ra một nguồn tư liệu nào để minh chứng cho quan điểm của mình, Dohamide và Dorohiêm tự phỏng đoán rằng vương quốc Champa hợp thành một cơ cấu quốc gia thống nhất. Chúng tôi khỏi bàn quan điểm này, vì đây chỉ là lối suy diễn dựa vào cảm hứng riêng tư và lý luận phi khoa học của Dohamide và Dorohiem mà thôi. Một khi đã công nhận Panduranga không phải là một “Tỉnh” của Champa như Dohamide và Dorohiem đã hiểu lầm từ năm 1965, mà là một tiểu vương quốc trong liên bang Champa, thế thì Panduranga cũng có quyền hưởng được quy chế pháp lý để có một biên niên sử riêng của mình, đó Sakkarai Dak Rai Patao.  Nội dung của biên niên sử  Trong thư viện của Pháp hiện còn lưu trữ 12 dị bản khác nhau của tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao. Trong tổng số này, có 10 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Việt Nam và 2 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Cao Miên. Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Cao Miên cho rằng đây là biên niên sử của Nagar Panang-Panik, tức là biên niên sử của tiểu vương quốc nằm trong khu vực Phan Rang và Phan Rí, hay là  Panduranga. Ngược lai, Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Việt Nam chỉ ghi rằng đây là biên niên sử Patao Chăm (vua chúa Chăm), nhưng không cho biết rõ Patao Chăm này thuộc về Panduranga hay vua chúa Champa đóng đô ở Vijaya. Nếu nói rằng Sakkaray Dak Rai Patao là biên niên sử của liên bang Champa thì không thể chấp nhận được. Vì rằng, hầu hết các lai lịch, “nghĩa trang” thuộc dòng thân mẫu (Kút) và đền tháp của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều nằm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí hôm nay. Ðiều đáng chú ý nữa đó là các thủ đô như Bal Sri Banây, Bal Hanguw, Bal Anguai, Bal Batsinâng, Bal Pangdarang đều nằm trong lãnh thổ của Panduranga. Các danh xưng của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều khởi đầu bằng cụm từ «Po», như Po Romé, Po Klaong Haluw, v.v. chứ không phải khởi đầu bằng cụm từ «Jaya, Sri›› như Jaya Indravarman, Sri Sinhavarman, v.v. được sử dụng bởi các vua chúa liên bang Champa đóng đô ở Vijaya. Thêm vào đó, người ta chưa bao giờ tìm thấy một bản văn nào viết bằng Akhar Thrah Chăm phát xuất từ khu vực Panduranga lại nhắc đến một số kỷ niệm xa xưa ở khu vực Champa miền bắc (từ Bình Định cho đến Quảng Bình), ngoại trừ vài danh từ địa phương như Huê (tức là Huế), Mbin Ngai (tức là Quảng Ngãi), v. v., vì rằng các địa danh này chỉ xuất hiện trong văn chương Chăm vào thời Nguyễn mà thôi. Chính vì thế, một số người Chăm cho rằng Harek Kah Harek Dhei dùng trong bản văn Chăm nằm ở Quảng Bình là hoàn toàn phi khoa học, vì địa danh này chỉ nằm ở khu vực Aia Ru (tỉnh Phú Yên) tức là địa đầu của tiểu vương quốc Panduranga. Càng không thể được nếu cho rằng công chúa Bia Mih Ai trong tác  phẩm Nai Mai Mang Makah là công chúa Mị E, vợ của Jaya Sinhavarman II,  tức là Sạ Ðẩu (1044-), v.v., vì tác phẩm Nai Mai Mang Makah chỉ viết vào thế kỷ thứ XVIII (Po Dharma, 2000). Tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao có tổng số 38 vị vua và được chia làm hai phần rõ rệt.  Thời kỳ tiền sử
0 Rating 433 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 2, 2012
Những cu chuyện ly kỳ về “ba m⹪, thuốc l”, “săn đầu người”, “ma rừng”... đ thꣴi thc chng t꺴i c chuyến đi khm ph㡡 cung đường vắt qua dy Trường Sơn hng vĩ tr㹪n địa phận tỉnh Quảng Nam, nơi đ vẫn cn c㲳 những bun lng người Cơ Tu, Giẻ Tri䠪ng, M’nng, X Đăng... quần tụ như bao đđời. Thế nhưng, đằng sau những c䪢u chuyện mang nhiều huyền tch, huyễn hoặc l những số phận mỏng manh như kh�i, như sương, như bị lng qun giữa n㪺i rừng bạt ngn. Họ đang chống chọi với ci đࡳi, ci rt, với cả sự tối tăm của cᩡi dốt v hủ tục bao đời... Lng Petakpot (thuộc xࠣ Đắc Pring, huyện Nam Giang) thuộc dn tộc Giẻ Tring c⪳ 9 hộ với 36 nhn khẩu, chủ yếu l người gi⠠ v trẻ con, nằm lọt thỏm giữa đại ngn Trường Sơn. Lࠠng đ lập trn đất n㪠y từ rất lu rồi, chỉ c điều dⳢn của lng vốn di cư từ huyện Ngọc Hồi (tỉnh Kon Tum) sang. Bao nhiu năm qua, họ sống biệt lập như một ốc đảo giữa đại ngઠn, cch biệt với thế giới bn ngo᪠i v dường như bị lng qu࣪n. Đ mấy lần tm c㬡ch về lng Petakpot nhưng chng tິi đều thất bại, bởi khi lội rừng chưa được 1 km lại gặp những cơn mưa tầm t, v phải qua bốn con suối s㠢u nước ln rất nhanh, trong khi mưa nhiều, lại rất chng tối n곪n khng ti n䠠o bước chn đi tiếp được. Phải đến lần thứ tư với sự liều lĩnh cần thiết, chng t⺴i mới đến được lng Petakpot. Từ Bến Giằng, trung tm hࢠnh chnh của huyện Nam Giang vượt chừng 75 km đường xc đến �i mửa mới đến được chn ni, để t⺬m đường vo “ốc đảo”. Em Kring Khnh, cࡴ học sinh duy nhất của lng đang học tại trường nội tr Nam Giang lຠ người dẫn đường của chng ti, cho biết, phải mất 7 giờ đồng hồ lội rừng mới đến được l괠ng Petakpot. Vượt được chừng 8 km đường mn men theo dốc ni, ch⺺ng ti phải băng qua mấy con suối, nước chảy cuồn cuộn trng rất hung dữ như thể muốn nuốt chửng những ai muốn t䴬m đến lng Petakpot. Con đường vo lࠠng chỉ đủ cho một người đi, c nhiều khc đường một b㺪n ni cao với vch đꡡ dựng đứng, bnkiaꠠlại l hố su thăm thẳm. Lội bộ hơn 4 giờ trong mưa lạnh, lࢠng Petakpot mới hiện ra lờ mờ trong my khi. Giữa lưng chừng n⳺i, lng Petakpot tưởng chừng như nằm lẫn vo trong mࠢy, chỉ cần với tay một ci đ tới. ᣠ Thấy người lạ đến, mọi người trốn hết khng giao tiếp Theo lời của Kring Khnh, con đường ch䡺ng ti đi l con đường mới l䠠m năm 2006, cn con đường cũ ngy trước khủng khiếp hơn nhiều, phải mất ⠭t nhất hai ngy đuờng mới đến được lng. ࠠ Đm ở lng Petakpot vắng hiu vꠠ lạnh lẽo, chỉ c tiếng ku của c㪴n trng v tiếng gầm r頺 của gi ni, kh㺴ng một bng người qua lại, xung quanh ton l㠠 ni đồi. Bn bếp lửa nhꪠ sn, bố Kring Đ đốt một điếu thuốc, r୳t rượu vo chai tỉ mẩn ni: “Mọi bữa, khi con gೠ vừa vo chuồng l mọi người đࠣ đng cửa ngủ, nhưng hm nay c㴳 mấy ch nn cả lꪠng mới thức khuya như vậy!”. Lc đ mới 8 giờ tối. Ch곺ng ti ngồi chung quanh bếp lửa, uống rượu trong đm, v䪠 được nghe kể về những cu chuyện thật ly kỳ của những con người bao năm sống lặng lẽ trong rừng su n⢠y.Trẻ con sinh ra 4 tuổi đ biết cầm dao theo cha vo rừng lấy củi, lội suối m㠲 ốc, bắt c. Cả lng 9 hộ với 36 nhᠢn khẩu, chủ yếu l người gi vࠠ trẻ con.Duy nhất chỉ c gia đnh bố Kring Th㬴i, cả 3 đứa con nhỏ đều đ được ng cho xuống x㴣 trọ học, ring con gi lớn Kring Khꡡnh, học hết cấp THCS bn Ngọc Hồi, ng cũng chuyển về Nam Giang tiếp tục học trường THPT d괢n tộc nội tr Nam Giang. Bố Kring Th꠴i bảo: “Phải cho ci Khnh đi học để sau nᡠy về lm c giഡo dạy ci chữ cho bọn trẻ con trong lng!”. Cᠳ một điều đặc biệt, gần 50 năm qua d sống ở vng sơn c鹹ng thủy tận, nhưng người dn rất khỏe mạnh, t bệnh tật, đặc biệt kh⭴ng ai chết v th dữ, dịch bệnh. 캠 Trong một thời gian di Petakpot l lࠠng của người Giẻ Tring thuộc tỉnh Kon Tum nhưng lại ở trn đất Quảng Nam. Do đꪳ khiến lng bị tch biệt, chẳng thuộc sự quản lࡽ của chnh quyền địa phương no. Năm 2007, tỉnh Kon Tum mới c� thủ tục bn giao lng Petakpot về với Quảng Nam, chịu sự quản l࠽ nh nước trực tiếp của x Đắc Pring, huyện Nam Giang. Nhưng l࣠ng Petakpot mới chỉ được “cng nhận bằng miệng” chứ chẳng c giấy tờ h䳠nh chnh no chứng nhận Petakpot l� thn, khiến cc chương tr䡬nh, dự n chưa thể đưa về đầu tư cho Petakpot, ngoại trừ vi căn nhᠠ thuộc Chương trnh 134 vừa được hỗ trợ cho 4 hộ trong lng. V젠o su trong lng, mấy n⠳c nh co cụm trn khu đất nhỏ, im ỉm. Sự sống cળ lẽ khng được cảm nhận nếu khng c䴳 vi ba ch bາ đang nằm nấp nắng dưới hin ngi nh괠 thuộc chương trnh 134. Điều lạ l nh젠 no cũng c người nhưng chẳng ai ra khỏi cửa. Ch೺ng ti tm đến nh䬠 của một thanh nin tn Unh, chừng 25 tuổi, cꪳ vợ v hai con, đứa lớn năm nay ln 4 tuổi. Hỏi mણi Unh mới trả lời bằng thứ tiếng Kinh lơ lớ: “Nh khng cലn ci ăn đ lᣢu, cn gạo th đ⬣ hết từ con trăng lu lắm rồi. Lu nay kh⢴ng c trăng nn kh㪴ng biết!”. Ngi nh nhỏ mới dựng ngay b䠬a rừng, vi ba đứa trẻ lấp l ở đầu cửa khi thấy người lạ từ ph೭a xa. Chng ti đến gần, ch괺ng đ lẩn mất vo b㠪n trong ngi nh tối om rồi kh䠳c tht ln. L骠ng vẫn cn tục “đn b⠠ đi rẫy, đn ng ở nhഠ”. Thế nn, trẻ con vừa ra đời đ phải theo mẹ l꣪n rẫy di nắng dầm mưa. Chng t㺴i vo nh Mế Ngới, nhࠠ của người gi nhất lng khi nhࠠ mế đang ăn trưa. Hạt bắp cuối cng trong nh đ頣 vt sạch. Mế Ngới lột mấy li chuối non chuẩn bị cho buổi chiều. Tr鵪n bếp c mớ bắp trả cng mế đi trỉa bắp cho nh㴠 bn, nhưng chưa dm ăn, để dự trữ. Mế Ngới đꡣ được lm cho ngi nhഠ thuộc Chương trnh 134 nhưng vẫn khng ở. Mế bảo: “Nh촠 người Kinh lm ở khng được. Nắng thബ nng, mưa đau tai, ma con nước lớn về th㹬 lại lạnh! M ci nhࡠ đ khng giống nh㴠 của mnh, khng d촡m ở đu!”. Cả lng c⠳ được 4 ngi nh Chương tr䠬nh 134 nhưng lng dng để cột b๲ hoặc bỏ trống hoc. Chng tẴi tm đến nh bố Kring Th젴i, Trưởng thn Petakpot. Bố Kring Thi cho hay: “Cả l䴠ng hết gạo ăn lu rồi, chỉ mnh nh⬠ Thi l c䠲n c gạo ăn thi”. Th㴬 ra nh no c࠳ gạo cũng đem đổi rượu uống cả. Cn nh bố Th⠴i lại nấu rượu để dn lng đem gạo tới đổi, sau đ⠳ bố Thi lại dng gạo đ乳 để nấu rượu. Cũng ch-nh v chuyện “đn b젠 đi rẫy, đn ng ở nhഠ uống rượu” đ khiến ci l㡠ng nhỏ b heo ht v麠 tch biệt ny đᠣ ngho cng th蠪m ngho kh. Sự ngh賨o đi ở đy cứ thế bao bọc, phủ tr㢹m ln những con người như khng c괲n lối thot. Từ ngᠠy lng Petakpot được đưa về định cư tại đy, Đồn biࢪn phng 661 tch cực c⭹ng dn lng đi rẫy, vận động đ⠠n ng ln nương, kh䪡m chữa bệnh cho người dn... Nhưng c lẽ để gi⳺p dn lng ổn định cuộc sống hiện nay, để thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy, cần phải qua một thời gian d⠠i mới mong c hiệu quả. Chng t㺴i rời lng trong một buổi sng lạnh mࡹ sương trn độ cao hơn một nghn mꬩt của vng bin giới, chặng đường về cũng đầy ch骴ng gai như thế. Những kh khăn của lng nhiều kh㠴ng như ốc đảo giữa đại ngn ny mong sẽ kh࠴ng cn nữa. Chắc rằng đến một no đ⠳ gần đy thi, cuộc sống của lⴠng sẽ đổi khc, nhận thức được nng cao lᢪn, chất lượng cuộc sống sẽ được cải thiện hơn để lng Petakpot nhỏ b được hੲa nhập với sự thay đổi của cuộc sống mới. Kỳ 2: Nỗi buồn “ngủ dung” B䠙I HỮU CƯỜNG Nguồn tin:doanhnhansaigon
0 Rating 430 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 23, 2012
T4ng Phi Phật Gio -ᡠThiền Tng Việt Nam Viết bởi Huyền Ch䠢u Lời dẫn: Như chng ta biết trong qu khứ trꡪn di đất Việt Nam thn y㢪u ny c sự tồn tại của hai Vương quốc Champa thuộc miền Trung vೠ Vương quốc Ph Nam thuộc miền Nam ngy nay. Hiện tại tuy n頳 đ bị st nhập v㡠o nước Việt Nam rồi, nhưng chng ta khng thể phủ nhận sự ảnh hưởng của hai nền văn h괳a ấy trong qu khứ cũng như hiện tại đối với tổng thể văn ha d᳢n tộc. Nhất l văn ha tộc người Champa cೳ ảnh hưởng rất lớn, bởi qu trnh tồn tại vᬠ sự định hnh dng t첢m thức văn ha của n c㳳 bề dy đng kể trong lịch sử. V࡬ muốn thảo thm vi n꠩t vẽ cho bứt tranh văn ha Việt Nam cn bỏ ngỏ, n㲪n người viết mạo muội đặt vấn đề cho đề ti ny. Trong thực tế, v࠹ng địa l Việt Nam nằm trn đường giao lưu giữa hai nền văn h�a vĩ đại Ấn Độ v Trung Hoa, cho nn vઠo những nin kỷ đầu cng nguy괪n, nền văn ha Phật gio xuất ph㡡t từ Ấn Độ đi theo hai đường: bằng đường biển th mang mu sắc văn h젳a Phật gio nguyn thỉ Ấn Độ truyền v᪠o trực tiếp vương quốc Champa v theo con đường Tơ Lụa vo Trung Hoa, mang mࠠu sắc văn ha Phật gio Trung Hoa rồi truyền sang Champa. Sự giao lưu ấy được k㡩o di đến hng chục thế kỷ sau nࠠy. Như thế đủ biết tộc người Champa từng chịu ảnh hưởng văn ha Phật gio rất s㡢u sắc. Tuy nhin, do tnh hủy diệt của chiến tranh qua cꭡc triều đại nn tư liệu của đề ti nꠠy cn rất t. Cho n⭪n, lịch sử nghin cứu vấn đề ny của cꠡc học giả cn bỏ ngỏ rất nhiều. V đ⬢y l vấn đề lớn trong khoa học, người viết khng đủ khả năng xഢy dựng lại diện mạo của n, nn chỉ cố gắng ph㪡t họa vi nt m੠ thi. Vi n䠩t ở đy chnh l⭠ việc trả lời cho cu hỏi: Diện mạo của dng thiền Thảo Đường trⲪn nền văn ha tộc người Champa l g㠬? Chng ti nghĩ rằng đề t괠i ny sẽ gp th೪m một giọt nước vo tri thức đại dương mnh m઴ng của người đọc trong qu trnh tᬬm hiểu, phn tch, ph⭡t thảo bức tranh văn ha tộc người Champa trong tổng thể văn ha Việt Nam. Đặc biệt, việc nghi㳪n cứu gi trị của một nền văn ha bị bỏ ngỏ rất nhiều trong hệ thống văn hᳳa th việc tm hiểu tộc người Champa ch쬭nh l điều cần yếu, c ೽ nghĩa cấp thiết, gp phần lm r㠵 hơn bản sắc văn ha Phật gio Việt Nam để ch㡺ng ta c phương php bảo tồn, ph㡡t huy gi trị của n trong c᳴ng cuộc xy dựng nền văn ha Việt Nam ngⳠy nay. Để lm được điều ny, trước tiࠪn chng ta khng thể kh괴ng tm hiểu về l thuyết văn h콳a tộc người. I/ L THUYẾT VĂN HݓA TỘC NGƯỜI 1 - Khi niệm văn ha: Thuật ngữ văn hᳳa c nguồn gốc từ chữ Hn của Trung Quốc. Văn: c㡳 nghĩa l văn tự, l vẻ đẹp bࠪn ngoi, l đạo đức, lễ nhạc do giࠡo ha m c㠳[1]; l người c học vấn, văn vẻ, lời văn, lễ ph೩p, dng vẻ bn ngo᪠i[2]. Ha: c nghĩa l㳠 thay đổi một cch tự nhin, trời đất sinh th᪠nh vạn vật, dạy dỗ sửa đổi phong tục như: Gio ha, dạy bảo. Như vậy, thuật ngữ “văn hᳳa” hiểu theo nghĩa hẹp th đ l쳠 những gi trị biểu hiện của con người, sự biến đổi v phᠡt triển của n ph hợp theo quy luật tự nhi㹪n v x hội. Hiểu theo nghĩa rộng th࣬ văn ha l những gi㠡 trị do con người tạo ra trong suốt qu trnh tồn tại vᬠ pht triển; trong mối quan hệ, ứng xử giữa con người với tự nhin v᪠ x hội. Trn gi㪡 trị ấy, n biến đổi v ph㠡t triển theo thời gian. Ngoi ra, thuật ngữ “văn ha” như tiếng Anh: culture, Phೡp: từ culture, Đức: kultura đều c nguồn gốc từ chữ La tinh l culturacos: nghĩa l㠠 trồng trọt, chăm bn, luyện tập,… Như vậy văn ha ở đ㳢y nếu hiểu theo nghĩa hẹp (Culture Agri) c nghĩa l trồng trọt ngo㠠i đồng, l chăm sc. Cೲn hiểu theo nghĩa rộng (Culture Amini) l gio dục bồi dưỡng về tinh thần, nhࡢn cch; l sự truyền đạt kinh nghiệm, tinh hoa từ thế hệ nᠠy sang thế hệ khc. Mn học về Văn hᴳa thực sự được con người xem l một lĩnh vực khoa học bắt đầu khoảng thế kỷ XIX trong cuốn “Văn ha nguy೪n thủy” [3] của E.D.Tylor. ng định nghĩa văn hԳa như sau: “Văn ha hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng nhất của dn tộc học, c㢳 nghĩa l tổng thể phức hợp, bao gồm tri thức, tn ngưỡng, nghệ thuật, đạo dức, phୡp luật, phong tục v c những năng lực thೳi quen m con người đạt được trong x hội”. Đ࣢y l một trong những định nghĩa được xem l khu࠴n mẫu của văn ha. Ni đơn giản hơn th㳬 văn ha chnh l㭠 sự ứng xử hay, đẹp của con người với mi trường tự nhin v䪠 x hội. Trn cơ sở đ㪳, văn ha được phn loại th㢠nh hai lĩnh vực “văn ha vật chất” v “văn h㠳a tinh thần” hay văn ha vật thể v văn h㠳a phi vật thể. -Văn h3a vật chấtl những g con người sng tạo ra trong qu졡 trnh sinh tồn v ph젡t triển nhằm phục vụ cho cuộc sống của chnh họ m ta c� thể thấy bằng mắt, sờ bằng tay; c mu sắc, k㠭ch thước… phục vụ nhu cầu ăn, mặt, ở, đi lại… của con người. Do vậy m n cೲn c tn kh㪡c lvăn h࠳a vật thể. -Văn h3a tinh thầnl những sản phẩm tinh thần c gi trị được lưu lại bằng chữ viết, tr㡭 nhớ, truyền nghề, truyền miệng… kể cả những sản phẩm lin quan đến tinh thần như ch꽭, thi độ, tnh cảm, hoạt động thuộc về đời sống tᬢm linh… Như vậy, văn ha tinh thần l những sản phẩm do con người tạo ra để phục vụ cho đời sống tinh thần, t㠢m linh của họ. Từ một định nghĩa khc, chng ta cẳ thể hiểu văn ha như sau: “Văn ha l㳠 tổng thể sống động cc hoạt động sng tạo trong quᡡ khứ v hiện tại. Qua cc thế kỷ, hoạt động sࡡng tạo ấy đ hnh th㬠nh nn một hệ thống cc giꡡ trị, cc truyền thống v cᠡc thị hiếu – những yếu tố x!c định đặc tnh ring của từng d�n tộc”[4]. 2 - L thuyết tộc người: Theo cổ ngữ Latinh, thuật ngữ “tộc người” gọi l Ethnos (đ�m đng người). Ở Việt Nam chng ta v亠o giai đoạn trước năm 1975, cc nh nghiᠪn cứu thường sử dụng thuật ngữ: sắc tộc, dn tộc v cho đến năm 1979 th⠬ thống nhất dng thuật ngữ “tộc người” m theo nghĩa hẹp th頬 chỉ cho một cộng đồng người cụ thể, cn theo nghĩa rộng th chỉ cho cư d⬢n của một quốc gia. Như vậy, tộc người tức l một khối cộng đồng người ổn định được hnh thଠnh trong qu trnh lịch sử lᬢu di, c chung một lೣnh thổ, ngn ngữ, sinh hoạt kinh tế, văn ha v䳠 thức tự gic tộc người. Ngo�i ra, chng ta cũng cần khu biệt một số thuật ngữ c li곪n quan như: Quốc gia, tức l một lnh thổ được thế giới cࣴng nhận, c tổ chức hiến php ch㡭nh trị v php luật rࡵ rng; quốc tịch, tức l hࠬnh thức hợp php tư cch được tổ chức chᡭnh trị cng nhận l c䠴ng dn nước đ, được phⳡp luật nước đ bảo hộ; lnh thổ tộc người l㣠 qui ước một cch tự nhin giữa c᪡c dn tộc, l khu vực ph⠢n bổ của một tộc người mang tnh chất qui định ranh giới giữa cc tộc người, kh�ng thể hiện bằng văn bản chnh trị; lnh thổ quốc gia, l�nh thổ bin giới được qui định bằng một văn bản cụ thể, l sản phẩm của quꠡ trnh đấu tranh gắn liền với kết cấu x hội, với tổ chức nh죠 nước, khng mang tnh chất quan hệ th䭢n thuộc của cư dn. 3 - L thuyết về văn h⽳a tộc người: Trn cơ sở nghin cứu về văn hꪳa v l thuyết tộc người, chེng ta thấy văn ha tộc người l tổng thể những th㠠nh tựu văn ha do chnh cộng đồng người đ㭳 sng tạo nn v᪠ kể cả những thnh tựu văn ha do cộng đồng đೳ tiếp biến vay mượn từ cộng đồng khc trong qu trᡬnh hnh thnh v젠 pht triển của mnh. Quᬡ trnh hnh th쬠nh ấy phản nh qui luật chung của lịch sử nhn loại. Quᢡ trnh tc động của c졡c thnh tựu văn ha kh೴ng giống nhau đ lm cho mỗi tộc người c㠳 sự khc nhau về mặt văn ha. Vᳬ vậy, văn ha tộc người c thể hiểu l㳠 bao gồm tổng thể cc yếu tố văn ha vật chất, tinh thần v᳠ x hội; gip ch㺺ng ta phn biệt được tộc người ny với tộc người kh⠡c. Thế nn, chnh văn hꭳa tộc người l nền tảng hnh thଠnh thức tộc người, tạo nn bản sắc văn h�a ring của tộc người đ. Trong qu곡 trnh pht triển bản sắc văn h졳a, chng ta thấy n c곳 khuynh hướng hnh thnh cộng đồng tộc người mang t젭nh địa phương, nhưng nhn chung th t쬭nh thống nhất vẫn được bảo lưu. Tuy vậy, một tộc người do sinh sống lu ngy xa rời tộc người gốc n⠪n c khi cũng dẫn đến hiện tượng mất gốc văn ha hay bị ph㳢n ly văn ha. Sự phn ly văn h㢳a lun c mặt sự giao lưu tiếp biến văn h䳳a. Qu trnh đᬳ lun diễn ra theo cc chiều hướng kh䡡c nhau, ấy chnh l h�nh thức đồng ha văn ha, tiếp biến văn h㳳a bằng con đường cưỡng bức hay ha bnh. Như vậy, nguy⬪n nhn của sự hnh th⬠nh văn ha tộc người chnh l㭠 sự giao lưu văn ha. Nếu n h㳠nh hoạt trn bnh diện rộng lớn thꬬ n tạo ra thnh những đặc trưng cho văn h㠳a ton vng m๠ chng ta thường gọi l “v꠹ng văn ha”. Với tộc người Champa cũng thế, họ c một nền văn h㳳a đặc th m nhất l頠 nền văn ha tinh thần cho đến ngy nay vẫn c㠲n được bảo lưu kh vững mạnh. II/ KHI QU၁T VỀ VĂN HA TINH THẦN CỦA TỘC NGƯỜI CHAMPA 1 - VӠi nt về lịch sử cc triều đại của tộc người Champa: Theo những t顠i liệu c dấu vết thời gian r r㵠ng từ sử liệu cổ Trung Hoa v cc bia kࡽ ghi nhận th vương quốc cổ Chim Th쪠nh chnh thức xuất hiện vo khoảng thế kỷ thứ II, tức năm 192 khi quốc gia L�m Ấp ra đời. Thật ra vương quốc ny trước đ cೳ rất nhiều tn: Hồ Tn Tinh, Tượng L괢m... Sau ny được đồng ha với cೡc tn Lm Ấp, Hoꢠn Vương Quốc, Chim Thnh (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối c꠹ng l trấn Thuận Thnh (Pradara). Về v࠹ng đất Tượng Lm, cc sử liệu Trung Hoa x⡡c quyết đ l phần đất ở v㠹ng cực Nam quận Nhật Nam xưa kia, trực thuộc quyền quản trị hnh chnh của Giao Chࡢu thời Bắc thuộc; ngy nay l cࠡc tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngi, Bnh Định (c㬳 ti liệu ghi đến cửa Đại Lnh, Phࣺ Yn). Những nh khảo cổ phương Tꠢy cho rằng Tượng Lm c thể lⳠ phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đo Ngang đến đo Hải V訢n, nằm trong lnh thổ cc tỉnh Nghệ An, H㡠 Tĩnh, Quảng Bnh, Quảng Trị v Thừa Thi젪n, gọi chung l Thanh Nghệ Tĩnh v Bࠬnh Trị Thin. Một số học giả người Chăm xc nhận lꡣnh thổ Tượng Lm bao gồm: Indrapura (Bnh Trị Thi⬪n), Amavarati (Quảng Nam) v Vijaya (Nghĩa Bnh), sau nଠy gọi chung l Bắc Chim Thઠnh. Cc triều vương Lm Ấp mᢠ người sng lập Khu Lin l᪪n ngi năm 192, trị v trong nhiều năm, nhưng kh䬴ng biết mất năm no v ai lࠠ người kế vị. Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho biết trong khoảng thập nin 220-230, con chu Khu Liꡪn c gởi phi bộ đến thống đốc Quang Đ㡴ng v cc thࡡi th Giao Chu (Lꢣ Đại v Lục Dận) triều cống v duy trࠬ quan hệ ngoại giao. Chng ta c thể t곳m tắt thứ tự sự kiện cc triều đại như sau: 1. Triều vương thứ nhất (192-336): Khai sinh vương quốc. 2. Triều vương thứ hai (337-420): Mở rộng vương quốc. 3. Triều vương thứ ba (420-530): Tranh chấp với Trung Hoa. 4. Triều vương thứ tư (529-757): Cung cố v ổn định lᠣnh thổ. 5. Triều vương thứ năm (758-?): Vương triều Panduranga hay Hon Vương Quốc. 6. Triều vương thứ su (859-991): Vương triều Indrapura hay Campapura (Chiࡪm Thnh). 7. Triều vương thứ bảy (991-1044): Vương triều Vijaya. 8. Triều vương thứ tm (1044-1074): Loạn sứ quࡢn. 9. Triều vương thứ chn (1074-1139): Tranh chấp với Đại Việt. 10. Triều vương thứ mười (1139-1145): Chịu sự khống chế của người Khmer. 11. Triều vương thứ mười một (1145-1318): Xung đột với Angkor. Qua cc triều đại ấy, ch�ng ta thấy nổi bật ln một sự kiện l: sau 5 năm thương lượng gay go giữa hai triều đ꠬nh về của hồi mn, năm 1306 vua Trần Anh Tn chấp thuận gả c䴴ng cha Huyền Trn cho Chế Mꢢn, b lại Chim Th骠nh (Indrapura) cắt dng lnh thổ. Đ⣢y chnh l tiến tr�nh tu hẹp lnh thổ Champa một cch kh㡴ng thể cứu vng. Thế rồi qua thời gian thăng trầm của nhiều biến cố lịch sử m theo nhiều sử gia v㠠 học giả phương Ty th biến cố 1471 đ⬡nh dấu sự giải thể vương quốc Chim Thnh vꠠ khng một bin khảo lịch sử hay ni䪪n gim triều đnh Chiᬪm Thnh no được phổ biến từ sau ngࠠy đ. Tuy nhin trong thực tế th㪬 sinh hoạt triều chnh của cc d�ng vương tn Chim Th䪠nh vẫn tiếp tục, với một qui m tuy nhỏ hẹp nhưng khng k䴩m phần nghim tc. Tuy vậy, t꺬m hiểu lịch sử người Chăm trong giai đoạn ny rất l kh࠳ khăn v thiếu chứng liệu, ở đy người viết đ좣 dựa vo cc nguồn sử liệu Việt Nam, đối chiếu với nhiều nguồn sử liệu khࡡc của nước ngoi để phc họa vࡠi nt như thế m th頴i. Trn cơ sở hng loạt cꠡc biến cố lịch sử v cho đến sự vong quốc như thế nhưng nền văn ha tinh thần của tộc người Champa lu೴n được giữ vững một bản sắc ring, điều đ l고 một hiện tượng hết sức hấp dẫn cc nh nghiᠪn cứu. 2 - Văn ha tinh thần: 2.1. Đi n㴩t về văn tự: Văn tự l một trong những nhn tố căn bản để chࢺng ta xc lập nt đặc th᩹ của một nền văn ha. Tuy nhin, chưa hẳn văn tự của một tộc người l㪠 do tộc người đ sng lập, m㡠 c thể l do sự vay mượn yếu tố văn tự b㠪n ngoi rồi kết hợp yếu tố truyền thống để cấu thnh hệ thống văn tự. Về ng࠴n ngữ, người Champa được nhiều nh nhn chủng học xếp vࢠo dng Nam Đảo (Malayo Polynsien), nghĩa l⩠ c nguồn gốc xuất pht từ c㡡c hải đảo pha Nam vng biển Đ�ng Nam . Điều n`y c thể đng khi đối chiếu văn h㺳a của người Champa với văn ha của cc d㡢n tộc cng hệ ngn ngữ tại Đ鴴ng Nam v`o thời tạo dựng. Nhưng qua những khm ph khảo cổ gần đᡢy, văn minh v văn ha của người Champa tại Việt Nam kh೴ng hon ton do ngoại nhập mࠠ c sự pha trộn yếu tố văn minh v văn h㠳a của những nhm cư dn bản địa c㢳 mặt từ trước. Nếu đứng trn bnh diện lịch sử hꬬnh thnh ngn ngữ thബ chng ta thấy văn tự của tộc người Champa chưa hẳn c một ng곴n ngữ biệt lập. V sao? V ch쬺ng ta biết lc đầu thổ dn Champa bản địa đꢣ sử dụng ngn ngữ cổ M Lai, rồi l䣠 thổ ngữ Nam Đảo; về sau lại c sự pha trộn ngữ m thuộc nh㢳m Mn Khmer. Tiếp sau đ l䳠 những đợt di dn của cc tộc người thuộc nh⡳m hải đảo như: Java, Sumatra; cc tộc người phương Bắc như: Văn Lang, Hn triều,… vᡠ những đợt du nhập văn minh Ấn Độ, Ả Rập,… đ lm cho văn tự tộc người Champa biến đổi s㠢u sắc. Tuy nhin, sự biến đổi ấy chng ta thấy yếu tố Nam Đảo vẫn c꺲n được bảo lưu mạnh nhất; c sức ảnh hưởng, chi phối đậm nt đến lối ph㩡t m chnh của tộc người Champa. Ở miền Bắc vương quốc Champa cho đến cuối năm 192, ch⭺ng ta thấy do nhu cầu trao đổi thư tn ngoại giao chnh trị v� giao lưu văn ha với cc nước chịu ảnh hưởng văn h㡳a dưới triều Hn, điều ny diễn ra sᠴi nổi tại Giao Chỉ, nn văn tự Champa c d곹ng chữ Hn. Nhưng đến thế kỷ thứ III, chng ta lại thấy cạc đợt triều cống được cử sang Giao Chỉ của vương quốc Lm Ấp, những bia k t⽬m được đều khắc bằng chữ Sanskrit, ngay cả tn nước l Campapura cũng mang dꠡng dấp địa danh Ấn Độ,… Điều ny cũng c nghĩa lೠ văn tự Ấn Độ đi theo cc nh truyền giᠡo đ được phổ biến rộng ri tại L㣢m Ấp v trở thnh quốc ngữ của Champa. Tuy vậy, tộc người Champa vốn dĩ đࠣ c một nền văn ha bản địa vững chắc, n㳪n cho d chịu cc đợt du nhập văn h顳a một cch o ạt, nhưng cũng khᠴng bị đồng ha. Đến khi vương quốc Champa tan r v㣠o thế kỷ XV, một biểu hiện cụ thể chng ta thấy tộc người Chăm đ s꣡ng lập ngn ngữ “Chăm mới” cn được 䲡p dụng cho đến ngy nay. Văn tự “Chăm mới” c nhiều yếu tố tr೹ng hợp v mang dng dấp của ngữ hệ Nam Đảo, nhất lࡠ với ngn ngữ Malaysia v Indonesia. Khi ch䠺ng ta nghin cứu qu trꡬnh hnh thnh v젠 pht triển của ngn ngữ Champa thᴬ khng thể khng nghi䴪n cứu ảnh hưởng của cc tn giᴡo – nhn tố chnh c⭳ ảnh hưởng đến hệ thống ngn ngữ của xứ sở ny. 2.2. Giới thiệu ba t䠴n gio lớn: a. B-la-mᠴn gio: B-la-mᠴn gio (Brahmanism) hnh thᬠnh v pht triển cࡳ bề dy trn 3000 năm lịch sử Ấn Độ. Giડo l B-la-m�n được thiết lập trn nguynꪠ l của kinh Veda. Duy chỉ c bộ Upanishads được dịch giả Thạch Trung Giả giới thiệu với t�n o Nghĩa Thư được hlnh thnh sau nhất, đ nࣳi ln sự thm sꢢu v cng của t乴n gio ny. Tuy nhiᠪn, trn mảnh đất thuộc vương quốc Champa, chng ta thấy đạo B꺠-la-mn c nhiều sự biến đổi, pha trộn kh䳡c với B-la-mn giഡo nguyn thủy. Về hnh thức kiến lập thế giới nhꬢn sinh, B-la-mn giഡo quy định r trong Luật Manu. Luật ny ph堢n chia x hội thnh bốn đẳng cấp m㠠 đứng đầu l giai cấp tu sĩ B-la-m࠴n, được cho l sinh ra từ miệng của Phạm Thin (Brahma), được hઠnh lễ tế tự, giảng dạy chn l, luật lệ. Tầng lớp n⽠y đa số l người Ấn Độ. Thứ hai l giai cấp Sࠡt-đế-lợi (Ksatriya), được sinh ra từ cnh tay của Phạm Thin, thuộc tầng lớp vua quan binh sĩ cai trị x᪣ hội m đa số l người Champa gốc Nam Đảo nắm giữ. Thứ ba lࠠ giai cấp Phệ-x (Vaisya), được sinh ra từ đầu gối Phạm Thin, thuộc tầng lớp thương gia v᪠ ph nng; m괠 đa số l người Champa giu c࠳ v người Thượng gốc Nam Đảo nắm giữ. Thứ tư l giai cấp Thủ-đࠠ-la (Sudra), được sinh ra từ hai bn chn của Phạm Thiࢪn, thuộc tầng lớp thợ thủ cng v bần n䠴ng lm cng cụ để cഡc giai cấp trn sai khiến; tầng lớp ny thuộc cꠡc sắc dn miền ni v⺠ t binh. Người Champa theo đạo B-la-m頴n cn gọi l Chăm Jăt, Chăm ch⠭nh thống. B-la-mn giഡo cho đến thế kỷ III được xem l tn giഡo chnh[5] của tộc người Champa, nhưng chỉ c nới ra trong tầng lớp vương tộc để h�nh lễ m thi. Đạo nഠy pht triển mạnh tại miền Nam Champa v gần như giữ vai trᠲ độc tn dưới triều vua Bhadravarman I (thế kỷ IV).V cho đến thế kỷ X, đạo B䠠-la-mn vẫn cn giữ vai tr䲲 quan trọng trong đời sống x hội, tinh thần tộc người Champa. Tuy nhin, do sự giao lưu văn h㪳a với cc nước phương Bắc, nhất l Phật giᠡo Đại thừa v phương Nam thuộc Phật gio Tiểu thừa, nࡪn x hội Champa khng chịu sự định dạng khắc nghiệt như luật Menu qui định v㴠 dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ X) nh vua đ quy y Phật cࣳ php danh l Paramabuddhaloka, thᠬ B-la-mn giഡo v Phật gio cࡹng đồng hnh pht triển. Cho đến thế kỷ XIX[6], chࡺng ta thấy giai cấp Thủ-đ-l c࠲n tồn tại ở Champa. V ngy nay, t࠭nh chất B-la-mn giഡo cn được giữ gn r⬵ nt trong cc dịp tế lễ của d顢n Chamap theo B-la-mn được cử hഠnh do thầy Paseh, Tapah; Champa theo đạo Bani th do thầy Char, Po Adhya, Po Bac hnh lễ, nhưng so với nguy젪n thủy th n c쳳 sự cải biến rất nhiều. b. Phật gio: Ngy nay, dᠲng tư tưởng Phật gio gần như vắng bng trong sinh hoạt t᳭n ngưỡng của tộc người Champa. Nhưng thực tế trong lịch sử th Phật gio c졳 một vai tr rất lớn trong đời sống tộc người ny. Tuy nhi⠪n, để vẽ nn những gam mu hết sức tổng quꠡt cho việc định hnh Phật gio nước n졠y th ngay cả những nh sử học cũng c젳 rất nhiều mối quan tm. Để trả lời cho cu hỏi: Phật gi⢡o được du nhập vo Champa như thế nࠠo th thật khng phải l촠 vấn đề nhỏ. Chng ta c thể kinh qua c곡c thư tịch cổ Trung Hoa miu tả về việc mua bn với người Champa vꡠo những thế kỷ VII đ ghi lại rằng: cộng đồng người Champa vo㠠 thời kỳ ny rất knh mến Phật Th୭ch Ca[7]. Đặc biệt, lc qun nhꢠ Tuỳ đnh chiếm Champa đ thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong đᣳ nổi bật nhất l 1.350 pho kinh Phật. Đặc biệt, vo thế kỷ thứ I, Phật giࠡo l tn giഡo chủ đạo xung quanh khu vực trung tm của xứ Kauthara[8]. Nh nghi⠪n cứu L. Finot đ c những khảo cứu bia V㳵 Cạnh – Nha Trang cho biết thm:“Nhꠠ vua dựng bia để thể hiện thức về sự v thường của cuộc đời, về l�ng trắc ẩn đối với chng sanh; về sự hy sinh của cải mnh cho lợi ꬭch chung…”Căn cứ v o những sử liệu vừa nu, chng ta c꺳 thể cho rằng Phật gio được truyền vo Champa vᠠo những nin kỷ thứ Isau C꠴ng nguyn. Xt bối cảnh lịch sử Ấn Độ về khꩭa cạnh tn gio cho đến l䡺c đức Phật nhập diệt, trải qua một trăm năm biến chuyển trong cộng đồng Tăng lữ th uy đứccủa đức Phật vẫn c젲n đang bao trm cc vương quốc ở đ顢y, nn tinh thần qui hướng Phật gio một cꡡch tuyệt đối vẫn cn su đậm. Từ đ⢳ tư tưởng của Arya, Samiti, Nikaya v Sarvativada theo đ đ࠳ pht triển mạnh mẽ. V tất nhiᠪn những thương bun l những Phật tử v䠠 những vị Sa-mn theo gt viễn du giao lưu văn h䳳a c những bước thnh tựu khả quan m㠠 trong đ hải cảng Champa l địa điểm thuyền cập bến nhiều nhất. Khi thuyền cập bến th㠬 những vị chntu Phật gi⠡o tm về nơi vắng vẻ để tu tập – đồng thời hoằng ha l쳠m nghĩa vụ khai ngộ cho chng sanh. Do vậy, Phật gio bước đầu đꡣ đặt nền mng nơi đy. Qua d㢲ng thời gian, tuy Phật gio Tiểu thừa, nhất l phᠡi Arya Sammitinikaya được du nhập cng lc với B麠-la-mn gio, nhưng kh䡴ng pht triển mạnh được v chủ trương xuất thế giải thoᬡt tự thn, chứ t ph⭡t huy vai tr nhập thế hoằng dương chnh ph⡡p. Chỉ c Phật gio Đại thừa thuộc ph㡡i Sarva Stivadanikaya ở miền Bắc pht triển mạnh vo thế kỷ thứ V đến thứ IX, nhất lᠠ vng chu thổ quận Cửu Ch颢n, Nhật; đặc biệt l cc dࡲng thiền pht xuất từ Trung Hoa, Đại Việt. c. Hồi gio: Hồi giᡡo được người Ả Rập truyền b vo Đᠴng Nam từ thế kỷ thứ VII, mạnh nhất l` từ cc quần đảo Sumatra, Java, bn đảo Mᡣ Lai v cc hải đảo nhỏ ph࡭a Đng Nam Philippines. Người Java tiếp nhận đạo Hồi từ cc thương nh䡢n Ả Rập trong cuộc trốn chạy những cuộc thnh chiến đẫm mu đang xảy ra quanh v᡹ng biển Địa Trung Hải v Trung Đng vഠo thế kỷ thứ VII đến thế kỷ thứ IX. Trong cuộc ly tn ấy, nhất l vᠠo đời vua Indravarman III (918-959), tộc người Champa trong mi trường bun b䴡n với cc thuyền nhn Ả Rập đến từ cᢡc hải cảng Basra, Siraf v Oman đ tiếp nhận đạo Hồi, nhưng khࣴng được nồng hậu lắm v ngn ngữ bất đồng. Đạo Hồi được truyền b촡 vo vương quốc Champa thng qua trung gian, nപn Hồi gio Champa c nhiều kh᳡c biệt so với Hồi gio chnh thống. Cuộc truyền b᭡ đng kể nhất l sự kiện tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara tiếp nhận tị nạn một số gia đᠬnh hong tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali trốn chạy chnh sୡch cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java. Những người tị nạn ny đ nh࣢n dịp ấy truyền b gio l᡽ Hồi gio cho cc gia đᡬnh hong gia Champa. Đặc biệt, vua Po Alah (Po Ovlah, Po u Loah hay Po Allah) học đạo ở La Mecque đến 37 năm rồi mới về nước lªn ngi trị v đất nước Champa đến 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Trong kh䬴ng kh ấy, đủ cung cấp cho chng ta th�ng tin về việc du học tn gio của cư d䡢n Champa v đặc biệt, việc xy dựng cࢡc đền thờ Siva v nh thờ Hồi giࠡo tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam), đ lm thay đổi diện mạo t㠴n gio của đất nước ny. Sau đᠳ, do p lực chiến tranh nn một mảng lớn t᪭n đồ theo B-la-mn giഡo tản cư sang Chn Lạp, bị nhm Hồi giⳡo M Lai đồng ha, v㳠 cộng đồng Champa tại đy được gọi chung l Khmer Islam. Nhất l⠠ vng Chu Đốc, người Champa Islam theo đạo Hồi ch颭nh thống, mỗi ngy hướng về La Mecque cầu kinh 5 lần. Cn tại miền Trung, cಡc thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani (theo Hồi gio cải biến) v tᠭn đồ chỉ giữ đạo vo ma chay (ramadan) m๠ thi. Hiện nay, Hồi gio Champa rất thịnh h䡠nh tại cc tỉnh Ninh Thuận, Bnh Thuận, nhưng cũng bị biến cải dần theo phong tục vᬠ lối sống của người địa phương, mất dần tnh chnh thống của đạo Hồi Ả Rập. Người Chăm tại Ninh Thuận, B�nh Thuận theo B-la-mn giഡo c đến 60% v 40% th㠬 theo đạo Bani. 2.3. Về lễ nghi, lễ hội: C thể ni, lễ nghi-lễ hội của tộc người Champa được biểu hiện đầy đủ h㳠ng năm trong 10 ngy Lễ hội Kat diễn ra vઠo ngy mồng 01 thng 07 Lịch Champa (khoảng đầu thࡡng 10 Dương lịch). Ngy nay, lễ hội ny của tộc người Champa được tổ chức trࠪn bnh diện khng gian rộng lớn, nhằm tưởng nhớ c촡c vị Nam thần như P Klong Garai, P R䴴me… v trời đất, ng bഠ tổ tin đ ph꣹ hộ cho họ. Lễ hội Kat l biểu hiện một phần tư duy phồn thực đối lập với nhꠢn tố dương th c nh쳢n tố m - Lễ Chabur - Lễ cng c⺡c vị Nữ thần vo thng 9 lịch Chăm. Sự liࡪn kết giữa Nam thần - Nữ thần, giữa Trời - Đất, Cha - Mẹ, Đực - Ci, Vng cao - Vṹng thấp… l nt đặc trưng phổ qu੡t trong nền văn ha Champa được thể hiện qua nghi lễ hội h, sắc phục cho đến nhiều loại nghệ thuật kh㨡c. Cho nn, lễ hội Kat chứa đựng nội dung vꪠ nghĩa ấy. Lễ nghi Kat được tổ chức từ Bi m�n, Kalan (đền thp) đến Paley (lng), đến Nga wᠴm (gia đnh), tạo thnh một d젲ng chảy của lễ hội phong ph, đa dạng. Lễ hội Kat tại đền thꪡp được điều hnh bởi Ban tế lễ gồm: thầy cả sư (P Dhia) trụ trബ đền thp lm chủ lễ, thầy kᠩo đn Kanhi (n Kadhar) hԡt thnh ca, b Bᠳng (Muk Payu) dng lễ vật l⢪n cc vị thần, ng Từ ( Camưnay) chủ trᴬ lễ tắm tượng, v cng một số tu sĩ B๠-la-mn (Paseh) phụ lễ. Lễ vật dng c䢺ng Kat tại đền thp bao gồm: 01 con dꡪ, 03 con g lm lễ tẩy uế đất thࠡp, 05 mm cơm với muối vừng (lithey thap), 03 cổ bnh gạo v⡠ hoa quả. Ngoi ra cn cಳ rượu, trứng, trầu cau, xi ch… Sau khi lễ vật đ䨣 chuẩn bị xong, ban tế lễ đ sẵn sng th㠬 lễ hội bắt đầu tiến hnh theo cc bước sau: Lễ rước y phục (Rokaw khan pࡴ yang):Tất cả c!c y phục của vua cha thờ ở đền thp Champa đều do người Raglai cất giữ. Do vậy, khi đến ngꡠy lễ Kat th người Champa phải lꬠm lễ đn rước người Raglai chuyển y phục về lại cc đền th㡡p. Đy l nghi lễ mở đầu cho ng⠠y hội diễn ra rất trọng thể. Lễ mở cửa thp (Pơh băng yang):Sau khi Lễ rước y phục kết thᠺc th cc tu sĩ xin ph졩p thần Siva lm lễ mở cửa thp dưới sự điều hࡠnh của thầy Cả sư (P Dhia) v 䠴ng Từ giữ thp (Camưney). Lễ vật cng xin mở cửa thạp gồm c: rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần c pha trầm hương v㳠 cc hương vị khc. Trong khᡴng kh trang nghim, thầy c�ng xướng ln cc cꡢu kinh hnh lễ: Chng con lấy nước từ sິng lớn Chng con đội về thp c꡺ng thần Thần l thần của trời đất Chng con lấy những tấm khăn dệt đẹp nhất Lau mồ hິi trn mnh, tay chꬢn của thần. Sau khi đọc xong lời cầu nguyện ng Camưnay cầm lọ nước tắm thần tạt ln tượng thần Siva. Tiếp đ䪳, thầy ko đn Kanhi v頠 b Bng tiến đến trước cửa thೡp chnh ngồi bn tượng thần Nadin l�m lễ xin mở cửa thp: Hy xᣴng hương trầm bằng lửa thing Hương trầm của người trần dng lễ Hương trầm bay tỏa ngꢡt khng gian Chng con xin mở cửa th亡p cng thần. Khi đoạn ht lễ kết th꡺c, th Đon lễ tiến v젠o thp, b Bᠳng v ng Từ bắt đầu mở cửa thഡp trong khi hương trầm tỏa ra nghi ngt. Lễ mở cửa th㺡p kết thc. Lễ tắm tượng thần (Mưney yang):Lễ tắm tượng thần được diễn ra b꠪n trong thp. Lễ ny gồm cᠳ thầy Cả sư, thầy ko đn Kanhi, b頠 Bng, ng Từ v㴠 một số tn đồ thuần thnh thực hiện. Khi mọi người đ� ngồi vo bn lễ, thࠬ b Bng rೳt rượu dng lễ, thầy ko đ⩠n Kanhi bắt đầu xướng kinh. C đoạn: Chng con xin mở cửa th㺡p tắm thần Chng con mang nước ny từ s꠴ng thing Xin tắm, gội đầu, rửa tay chn cho thần Xin thần phụ hộ độ trꢬ chng con. Cn 겴ng Từ th cầm lọ nước tắm ln pho tượng đ쪡, mọi người bắt tay cng nhau tắm thần. Lc n麠y những tn đồ thuần thnh lấy nước từ tr�n thn tượng bi l⴪n đầu, ln thn thể mꢬnh để cầu sức khỏe, ti lộc, may mắn. Lễ mặc y phục cho tượng thần (Angui khan aw P yang):ഠSau khi lễ tắm thần kết thc th đến nghi lễ mặc ꬡo cho thần. Lễ thức được tiến hnh theo lời xướng thnh ca của thầy Kanhi. Lời thầy xướng lễ đến đࡢu th y phục thần được mặc vo đến đ젳. Đầu tin l lễ mặc vꠡy. Lời thầy xướng lễ như sau: Nghe tiếng thc đổ trn cao Thần P᪴ Klong Garai mặc vy viền hoa về dự lễ Tiếng thc đổ xuống rᡬ ro Thần P Klong Garai mặc ഡo bo về dự lễ Tiếng thc đổ xuống vịnh sࡢu Thần P Klong Garai đội mo v䣠ng về dự lễ. Khi thầy ko đn Kanhi xướng lễ th頬 ng Từ, b B䠳ng mặc vy, o cho tượng thần. Cứ như vậy cho đến kết th᡺c bi ht lࡠ lễ mặc y phục hon thnh. Đại Lễ (mưliࠪng yang):Sau khi lễ mặc y phục ho n tất, lc ny tượng thần đꠣ mang trn mnh bộ long bꬠo lộng lẫy, th cũng l l젺c vật dng cng được b⺠y ra trước bệ thờ. Đại lễ bắt đầu, lc ny cꠡc vị hnh lễ xướng mời cc vị thần về dự lễ. Cࡡc vị thần được mời như: thần P Nưgar (thần Mẹ xứ sở), thần P Klong Garai (vua Champa trị v䴬 năm 1151- 1205), Prme (1627- 1651), P䴴 Par (tướng quan văn)… Mỗi vị thần được mời về dự th b B젳ng dng lễ vật, thầy ko đ⩠n Kanhi xướng bi thnh ca, bࡠ con dự lễ chắp tay cầu thần ph hộ. Lời ht lễ của thầy K顩o đn Kanhi c đoạn như sau: Hೡt về Nữ thần P Nưgar: Thần l Nữ thần xứ sở vĩ đại Thần sinh ra đất nước con người
0 Rating 429 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 5, 2016
Đến nay, những dòng chữ cổ được khắc trên vách đá, ghềnh thác ở thượng nguồn dòng A Vương, sát biên giới Việt - Lào, thuộc xã Lăng, huyện Tây Giang, Quảng Nam (ảnh) vẫn còn là “ẩn ngữ” đối với giới chuyên môn. Minh văn này từng được lính Pháp phát hiện, ghi chép từ năm 1938 và được chính quyền Tây Giang “phát hiện lại” từ 2010. Nhưng rất tiếc, chưa có công trình nghiên cứu, bảo vệ. Di chỉ độc đáo này đang đứng trước nguy cơ biến mất... Ẩn ngữ ở vùng biên “Nương” theo lời giới thiệu đầy vẻ thần bí của ông Bh’riu Liếc - Bí thư Huyện ủy Tây Giang, về những dòng chữ lạ, khắc trên ghềnh đá, vách núi giữa rừng núi Trường Sơn, chúng tôi ngược dòng A Vương để đến làng Achia, xã Lăng, “sờ” vào huyền thoại. Mưa chiều biên giới như trút nước, lũ dòng sông Len (chảy qua xã Lăng), chi lưu nguồn A Vương dâng đột ngột, bùn đất đục ngầu, nên phải chờ đến ngày hôm sau chúng tôi mới đến được. Cây rựa trên tay Bh’riu Clói liên tục chém bụi rậm tìm lối. Người dẫn đường vừa đi, vừa kể: “Tôi nghe ông nội kể lại, quan Pháp ở đồn Samo, sát biên giới với Lào, khi phát hiện những dòng chữ cổ này đã nhờ ông và dân làng chặt cây rừng, làm thang, bè gỗ, trèo lên vách đá, bôi đá vôi lên chữ để chụp lại ảnh. Họ ở lại Achia nhiều ngày, nhưng dân làng không biết tiếng, chỉ làm theo hướng dẫn, kể cả khi giúp họ thức ăn”. Vách đá có chữ cổ, lạ mà ông Bh’riu Clói kể phải bắc thang, giờ chỉ ngang đầu gối, bởi đất đá đã bồi lấp cả trăm năm rồi. Dòng chữ trên ghềnh đã nằm sâu trong lòng suối. Trên vách đá vôi sát bìa rừng giờ chỉ còn thấy được 3 - 5 dòng chữ, mờ nhạt bởi thời gian. Với thực trạng sa bồi đang diễn ra, di chỉ này sẽ mất tích trong vài năm tới. Trưởng phòng VHTTDL huyện Tây Giang - Nguyễn Chí Toàn, cho biết, từ 2010, chính quyền huyện “phát hiện lại” di chỉ này. Từ đó, đã mời nhiều nhà nghiên cứu, bảo tàng, nhà dân tộc học... đến khảo sát, in mẫu chữ nhờ diễn dịch, nhưng đến nay chưa giải mã được. Cũng giống như việc phát hiện trống đồng cổ ở đây, minh văn trên đá ở Achia vẫn còn là mật ngữ của cổ nhân, chưa có lý giải nào.   Cần bảo vệ trước khi quá muộn! Nhà nghiên cứu Nguyễn Thượng Hỷ - nguyên cán bộ Trung tâm Bảo tồn di tích, di sản Quảng Nam, người từng lặn lội đến đây, dùng giấy dó, mực xạ để rập phiên bản cổ ngữ này cho biết: Có 3 bản khắc trên đá tự nhiên, dạng chữ Chăm, nhưng chúng tôi không diễn dịch được nên in phiên bản về để tiếp tục nghiên cứu. Tôi đã gửi đến Bảo tàng Chăm, nhờ chuyên gia về cổ ngữ nước ngoài giúp. Tình cờ phát hiện Tiến sĩ Daoruang Wittayarait (Trường thực hành cao cấp Pháp) đã từng có bài viết về minh văn khắc đá này, đăng trên tờ Lettre de la Société des Amis du Champa Ancien năm 2004. Theo tiến sĩ Wittayarait, ông có tư liệu này từ con gái của J.Le Pichon - một vị quan ba, thanh tra đội quân ở An Nam, từng đồn trú ở hai huyện Hiên và Giằng, Quảng Nam, thời thuộc Pháp, đã chụp ảnh và ghi chép. (J.Le Pichon có rất nhiều ghi chép, hình ảnh nghiên cứu có giá trị về văn hóa Cơtu). Ghi chép của quan ba J.Le Pichon ghi rõ, đã phát hiện minh văn này từ tháng 3 - 4.1938, gần đồn Samo. Ông đã thuê lính bản địa làm giàn giáo, bôi vôi trắng để rõ chữ rồi chụp lại ảnh. Từ tư liệu này, các chuyên gia cổ ngữ đã cho rằng đây là thổ ngữ Môn-Khơme. Họ đã so sánh với các mẫu chữ trên những bia đá cổ từng phát hiện sớm ở vùng Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam và bia Vat Luong Kao (Nam Lào) mà đoán định cổ ngữ xếp vào niên đại thế kỷ thứ VI, thứ VII. Ghi chép của J. Le Pichon, từ năm 1938 ông đã trao đổi với linh mục Cadière, xác nhận đây là ngôn ngữ của người Chăm cổ. Tiến sĩ người Pháp này cũng đã “đọc” được nhiều từ liên quan đến đồ hiến tế như châu báu, ngọc trai, trâu, nghĩa từ thần thánh... Theo chuyên gia về người Cơtu - Nguyễn Tri Hùng (Ban Dân tộc tỉnh Quảng Nam), người Cơtu xưa là một láng giềng thân thiện với người Chăm. Từng có câu chuyện “Con đường muối” mà gần đây các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu về việc giao thương, trao đổi của vùng đồng bằng với miền núi ở miền Trung Việt Nam, Lào, Thái Lan. Nhưng văn khắc này bước đầu chỉ là đoán định, còn là ẩn ngữ phải tiếp tục giải mã. Trước mắt, chính quyền, ngành văn hóa Quảng Nam cần phải có biện pháp bảo vệ để di chỉ văn hóa thuộc dạng hiếm quý này trước nguy cơ có thể biến mất bởi sa bồi, vì sự vô tình xâm hại của người dân. theo laodong.com.vn
0 Rating 429 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 26, 2020
Kadhar là ch?c s?c tín ng??ng dân gian quan tr?ng trong ??i s?ng tâm linh Ch?m, nhi?m v? chính c?a h? th?ng ch?c s?c này là hát các bài thánh ca ca ng?i công ??c các v? th?n trong các l? nghi trên ??n tháp (ngap yang bimong), các l? cúng c?a dòng t?c nh? Puix – Payak, l? Rija thrua và nghi l? nh?p Kut c?a ng??i Ch?m Ahiér. Di s?n âm nh?c Kadhar là t?ng hòa nh?ng bái hát l? ?i kèm v?i lo?i nhac c? ??c tr?ng là ?àn kanyi t?o thành m?t lo?i hình ngh? thu?t nghi l? mang tính ??c tr?ng và vô cùng ??c ?áo, gi? vai trò n?i b?t trong n?n ngh? thu?t ca múa nh?c Ch?m nói chung. Tuy v?y, trong b?i c?nh hi?n ??i hóa hi?n nay, c?ng nh? nhi?u di s?n âm nh?c truy?n th?ng khác, di s?n âm nh?c Kadhar c?ng ??ng tr??c nh?ng thách th?c, nhi?u bài hát b? c?t g?n, tam sao th?t b?, nhi?u bài ít khi s? d?ng d?n d?n mai m?t, l?c l??ng ch?c kadhar thi?u m?t th? h? ti?p n?i ch?t l??ng… nh?ng ?i?u ?ó ??a di s?n này vào nguy c? b? mai m?t. Chính vì th?, ???c s? h? tr? c?a H?i ??ng Anh Vi?t Nam, m?t nhóm các b?n tr? Ch?m ?ã th?c hi?n công tác th?ng kê, s?u t?m m?t toàn di?n danh m?c, n?i dung và hi?n tr?ng th?c hành các bài hát l? trong ??i s?ng Ch?m ???ng ??i. M?c tiêu c?a d? án là t?o ra m?t b? s?u t?p các file ghi hình các ch?c s?c th? hi?n các bài hát l? t?o ra s?n ph?m là các ??a DVD ho?c các video công b? trên internet ?? chia s? ??n m?i thành ph?n trong xã h?i t? chính trong c?ng ??ng Ch?m và k? c? c?ng ??ng bên ngoài.     Hình 1: Nhóm nghiên c?u ?ang ph?ng v?n Kadhar Thành V?n L?y trong ch??ng trình d? án D? án ???c tri?n khai t? tháng 3 n?m 2019 và d? ki?n hoàn thành vào tháng 12 n?m 2019, k?t qu? c?a d? án s? cho ra nh?ng video trình di?n các bài hát l? c?a ch?c s?c Kadhar, ??ng th?i th?c hi?n các b? phim t? li?u v? lo?i hình ngh? thu?t này, t?t c? các s?n ph?m này s? ???c chia s? m?t cách r?ng r?i ??n c?ng ??ng. Nhóm th?c hi?n d? án bao g?m 3 thành viên chính là ??ng Thành Danh, Th?p H?ng Luy?n (Trung tâm Nghiên c?u V?n hóa Ch?m) và Hán D??ng H?i ??ng (nghiên c?u t? do).   Hình 2: Ch?c s?c Kadhar ?ang tham gia hát l? trong ch??ng trình s?u t?m c?a d? án   ??NG THÀNH DANH Trung tâm Nghiên c?u V?n hóa Ch?m Ninh Thu?n  
0 Rating 429 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
NC News - Dân tộc Chăm được biết đến với các tên Chàm, Chiêm Thành, Hroi với dân số 132 873 người (theo số liệu năm 1999). Thiên di theo dòng lịch sử, vào Việt Nam, người dân Chăm sống tập trung ở Ninh Thuận, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Nam Bình Thuận, Tây Bắc Phú Yên... mang theo nhiều ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Óc Eo, văn hóa Đông Sơn, văn hóa Trung Quốc... Chắt lọc tinh hoa từ những nguồn văn hóa ấy, văn hóa Chăm tự tạo cho mình một riêng biệt, ấn tượng. Nhắc đến văn hóa Chăm, người ta nghĩ ngay đến kiến trúc, điêu khắc. Nhắc đến lễ hội Chăm, người ta nghĩ ngay đến các lễ hội dân gian truyền thống (lễ hội Katê, lễ hội Ramưwan...). Nhắc đến các nghề thủ công, người ta nghĩ ngay đến nghề đồ gốm, dệt vải sợi bông... Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả. Chuyên đề Văn hóa Chăm xin giới thiệu cùng quý độc giả một nền văn hóa Chăm với nghệ thuật múa Chăm, một Rija Nưgar - lễ hội dân gian mang nhiều yếu tố trình diễn, một khám phá thú vị về họ của người Chăm, một nghệ nhân thổ cẩm Chăm... Và hơn hết là một kho tàng văn học bề thế của người Chăm từ truyền thống đến hiện đại, góp thêm cái nhìn đầy đủ, toàn diện về một nền văn hóa nghệ thuật khá độc đáo nhưng còn nhiều mới mẻ này.Múa Chăm là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Chăm. Múa gắn liền với các lễ hội như Rija Nưgar, Katê, Rija Praung... ở mỗi làng hay trên tháp. Đó là những dịp mà người Chăm thể hiện sự tưởng nhớ của mình đối với những người có công xây dựng đất nước, hay sự sùng bái một/một vài vị vua được thần hóa. Đi kèm với múa là những nhạc cụ dân tộc truyền thống như: trống Ginang, trống Baranưng, Ceng (chiêng), kèn Xaranai, Grong (lục lạc), đàn Kanhi... Phổ biến hơn cả là bộ ba Ginang, Baranưng và Xaranai, trong đó chủ đạo vẫn là Ginang, vì chúng có âm mạnh mẽ, hùng hồn rất phù hợp trong dịp lễ hội, hơn thế nữa còn phản ánh được tính cách của người Chăm. Có thể phân múa Chăm làm 2 loại: Múa dân gian và múa cung đình.Một điệu múa ChămI. Múa dân gian:Tên gọi các điệu múa Chăm cũng là tên được đặt cho điệu trống Ginang. Có thể kể vài điệu múa tiêu biểu: Biyen, Tiaung (bắt chước dáng con công, trĩ), Patra (hoàng tử), Wah gaiy (chèo thuyền), Mưmơng, Mưrai,...Các điệu múa luôn là tâm điểm và là “tiết mục” được trông chờ nhất trong lễ hội. Những hồi trống Ginang thu hút sự chú ý của mọi người về phía người nghệ sĩ múa. Tiếp sau đó là tiếng Xaranai, tiếng Baranưng cùng lời của Ong Mưdwơn hát các bài tụng ca tương ứng. Vũ công bước ra trình diễn: cái phẩy tay, phất quạt, quất roi hay cái chuyển gót chân, khi nhanh khi chậm, khi khoan thai nhẹ nhàng, khi thì hùng hồn mạnh mẽ theo nhịp của tiếng nhạc. Người xem như bị cuốn hút theo từng động tác của người nghệ sĩ. Rồi cả khán thính giả bị kích động bởi tiếng nhạc, điệu múa mà hô vang... “ahei” (hoan hô) cổ vũ.Múa dân gian Chăm có các loại chính:- Múa quạt (Tamia tadik): một hình thức múa dân gian lâu đời. Dụng cụ chính là chiếc quạt: xòe ra hay xếp lại cả cặp hoặc một xòe một xếp. Có thể múa cá nhân trong các ngày lễ hay múa tập thể trong những ngày lễ hội.- Múa đội lu (Tamia đwa buk): xuất phát điểm là Múa đội Thong hala (cỗ bồng trầu) trong lễ dâng nước thánh trên tháp, sau đó nó được kết hợp với thao tác đội lu nước trong sinh hoạt ngày thường, thành loại hình múa này. Múa Đwa buk có nhiều biến thái đẹp mắt, nhưng thao tác đặc sắc hơn cả là các cô gái thả cả hai tay, khi thì đứng lúc lại ngồi hay nghiêng mình khá thoải mái trong biểu diễn.- Múa khăn (Tamia tanhiak): người nghệ sĩ cầm khăn, dùng cổ tay hất khăn lên lúc khoan thai, nhẹ nhàng khi mạnh mẽ, dứt khoát, theo nhịp điệu của nhạc.- Múa dao: điệu múa với dụng cụ là Carit, con dao có độ dài khoảng 40cm, hình xoắn ốc rất đẹp. Năm 60 trở về trước, điệu múa này còn tồn tại ở một dòng họ làng Caklaing (làng Mỹ Nghiệp, tỉnh Ninh Thuận), nay đã thất truyền.- Múa roi và múa đạp lửa (Tamia jwak apwei): các điệu múa đã tồn tại từ lâu đời có tính khái quát cao. Nhịp điệu múa khỏe khoắn tượng trưng cho sự chiến đấu quyết vượt qua khó khăn, gian khổ.- Múa chèo thuyền (theo điệu trống Wah gaiy): dụng cụ múa là cây chèo được thay bằng cây mía trong dịp lễ. Điệu múa này mô tả những động tác chèo thuyền trên biển, luôn đi kèm với bài tụng ca: Ppo Tang Ahauk.- Múa âm dương: đây là tên chủng loại múa do nhà biên đạo Hải Liên đặt cho dạng múa phồn thực của Chăm, gọi là Tamia Klai Kluk, dạng múa này nay đã thất truyền, hiện chỉ còn lưu giữ tại làng Bính Nghĩa, tỉnh Ninh Thuận. Người múa là nam, với khúc gỗ được đẽo như hình dương vật, múa dẫn đường, sau đó là các cặp nam nữ khác, vừa vui nhộn vừa linh thánh.Tất cả các điệu múa này vẫn còn tồn tại trong cộng đồng Chăm như một hình thái sinh hoạt lễ hội và theo thời gian, chúng được cách điệu để đưa lên sân khấu.II. Múa cung đình:Đây là tên được NSND Đặng Hùng đặt cho các điệu múa ông biên đạo và dàn dựng cho Đoàn ca múa Thuận Hải thời kì ông làm trưởng đoàn. Lấy cảm hứng từ các thao tác của những tác phẩm điêu khắc Champa xưa, ông “giải mã” chúng, rút tỉa tổng hợp được 8 thế tay và 4 thế chân, bên cạnh kết hợp với vài thao tác múa dân gian để thành Múa cung đình Chăm. Các tác phẩm tiêu biểu của Đặng Hùng: Khát vọng (1985), Ước mơ (1981) và Niềm tin (1989). Sau này, NSƯT Thu Vân trên cơ sở đó cũng có tác phẩm Huyền thoại Bhagavati. Các điệu múa này nhiều lần được biểu diễn ở nước ngoài. Bên cạnh vài phản ứng tiêu cực từ phía nhân dân Chăm, như cho các con em Chăm ăn mặc theo kiểu “Apsara” lên biểu diễn tại sân khấu thôn quê, gây phản cảm; còn thì các điệu múa mới mẻ nay đều nhận được sự tán thưởng xứng đáng.Tóm lại, Múa Chăm là một bộ phận độc đáo trong di sản văn hóa Chăm. Thời gian qua, nó được bảo tồn và phát huy đứng mực, phần nào thỏa mãn được nhu cầu sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật của quần chúng Chăm. Với sự say mê nghệ thuật và sự đầu tư nghiên cứu đúng mức, các điệu múa Chăm ngày càng được phát triển theo hướng lành mạnh. Các đoàn nghệ thuật múa hát trước đây vốn phải chật vật để duy trì sự tồn tại của mình đã tìm được con đường riêng để có thể đứng vững được trong thời đại kinh tế thị trường. Tuy nhiên, để phát huy hơn nữa kho tàng múa độc đáo này, chúng ta vẫn cần phải có những định hướng phù hợp để múa Chăm phát triển theo con đường riêng của nó, độc đáo và mang đậm sắc thái Chăm.Theo Vietbao (Tia sáng).
0 Rating 428 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 26, 2015
Ts. Po Dharma G?n ?ây, m?t s? sinh viên theo ngành lu?t h?c yêu c?u Champaka.info cho bi?t th? nào là qui lu?t c?a ch? ?? m?u h? Ch?m ghi l?i trong t? li?u hoàng gia Champa và qui ch? này có s? khác bi?t hay không v?i h? th?ng m?u h? ?ang l?u truy?n trong xã h?i Ch?m hôm nay. ?? tr? l?i cho câu h?i, xin ??c gi? ??c bài vi?t c?a Ts. Po Dharma,  ng??i ?ang nghiên c?u v? t? li?u hoàng gia Champa t?i Vi?n Vi?n ?ông Pháp.          Ch? ?? m?u h? nhìn qua t? li?u hoàng gia Champa by Ts. Po Dharma   M?u h? là qui ch? t? ch?c xã h?i d?a vào huy?t th?ng c?a ng??i m? ?ã có m?t t? lâu ??i trên th? gi?i. T?i khu v?c ?ông Nam Á, ch? ?? m?u h? còn t?n t?i trong xã h?i c?a m?t s? dân t?c nói ti?ng Mã Lai ?a ??o, nh? dân t?c Ch?m và  dân t?c Mã Lai ? ti?u v??ng qu?c Sembilan và hòn ??o Sumatra (Nam D??ng). Chính vì nguyên nhân ?ó, ch? ?? m?u h? c?a ng??i Ch?m là hình thái xã h?i ?ã có m?t t?i v??ng qu?c Champa hàng ngàn n?m v? tr??c, không có m?i liên h? gì ??n truy?n thuy?t c?a Po Ina Nagar (thánh m?u c?a v??ng qu?c), ch? ra ??i vào th? k? th? 9. Po Ina Nagar không ph?i là tên g?i c?a bà, mà là ch?c phong mà vua chúa Champa dành cho n? th?n Bhargavati, phu nhân c?a ??ng Shiva có ??n th? ? Nha Trang. C?ng c?n nh?c l?i, tr??c th? k? th? 9, n? th?n Bhargavati ch? mang ch?c phong Po Ina Kauthara (thánh m?u c?a ti?u v??ng qu?c Kauthara), t?c là Bà ch? h??ng nh?ng b?ng l?c do ng??i dân Kauthara cung c?p mà thôi.   Nói ??n ch? ?? m?u h? c?a dân t?c Ch?m, m?t s? trí th?c Ch?m th??ng ngh? ??n “m?u quy?n” ?? r?i t? ?ó h? ??a ra m?t khái ni?m: “M?u h? = M?u quy?n + m?u c?”. ?ây là ??nh ngh?a sai l?m mang tính cách suy di?n, hoàn toàn ?i ng??c l?i v?i qui lu?t m?u h? ???c l?u truy?n trong xã h?i Ch?m hôm nay.    D?a vào các t? li?u vi?t b?ng ch? Ch?m nh? “Muk Sruh Palei” (Gia hu?n ca) và d? lu?t c?a c? D??ng T?n Pháp liên quan ??n quy?n và ngh?a v? c?a ng??i ?àn bà trong gia ?ình, các nhà khoa h?c ??a ra k?t lu?n r?ng, dân t?c Ch?m hôm nay theo ch? ?? “m?u h? và m?u c?”, nh?ng “ph? quy?n”.   • Ch? ?? m?u h?   Nói ??n ch? ?? m?u h? (matrilinéaire), thì ng??i ta ch? nói ??n “quy?n ?àn bà làm ch? trên tài s?n” c?a gia ?ình ch? không ph?i “quy?n c?a ng??i ?àn bà” trong gia ?ình.   Theo ??nh ngh?a chung, ch? ?? m?u h? c?a dân t?c Ch?m là m?t hình thái t? ch?c gia ?ình trong ?ó ng??i m? n?m toàn quy?n trên tài s?n c?a gia ?ình do c?p v? ch?ng t?o d?ng sau ngày k?t hôn, t? con cái, nhà c?a, gia súc, ??t ?ai, vàng b?c, v.v. và quy?n th?a k? tài s?n này thu?c v? ng??i con gái. M?c dù ng??i ch?ng không có quy?n trên tài s?n, nh?ng là ch? gia ?ình mang tính cách tinh th?n và ?óng m?i vai trò trong t? ch?c chính tr? và xã h?i. Chính vì nguyên nhân ?ó, không có ng??i ph? n? lên n?m quy?n ? v??ng qu?c Champa, m?c dù ngai vàng thu?c v? bà hoàng h?u.   Trong cu?c s?ng hàng ngày, ?àn ông v?n là nhân v?t ch? ch?t trong gia ?ình r?t ???c kính tr?ng mà tác ph?m Muk Sruh Palei th??ng nh?c ??n. Ng??i ?àn ông Ch?m không bao gi? lo vi?c b?p núc hay ch?m sóc con cái, nh?ng th??ng ?n trên m?m c?m v?i b?n bè trong khi ?ó ng??i v? ch? ch? ?n nh?ng ?? còn th?a th?i trong bu?i ti?c. Ng??i ?àn ông Ch?m bao gi? gi? ti?n c?a, nh?ng có quy?n ?i ch?i và nh?u nh?t v?i b?n bè không c?n h?i ý ki?n v? c?a mình, v.v. D?a vào hình thái t? ch?c xã h?i này, các nhà nghiên c?u cho r?ng dân t?c Ch?m theo ch? ?? "m?u h?" nh?ng "ph? quy?n".    Ch? ?? m?u c?   Dân t?c Ch?m là c?ng ??ng t?c ng??i theo “ch? ?? m?u c?” (matrilocal),  ám ch? cho hình thái t? ch?c xã h?i trong ?ó l? c??i di?n ra t?i gia ?ình c?a cô dâu và ng??i ?àn ông ti?p t?c ? l?i trong gia ?ình c?a ng??i v? c?a mình sau ngày ?ám c??i.   ?ây là hình thái xã h?i th??ng áp d?ng cho nh?ng dân t?c nói ti?ng Mã Lai ?a ??o theo ch? ?? m?u h? hay ph? h?. Thí d? ?i?n hình, ng??i H?i Giáo Mã Lai theo ch? ?? ph? h?, nh?ng l? c??i th??ng di?n ra t?i t? gia c?a ng??i ?àn bà và c?p v? ch?ng th??ng xây d?ng cu?c s?ng trong thôn làng c?a ng??i v?. Chính vì th?, ng??i ta g?i ng??i Mã theo ch? ?? “ph? h?” nh?ng “m?u c?”.   Ch? ?? m?u quy?n   Ch? ?? m?u quy?n (matriarcal) là m?t hình thái t? ch?c xã h?i trong ?ó ng??i m? n?m toàn quy?n làm ch? gia ?ình, lãnh ??o chính tr?, ?i?u hành xã h?i, ki?m soát tài s?n. Ng??i ?àn ông ch? là nhân v?t ph? thu?c trong t? ch?c gia ?ình và xã h?i. ?ây là th? ch? ?ã t?ng x?y ra d??i th?i th??ng c?, nh?ng không còn t?n t?i trong th? k? th? 21 này ngo?i tr? dân t?c b?n ??a Iroquois ? phía b?c Châu M? là c?ng ??ng duy nh?t trên th? gi?i theo ch? ?? “m?u quy?n”.   Ch? ?? m?u h? nhìn qua t? li?u hoàng gia Champa   Tài li?u hoàng gia Champa là v?n b?n chính th?c c?a v??ng qu?c Champa vi?t t? 1702 ??n ngày Champa b? xóa b? trên b?n ?? vào n?m 1832, liên quan ??n th? t? c?a vua chúa, thu? má, ki?n t?ng, ??a b?, v.v. Trong t? li?u hoàng gia Champa không có c?m t? mang ý ngh?a “ch? ?? m?u h?”. Ng??c l?i t? li?u này th??ng dùng thu?t ng? “gep tuei talei kumei” ?? ám ch? cho nh?ng thành viên xu?t thân t? huy?t th?ng c?a m? n?m chung trong ngh?a trang Kut và Gahul, trong khi ?ó “gep tuei talei lakei” ám ch? cho thành viên xu?t thân t? huy?t th?ng c?a cha. N?m ch? ?? liên quan ??n ch? ?? m?u h? mà t? li?u hoàng gia Champa th??ng bàn ??n, ?ó là:   • Qui ch? tài s?n   Theo t? li?u hoàng gia Champa, ng??i m? trong gia ?ình là nhân v?t n?m toàn quy?n trên tài s?n do c?p v? ch?ng t?o d?ng sau ngày k?t hôn, t? con cái, nhà c?a, gia súc, ??t ?ai, vàng b?c, v.v. và quy?n th?a k? tài s?n này thu?c v? ng??i con gái. M?t s? gia ?ình giàu có th??ng chuy?n nh??ng cho con trai m?t s? tài s?n c?a m? ?? ?em v? nhà v?, nh?ng sau ngày t? tr?n c?a ?àn ông, ng??i v? ph?i ?em tài s?n này giao l?i cho gia ?ình c?a ch?ng mình: yah gep likei ngan hu anak lîkei nan nyu nao tok kamei lîngiw sang nan ew lac tuei talei lîkei, yah gep mada hu kaya hu hamu hu kabaw tuei adat hu brei bâ mbeng sâ matâ (h? s? P235, trang 1755). ?ây là qui ch? v? tài s?n gia ?ình mà ng??i Ch?m hôm nay v?n còn áp d?ng.   • Vai trò c? ng??i ?àn bà   T? li?u hoàng gia Champa cho r?ng ng??i ?àn bà Ch?m có trách nhi?m gi? gìn tài s?n do t? tiên ?? l?i và có ngh?a v? ch?m sóc và th? cúng nh?ng thành viên trong gia ?ình m?u h? ?ã qua ??i: adat anak Cam mang kal lîwik dahlak anak kamei daok khik bhum tanah muk kei ngan yang kut praok patrâ (trang 1754-1755).   C?ng theo t? li?u này, ng??i ?àn ông l?n lên l?p gia ?ình th??ng v? s?ng và ph?c v? cho gia ?ình bên v?. M?t khi qua ??i, ng??i v? ch? có công làm ?ám tang, r?i mang xác x??ng c?a ch?ng mình giao l?i cho gia ?ình m?u h?:  daok tel harei ruak balan ruak thun ruak blaoh matai nan hadiap bâ nao jaw wek gah gep tuei talei kamei der dalam bhum tanah tuei muk kei yah anak Cam der tuei Kut yah anak banî der tuei Gahul (h? s? P235, trang 1755-1756).   Tóm l?i, vai trò c?a ng??i ?àn bà nhìn qua t? li?u hoàng gia Champa không có s? khác bi?t v?i vai trò c?a ng??i ?àn bà Ch?m hôm nay.   • Vai trò c?a ng??i ?àn ông   Theo t? li?u hoàng gia Champa, ng??i ?àn ông là t?p th? n?m toàn quy?n trong h? th?ng t? ch?c chính tr?, quân s?, hành chánh và xã h?i. Trong ngày ?ình ?ám và l? h?i, ng??i ?àn ông lúc nào c?ng “ng?i trên, ?n tr??c” trong khi ?ó ?àn bà lo d?n chén n?u c?m. ?ây là phong t?c c?a xã h?i m?u h? Ch?m truy?n th?ng v?n còn l?u hành cho ??n hôm nay.   • Qui ch? Kut và Gahul   Theo t? li?u hoàng gia Champa, t?t c? thành viên dù nam hay n? xu?t thân t? huy?t th?ng c?a m? (gep tuei talei kumei)  sau ngày t? tr?n dù b?t c? ? ?âu, ph?i tr? v? ngh?a trang c?a m?, g?i là Kut dành cho ng??i Ch?m Ahier và Gahul dành cho ng??i Ch?m Awal. ?ây là truy?n th?ng mà dân t?c Ch?m hôm nay v?n còn áp d?ng.   • Qui ch? v? lo?n luân (cuang agam)   Theo t? li?u hoàng gia Champa, lo?n luân (cuang agam) là hành vi tình d?c gi?a nh?ng thành viên phát xu?t t? huy?t th?ng c?a m? (gep tuei talei kumei) n?m chung trong ngh?a trang Kut hay Gahul. Tài li?u hoàng gia nh?n m?nh r?ng, lo?n luân (cuang agam) là ?i?u c?m k? trong xã h?i Ch?m, ???c xem nh? m?t t?i ph?m mà lu?t pháp Champa có nh?ng ?i?u kho?n tr?ng tr? vô cùng nghiêm kh?c, tu? theo tr??ng h?p.   M?i l?n có v? án lo?n lu?n, chính quy?n Champa th??ng ??a nh?ng ng??i b? k?t t?i ra xét x? ?? ?ánh giá th? nào là nguyên nhân c?a bi?n c? tr??c khi ??a ra qui lu?t tr?ng ph?t t?i ph?m. Hình s? dành cho t?i lo?n luân trong xã h?i Ch?m th?i ?ó r?t ?a d?ng, tùy theo hoàn c?nh, t? hình ph?t dùng roi ?? tra t?n, t?ch thu tài s?n, ?ày hai t?i ph?m nam và n? ??n s?ng bi?t l?p ? hai ??a ??u biên gi?i c?a v??ng qu?c,  cho ??n t?i t? hình.     D??i th?i Pháp thu?c, lo?n luân c?ng là ?i?u c?m k? g?t gao trong xã h?i Ch?m. D??i th?i Vi?t Nam C?ng Hòa, không ai giám vi ph?m t?i lo?n luân vì xã h?i Ch?m th?i ?ó có tòa án phong t?c riêng c? c?p thôn, xã và Huy?n ?? tr?ng ph?t nh?ng hành vi này.   Sau n?m 1975, h? th?ng t? ch?c gia ?ình và xã h?i Ch?m truy?n th?ng hoàn toàn b? x?p ??. Ng??i Ch?m không còn là thành viên c?a xã h?i Ch?m n?a mà là công nhân c?a ch? ?? xã h?i ch? ngh?a. K? t? ?ó, n?n lo?n lu?n b?t ??u tái hi?n trong xã h?i Ch?m mà ng??i Ch?m ch? bi?t than van nh?ng không có gi?i pháp ngân c?m hành vi lo?n lu?n này.   Theo Champaka.info
0 Rating 427 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 10, 2017
Người Chăm ở Việt Nam và Campuchia. Nguyễn Văn Huy*  I. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè Chăm là một trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân số người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và Bình Tuy ; số còn lại sinh sống tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.  Cũng nên biết, trong thực tế, có khoảng 400.000 người Chăm sinh sống tại khắp nơi trên thế giới, đông nhất là tại Kampuchia (270.000 người), kế đến mới tới Việt Nam (100.000 người), sau là Thái Lan (15.000 người) và cuối cùng là Liên Bang Mã Lai, năm 1979 đã  tiếp nhận khoảng 10.000 người Chăm đến từ Kampuchia. Hải ngoại có khoảng 200 người Việt gốc Chăm (hơn 50 gia đình), đa số định cư tại Hoa Kỳ.  Tài liệu nói về nhóm dân cư này tuy có nhiều nhưng cũng rất thiếu. Đa số các tài liệu viết về các sinh hoạt có tính văn hóa và xã hội trong khi phần lịch sử và sinh hoạt chính trị của nhóm dân cư này hoàn toàn thiếu vắng, nếu có chăng thì nội dung cũng bị bóp méo để phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của các chế độ đương quyền. Chính vì thế mỗi khi đề cập tới cộng đồng người Chăm, người Việt thường có một nhận thức rất mơ hồ, chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu số ở miền Trung và Châu Đốc có nước da ngăm đen, phong tục tập quán, tín ngưỡng và văn hóa khác với người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn những người lãnh đạo đất nước cũng không nắm rõ nguồn gốc những cộng đồng chủng tộc đã góp phần tạo thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có thể xây dựng một chính sách dân tộc phù hợp với ước vọng của từng cộng đồng. Chính vì thế nội dung loạt bài viết về người Chăm này nhằm khai thông bế tắc đó. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè là chặng đường cần thiết trước khi cùng nhau xây dựng một tương lai chung.   Người Chăm và các danh xưng   Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.  Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa là toàn thể các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả người Chăm đồng bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dãy Trường Sơn, hay Tây Nguyên.  Champa là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương thơm ngào ngạt có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung. Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết người Champa đã chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã được tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành (Tchan-tcheng).  Trước kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời… Những danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo cách phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung thực danh xưng chính xác của người Chăm hiện nay.  – Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm Thành ; danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.  – Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa ; danh xưng Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận… Trong nước, những nhà dân tộc học đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu ; điều này đã làm hài lòng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa.  – Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng là người Chămpa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những sinh hoạt thường nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v…, tất cả đều là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn tại đây. Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng trong những thời điểm khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người, dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.  Chữ Hời mang một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên đi cướp bóc, vì trong quá khứ người Hroi đã nhiều lần tiến công vào các làng xã người Kinh cướp bóc lương thực, trong những giai đoạn khó khăn, dưới thời các chúa Nguyễn. Sau này người Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời Nguyễn gọi chung là Mọi Đá Vách.  Ngoài ra cũng có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn hay Yun có nghĩa là người Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng này rất ít người biết đến vì người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã lập gia đình với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.  Về ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ Nam Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn minh, văn hóa của người Chăm với văn minh, văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của người Chăm tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn yếu tố văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước.  Trong thực tế không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ là tên gọi của nhiều nhóm dân cư sau này chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương quốc Champa hay Chiêm Thành cũ, gọi chung là người Chămpa, chứ không phải tên riêng của một nhóm chủng tộc. Sau này cộng đồng người Chăm đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành cũ, để phân biệt với các nhóm Chămpa khác xuất phát từ nhiều nguồn gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau. Có thể nói vương quốc Chiêm Thành xưa kia là một liên bang đa chủng và đa văn hóa.   Nền văn hóa cổ Champa  Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài: xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.  Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.  Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.  Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.  Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống.  Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.  Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái: phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn. Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính của người Chăm.  Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.  Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng “Chăm mới”, nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ “Chăm mới” và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ “Chăm mới” có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.  Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người “Java” (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó: không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa. Khi các “hải tặc Java” (cách gọi những ngư phủ không hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.  Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.  Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm Thành.  Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.  Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo đạo Bani).  Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.  Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống: tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.  Truyền thuyết về các dòng vương tôn  Theo truyền thuyết, các dòng vương tôn cầm quyền t
0 Rating 425 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 10, 2019
M?t ?o?n v?n phân tích tuy?t v?i liên quan ??n nguyên nhân gây ra s? giao tranh Chàm Vi?t n?m 1653       Cho ??n nay, khi bàn v? nh?ng m?i giao tranh Chàm Vi?t th?i s? Nam Hà, chúng ta ch?c ch? ???c ??c là do ng??i Chàm xâm l?n biên gi?i nên ng??i Vi?t ?ánh. Ví d? theo s? ??i Nam Th?c L?c, thì vào n?m 1653, "B?t ??u ??t dinh Thái Khang. B?y gi? có vua n??c Chiêm Thành là Bà T?m xâm l?n Phú Yên, sai Cai c? Hùng L?c (không rõ h?) làm Th?ng binh, Xá sai Minh V? (không rõ h?) làm tham m?u, lãnh 3.000 quân ?i ?ánh ...". Chúng ta ch? rõ t?i sao l?i có v? xâm chi?m biên gi?i vu v? nh? th? này c?a ng??i Chàm (vì lúc này, th?i ng??i Chàm Ch? B?ng Nga ?ã trôi qua h?n c? tr?m n?m), và lý do xâm chi?m biên gi?i nh? th? này có v? h?i quen quen nh? khi chúng ta ??c v? s? ??ng ?? th?? ban ??u gi?a ?àng Trong và Cao Miên, ?úng không các b?n ?     Thì ?ây, m?i b?n ??c ph?n mình t?m d?ch ?o?n phân tích c?a cô Nola Looke v? s? ki?n ng??i Chàm n?i d?y t?n công ng??i Vi?t vào giai ?o?n 1649-1650, d?n ??n cu?c giao tranh Chàm Vi?t n?m 1653 mà s? Vi?t ?ã chép là ng??i Chàm xâm chi?m biên gi?i n?m 1653 nói trên. Cô ??a ra m?t l?p lu?n hay và ??c ?áo h?n n?a, là có liên quan ??n c? vua P? Ram?, v? vua anh hùng c?a ng??i Chàm vào th?i này.     ?o?n này thu?c trang 14 ??n trang 16 c?a bài nghiên c?u 34 trang v? m?i quan h? Chàm Vi?t vào th? k? 17 th?t là tuy?t v?i c?a cô Nola Cooke mà b?n có th? t?i t?i ?ây >> https://www.facebook.com/brian.wu.121772/posts/2313166205600995.     Và bài nghiên c?u này còn có nhi?u ?i?u hay quá, ?? mình ch?u khó rãnh l?i t?m d?ch cho các b?n ??c tham kh?o.     Enjoy nha b?n !!!     Brian     ...     Ch?c ch?n là ?ã có ?? ng??i Vi?t sinh s?ng và buôn bán t?i Champa vào giai ?o?n 1640s ?? mà de Rhodes ?ã vi?t và ?ã ?? trong d?u ngo?c, là t?i Tongking (B?c Hà) và Cochinchina (Nam Hà), là nh?ng n?i mà ti?ng Vi?t ?ã ???c "dùng", ??i ng??c l?i v?i vi?c ti?ng Vi?t ch? ???c "nghe th?y" t?i "3 qu?c gia lân c?n".     Cu?c hôn nhân c?a Ng?c Khoa ?ã mang l?i ít thành công h?n nhi?u v? m?t chính tr? so v?i cu?c hôn nhân c?a ng??i ch?/em gái: t?i Cao Miên, Ng?c V?n, ?ã tr? thành (v?) hoàng h?u ng? tr? r?i (là) m?t bà Hoàng Thái H?u có t?m ?nh h??ng to l?n khi con trai c?a bà th?a k? ngai vàng; nh?ng Ng?c Khoa (ch?) là (m?t) ng??i v? th? 3 c?a P? Ram? và (bà) ?ã s?ng (??) r?i ch?ng ki?n P? Saut, ng??i con trai c?a P? Ram? v?i m?t bà v? ng??i Cao Nguyên, r?t cu?c tr? thành "vua c?a các v? vua Champa", khi n?i ngôi P? Ram? vào n?m 1655.     (Vào th?i gian này), tình tr?ng t??ng ??i hòa bình (di?n ra) t?i vùng biên Chàm Vi?t có ???c, không ??n t? cu?c hôn nhân (trên), mà là (t?) s? có m?t th??ng tr?c c?a h?m ??i thuy?n chi?n galleys (c?a ng??i Vi?t) t?i con sông giáp gi?i Champa. Tuy v?y, ngay c? h?m ??i này c?ng không th? nào ?? ?? ng?n ch?n m?t cu?c t?n công nghiêm tr?ng c?a ng??i Chàm n? ra vào nh?ng n?m 1649-1650, châm ngòi cho cu?c xung ??t ch?m d?t vào n?m 1653 v?i ?òn th?ng trí m?ng c?a h? Nguy?n, (d?n ??n vi?c ng??i Vi?t ?ã) tàn phá (??a h?t) Kauth?ra và thay th? nó b?ng m?t ??a h?t Vi?t Nam m?i g?i là Thái Khang (sau này là t?nh Khánh Hòa).     Không có ngu?n (tài li?u / s? li?u) c?a ng??i Vi?t nào ?ã ?? c?p ??n cu?c t?n công kh?i th?y (vào giai ?o?n n?m 1649-1650 này) c?a ng??i Chàm ho?c ph?n ?ng c?a (tri?u ?ình) Vi?t Nam (khi ?y) ra sao. Chúng ta (ch? ???c) bi?t v? s? ki?n này qua m?t b?n t??ng trình ngày 31 tháng 12 n?m 1651 c?a viên công s? Công ty ?ông ?n Hà Lan, có tên là Williem Verstegen. Ông vi?t r?ng Nam Hà ?ã chinh ph?c Champa n?m ngoái "b?ng v? l?c và ?ã x? tr?m vua (Chàm) cùng giam c?m v? Dayro và v? ông (ta).". Vào nh?ng ngày tr??c ?ây cùng trong tháng (12) này, Verstegen ?ã ??n th?m v? Dayro ?ang b? giam gi? - Dayro là m?t danh t? Nh?t ng? (a Japanese term) mà ng??i Hà Lan ?ã dùng (?? ch?) cho) m?t v? hoàng ?? Nh?t B?n không còn quy?n l?c (the powerless Japanese emperor) [Brian chú: Dayro / Dairi ??]. Và Verstegen ?ã ch?ng ki?n n?i ? c?a v? Dayro (Chàm) t?i Qu?ng Nam (khi ?y) "là m?t cái chu?ng chó h?n là m?t ch?n c? trú nhân sinh" (more like a dogbox than a human residence).     V? Dayro này ch?c ch?n t??ng ???ng v?i v? "vua c?a các v? vua Champa" ?ã ???c ?? c?p ??n trong ngu?n (tài li?u / s? li?u) Chàm, có ngh?a là Verstegen có l? ?ã g?p (vua) P? Ram?, ng??i mà cái ch?t ???c (h?c gi?) Po Dharma xác ??nh là di?n ra vào n?m 1651. Có l? (vi?c mong ???c) tr? thù cho ??nh m?nh tàn nh?n (?p) lên trên v? vua (P? Ram?) m?n yêu (này), ?ã ph?n nào ?ó thúc ??y cu?c t?n công t? sát l?n th? 2 c?a ng??i Chàm, mà các ngu?n (tài li?u / s? li?u) c?a ng??i Vi?t xác ??nh là ?ã di?n ra vào n?m 1653. Nh?ng Champa (khi ?y) là m?t ??t n??c (v?i n?n) th??ng m?i hàng h?i, nên vi?c n?m gi? các b?n c?ng Chàm c?a ng??i Vi?t vào giai ?o?n sau n?m 1650, c?ng là s? ki?n mà Verstegen ?ã t??ng thu?t l?i, rõ ràng là m?t ??ng c? thúc ??y m?nh m? h?n. [Brian chú: có ngh?a là theo cô Nola Cooke, thì s? ?ánh chi?m Chiêm Thành n?m 1653 c?a ng??i Vi?t, không ch? ??n thu?n là s? ?ánh tr? vi?c ng??i Chàm xâm ph?m biên gi?i, mà nguyên nhân sâu xa h?n là do ng??i Vi?t mu?n ???c n?m gi? các h?i c?ng trong v??ng qu?c Chiêm Thành vào lúc này, nên k?t qu? c?a cu?c ?ánh chi?m Chiêm Thành n?m 1653, là ng??i Vi?t ?ã chi?m luôn ??t Chiêm Thành t?i sông Phan Rang].     [Brian chú: và b?n l?u ý, là trong phiên b?n d?ch thu?t g?c c?a th?y Anthony Reid trong quy?n Southern Vietnam under the Nguy?n, trong bài vi?t The End of Dutch Relations with the Nguy?n state, 1651-2, Dayro ???c chú thích là "a sacred ruler or high priest of Champa" có ngh?a là "m?t v? vua chúa linh thiêng hay m?t v? cao t?ng Chiêm Thành", mà ch?c là trong th? ch? th?n quy?n c?a ng??i Chàm, ??u có th? ch? cho v? vua c?a v??ng qu?c Chàm c?].     Dù nguyên nhân gây ra (s? ki?n giao tranh này) có là gì ?i ch?ng n?a, nh?ng s? th?t b?i trong cu?c t?n công th? 2 c?a ng??i Chàm di?n ra vào n?m 1653 là s? th?m h?i (??i v?i ng??i Chàm). Khi Chúa Hi?n ???c tin v? cu?c xâm l?n (này c?a ng??i Chàm), ông ?ã sai 3 ngàn quân binh (Vi?t) ?ánh ?u?i ng??i Chàm (tr?) v? phía Nam ??n t?n con sông Phan Rang, là n?i mà ng??i Chàm cu?i cùng ?ã ?? ngh? ???c gi?ng hòa. Chúa Hi?n ??ng ý, nh?ng v?i các ?i?u ki?n mà ông ??a ra, (?ó là) m?t vùng biên m?i mà lúc này ch? còn ?? l?i cho vua Chàm (??a h?t) Phan Rang và bi?n v? vua Chàm này thành ra m?t ch? h?u "b?t gi? l? ch?c c?ng".     (Nh?ng) ?i?u gì ?ã châm ngòi cho m?t cu?c t?n công nghiêm tr?ng (kh?i th?y) c?a ng??i Chàm vào n?m 1650 ? (Thì) có l? ch? có m?t m?i châm ngòi (duy nh?t) là có tính kh? thi, (?ó là) vi?c tái ??nh c? kh?ng l? t?i nh?ng khu v?c biên gi?i (Chàm Vi?t), trong giai ?o?n kho?ng 18 tháng tr??c ?ây, c?a vài ngàn hàng binh nhà Tr?nh, sau cu?c chi?n th?ng v? ??i nh?t c?a h? Nguy?n vào n?m 1648. (S? ki?n này là), sau khi v? hoàng t?, là chúa Hi?n trong t??ng lai (tr? vì 1648-1687) ?ã ?ánh tan nát ??i quân xâm l??c 3 v?n quân binh (nhà Tr?nh), ng??i cha ??y hân hoan c?a ông [Brian chú: t?c chúa Th??ng Nguy?n Ph??c Lan tr? v? 1635-1648] ?ã th? các t??ng hi?u h? Tr?nh (v? l?i B?c), nh?ng gi? l?i và tha th? nh?ng binh s? (h? Tr?nh) còn s?ng sót. ???c chia thành t?ng nhóm 50 ng??i, r?i ???c cung c?p d?ng c? và l??ng th?c ?? ?? s?ng trong 6 tháng, nhóm hàng binh h? Tr?nh này ?ã ???c ??a ?i ?? l?p thôn xóm ? vùng "??t c? c?a ng??i Chàm", t? mi?n Th?ng Bình và ?i?n Bàn (g?n H?i An) tr? vào Nam ??n Phú Yên. Các chính sách c??ng b?c b?t lính c?a nhà Tr?nh vào th?i này ?ã ??m b?o r?ng h?u nh? toàn b? nh?ng quân binh h? Tr?nh này ??u ??n t? khu v?c Thanh-Ngh?, t??ng t? nh? các ph?n t? v?n ???c ?u ?ãi t?i hu? nh?t trong quân ??i h? Nguy?n. Có l? vì lý do trên (t?c là các quân binh th?i ?y ??u là ng??i vùng Thanh Ngh? cho c? h? Tr?nh l?n h? Nguy?n), mà Chúa Th??ng (tr? vì n?m 1635-1648) ?ã tin r?ng h?u h?t nh?ng hàng binh h? Tr?nh này s? s?n sàng ch?p nh?n ?? ngh? này, s? tr? thành th?n dân c?a ông, và nh?ng cha con (trong toán hàng binh h? Tr?nh này) s? là nh?ng binh s? b? sung thêm vào cho ??t n??c.     Nh?ng vi?c tái ??nh c? c?a r?t nhi?u ngàn ng??i ?àn ông ??c thân ngo?i qu?c - t?t c? ??u ?ã ???c ?ào t?o v? (vi?c s? d?ng) v? khí và rút cu?c t?t c? ??u c?n tìm v? (trong t??ng lai) - ch?ng nh?ng s? là h?i chuông ch?m d?t hy v?ng c?a ng??i Chàm có th? giành l?i ???c ph?n lãnh th? ?ã m?t mà nh?ng ng??i (hàng binh h? Tr?nh) này (???c ??a) ??n ??nh c?, mà t??ng t? còn là m?t m?i ?e d?a gây nên s? h?n lo?n trong xã h?i (và ??i s?ng) c?a ng??i dân ??a ph??ng, khi mà nhóm ng??i ngo?i qu?c này ?ang tìm cách tái l?p cu?c s?ng c?a h? ? mi?n "núi non và ??m l?y" mà Chúa Th??ng ?ã ch? ra cho h?. T?i nh?ng n?i này, nhóm ng??i trên ch?c ch?n s? ti?p xúc tr?c ti?p, và r?t có th? là xung ??t, v?i ng??i mi?n núi (mountain peoples). Nh? (các công trình) nghiên c?u c?n ??i ?ã ch? ra, nhi?u ng??i mi?n núi này v?n t? nh?n h? là ng??i c?a (th? ch?) "nagara Camp?" và h? c? nhiên là yêu c?u v? vua v? ??i c?a h?, P? Ram? - b?n thân ông là m?t ng??i s?c t?c Curu - giúp h? ch?ng l?i m?i ?e d?a m?i này. Trong các tr??ng h?p nh? v?y, m?t c? g?ng cu?i cùng (c?a ng??i Chàm) ?? ng?n l?i quá trình tái ??nh c? (c?a nhóm hàng binh h? Tr?nh) không có gì là ?áng ng?c nhiên c?. [Brian chú: t?c là theo cô Nola Cooke, chính vì s? tái ??nh c? c?a h?n 3 v?n tàn quân h? Tr?nh ? vùng biên gi?i Chàm Vi?t có th? ch?m d?t hy v?ng l?y l?i ???c ph?n lãnh th? ?ã m?t c?a ng??i Chàm, và h?n th? n?a, s? tái ??nh c? c?a 3 v?n tàn quân h? Tr?nh toàn nh?ng ng??i ?àn ông ??c thân này t?i nh?ng n?i này, s? gây ra s? xáo tr?n kh?ng khi?p trong ??i s?ng xã h?i c?a ng??i Chàm, nên ng??i Chàm ?ã ??ng lên ch?ng l?i và t?n công ng??i Vi?t vào giai ?o?n n?m 1649-1650 - và ?ây là s? ki?n mà s? Vi?t ch?a bao gi? chép c?.]     (Và v? kho?ng th?i gian) t? n?m 1653 ??n s? ki?n giao chi?n vào nh?ng n?m ??u 1690s, các ngu?n (tài li?u / s? li?u) c?a ng??i Vi?t ??u không (h?) vi?t gì v? các m?i quan h? Chàm Vi?t (vào th?i này). May m?n thay, vi?c ??c k? l??ng nh?ng tài li?u v?n kh? c?a h?i truy?n giáo MEP có th? giúp (??c gi?) l?p ?i vài kho?ng tr?ng (ki?n th?c liên quan ??n) m?i quan h? Chàm Vi?t giai ?o?n 1653-1690 này, nh? phân ?o?n d??i ?ây s? trình bày chi ti?t.     Ngu?n: fb
0 Rating 425 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On August 27, 2012
Truy tm vật thing trong l쪲ng thp Chăm ᠠ-Khi hố thi*ng trong quần thể thp Chăm tại lng Phong Lệ được phᠡt lộ, những b mật nơi khu đền thp n�y mới dần được h mở. Tuy nhin, những ph骡t hiện tại khu khai quật đ lm c㠡c nh khảo cổ “đau đầu” khi giải m những b࣭ mật của hố thing ny… ꠠ >>Pht hiện hố vung kỳ lạ giữa lᴲng thp Chăm/ᠠPhát ḷ ǹn tháp Chăm-pa nghìn tu䪴̉i Hoạ sĩ Nguyễn Thượng Hỷ đang đo vẽ tại hố thing thp Chăm lꡠng Phong Lệ. Cc nh khảo cổ tham gia khai quật tại khu thᠡp Chăm Phong Lệ tại tổ 3, phường Ha Thọ Đng, quận Cẩm Lệ, TP. Đⴠ Nẵng khẳng định: Với những g pht lộ tại khu th졡p Chăm Phong Lệ c thể ni đến thời điểm n㳠y, đy l khu th⠡p Chăm được pht hiện với những bất ngờ lớn trong kiến trc cũng như những bậ mật vẫn chưa thể giải m được trong một sớm một chiều… Về kiến trc, hố thi㺪ng vừa được pht lộ hon toᠠn khc so với cc hố thiᡪng được pht lộ trước đy ở Mỹ Sơn hay cᢡc khu thp Chăm ở Bnh Định. Đᬳ l khu hố thing cળ miệng hnh vung to hơn h촬nh vung ở đy. Điều bất ngờ hơn l䡠 ở đy hố thing c᪳ 8 hốc thing gồm 4 hốc ở 4 gc đối xứng với nhau v고 4 hốc thing ở giữa cạnh hnh vuꬴng của hố thing đối xứng với nhau. Giảng vin khảo cổ Nguyễn Xuꪢn Mạnh (khoa Lịch sử, Trường ĐH KHXH&NV H Nội), thnh viࠪn đon khai quật cho biết nơi hố thing vừa được phડt lộ c nhiều b mật vẫn chưa được giải m㭣. Theo ng Mạnh, hố thing h䪬nh vung c cạnh phủ b䳬 di khoảng 6,5m, cạnh trong lng dಠi 4,25m, độ su hơn 1,8m. Hoạ sĩ Nguyễn Thượng Hỷ, người đ c⣳ hơn 30 năm đo vẽ cc di tch Chăm ở miền Trung v᭠ tham gia qu trnh khai quật nᬳi rằng đến thời điểm ny, trong hng chục hố thiࠪng m ng đo vẽ thബ đy l hố thi⠪ng lớn nhất với những b mật m ngay bản th�n ng cũng khng thể n䴠o hiểu được. Khu vực cổng thp Chăm Phong Lệ được pht lộ nằm phᡭa trước hố thing So với cꠡc hố thing ở cc thꡡp Chăm Mỹ Sơn, hay cc thp Chăm ở Bᡬnh Định m chnh ୴ng đo vẽ trước đy, th hố thi⬪ng thp Chăm Phong Lệ vừa được pht lộ cᡳ nhiều b ẩn chưa được cc nh� khảo cổ giải m. Đ l㳠 những hốc thing được xy dựng theo ꢽ đồ chứ khng phải xy xong rồi người ta mới đục những hốc thi䢪ng v xy theo ngẫu hứng. Nghĩa lࢠ thnh hố thing kh઴ng đi theo đường thẳng m lượn sng, cೳ nhiều điểm mấp m trn th䪠nh hố. Điều gy ngạc nhin cho ⪴ng Hỷ cũng như cc nh khảo cổ lᠠ nơi hố thing ny được lấp đầy cꠡt v đ cuội được xếp chồng từng lớp. Tuy nhiࡪn qua qu trnh khai quật nơi hố đᬠo ny cc nhࡠ khảo cổ nhận thấy lớp ct v đᠡ cuội đ xo trộn. 㡔ng Hỷ nhấn mạnh, hố thing l nơi thờ c꠺ng của người Chăm xưa v tất nhin ngay giữa hố thiપng phải c vật thing. Tuy nhi㪪n qua khai quật sau khi bốc hốt ton bộ khoảng 32 m3 ct sỏi ra khỏi hố thiࡪng, cc nh khảo cổ học vẫn khᠴng tm thấy vật thing tại hố thi쪪ng ny. Vậy vật thing (cળ thể l những bức tượng bằng đ, bằng vࡠng hay bằng đồng…) nơi hố thing ny ở đꠢu, tại sao khng tm thấy? Đ䬢y l cu hỏi mࢠ cc nh khảo cổ học chưa tᠬm ra cu trả lời. ng Hỷ cho biết: Hố thi┪ng l nơi đặt bệ thờ, thường thờ thần Shiva với vật tế l ngẫu tượng Linga vࠠ Yoni tượng trưng cho tn ngưỡng phồn thực của Ấn Độ gio. Tuy nhi�n ở ngay bệ thờ được pht lộ giữa hố thing kh᪴ng cn vật thing. Nhận định ban đầu của đo⪠n khảo cổ cũng như c nhn ᢴng Hỷ cho rằng c thể vật thing nơi hố thi㪪ng ny đ được lấy đi trước đࣳ. Tuy nhin, ai lấy vật thing nơi hố thiꪪng, hoặc v l do n콠o đ khng c㴳 vật thing như thường gặp khi khai quật hố thing vẫn chưa được giải mꪣ. Điều dễ nhận thấy theo ng Hỷ l lớp c䠡t v đ cuội nơi lࡲng hố thing khi khai quật đ bị x꣡o trộn. Điều đ c thể nhận định trước đ㳳 tại nơi hố thing ny đꠣ bị khai quật. Hoạ sĩ Nguyễn Thượng Hỹ m tả lại vật thờ trong hốc thing gồm vi䪪n gạch nằm trn phiến đ hꡬnh trụ v đặt pha trước lୠ vin đ thạch anh Cꡲn ai khai quật, khai quật lc no? Đ꠳ l vấn đề chưa thể biết được. Hiện cc nhࡠ khảo cổ cũng như ng Hỷ mong l sớm t䠬m ra được vật thing trn bệ thờ nơi hố thiꪪng Phong Lệ, mới c cơ sở để nghin cứu v㪠 xc định v giải mᠣ những b mật nơi hố thing kỳ lạ n�y. Ngay trn tổng diện tch được khai quật khoảng 500m2, nằm tr꭪n một quả đồi thấp xung quanh l nh dࠢn, đon đ đi s࣢u khm ph thᡡp chnh. Theo kết quả đo đạc hiện tại, nền mng t�a thp chnh n᭠y c diện tch khoảng 16m x 16m với 4 g㭳c thp, 3 cửa phụ l cửa giả vᠠ 1 cửa chnh. Ngoi ra, đo�n khai quật cn pht hiện một số vết t⡭ch điu khắc nghệ thuật kh tinh xảo, gi꡺p xc định nin đại. So s᪡nh những di tch hiện cn v� hiện vật đ được thu gom về bảo tng trong đợt khai quật vừa cho thấy, ni㠪n đại của Phong Lệ tương ứng với di tch Chăm ở Khương Mỹ (tỉnh Quảng Nam), v ni�n đại cụ thể xc định l vᠠo cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI. Theo phn đon của giới chuyᡪn mn, đy c䢳 thể l những hố thờ vật yểm. V vật yểm gồm h࠲n đ cuội đặt dựng đứng ghp với viᩪn gạch ngang trn đầu khiến người ta lin tưởng đến cặp ngẫu tượng Linga vꪠ Yoni, nhưng trật tự đ thay đổi sau khi pht hiện. Vi㡪n gạch ngang c hnh dạng biểu trưng cho Yoni nằm tr㬪n thay v nằm dưới. Cả 4 hốc đều như thế. Hiện tượng đ hẳn kh쳴ng phải ngẫu nhin m mang quan niệm t꠴n gio của người Chămpa xưa. Tất nhin, kh᪴ng phải ngẫu nhin m trước mỗi hốc đựng vật yểm trong hố thi꠪ng, trn hố thing lại cꪳ cc vin đ᪡ thạch anh chắn cửa, trong khi đ cuội v cᠡt sỏi mới l thnh phần phổ biến c࠲n lại của mọi cấu trc tường, mng th곡p Chămpa. Người ta cũng đặt cu hỏi về vai tr của đⲡ thạch anh trong quan niệm của chủ nhn ngi đền thⴡp ny c ೽ nghĩa g? Qua cc hố th졡m st do đon khai quật đᠠo để tm hiểu cấu trc nền m캳ng thp đều cho thấy, khi tạo ra nền mng th᳡p, người Chăm đ lần lượt đổ từng lớp ct, sỏi đầm chặt, sau đ㡳 xếp từ 1-2 lớp gạch phẳng. Cứ như thế, trn dưới 10 lớp gạch, lại xen kẽ ct, sỏi lꡠm nền mng vững chắc. Điều đ chắc chắn rằng khu đền th㳡p ny rất cao. C thể khẳng định lೠ khu thp rất lớn v uy nghi, ᠴng Hỷ nhận định. Ngy mai (28/8) đon khai quật c࠹ng cc nh khảo cổ, nhᠠ khoa học v cc cơ quan chức năng TP. Đࡠ Nẵng sẽ tổ chức hội thảo khoa học về thp Chăm Phong Lệ ngay tại nơi khai quật để giải m những bᣭ mật nơi khu thp vừa được pht lộ nᡠy. Chắc chắn những b mật sẽ dần được giải m tr�n cc chứng cứ khoa học. Vũ Trung http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/86190/truy-tim-vat-thieng-trong-long-thap-cham.html
0 Rating 424 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2014
VĂN HÓA CHĂM: BẢN SẮC VÀHỘI NHẬP (Tiếp cận từ góc nhìn đương đại) Đặt bút, viết lên những dòng này, tức là trong tâm tưởng[của tôi] đang chứa đầy những ưu tư, trăn trở về một dân tộc [Chăm] trong thế đứng của nó ở một thời đại [hội nhập hay toàn cầu hóa]. Bản sắc của một dân tộc, là cái hồn túy tạo nên đặc trưng riêng có của dân tộc đó, cốt lõi của nó chính là văn hóa dân tộc, văn hóa ở đây bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, văn chương, trang phục, nghi lễ, hội hè, phong tục, tạp quán...Văn hóa có tính “động”: thời đại nào, thì văn hóa đó, nói thế tức làvăn hóa sẽ biến đổi theo từng thời kỳ,  nhưng cái cốt tủy, cái căn cơ cấu thành văn hóa thì không bao giờ được biến đổi, một khi biến đổi thì tức là mất văn hóa, mất bản sắc. Thời đại – từ phía nó - luôn đặt ra cho văn hóa những lo lắng, yêu cầu phải làm thế nào để vừa hội nhập, biến đổi văn hóa theo thời đại, mà lại vừa giữ gìn những cốt tủy của văn hóa? Không biến đổi, một số hiện tượng văn hóa sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời,làm trì trệ dân tộc; nhưng nếu biến đổi quá nhanh, không kiểm soát, thiếu chọn lọc thì những giá trị văn hóa quý báu, lành mạnh sẽ có nguy cơ bị mai một và đánh mất, khi đó dân tộc không còn văn hóa nữa, bởi vì bản sắc - cốt tủy của văn hóa - không còn nữa. Câu hỏi đặt ra lớn là làm thể nào để vừa hội nhập mà vẫn giữ vững bản sắc? Để vừa “hòa nhập mà không hòa tan”? Mahatma Gandhi, nói: “Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào”.Đểthực hiện nhiệm vụ này mỗi dân tộc cần phải có: bản lĩnh văn hóa. Trãi qua biết bao biến thiên, thâm trầm của lịch sử, bản sắc Chăm cũng biết bao lần biến đổi. Từ thuở ban sơ, khi người Chăm chỉ biết đến thần trời, thần đất, thần mưa, thần biển,... chưa biết gì đến Shiva, Po Awlaoh,... chỉ biết các thầy mo, thầy cúng chứ chưa biết gì đến Basaih, Po Acar... chỉ biết Chăm Jat chứ chưa biết đến Chăm Hier, Awal hay Chăm Islam. Cho đến khi, Ấn Độgiáo, Hồi giáo theo đường biển truyền vào Champa làm biến đổi tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, cứ mỗi lần như vậy, văn hóa Chăm lại bao lần biến đổi. Và cứ mỗi lần như vậy, bản lĩnh văn hóa Chăm lại luôn được thể hiện.Trong quá trình ấy, người Chăm không hấp thụ toàn bộ Ấn Độ giáo, Hồi giáo mà đã biến đổi làm cho các tôn giáo này khi du nhập vào không còn như nguyên bản mà bị bản địa hóa, tạo nên những đặc thù của văn hóa Chăm trong đó các tôn giáo (với hệ thống đền tháp, thánh dường, tăng lữ) kết hợp với chế độ mẫu hệ, tục thờ cúng đa thần và ông bà, tổ tiên… Nhưng cũng trong quá trình biến thiên ấy, đã biết bao lần người Chăm lãng quên hoặc dần đánh mất các giá trị truyền thống trong nền văn hóa của mình. Những cuộc biến loạntrong các năm 1471, 1832 làm cho người Chăm không còn đồng nhất phân biệt làm Chăm giữa, Chăm Đông, Chăm Tây, Chăm Việt Nam, Chăm Campuchia…Kéo theo đó ngôn ngữ và phong tục của mỗi cộng đồng cũng có nhiều dị biệt. Mặt khác, từ những cuộc chạy loạn ấy, bao sách vở, văn bản Chăm cũng bị thất tán, mất đi rất nhiều giá trị văn hóa. Người Chăm ngày nay không còn hoạt động kinh tế biển, do đó dấu ấn văn hóa biển rất mờ nhạt, nhiều phong tục tập quán được ghi trong thư tịch cổ cũng không được duy trì… Dù vậy, cho đến hôm nay, người Chăm vẫn còn giữ được rất nhiều truyền thống văn hóa quý báu như duy trì các lễ hội, lễ tục như Rija nưgar, Kate, Ramưwan… Nhiều người già vẫn còn giữ nhiều ciet sách, vẫn biết ngâm nhiều ariya, damnưi…vẫn còn các nghệ nhân thổi kèn Saranai, đánh trống Baranưng, Ginang, đàn Kanhi…Đặc biệt, ngôn ngữ Chăm dù có bị lai căng, pha tạp rất nhiều, nhưng vẫn được các nhà nghiên cứu, chuyên gia và một số người Chăm quan tâm và duy trì (dù con số này cũng ít ỏi)… Nhưng,thế giới ngày nay đã “phẳng”, người ta có thể gọi thế giới và cách mà các thực thể trong thế giới này liên kết với nhau bằng các mỹ từ như hội nhập, toàn cầu hóa hay bất cứ thuật ngữ nào khác, nhưng tựu chung lại nó ám chỉ một thế giới mà ở đó, ranh giới giữa các dân tộc, các nền văn hóa là rất nhạt nhòa. Thế giới đương đại là một thế giới hội nhập, hội nhập không ngừng với tốc độ vũ bão. Nhân loại đã trải qua nhiều cuộc hội nhập, tiếp xúc giữa các dân tộc, các nền văn hóa nhưng hôm nay hội nhập diễn ra ở quy mô toàn thế giới, với mức độ hội nhập mạnh mẽ gắp nhiều lần. Truyền thông hiện đại, làm cho con người ở khắp nơi liên kết với nhau dễ dàng, từ đó văn hóa, ngôn ngữ, lối sống của dân tộc này sẽ tiếp xúc, ảnh hưởng văn hóa, ngôn ngữ, lối sống dân tộc khác. Những nền văn hóa này sẽ hòa nhập vào nền văn hóa kia, nhiều hiện tượng văn hóa của dân tộc khác sẽ ảnh hưởng và phổ biến vào dân tộc này. Chẳng hạn, Hàn Quốc thông qua truyền thông đa phương tiện (phim ảnh, âm nhạc) đã du nhập thời trang, âm nhạc, cách sống vào các quốc gia khác. Các sản phẩm văn hóa ngoại lại (từ tinh thần đến vật chất) không có chút gì mang dấu ấn dân tộc tồn tại đầy rẫy,… Trong trào lưu đó, những yếu tố truyền thống được ông, cha lưu giữ tự bao đời rất có nguy cơ bỉ những thứ văn hóa lai tạp, hiện đại, nhất thời ấy làm biến đổi, mai một vàlúc nào cũng cóthể nuốt chửng các giá trị văn hóa truyền thống ấy, con người hiện đại mà đa phần là giới trẻ đang cuốn theo những trào lưu văn hóa hiện đại, ngoại lai mà lãng quên dần văn hóa dân tộc – Chăm cũng vậy! Thế giới cần phát triển, cần hiện đại, nhưng thử thách đặt ra là phải làm thế nào vừa phát triển nhưng vừa không đánh mắt bản sắc dân tộc?Thomas L.Friedman trongchiếc lexus và cây Ôliu viết: “…Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng chế tạo cho được xe Lexus và lái chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới không thôi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh…Một đất nước không có những rặng cây Ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để có thể đón nhận và hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước mà chỉ có những rặng Ô liu không thôi, chỉ lo giữ cội rễ, mà không có xe Lexus, thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng giữa hai yếu tố nói trên là một cuộc vật lộn triền miên…”. Dân tộc Chăm, tồn tại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, không thể không hội nhập, không thể đứng ngoài tiến trình phát triển. Nhưng cũng như các nền văn hóa khác, Chăm cần phải giữ cho được bản sắc, đối với Chăm đây thật sự là một thách thức, “một cuộc vật lộn triền miên”. Qủa thật không ngoa khi nói như vậy! Hiện thực sinh hoạt văn hóa Chăm đương đại, cho phép chúng ta nghi ngờ đến một viễn cảnh đánh mất bản sắc dân tộc và những nguy cơ đó sẽ là sự thực nếu chúng ta không có những hành đồng kịp thời và hữu hiệu.           Cứ xem, palei Chăm nơi tự bao đời lưu giữ các giá trị truyền thống, tính cố kết cộng đồng, nơi mà ở đó mỗi người con ý thức được vai trò, nghĩa vụ của mình với gia đình, dòng họ, xóm làng, nơi ở đó luật tục (adat) được bảo tồn, tình làng nghĩa xóm và các giá trị văn hóa được lưu giữ…Ngày nay,dưới ảnh hưởng của đô thị hóa, các palei  đã thay đổi sâu sắc, đó không còn là một không gian khép kín, nơi mà các giá trị truyền thống được lưu giữ biết bao đời.Mà mang nhiều hướng mở, nhiều giá trị bên ngoài xâm nhập vào palei, kéo theo đó nhiều giá trị văn hóa truyền thống cũng không ngừng nhiều biến đổi.           Đã không còn nữa, hình ảnh những cụ già, dưới ánh trăng, đêm đêm ngâm những dòng ariya, damnưi cho con cháu, người Chăm của mấy chục năm gần đây, đã không còn được trưởng thành từ những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ Chăm, giới trẻ chỉ biết có truyện Con rồng cháu tiên, Thánh Gióng, Tám Cám, Cây tre trăm đốt…chứ không biết đến truyền thuyết Po Inư Nagar, Po Kloang Garai, Po Rame hay Ja Li-u… Những đứa trẻ lớn lên lại được cha mẹ nó đưa vào giất ngủ những câu truyện cổ tích của dân tộc khác, chứ không hề biết gì đến các truyện cổ của dân tộc mình.           Từ xưa, dân tộc Chăm có một kho tàng văn chương rất phong phú, nhưng thời gian và sự quên lãng của con người khiến nó tản mát đi rất nhiều. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu, học giả đã bỏ nhiều công sức ra - để gọi là - sưu tầm lại những tác phẩm văn chương Chăm. Nhưng đó chỉ là công việc mang tính hàn lâm, đa số người Chăm vẫn không quân tâm đến nó, đối với họ những mẫu chuyện của người Kinh đã ăn sâu vào tâm trí ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường và đến lược họ, lại kể những câu truyện đó cho con cháu mình nghe.           Không chỉ trong văn học, ngày nay, nhiều giá trị dân gian khác như âm nhạc, diễn xướng cũng đang bị thế hệ hội nhập dần dần lạnh nhạt. Trong cộng đồng không còn bao nhiêu nghệ nhân biết hát xướng dân ca, đánh đàn Kanhi, trống Baranưng, Ginăng, kèn Saranai…Dù ở quê nhà, cũng như tại Sài Gòn đã tổ chức nhiều lớp học nhạc cụ truyền thống nhưng số người theo học vẫn rất ít so với số đông những người Chăm quay lưng lại với truyền thống, mà phần nhiều trong đó là các bạn trẻ.           Ngày nay, nhiều thanh niên Chăm không còn thích nghe các bài dân ca, các ca khúc viết về quê hương xứ sở, về palei Chăm với những hình ảnh những ngôi tháp Chàm cổ kính, con sông quê hương, xóm thôn Chăm mùa gặt, tình yêu thủy chung của trai gái làng Chăm… những ca khúc ấy tự bao đời đã trở thành bệ đỡ tinh thần cho bao đứa con Chăm, gợi nhắc trong họ tình yêu quê hương, sứ xở.  Ngày nay, đa phần người trẻ chỉ hướng về các dòng nhạc hiện đại, mang nhiều tính thị trường của Vpop, Kpop…mà lãng quên dần các bài dân ca, các bài hát về quê hương, dân tộc.           Bên cạnh đó, một hiện tượng văn hóa cũng đang ngày càng mai một, ngay trong tâm thực của người Chăm hiện đại đó là trang phục truyền thống Chăm. Người Chăm có nhiều loại trang phục cổ truyền phong phú, mang tính thẩm mỹ cao và chứa đầy giá trị tinh thần, tạo nên một nét đặc trưng của tộc người.Thế nhưng, hiện nay, trừ những người đã cao tuổi, hầu hết những người hai mươi, ba mươi tuổi không còn thích mặc váy, áo dài truyền thống mà chỉ mặc áo sơ mi, quần tây trong đời sống hằng ngày (kể cả nam lẫn nữ), trừ các dịp lễ hội người ta mới khoác lên mình những trang phục mang đậm hồn dân tộc ấy!               Đặc biệt nhất, đáng báo động nhấtlà thực trạng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc Chăm. Trong khi những chuyên gia về ngôn ngữ Chăm vẫn đang có những bất đồng về truyền thống và cải biên, vẫn chưa tìm được một tiếng nói chung thì ngôn ngữ Chăm đang hằng ngày, hằng ngày lụi tàn, giãy chết. Thực trạng người Chăm giao tiếp với nhau trong đời sống hằng ngày trộn đến 50% tiếng Việt là một điều đáng quan ngại, vì nhiều từ ngữ sẽ bị lãng quên, muốn biết, muốn hiểu nghĩa người ta lại phải tra từ điển và sách vỡ, đây là một thực trạng phổ biến trong đời sống Chăm đương đại và đã được nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia báo động. Đó là về ngôn ngữ nói, về chữ viết, người Chăm ngày nay cũng không nhiều người biết viết tiếng Chăm nữa. Cho dù, trong các trường tiểu học ở các làng người Chăm, có dạy tiếng Chăm, nhưng khi lên các lớp lớn do không có điều kiện học thêm và tiếp xúc, chủ yếu trong đời sống họ viết và sử dụng toàn tiếng Việt nên sẽ không thể nhớ được, dần dần lãng quên nó. Tiếng Chăm, đối với nhiều người,không còn quan trọng nữa, không ứng dụng gì nhiều trong cuộc sống nên họ không cần thiết phải viết nó. Một số sinh viên, có ý thức bảo tồn chữ viết dân tộc đã tham gia vào các lớp học tiếng Chăm, nhưng số lượng này không được bao nhiêu, và khi hoàn thành khóa học do không có điều kiện, thời gian tiếp xúc viết, nói hằng ngày nên lâu dần lại quên. Thành ra, tiếng nói đã lai căng, chữ viết Chăm lại càng bị mai một, không còn bao nhiêu người biết viết chữ mẹ đẻ nữa, ngôn ngữ Chăm thành ra một thứ ngôn ngữ hàn lâm (tức là chỉ sử dụng cho giới tu sĩ, giới nghiên cứu, học giả…) ngày càng xa rời đại chúng, trong khi một thứ ngôn ngữ ngoại lai lại pha tạp vào tiếng nói hằng ngày và lấn áp chữ viết dân tộc– đó là tiếng Việt, cái mà chúng tagọi là tiếng phổ thông. Ngôn ngữ Chăm, không chỉ là đặc trưng cho bản sắc văn hóa, nó còn là phương tiện để con người hiện đại liên kết với quá khứ. Một khi ngôn ngữ này càng ngày càng bị mai một thì nó cũng sẽ kéo theo các giá trị văn chương, các văn bản cổ Chăm sẽ không còn ai lưu giữ, bảo tồn và truyền lại cho thế hệ sau, dòng chảy văn hóa của dân tộc sẽ bị gián đoạn. Không còn ngôn ngữ, người Chăm cũng sẽ mất đi nhiều giá trị văn hóa, mất đi bản sắc, câu truyện của 2500 ngôn ngữ đã mất (theo Unesco) là một cảnh báo cho chúng ta. Trong suốt tiến trình tồn tại, văn hóa Chăm đã bao lần biến đổi có lúc nó hấp thu rồi tiếp biến các giá trị bên ngoài, tạo thành cái riêng, cái đặc sắc của mình, thế là tốt! Nhưng cũng có những lúc thăm trầm và đen tối, nó bị văn hóa ngoại lai thống trị và xâm nhập, khiến cho một số truyền thống bị lụi tàn…Nhưng, may mắn thay! Hôm nay,  Chăm vẫn còn giữ được một số bản sắc văn hóa như ngôn ngữ, sách cổ, các lễ hội, lễ tục và tính cố kết cộng đồng…Điều đó cho thấy, dù trải qua bao biến thiên người Chăm vẫn luôn thể hiện được bản lĩnh văn hóa của mình. Trước thềm toàn cầu hóa, hội nhậplà yêu cầu khách quan không thể chối bỏ, nhưng làm thế nào để vừa hội nhập mà lại vừa không đánh mất bản sắc? Ở đây,tôi bày tỏ đồng cảm với Pauh Catwai, lời người xưanhư vẫn còn nguyên giá trị, thuở ấy, năm 1832, quốc gia mất đi, dân tộc phải đối mặt với nguy cơ mất luôn cả văn hóa, những người trí thức đương thời như Pauh Catwaiưu tư, trăn trở cho việc lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc: “…Sa bauh cơk tajuh giloang, sibơr ka throang bhap ilimo…” (một núi bảy đường, biết đường nào thông cho văn hóa dân tộc). Hôm nay, chúng ta phải ý thức rằng: dân tộc này, theo thời gian đã mất mát rất nhiều giá trị văn hóa, đừng để mất luôn những giá trị còn giữ lại được, để rồi đánh mất luôn chính bản sắc dân tộc. Nếu có hỏi tôi có quá bi quan không khi nói vậy? Xin trả lời: Không. Vì rằng, dù Chăm, hôm nay vẫn còn ngôn ngữ, người Chăm hôm nay vẫn biết xướng hát dân ca, thuộc lòng các kho tàng văn chương…Nhưng số này rất ít, hầu hết đều đã già, nay mai cũng trở thành người thiên cổ, trong khi giới trẻ rất ít ai mặn mà, thậm chí còn quay lưng lại với chúng. Vậy, thử hỏi: Văn hóa Chăm, còn giữ lại bao nhiêu để mà cợt đùa, để mà không quan ngại? Đối với Chăm nhiệm vụ bảo tồn bản sắc trong thời đại này lại càng khó khăn, nhất là khi chúng ta chỉ là một cộng đồng thiểu số, bị phân hóa thành các palei tách biệt và hằng ngày có những sự tiếp xúcnhiều với một cộng đồng đa số, có một nền văn hóa dị biệt, lúc nào cũng có thể hút chúng ta vào tầm ảnh hưởng của nó. Tôi chợt nghĩ đến một viễn tượng đáng buồn của tương lai: “…nơi người Chăm nói với nhau bằng một thứ tiếng lai căng, mất gốc; nơi những bài dân ca, ariya, những nhạc cụ được đưa vào bảo tàng vì không có ai ngâm nga, diễn xướng; nơi chữ viết Chăm trở thành cổ vật phi vật thể vì không ai biết viết; nơi các lễ hội Chăm chỉ là những huyền thoại xa vời;…; nơi những đứa trẻ Chăm được truyền thụ và tự ý thức rằng tổ tiên chúng ta là con của rồng, cháu của tiên…” Hãy nhìn vào quá khứ mà suy ngẫm, tạo nên một giá trị đã khó, giữ cái giá trị đó đến muôn đời lại càng khó hơn. Đừng để những giá trị mà bao đời tổ tiên gây dựng mất đi, nếu vậy, không phải chúng ta - những kẻ hậu thế - hổ thẹn với tiền nhân lắm sao? Một lần nữa và hơn lúc nào hết, người Chăm (tất cả người Chăm) cần thể hiện bản lĩnh văn hóa của mình trong bối cảnh mới – bối cảnh toàn cầu hóa.  Ja shaklikei (Nguồn: Tagalau 16)                                                                
0 Rating 422 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On September 2, 2012
Hố thing Chăm ngn năm tuổi Thứ Bảy, 01/09/2012 22:05 Rất nhiều hiện vật văn h꠳a Chămpa độc đo, c niᳪn đại ngn năm tuổi được pht hiện tại lࡠng cổ Phong Lệ - TP Đ Nẵng, h lộ nhiều b੭ ẩn của những dng chảy văn ha qua v⳹ng đất miền Trung Việc khai quật khu di tch khảo cổ Phong Lệ đến thật tnh cờ khi v�o thng 3-2011, một người dn lᢠm nh pht hiện những hiện vật Chămpa. Sự việc được bࡡo ln chnh quyền vꭠ một quyết định khai quật khẩn cấp được thực hiện. Qua 2 đợt khai quật (đợt 1 từ thng 4 đến thng 6-2011 vᡠ đợt 2 từ thng 7 đến thng 8-2012), Bảo tᡠng Nghệ thuật điu khắc Chămpa Đ Nẵng vꠠ tổ cng tc khảo cổ học Trường ĐH KHXH&NV H䡠 Nội đ pht hiện nhiều hiện vật qu㡽 bị vi chn trong l鴲ng đất cả ngn năm. Những bu vật ngࡠn năm Trong đợt khai quật lần thứ nhất, đon khảo cổ đo 5 hố thࠡm st trn diện t᪭ch 500 m2, pht hiện được những hiện vật v nền mᠳng của một khu đền thp rộng lớn. Chnh những ph᭡t hiện ny đ l࣠m tiền đề cho đợt khai quật lần thứ hai với quy m lớn hơn, ở ngay khu vực được cho l th䠡p chnh trong quần thể di tch rộng 10.000 m2. Tại đ�y những nh khảo cổ đ ph࣡t hiện một hố thing hnh vuꬴng nằm trong lng thp c⡳ cạnh di 4,26 m x 4,26 m, cc cạnh đࡡy khng đồng đều, di từ 3,86 m đến 3,95 m. Chiều s䠢u hố ny l 1,82 m được l࠳t những lớp đ cuội gốc granit v gốc thạch anh, xếp lớp lang trᠪn nhỏ dưới lớn xen với lớp ct trắng. Theo cc nhᡠ khảo cổ, đy l những vật liệu thường được người Chăm d⠹ng khi đo hố trong lng thಡp để đặt thờ những vật linh thing. Hố thing trong lꪲng thp Chm vừa được khai quật tại lᠠng Phong Lệ. Ảnh: ĐNG NGUYỄN Trước đԢy, tại khu đền thp Mỹ Sơn (tỉnh Quảng Nam), trong một đợt khai quật lng thᲡp G1, cc nh khảo cổ người ᠝ đ pht hiện một hố thi㡪ng 2,2 m x 2,31 m, trong đ c c㳡t, sỏi, đ ong v đᠡ ni. Thp nꡠy được xc định xy dựng vᢠo thế kỷ XII. Trong lng thp F1 được x⡢y dựng vo thế kỷ VIII, cc nhࡠ khảo cổ cũng pht hiện được một hố thing 1,84 m x 1,84 m chứa c᪡c vật liệu tương tự. Hố thing tại lng th겡p phế tch Phong Lệ lớn hơn rất nhiều so với cc hố thi�ng đ được pht hiện. Điều n㡠y chứng tỏ ngi thp c䡳 hố thing ny hẳn c꠳ kch thước kh lớn. Điều đặc biệt, c�c nh khảo cổ đ bất ngờ khi ph࣡t hiện ở cc vch hố thiᡪng ở Phong Lệ c 8 “hốc thing” v㪠 cho rằng đy l một kiểu kh⠡n thờ. Tm hốc thing n᪠y hnh thp, cao từ 47 - 53 cm. Bốn hốc thi졪ng ở cc gc Đ᳴ng - Ty - Nam - Bắc nằm lệch tim, khng đối xứng. Bốn hốc nằm ở cⴡc gc Đng Bắc - Đ㴴ng Nam - Ty Bắc - Ty Nam đối xứng nhau. Ph⢭a trước cc hốc thing đều c᪳ một vin đ thạch anh đꡣ được gia cng với phần đy lớn, phần tr䡪n nhỏ. Giữa hốc thing c một vi곪n đ cuội hnh bầu dục, chiều cao từ 14 - 16 cm,ᬠ pha trn được đặt một vi�n gạch hnh vung c촳 diện tch 16 cm x 16 cm, trng giống h�nh Linga v Yoni ngược. Cࠡc hốc thing cũng được lấp đầy ct trắng. Cꡡc nh khảo cổ phỏng đon rằng cࡳ thể đy l một c⠡ch yểm ba ch hoặc ma thuật n麠o đ theo quan niệm của người Chăm. TS Nguyễn Chiều, giảng vin ch㪭nh Bộ mn Khảo cổ Khoa Lịch sử Trường ĐH KHXH&NV H Nội, trưởng nh䠳m khảo cổ, nhận định: “Đy l kiến tr⠺c hố thing độc đo, khꡡc lạ m chng tິi chưa thể l giải được.” Sống tr�n cổ vật Những người dn sinh sống tại đy cho biết khi đ⢠o mng lm nh㠠 hay cc cng trᴬnh phục vụ dn sinh, họ thường pht hiện gạch ng⡳i, vết tch của thp Chăm. Họ cũng biết c� di tch Chăm ở đy nhưng kh�ng hnh dung đang sống trn một khu di t쪭ch ngn năm tuổi v lớn như vậy. Tại khu trưng bࠠy cổ vật hnh lang Quảng Nam trong Bảo tng Chăm Đࠠ Nẵng, khch tham quan dễ dng nhᠬn thấy một số hiện vật Chăm Phong Lệ được ghi nin đại từ thế kỷ VI-VII. Đ l고 những hiện vật được ng chủ đồn điền Phong Lệ tm thấy c䬡ch đy hơn 100 năm v gửi cho nh⠠ khảo cổ người Php Henri Parmentier, nay trưng by tại Bảo tᠠng Chăm. Cc nh khảo cổ Nhật đang nghiᠪn cứu những vin gạch vừa tm thấy tại hố thiꬪng. Ảnh: ĐNG NGUYỄN Những phԡt hiện khảo cổ mới đy tại khu phế tch Phong Lệ dường như mới chạm v⭠o một phần rất nhỏ những b ẩn cn nằm s�u trong những địa tầng văn ha Đ Nẵng. TS L㠪 Đnh Phụng, trưởng đon khảo s젡t, lịch sử Đ Nẵng, nhận định: Nằm chung trong dng chảy xứ Quảng của lịch sử dải đất miền Trung, manh nha từ văn hಳa Sa Huỳnh v theo suốt tiến trnh lịch sử với văn hଳa Chămpa hơn 1.000 năm, tiếp đ với gần ngn năm văn h㠳a Việt trn địa bn Đꠠ Nẵng đ để lại những dấu tch v㭴 cng quan trọng. Hiện tại, ở TP Đ Nẵng c頳 khoảng 10 phế tch Chăm được pht hiện nhưng hầu hết đ� bị chn vi trong l乲ng đất, chỉ cn st lại rải rⳡc khắp nơi những hiện vật v những giếng Chăm. Sau hơn cả ngn năm tồn tại, phế t࠭ch Phong Lệ tưởng như bị chn vi trong l乲ng đất với bao biến thin của lịch sử v d꠲ng chảy của thời gian v tưởng chừng chỉ cn được nhắc đến qua những hiện vật sಳt lại trong bảo tng, giờ đ hiện hữu v࣠ pht sng với những dự ᡡn văn ha du lịch đang được ấp ủ triển khai. Gắn di tch với du lịch 㭔ng V Văn Thắng, Gim đốc Bảo t塠ng Chăm, cho biết đon khảo cổ quyết định lập dự n đề nghị quy hoạch, bảo tồn, phࡡt huy gi trị di tch Chăm Phong Lệ với hy vọng sẽ được cấp ph᭩p xy dựng thnh khu bảo tồn, trưng b⠠y v phࠡt triển du lịch. “Quần thể di tch ny c� vị tr thuận lợi v nằm cạnh Quốc lộ 1A v� sng Cầu Đỏ, nối thẳng tuyến du lịch đường sng l䴪n khu di sản văn ha thế giới Mỹ Sơn, c c㳡c di tch lịch sử, khảo cổ bao hm nhiều gi� trị lớn lao. V vậy, nếu được quy hoạch kịp thời, khai quật hon chỉnh, nơi đ젢y c đủ tiềm năng để trở thnh điểm đến du lịch văn h㠳a hấp dẫn” - ng Thắng nhận định. Lng Phong Lệ cũng l䠠 một ngi lng cổ, ng䠠y trước c tn l㪠 Đ Ly, xuất hiện trn Hồng Đức bản đồ cડch đy hơn 500 năm. Đy cũng l⢠ qu hương của ng ꔍch Khim. Thời vua Thiệu Trị năm thứ nhất (1841), khi ng ꔍch Khim ra lm quan, lꠠng đổi tn thnh Phong Lệ. Hiện nơi đꠢy cn c nhiều nhⳠ vườn, những cy cổ thụ hng trăm năm tuổi, c⠳ nh thờ danh nhn ࢔ng ch Khiͪm v nhiều di sản văn ha phi vật thể rất độc đೡo. Đặc biệt c đnh thờ Thần N㬴ng v lễ rước mục đồng - lễ hội dnh riࠪng cho cc trẻ chăn tru, tᢴn vinh nghề nng, cầu cho những vụ ma bội thu đang được kh乴i phục v thu ht đິng đảo người dn tham gia. Tuy nằm trong TP Đ Nẵng nhưng l⠠ng cổ Phong Lệ vẫn giữ được những nt cổ knh. Theo 魴ng V Văn Thắng, nn quy hoạch khu vực n媠y thnh cng viപn khảo cổ du lịch, kết hợp pht triển một số lng nghề truyền thống để du khᠡch c thể vừa tham quan một lng qu㠪 giữa lng phố thị vừa thưởng thức những đặc sản, nghề truyền thống, đồng thời tm hiểu di t⬭ch lịch sử địa phương. Dấu tch những ta th�p Chăm đồ sộ Đợt 1 ( từ thng 4 đến thng 6-2011): Khai quật tại 5 hố thᡡm st trn tổng diện t᪭ch 206 m2, đon khảo cổ đ ph࣡t hiện nền mng kiến trc 2 phế t㺭ch thp Chăm quy m lớn, 30 hiện vật tương đối nguyᴪn vẹn v hng trăm viࠪn gạch, mảnh ngi, gốm… c nguồn gốc Chămpa ni㳪n đại khoảng 1.000 năm. Đặc biệt, dấu tch tại hố khai quật H1 rộng 90 m2 cho thấy c thể từng tồn tại một t�a thp Chăm đồ sộ tại đy. Đợt 2 (từ thᢡng 7 đến 8-2012): Khai quật tại 4 hố thm st trᡪn diện tch 500 m2, đon khảo cổ đ� lm lộ r vൠ chnh xc to�n bộ quy m v cấu tr䠺c chn mng của một tⳲa thp Chăm rất lớn, chn mᢳng c hnh chữ thập. Từ cửa Đ㬴ng đến cửa Ty của thp c⡳ chiều di 23,15 m; từ cửa Bắc đến cửa Nam c chiều dೠi 19,3 m; từ mng tường Đng đến m㴳ng tường Ty di 15,85 m; từ m⠳ng tường Bắc đến mng tường Nam di 16,15 m. Những phế t㠭ch chờ khai quật Đ l phế t㠭ch thp Chăm tại g Cấm MᲭt (thn Cẩm Toại Đng, x䴣 Ha Phong, huyện Ha Vang) rộng hơn 1.000 m2. Dấu tⲭch Chăm cn kh đậm đặc ở phế t⡭ch ny, c tiềm năng lớn về khai quật khảo cổ học. Phế t೭ch thp Qu Giᡡng (thn Qu Gi䡡ng, x Ha Phước, huyện H㲲a Vang), hiện c một ngi miếu B㴠, chnh giữa miếu c một tượng Chăm được đặt tr�n bệ đ, mặt trước c chạm khắc hᳬnh con t gic. Phế tꡭch thp Xun Dương (thᢴn Nam , phường HԲa Hiệp Nam, quận Lin Chiểu), theo người dn, trước kia nơi đꢢy l một l gạch cao bị đổ nಡt với nhiều tc phẩm điu khắc c᪳ tnh mỹ thuật cao, nay đ được đưa về bảo quản tại Bảo t�ng Điu khắc Chămpa. Cch trung tꡢm TP Đ Nẵng về pha Tୢy Nam khoảng 10 km, dưới chn ni Phước Tường c⺲n dấu vết của một quần thể đền thp Chăm rộng lớn, khu phế tch trong khu᭴n vin An Sơn cổ tự, một ngi ch괹a được dựng vo những năm giữa thế kỷ XIX... Bࠠi v ảnh: KIM NGN
0 Rating 420 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 14, 2012
Bạn c3 nhiều tưởng độc đo cần chia sẻ? Bạn muốn c� cơ hội được thể hiện khả năng ấy của mnh. Hy c죹ng tham gia viết kịch bản trn http://www.nguoicham.com/ đi no. ꠠ I. Mục đch, yu cầu: X�y dựng cơ bản tnh yu nam nữ, lồng gh쪩p xưa v nay, gia đnh, văn hଳa, thuần phong mỹ thuật của người chăm thời hiện đại… Tc phẩm phải ấn tượng, độc đo, cᡴ đọng, khng được trng lập hoặc tương tự với c乡c tưởng của VTV, đ v� đang trnh chiếu trn TV hoặc đăng k쪽 bản quyền trong v ngoi nước. II. Nội dung vࠠ thể lệ cuộc thi: Một kịch bản khi gửi về chưa cần phải l một kịch bản nghim chỉnh hay lઠ hon chỉnh, đng với kịch bản của phim. Mຠ chỉ cần một kịch bản theo thể loại văn xui cũng được. Nhưng yu cầu nhất thiết phải ghi r䪵 ci tưởng của mὬnh trong kịch bản đ. III. Cch thức tham gia: Viết một b㡠i mới: Tiu đề: Tn tꪡc phẩm dự thi – Họ tn của bạn Nội dung: Một bi dự thi tham gia ghi đầy đủ như sau: Họ vꠠ tn: Ngy thꠡng năm sinh: Email: Số điện thoại: Thể loại kịch bản dự thi: Tiu đề của kịch bản: Tm tắt ngắn gọn nội dung: Đ곭nh km file với kịch bản đầy đủ. IV. Đối tượng dự thi: Mọi c蠴ng dn Việt Nam, tổ chức trong nước v người nước ngo⠠i lm việc tại Việt Nam đều c thể tham dự; Thೠnh vin Hội đồng tuyển chọn khng được ph괩p dự thi. V. Thể loại kịch bản dự thi Phim ngắn (từ 5 đến 15 tập). VI. Thời gian dự thi Từ 15 – 10 – 2012 cho đến hết 15 – 03 – 2013. VII. Cch thức chấm giải Dựa trn ᪽ tưởng của kịch bản m ở đy chࢺng ta sẽ chia ra cc tiu ch᪭ để chấm: - Nội dung ( tưởng): điểm tối đa lݠ 10 - Cch thức trnh bᬠy: điểm tối đa l 10 VIII. Giải thường Giải nhất: 5.000.000đ Giải nh: 2.000.000đ Giải ba: 1.000.000đ Giải được khଡn giả bnh chọn nhiều nhất: 1.000.000đ V 3 giải nhất, nh젬, ba sẽ được mời đch thn t�c giả cng hợp tc với c顢u lạc bộ để quay phim. để được chiếu vo đm chung kết của cuộc thi -------------------------- Mọi thắc mắc, ઽ kiến về cuộc thi xin vui lng gửi tới: Email:
0 Rating 417 views 5 likes 0 Comments
Read more
By: On January 26, 2019
"Chi?n Tranh Gi?a Chiêm Thành và Trung Qu?c" (Suu Tam)  V??ng qu?c Chiêm Thành x?a nhìn vào nh?ng c? v?t và nh?ng di tích còn sót l?i ta th?y kho?ng th?i gian ??c l?p thì ng??i Champa r?t hùng m?nh và c??ng th?nh L?ch s? Chi?n tranh gi?a Chiêm Thành và trung qu?c ng??i Champa ?ã in ??m d?u ?n cho Trung Qu?c, h?n nhi?u ng??i s? ?n t??ng v?i b? tóc khá k? l? c?a cánh mày râu v?i ph?n tr??c ???c c?o nh?n thín, phía sau là bím tóc ?uôi sam dài th??t. Vì sao ?àn ông b?y gi? l?i ?? b? tóc ??c ?áo, k? l? nh? v?y? Ý ngh?a th?c s? c?a nó ra sao? Có m?t truy?n thuy?t liên quan ??n tháp Poklaong Garay k? r?ng ngày x?a ? Palei Cakling có hai ông bà tên Ong Kuak và Muk Peng dù ?ã cao niên nh?ng ch?a có con. M?t l?n ra bi?n mò cua b?t ?c ông bà th?y có m?t ??a bé ?ang trôi trên b?t n??c bèn ?em v? nuôi và ??t tên là Karit. Karit l?n lên tr? thành m?t cô gái xinh ??p, n?t na nên ???c nhi?u ng??i quý m?n. M?t hôm, Karit cùng cha vào r?ng hái c?i. Tr?i nóng n?c, hai cha con khát n??c nh?ng chung quanh l?i không có sông su?i. B?ng Karit th?y m?t t?ng ?á bên trên ??ng ít n??c trong, li?n ??n u?ng. L? thay nàng u?ng ??n ?âu n??c trong ?á tràn ra ??n ?ó. t? nhiên cô gái th? thai. T?i tháng, t?i ngày, cô sinh ???c m?t bé trai có s?c m?nh siêu nhiên, Trung Qu?c nghe ???c tin n??c Chiêm Thành sinh ra m?t ng??i tài r?i d?n dân chúng qua ?ánh n??c Chiêm Thành m?t l?n n?a.. Cho dù Po Klaong Garay có tài ??n m?y Po c?ng không bao gi? xâm chi?m ?c hi?p n??c y?u h?n mình, dân chúng ta th?y Trung qu?c ??a quân ??n r?t ?ông ?? ?ánh n??c Chiêm Thành, ng??i dân Chiêm Thành th?y ng??i Trung qu?c tàn b?o hung h?ng khi?p s? ch?y ??n c?u tr? Po Klaong Garay. vua Po Klaong Garay sai bi?u ng??i dân ?i ch?t c?c v?i Roi ??n cho nhà vua, dân Trung qu?c ??n n?i Po Klaong Garay tri?u t?p ??n h?i chuy?n, Po Klaong Garay gút c?c bu?c dây ?ánh cho Trung qu?c tan rã, dân Trung Qu?c xâm l??c th?t b?i ?? th?c hi?n l?i h?a không bao gi? dám xâm chi?m nu?c Chiêm Thành l?n n?a Trung qu?c ?ã tình nguy?n, cánh mày râu v?i ph?n tr??c ???c c?o nh?n thín, phía sau là bím tóc ?uôi sam dài th??t ph?i cho ??n 99 n?m.    Ngu?n: Facebook
0 Rating 415 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On April 28, 2014
GIAI ĐOẠN 1400 – 1471 1.Chủ trương, chính sách đối ngoại của hai bên. Chế Bồng Nga Chết, tướng của Chăm Pa là La khải (La Ngai) thu nhặt tan quân mà rút về từ bỏ cả những vùng đất mà trước kia Chế Bồng Nga đã chiếm được (như vậy lúc này lãnh thổ của Đại Việt trở lại phần biên giới ở Thuận Châu, Hóa Châu). Khi đã rút về nước La Khải tự xưng vương (giành ngôi hai người con của Chế Bồng Nga là Chế Mả-Nô Đả-Nam và Chế San-Nô, hai người này trốn sang cầu cứu Đại Việt và được Đại Việt bổ dụng) tức là Jaya Simhavarman[1] [2]. Đến năm 1401 Jaya Simhavarman V lên nối ngôi,mà sử Việt gọi là Ba Đích Lai[3]. Trong khi đó ở phía Đại Việt Hồ Quý Ly được sự ủng hộ của Nghệ Tông nên quyền lực ngày càng củng cố, sau khi mà Nghệ Tông mất năm 1395 thì nhà Trần Hoàn toàn bị Qúy Ly thao túng.Đó là thời cơ để Qúy Ly lật đổ nhà Trần, lập ra nhà Hồ vào năm 1400. Qúy Ly lấy tên nước là Đại Ngu[4]. Vừa lên ngôi Hồ Qúy Ly liền thực hiện chính sách liên tục gây chiến tranh với Chăm Pa để chiếm đất và giành lại thế quyền chủ động trong mối quan hệ với Chăm Pa, chủ trương của ông là muốn khôi phục lại vị thế cường quốc trước Chăm Pa, mở rộng đất đai. Nên liên tục trong các năm 1401-1407, Nhà Hồ đã ba lần Nam Tiến đánh Chăm Pa.Về Phía Chăm Pa lúc này trở nên yếu thế họ chỉ biết chống cự, trong cuộc hành quân của quân Hồ năm 1402, vua Chăm Pa buộc phải dâng đất Chiêm Động và Cổ Lũy (nam Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi) mà Chăm Pa gọi là Amaravati, để quân Nhà Hồ lui quân[5]. Khi nhà Hồ bị nhà Minh xâm lược, Chăm Pa mới giành lại phần đất này. Năm 1406, với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh mang quân sang đánh Đại Ngu. Sau một số trận kháng cự, sang năm 1407, cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương bị bắt, Nhà Hồ sụp đổ, kể từ đó Nhà Minh thống trị nước Việt suốt 20 năm. Năm 1418 đất Lam Sơn (Thanh Hóa) có người hào chủ tân là Lê Lợi cầm quân khởi nghĩa sau mười năm thì thắng lợi hoàn toàn đẩy lui quân Minh về nước. Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi hoàng đế tức Lê Thái Tổ, thành lập nên Nhà Lê Sơ, lấy tên nước là Đại Việt, đống đô ở Thăng Long. Ngay sau đó cả hai nước Đại Việt và Chăm Pa lập lại mối quan hệ hòa bình, điều này được đánh dấu bằng sự kiện vua Chăm Pa vào năm 1427 khi mà Lê Lợi đang dựng cờ khởi nghĩa, xưng là Bình Định Vương có sứ giả Chiêm Thành sang tiếp kiến vương, cống sản vật. Bình Định Vương lúc bấy giờ thiết yến sứ giả rồi lại sai cho ngựa và lụa về,Bình Định Vương lại sai Hà Lật (thiêm tri xu mật viện) đi theo đoàn sang thăm Chăm Pa[6]. Sau đó vào năm 1434 Lê Thái Tổ Băng hà, Lê Thái Tông lên thay, năm 1443 Thái Tông mất, Nhân Tông lên ngôi. Năm 1459 Lạng Sơn Vương Lê Nghi Dân cướp ngôi vua Nhân Tông, không bao lâu thì các đại thần như Nguyễn Xí, Đinh Liệt đem quân phế Nghi Dân mà lập Lê Thánh Tông lên ngôi, một ông vua mà lịch sử ghi nhận là anh minh. Chăm Pa vào năm 1441 khi vua Ba Đích Lai qua đời, Ma Ha Bì Cái nối ngôi ông vua này đã chủ trương gia tăng các cuộc đánh phá Đại Việt, vua Đại Việt là Lê Nhân Tông đã cho quân đánh Chăm Pa vào năm 1446, bắt Ma Ha Bì Cái và đưa Ma Ha Qúy Lai lên ngôi, ông vua này đã gửi lễ vật sang Đại Việt vào năm 1447, quan hệ hai nước lại tốt đẹp. Nhưng không đước bao lâu thì Qúy Lai bị Ma Ha Quý Đô cướp ngôi vào năm 1449.Qúy Đô lại bị ám sát Trà Duyệt lên ngôi vàò năm 1457, sang năm 1460 Trà Duyệt lại nhường ngôi cho Trà Toàn. Trước các hoặc động đánh phá của vua Chăm pa Bì Cái, Lê Nhân Tông chủ trương chinh phạt Chăm Pa và không chế ngôi vua của vương quốc này, sang đến đời Thánh Tông ông lại liên tục yêu cầu Chăm Pa phải dâng thêm cống vật và phụng sự cho vua Lê như với “Thiên Triều”.Vua Trà Toàn không thực hiện điều đó và còn liên tục đem quân sang xâm lấn Đại Việt vào các năm 1468,1469. Để trả lời cho những thái độ này cũa Trà Toàn vua Lê Thánh Tông quyết định chinh phạt Chăm Pa vào năm 1470[7]. Tóm lại từ năm 1400 đến năm 1471, chủ trương và chính sách ngoại giao với nhau giữa hai quốc gia hết sức phức tạp từ những chính sách thù địch, chiến tranh vào thời Nhà Hồ, rồi quan hệ hòa bình và giao hảo khi nhà Lê mới thành lập. Cho đến khi Ma Ha Bì Cái lên ngôi vua liên tục đánh phá nước Việt, tào cớ để vua Lê Nhân Tông can thiệp vào Chăm Pa. Cuối cùng là chính sách của vua Lê Thánh Tông chủ trương coi Đại Việt như thuộc quốc, khiến cho vua Chăm Pa trà Toàn liên tục đánh phá nước Đại Việt, dẫn đến cuộc hành quân của vua Lê vào năm 1471 để đánh Chăm Pa, cuộc chiến sẽ làm cho lãnh thổ vương quốc Chăm Pa càng thu hẹp, nơi mà nó chỉ còn tồn tại với danh nghĩa là chư hầu của Đại Việt,cũng chính ở phần lãnh thổ bé nhỏ còn lại đó sẻ ghi nhận sự hấp hối của nó cho đến ngày vương quốc này cáo chung mãi mãi. 2. Các sự kiện bang giao tiêu biểu Giao tranh thời nhà Hồ (1400-1407). Vào khoảng năm 1401 khi vừa lên ngôi và lập ra nhà Hồ, Qúy Ly sai Hồ Tùng đi đánh Chăm Pa, nghe lời Đình Đại Trung, cho quân bộ đi đường núi, tách xa hẳn quân thủy, gặp khi nước lũ, tướng sĩ ở giữa đường hết lượng đến 3 ngày, phải nướng cả áo giáp bằng da để ăn. Quân trở về, Tùng do đi đường hiểm, lỡ mất quân cơ, đáng phải xử chém. Nhưng vì có công lao hồi còn tiềm để được tha tội chết, đề làm xã binh[8]. Khoảng năm 1401 do sức ép từ nhà Minh Hồ Qúy Lý phải nhường ngôi lại cho con mình tức là Hồ Hán Thương và trở thành thái thượng hoàng. Nhà Hồ phế nhà Trần mà xưng Đế diều này khiên cho dân chúng đương thời rất nhiều người không phục, đặc biệt nhất là triều đại này phải chịu sức ép rất lớn từ Nhà Minh, mà lúc đó do Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc). Chính lúc này nhà Minh không chỉ can thiệp vào nội tình nước Đại Ngu, mà còn sẽ chi phối mạnh mối quan hệ Việt-Chăm Pa. Thất bại trong lần tiến quân trước năm 1402 Hán Thương lại sai Đỗ Mãn làm đô tướng, Nguyễn Vị và Nguyễn Bằng Cử làm chiêu thảo sứ, đem đại quân sang đánh. Khi đại binh kéo đến biên giới, Đinh Đại Trung làm tiên phong, gặp tướng Chăm Pa là Chế Thất Nan (Chế Tra Nan), hai bên giao chiến ác liệt. Vua Chăm Pa là Ba Đích Lại hoảng sợ, sai Bố Điền đem dâng các sản vật địa phương và dâng đất Chiêm Động; để xin cho rút quân.Quý Ly bắt Chăm Pa phải dâng cả đất Cổ Lũy nữa. Rồi Qúy Ly đem hai đất ấy chia làm 4 châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa (từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi)[9]. Đây là một tổn thất rất lớn của Chăm Pa vì họ đã lại phải từ bỏ thêm một phần đất nữa, mà người Chăm Pa gọi là Amaravati (một tiểu quốc của Chăm Pa). từ nay Chăm Pa mất những vùng đất ruộng màu mở phì nhiêu với khoáng sản phong phú, rời bỏ kinh Đô cũ của nước Chăm Pa mấy thế kỷ trước, nơi đã tích trữ biết bao nhiêu tài sản châu báu. Vua Chăm Pa là Ba Đích Lai không từ bỏ như vậy, ông đã cố gửi sứ sang cầu viện vua Minh, báo về việc Đại Ngu sang xâm lấn nước mình, vua Thành Tổ mới cử sứ giả sang gập vua nhà Hồ, nhưng nhà Hồ Hán Thương đã dùng nhiều vật cống cho Thiên Triều vua nhà Minh lờ qua chuyện này(1). Nhà Hồ quyết trả thù Chăm Pa về việc này. Năm 1403, Hồ Hán Thương bổ dụng Phạm Nguyên Côi làm đô tướng quân thủy, Hồ Vấn làm phó; Đỗ Mẫn làm đô tướng quân bộ, Đỗ Nguyên Thác làm phó. Quân thủy, quân bộ tất cả 20 vạn, đều phải chịu dưới quyền điều khiển của Nguyên Côi Khi quân đã đến Chăm Pa, sắm sửa nhiều khí giới chiến đấu, bao vây thành Chà Bàn, vì quân đi đã chín tháng, bị hết lương ăn, lại không hạ được thành, nên phải kéo về[10]. Đây chính là cuộc giao chiến cuối cùng họ sẽ không còn tồn tại bao lâu nữa, trong những năm 1405-1407 họ phải liên tục kháng chiến chống nhà Minh cho đên ngày mà nhà Minh đặt được nền đô hộ lên đất nước của người Việt (người đứng đầu trong cuộc xâm lược Đại Ngu chính là hai tướng Trương Phù và Mộc Thạch). Về phía nam đây chính là cơ may hiếm có của nước Chăm Pa họ vừa thoát được một cuộc chiến tranh xâm lược của Nhà Hồ và có cơ hội chăm Pa lại toàn bộ Amaravati (từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi) vào năm 1407, khi mà nhà Hồ vừa sụp đổ. Ba Đích Lai rất biết ơn vua Minh ông liên tục cử sứ thần sang cống lễ vật cho Thành Tổ trong các năm 1409,1410,1412. Sau khi tiêu diệt nhà Hồ và những nổ lực kháng chiến của nhà Hậu Trần, Trương Phù nghĩ đến việt phải đoại lại khu vực mà nhà Hồ đã chiếm được, khi biến loạn Chăm Pa lấy lại vào năm 1407, Trương Phù xin vua Minh cho Chinh phạt Chăm Pa, nhưng Minh Thành Tổ không chấp nhận, từ đó người Chăm Pa đều đặn dâng cống cho vua Minh. [11]. Triều đại nhà Hồ và sau đó là 20 năm thuộc Minh tuy chỉ là một giai đoạn ngắn nhưng chính trong thời kỳ này những sự kiện quan trọng đã diễn ra giữa hại quốc gia láng giềng này. Bên cạnh đó mối quan hệ này càng trở nên phức tạp khi có bàn tay dính liên hệ của Nhà Minh vương triều đang âm mưu thôn tính Đại Ngu, dưới chiêu bài “phù Trần” khi mà nhà Hồ đang phải đối mặt với những áp lực từ trong nước không được sự ủng hộ của dân chúng, nho sĩ đương thời. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nó vào năm 1407. Vua Lê Thánh Tông chinh phục thành Đồ Bàn và mở mang bờ cõi (1470-1471). Dưới ách thống trị của Nhà Minh dân chúng Đại Việt bị bóc lột và đàn áp, khổ sở vô cùng.Những phong trào khởi nghĩa chống lại Nhà Minh bùng nổ, Năm 1418 đất Lam Sơn (Thanh Hóa) có người hào chủ tân là Lê Lợi cầm quân khởi nghĩa sau mười năm thì thắng lợi hoàn toàn đẩy lui quân Minh, khôi phục độc lập, lập ra nhà Lê Sơ. Trong giai đoạn đầu Nhà Lê được thành lập quan hệ hai nước trở nên tốt đẹp, vua Chăm Pa lúc bấy giờ vẫn là Ba Đích Lai. Năm 1434 vua Lê Thái Tổ băng hà, Thái Tông còn nhỏ lên nối ngôi người Chăm Pa lại sang cướp Hóa Châu. Người Chăm Pa lấy thuyền đến do xét thực lực Đại Việt, nhân dân Hóa Châu mới chống lại và bắt được hai người Chăm Pa, đem về làm tù Binh, rồi sau cho tha về[12]. Sau này vua Chăm Pa mới lại sai sứ sang mang thư và lễ vật sang cầu phong[13]. Không lâu sau thì Vua Chăm Pa Jaya Simhavarman V (Ba Đích Lai) băng hà vào năm 1441 thì Ma Ha Bì Cái lên nối ngôi. Trong những năm 1444,1445 ông hai lần đưa quân sang đánh phá nước láng giềng phía Bắc, vua Lê Nhân Tông (ông lên nối ngôi vua Thái Tông) phải cử các tướng Lê Bôi, Lê Khả (năm 1444), Lê Xí (năm 1445). Cuộc đánh phá liên tục này khiến cho vua Lê phải cử Lê Thụ, Lê Khả dẫn 60 vạn quân đi đánh Chăm Pa năm 1446,(trước đó Nhân Tông đã gửi sứ thần sang Nhà Minh như để dàn xếp với Nhà Minh, để họ giữ vai trò trung lập). Quân Nhà Lê tiến vào thành Vijaya (Đồ Bàn) và bắt được Bì Cái đưa về thành Thăng Long và lập người cháu của Bì Cái là Ma Ha Qúy Lai lên nối ngôi. Vừa lên ngôi ông đã mang lễ vật sang dâng cho vua Lê Nhân Tông vào năm 1447, hai năm sau năm 1449 Ma Ha Qúy Đô truất phế Qúy Lai và sai sứ sang Đại Việt, năm 1460 Trà Toàn lên ngôi, đó là vua cuối cùng của Chăm Pa đóng đô ở Vijaya. Vua Lê Thánh Tông lên ngôi năm 1460 nhiều lần yêu cầu vua Chăm Pa phải dâng thêm cống vật và đưa Đại Việt lên vị thế thượng quốc nhưng vua Trà Toàn từ chối và còn xua quân tấn công Đại Việt vào những năm 1468,1469[14] [15]. Năm 1470 Trà Toàn thân hành đem 10 vạn quân thủy,bộ cùng voi ngựa đánh Hóa Châu. Tướng trấn giữ biên thuỳ ở châu Hoá là bọn Phạm Văn Hiển đánh không nổi, phải dồn cả dân vào thành, rồi cho chạy thư cáo cấp về cho triều đình, chính lúc này vua Thánh Tông liền chớp lấy thời cơ đó làm lý do chinh phạt Chăm Pa[16]. Trước khi đem đại quân đi thân chinh vua Thánh Tông cho chuẫn bị rất kỹ về chính trị đối ngoại, lực lượng, quân nhu, tinh thần quân, dân Đại Việt[17]. Ngày 16 tháng 11 (âm lịch) vua đích thân cầm 15 vạn thủy quân xuất quân, dọc đường nếu có đi đến đền thờ nao là vua cho dâng lễ tế. Đầu tháng 12 quân của vua tới Thiết Sơn (Nghệ An), đến giữa tháng đó thì vào đất Chăm Pa và cho binh sĩ tập luyện, vẻ lại bản đồ nước Chăm Pa[18]. Ngày 5 tháng 2 (âm lịch) Trà Toàn sai em đem viên tướng và 50 ngàn quân kéo đến sát trại quân Việt, ngày hôm sau vua Thánh Tông bí mật sai Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm và bọn Tiền phong tướng quân Lê Thế, Trịnh Văn Sái đem hơn 500 chiếc thuyền, 3 vạn tinh binh, vượt biển gấp,ngày 6 vua bí mật tiến vào cửa biển Sa Kỳ dựng lũy đắp thành để ngăn chặn lối về của giặc, nhà vua còn sai Nguyễn Đức Trung đa quân mai phục dưới chân núi. Người Chăm Pa không biết việc này. Ngày mồng 7, vua tự mình dẫn hơn 1.000 chiếc thuyền, hơn 70 vạn tinh binh ra hai cửa biển Tân Áp và Cựu Tọa. Tướng Chăm Pa tan vỡ, chạy về Chà Bàn. Chạy đến núi Mộ Nô, thì bị quân của Hy Cát đã chặn đường về, giặc cuống cuồng sợ hãi, chạy rẽ ngang trèo qua chân núi cao, xác người, ngựa và đồ quân tư đầy núi đầy đường. Bọn Lê Niệm, Ngô Hồng tung quân ra đánh, chém được một viên đại tướng Chăm Pa, còn thì đều sợ hãi tan chạy cả. Bấy giờ, vua đến Mễ Cần, tung binh tiến đánh, chém được hơn 300 thủ cấp, bắt sống hơn 60 tên. Trà Toàn nghe tin em mình thua chạy, rất sợ hãi, sai người mang biểu tới xin hàng[19]. Trong tình thế đó ông liên tục gửi thư đầu hàng vua Lê, nhưng vua Lê không chấp thuận và tiếp tục đánh vào kinh thành Chăm Pa. Ngày 27, vua tự mình đem đại quân đánh phá thành Thi Nại, chém được hơn 100 thủ cấp. Ngày 28, vua tiến vây thành Chà Bàn. Ngày 29, đến sát chân thành vây thành mấy vòng.Ngày mồng 1 tháng 3 hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người, chém hơn 4 vạn thủ cấp.Ngày mồng 2, vua thấy đã phá được thành Chà Bàn, liền xuống chiếu đem quân về, vua Trà Toàn bị bắt sống rồi đem quân về kinh sư[20]. Như vậy cuộc chinh phạt Chăm Pa của vua Lý Thánh Tông đã thắng lợi trận thắng này có một ý nghĩa hết sức trọng đại trong lịch sử của cả hai dân tộc. Sau trận chiến này cương vục lãnh thổ Đại Việt mở rộng hơn bao giờ hết, vua Lê Thánh Tông sáp nhập phần đất miền Bắc Chăm Pa mà ngày nay là từ vùng đèo Hải Vân-Đà Nẵng đến đèo Cù Mông (Phú Yên) vào lãnh thổ Đại Việt. Đây là lần đầu tiên mà Đại Việt mở rộng lãnh thổ lớn nhất, từ đó Đại Việt sẽ còn tiến xa hơn trong lộ trình mở cõi[21]. Chính vì thế cột mốc năm 1471 đã trở thành biểu tượng cho quá trình Nam Tiến của dân tộc và đánh dấu sự chiến thắng quan trọng của Đại Việt trước Chăm Pa trong bước đường chinh phục người láng giềng phía Nam, bởivì sau đó Chăm Pa chỉ còn mà một vùng đất chư hầu của Đại Việt và nhờ chiến thắng này mà Đại Việt sau này sẽ không cần phải khó khăn trong việc sửdụng sức mạnh quân sự để chiến thắng trước Chăm Pa mỗi khi cần cho tới ngày mà vương quốc này sụp đổ hoàn toàn năm 1697. Cũng từ lúc này phần lãnh thổ Chăm Pa đã bị mất rất lớn hơn bao giờ hết, nó đồng nghĩa với một sự suy thoái nặng nề của quốc gia này đến mức rơi vào khủng hoảng trầm trọng nhất: 60 ngàn quân và dân Chăm Pa đã chết, 30 ngàn người bị bắt làm tù binh: kinh đô, tông miếu tổ tiên bị tàn phá, lãnh thổ bị mất rất nhiều, khiến cho họ chỉ còn biết co cụm về phương Nam khô cằn, nghèo nàn; nó dẫn đến một sự suy tàn thật sự không còn cứu vãn được của vương quốc này cho đến ngày nó chính thức cáo chung với tư cách một quốc gia độc lập; sự kiện này còn đánh dấu sự suy đồi hoàn toàn của nền văn minh ấn giáo(2), thứ tôn giáo thống trị và chi phối toàn đất nước Chăm Pa, nó dẫn đến sự tan vỡ của một cơ cấu xã hội và tín ngưỡng tồn tại ở quốc gia này suốt từ khi lập quốc, nó làm cho xã hội càng rối loạn, trật tự, rạn nức các chuẩn mực, thiết chế và cơ cấu giúp xã hội tồn tại bền vững cũng bị tan vỡ, dẫn đến sự rời bỏ đất đai, xứ sở để di cư đến Chân Lạp, Mã Lai…hay còn xa hơn thế nữa, của rất đông người Chăm Pa. Thật sự phải nói rằng sự kiện này đã là một báo trước một sự chấm hết trong tương lai không xa của vương quốc Chăm Pa, vấn đề còn lại lúc này chỉ là khi nào mà điều đó sẽ đến. 3.Quan hệ: kinh tế, văn hóa-xã hội. Thương mại và buôn bán hai bên: Cho đến hôm nay những tư liệu ghi chép về thương mại và buôn bán của hai nước rất ít, trong giai đoạn từ năm 1400-1471 dù thời gian rất ngắn, thì hai nước có thể có các sự buôn bán qua lại với nhau nhưng chắc là không thể sôi động như thời kỳ Lý – Trần được bởi vì vào thời kỳ này triều đình Nhà Lê thi hành chính sách “bế quan tỏa cảng”, hạn chế trong lĩnh vực ngoại thương với nước ngoài, đối với Champa cũng không ngoại lệ[22]. Giao lưu văn hóa – xã hội: Trong thời điểm này những dấu ấn, ảnh hượng của Chăm Pa tại kinh thành Thăng Long không còn được nói đến nhiều như giai đoạn trước nữa, nhưng những dấu ấn của những thời kỳ trước ít nhiều vẫn còn những dư âm và hiện diện đâu đó trong kinh thành, như một phần tạo nên văn hóa Thăng Long nghìn năm văn vật: + Bằng chứng là vẫn còn nhiều công trình thời Lê, mang bóng dáng của Chăm Pa như Chùa Châu Lâm (hay chùa Bà Đanh) là để phục vụ nhu cầu tâm linh cho các sứ thần người Chăm Pa đến làm việc tại Thăng Long và sau này trở thành một trong những nơi thờ cúng tôn giáo của cư dân Chăm sống trên đất Việt[23]. + Ngoài ra, thì có rất nhiều nghi vấn liên quan đến ngôi chùa Bà Đá (phố Nhà Thờ, Hoàn Kiếm, Hà Nội). Tương truyền, đời Lê Thánh Tông ở làng Báo Thiên Tự Tháp có người đào được một pho tượng Phật Bà bằng đá. Người ấy liền dựng một cái miếu để thờ ngay tại nơi đào được tượng. Sau dân làng thấy thiêng mới làm thành một ngôi chùa hẳn hoi, đón sư về cúng bái.Pho tượng Bà Đá đó đã bị mất vào thời Pháp thuộc. Có nhiều các nhà nghiên cứu cho rằng, đây là bức tượng có nguồn gốc từ Phật giáo phương Nam (hay Chămpa), nhưng cho đến nay, do tượng đã bị mất chúng ta chưa thể kết luận chính xác. + Nơi thờ cúng của Hai Bà Trưng nằm ở đền Đồng Nhân, Hà Nội có lẽ cũng đặt ra những nghi vấn. Trong các lễ hội này thường xuất hiện những điệu múa Con đĩ đánh bồng. Điệu múa là cho thấy nhiều yếu tố tâm linh mang tính chất nữ thần đã hòa hợp nhanh chóng với các nữ thần linh nước Việt. Chúng ta có thể thấy Hai Bà Trưng có lẽ là hóa thân của Thiên Yana trong mắt cư dân Chăm ở Đại Việt trong thời gian đầu. Và về sau này, quá trình Việt hóa đã khiến chúng ta khó nhận diện những dấu vết Chămpa đó. Nhưng chắc rằng đã có sự hòa hợp giữa tín ngưỡng thờ Hai Bà Trưng của người Việt với tín ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở (Thiên Yana) của người Chăm, để chúng ta ngày nay có vị nữ thần Việt đan xen với những điệu múa mang dấu ấn Chăm pa[24]. Trong khi đó khi nhìn về phía nam, chặng đường mở cõi của dân tộc ta thời kỳ này tiếp tục phát triển, năm 1402 khu vực mà người Chăm gọi là xứ Amavati, mà tiếng Việt gọi là Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi) đã thuộc về đất Việt, Hồ Qúy Ly đem đất ấy chia làm 4 châu là: Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa. Qúy Ly lại đem dân chúng người Việt vào đây sinh sống, lao động, lập làng, ở chung với người Chăm Pa bản địa, lại còn cho ghi chữ tên quận lên những người này để họ không trốn đi nơi khác[25]. Từ đó người Việt mới đến và những người Chăm Pa ở lại đất này, chung sống với nhau hòa đồng,người Việt có sự dung hợp với văn hóa tâm linh Chăm, họ cùng tiếp tực tiếp thu các kinh nghiện sản xuất, sinh hoạt văn hóa của nhau: 
0 Rating 403 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
LTS: Sau ba n?m ?
0 Rating 401 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 26, 2012
”Trng puh”, một từ lai căng độc đo, được ghꡩp lại từ một từ tiếng Việt (trng) v một từ tiếng Chăm (puh) nghĩa lꠠ rẫy; xuất hiện gần đy, gắn với một biến cố mang tnh ch⭭nh trị, xảy ra tại cc ngi lᴠng người Chăm. Đ l việc thu hồi v㠠 đền b đất đai, do Nh nước quy hoạch. Người ta kh頴ng lạ g với những từ lai căng được ghp th쩠nh từ hai ngn ngữ theo kiểu ny, v䠬 n khng hiếm, do sự mai một của tiếng mẹ đẻ. Tuy nhi㴪n, người ta phải đặt một dấu hỏi đồ sộ về từ “trng puh”, do hm nghĩa khꠡc lạ của n. Lẽ ra, họ phải ni l㳠 “mất puh” th đng hơn; nhưng tại sao họ lại bảo l캠 “trng puh”? Điều ny cho thấy, nghề lꠠm nng rất khổ cực; họ khng th䴭ch lm nng, vബ lợi nhuận thu hoạch rất t. Nh nước bỏ tiền ra đền b�, thế l họ mừng; họ mừng, cn những người cಳ hiểu biết th lo. Họ mừng v c쬳 tiền chi cho sinh hoạt đời thường trong hiện tại. Họ khng thấy rằng, sau ny họ sẽ l䠠m nghề g, khi khng c촲n đất để sản xuất? Con chu của họ sau ny sẽ lấy đᠢu đất đai để lm ăn, trong khi nghề nng vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế người Chăm? Liപn quan đến vấn đề ny, hng loạt cࠢu hỏi được đặt ra. Cng tc đền b䡹 ny được thực thi như thế no? Thࠡi độ của người Chăm ra sao? Đời sống của người Chăm sẽ ra sao khi khng cn đất để sản xuất? T䲴i l cng dഢn của Việt Nam, nhưng ti mang trong mnh d䬲ng mu của người Chăm. Ti cᴳ nghĩa vụ cầm sng bảo vệ tổ quốc khi bị xm lăng, nhưng tꢴi cũng phải c trch nhiệm với người đồng tộc. Ta c㡳 quyền ni ra nguyện vọng chnh đ㭡ng của người đồng tộc. Đ l nền tảng cơ bản cho một nước d㠢n chủ, được quy định r rng trong hiến ph堡p. Một số tr thức Chăm trong nước cảm thấy rụt r khi đề cập đến vấn đề n�y, chưa thấy một pht biểu no thật sự cᠳ tc động hiệu quả từ họ. Trong khi đ ở hải ngoại, Po Dharma đ᳣ c lời hng biện xuất sắc tr㹪n web Champaka.org, lm tăng vị thế cho cnh đࡠn chnh trị của ng. Thế l�, người Chăm hải ngoại được thế hạ thấp hnh ảnh của cc bậc tr졭 thức trong nước. Ti nghĩ, ta ni ra quan điểm của m䳬nh cũng đu c gⳬ l ngại! Đ lೠ quyền tự do ngn luận. Người Chăm, đa số lm n䠴ng, sống tập trung nhiều nhất ở tỉnh Ninh Thuận. Thời tiết ở đy rất khắc nghiệt, t mưa, nắng hạn, rất bất lợi cho nền n⭴ng nghiệp; điều ny khiến họ khng mặn mഠ lắm với nghề lm nng, nhưng cũng phải lഠm, v khng c촲n lựa chọn no khc. Trong nࡴng nghiệp, họ chỉ độc canh trồng la nước; cc cꡢy trồng khc chiếm tỉ trọng khng đᴡng kể. Một số hộ c hnh nghề chăn nu㠴i, chủ yếu l nui cừu; một thời gian cừu bị mất giഡ, gy lỗ nặng, khiến họ từ bỏ nghề nui cừu, trở lại với nghề trồng trọt; việc thu hoạch phụ thuộc vⴠo nước mưa, trng cậy vo trời. Hiện nay, một số palei cũng c䠳 một số cng trnh thủy lợi phục vụ sản xuất, tuy nhi䬪n chỉ đủ tưới cho một diện tch hẹp, hoạt động cũng khng thường xuy�n, do thời tiết bất thường. Hồ Tn Giang phục vụ tưới tiu cho l⪠ng Văn Lm v c⠡c lng ln cận, chỉ hoạt động vࢠo ma mưa; ma kh鹴 th ngưng hoạt động. Đất đai l điều kiện cần c젳, để lm nng nghiệp. Diện tഭch đất ruộng khng đủ để người dn canh t䢡c; hơn nữa, ở Palei Ram mỗi năm lại chỉ lm 2 vụ, ma h๨ phải bỏ hoang. Do thiếu đất canh tc, nhiều người Palei Ram đnh dắt tay nhau lᠪn rừng, khai khẩn đất hoang để c đất sản xuất; lm nương rẫy cũng gặp nhiều kh㠳 khăn, do khng c k䳪nh đo tưới tiu nઠo trn đất rẫy, đnh phải gieo trồng tr꠴ng nhờ vo nước mưa. Đất đai ngy cࠠng chật hẹp do sự lấn p của đ thị. Quᴡ trnh đ thị h촳a diễn ra nhanh chng. Cc đ㡴 thị ny hầu hết do người Kinh cư tr. Người Chăm khິng c một đặc lợi no từ sự mở rộng của c㠡c đ thị; ngược lại, họ như bầy chim lạc loi trong sự c䠡ch biệt của nền văn ha. Một số hộ c mở một số cửa h㳠ng bun bn nhỏ lẻ, nhưng lợi nhuận kh䡴ng thể b đắp với cc vấn đề ph顡t sinh trong qu trnh sinh sống. Cᬡc hộ gia đnh cư tr xen lẫn trong đ캴 thị ny c ೽ thức dn tộc kh lu mờ; phụ nữ hiếm khi thấy mặc v⡡y, đội khăn cũng chỉ thỉnh thỏang; trong khi yếu tố ny l điều căn bản cho một nền văn h࠳a chịu sự chi phối của tn gio như cộng đồng Chăm. T䡴i c tiếp xc với một số hộ gia đ㺬nh ny, họ gần như c lập do sự cഡch biệt về văn ha. Cc thương nh㡢n người Chăm cũng khng đủ sức để cạnh tranh với một đội ngũ thương nhn l䢠nh nghề trong cc đ thị. Đᴳ l mặt tri của quࡡ trnh đ thị h촳a. N như một qu tr㡬nh thu hẹp phạm vi khng gian sinh sống của người Chăm. Trn đ䪢y l những kh khăn, mang t೭nh trực quan; đnh thế, lại c một kế hoạch thu hồi đất đai của Nhೠ nước. Nh nước thu hồi với l do g୬? Theo lời của cn bộ lng xᠣ, Nh nước thu hồi đất để lm khu sản xuất muối, khu sản xuất c࠴ng nghiệp, khu định cư…Một vấn đề l, ta thấy những dự n nࡠy khng đem lại lợi ch g䭬 cho người Chăm. Điều ny c bất b೬nh đẳng khng? Nh nước l䠠 Nh nước chung cho tất cả dn tộc sống trong lࢣnh thổ Việt Nam, cc nh cầm khᠴng thể đối xử cục bộ, tước quyền lợi của tộc người ny để vun trồng cho một nhm người thೢn thch của họ. Đất đai bị thu hồi, cc đồng muối đ� mộc ln ở một số nơi, vốn trước đy được dꢹng để sản xuất nng nghiệp; một khi lm muối, th䠬 đất đai ở đy sẽ bị nhiễm mặn, khng sản xuất nⴴng nghiệp được nữa. Cc doanh nghiệp sản xuất muối đều l người Kinh; người Chăm hiện nay khᠴng tham gia lm muối; v vậy, đồng muối kh଴ng mang một thu nhập no cho người Chăm. Khi xưa, người Chăm sống ven biển, hnh nghề đࠡnh bắt c trn biển rất giỏi giang; hiện nay, c᪡c ngi lng s䠡t bn biển khng c괲n nữa; cc lng khᠡc d cch biển cũng kh顴ng xa, nhưng họ hon ton kh࠴ng lm nghề đnh bắt cả trࡪn biển, v dĩ nhin lઠ khng lm muối. Đất đai bị thu hồi, người Chăm đ䠠nh đổ dồn vo khu cng nghiệp Đồng Nai; ở đഢy, c nhiều người lng Văn L㠢m tạm cư lm cng nhഢn; lm cng nhഢn cũng mang lại thu nhập, nhưng đằng sau sự hiện hữu của đồng tiền l cả một vấn đề lớn pht sinh. Hầu hết, họ lࡠ những người đang ở lứa tuổi thanh thiếu nin, thiếu nhiều kĩ năng cần thiết , trong khi họ khng th괭ch nghi với điều kiện sinh hoạt ở nơi đất lạ. Bản sắc văn ha cũng khng c㴲n chỗ để cư ngụ. Đất đai bị thu hồi, khng gian sinh sống của người Chăm bị hạn hẹp đi; một số hộ đnh rời bỏ tan䠢h riya mukkei (vng đất tổ tng) để sống xen cư với người Kinh. Người Chăm ở Ninh Thuận quan niệm: đất đai l鴠 nơi cư ngụ của thần linh, l nơi cư ngụ của linh hồn tổ tng. Họ gắn bള vng đất ny từ l頢u đời; rời bỏ đất đai cũng đồng nghĩa với việc rời bỏ thần linh, mukkei (tổ tng). V vậy, ta c䬳 thể ni, việc thu hồi đất đai của người Chăm sinh sống, khng chỉ g㴢y kh khăn về kinh tế, cn đụng chạm đến kh㲭a cạnh tm linh! Với số tiền đền b n⹠y, họ dng vo việc g頬? Một số gia đnh dng v칠o việc xy cất nh ở, cũng để lại ph⠺c đức cho con chu; tuy nhin, nhiều người d᪹ng số tiền ny để “duh yang”, “duh bang” một cch tốn kࡩm. Nhiều nghi thức thờ cng khng cần thiết được thực h괠nh. Nhiều hộ dnh số tiền ny để mua trࠢu, giết thịt lm đm tang; người mới khuất được thực hiện lễ tang nࡠy đ đnh, người chết l㠢u mấy năm trời rồi cũng được nhắc lại để thực hnh đm tang. Đࡢy l một kha cạnh về lễ tục, cୡc nh nghin cứu phải x઩t lại? Vấn đề ny, ti xin dഠnh cho cc chuyn gia! Một số gia đ᪬nh dnh số tiền ny để gửi ngࠢn hng với li xuất rất thấp. Khi tࣴi hỏi rằng, sao bc khng cho người đồng tộc vay để cᴳ li suất cao hơn? Họ ni l㳠, cho người dn vay, ti sợ họ khⴴng trả nổi tiền!Sao kh4ng c một doanh nghiệp ti năng, c㠳 uy tn, tập hợp số tiền ny x�y dựng một cơ sở kinh tế để người Chăm c việc lm; rồi trả l㠣i suất cho người dn với gi cao hơn l⡣i suất ngn hng th⠬ cớ sao họ lại khng đồng tnh cơ chứ? Nh䬠 nước c quyết định thu hồi đất, người Chăm khng phản đối được; họ đ㴠nh chịu nhận tiền đền b, nhưng số tiền đền b n鹠y lại c một phần rơi vo t㠺i của những cn bộ chức quyền. Điều ny khiến người Chăm bất hᠲa, đy chnh l⭠ nguyn nhn trực tiếp thꢴi thc họ xuống đường đấu tranh. Ngy 6 – 12- 2007, tập thể nữ giới lꠠng Văn Lm biểu tnh trước trụ sở Uỷ ban nh⬢n dn tỉnh Ninh Thuận đi lại quyền sở hữu đất đai. CⲴng an v bộ đội dn phࢲng đến: dng hai chiếc xe cơ giới chở những người phi yếu n顠y vứt bỏ ở huyện Tuy Phong, tỉnh Bnh Thuận v ở Cam Ranh, tỉnh Kh젡nh Ha! Đy l⢠ hnh động khng thể chấp nhận được, bởi cള nhiều cch để giải ton những người biểu tᡬnh ny, sao giới cầm quyền địa phương lại dng biện ph๡p ny? Ngy 23 – 7- 2008, ở lࠠng Văn Lm xảy ra một biến cố; hng trăm đồng b⠠o người Chăm, hầu hết l phụ nữ, tụ tập trn đường quốc lộ 1A, chặn đoઠn xe thủ tướng đi ngang qua, yu cầu chnh quyền hoꭠn trả lại đất đai bị tịch thu cho 73 hộ người Chăm. Về tnh chất của chuyện ny, nếu gạt bỏ v�i người qu bức xc trong đạm đng th, đ䬢y l một cuộc đấu tranh hợp php đࡲi quyền lợi chnh đng. Ch�nh quyền địa phương đ can thiệp kịp thời, đ phạt t㣹 một số phần tử qu khch n᭪n khng cn g䲬 để đổ thm tội cho họ. Cũng về vấn đề ny, anh Bꠡ Văn Bản – một thanh nin người Chăm 25 tuổi, do phản đối chnh quyền, đꭲi quyền sở hữu đất đai, c hnh động qu㠡 khch (chặt vi c�y đo trn đất bị trưng dụng), nપn bị bắt giam trong t. Ngy 27- 8 – 2008, anh qua đời, chỉ sau 2 th頡ng trong trại giam; về nguyn nhn khiến anh chết, được kết luận khꢡc nhau. Theo lời chnh quyền địa phương, đy kh�ng phải l sự tra tấn lầm lẫn người Chăm trong trại giam. Theo khẳng định trn Champaka.org, anh Bડ Văn Bản “bị cảnh st tra tấn đến chết”. Tuy nhin, ta c᪳ thề khẳng định rằng, d nguyn nh骢n no đi nữa, trch nhiệm vẫn thuộc về cࡡc nh cầm quyền địa phương. Người Chăm l những người hiền lࠠnh, nhưng với sự rn luyện trong qu tr衬nh đấu tranh sinh tồn trong lịch sự, họ khng ngần ngại đứng ln để đấu tranh. Nh䪠 nước cần c nhiều chnh s㭡ch chiu đi người Chăm hơn; một khi đ꣡p ứng được nguyện vọng của họ, th dễ dng lấy được niềm tin của họ; như vậy, c젡c thế lực th địch kh m鳠 lợi dụng để kch động tm l� bất mn; như vậy, Nh nước sẽ giảm đi chi ph㠭 cho nền quốc phng hơn. Đ chẳng phải lⳠ con đường giải quyết tốt đẹp đ sao?
0 Rating 396 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On August 28, 2012
"Thp Chăm Phong Lệ cần khai quật rộng hơn" - Sng nay (28/8), tại khu vực khai quật di tᡭch Chăm lng Phong Lệ, Bảo tng Điࠪu khắc Chăm – Đ Nẵng phối hợp với Trường ĐH KHXH&NV thuộc ĐHQG HN tọa đm c࠴ng bố những kết quả khai quật bước đầu v nu lપn phương n bảo tồn pht huy giᡡ trị di tch… >> Truy tm vật thi�ng trong lng thp Chăm >> Giải m⡣ hố thing nghn năm trong lꬲng đất >> Pht hiện hố vung kỳ lạ giữa lᴲng thp Chăm >> Phát ḷ nᴪ̀n tháp Chăm-pa nghìn tủi Quang cảnh buổi tọa đ䠠m ngay tại di tch Chăm lng Phong Lệ �ng Nguyễn Chiều, giảng vin chnh bộ mꭴn khảo cổ học, khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH&NV HN, người chủ tr khai quật cho biết: Đợt khai quật vừa qua đ l죠m lộ kh r rᵠng v chnh xୡc ton bộ quy m vഠ cấu trc chn mꢳng của 1 to thp Chăm. Cụ thể, chࡢn mng c b㳬nh đồ gần hnh chữ Thập. Từ cửa Đng tới cửa T촢y di 23,15m, từ cửa Bắc tới cửa Nam di 19,85m. Từ m࠳ng tường Bắc tới mng tường Nam di 16,15m. 㠠 Bề mặt của chn mng khⳡ bằng phẳng, được tạo bởi 1 lớp gạch vụn đầm rất chắc, dy khoảng 10cm. Pha dưới lớp gạch vụn đầm mặt m୳ng đến độ su hơn 2m l những lớp gạch vụn đầm kh⠡c xen kẽ giữa những lớp cuội cng ct trắng. Lớp dưới c项ng l đất pha ct, khࡡ mịn v chặt. Ở chnh tୢm của mng thp c㡳 1 hố vung c độ s䳢u cng với mng th鳡p. Hố vung ny được Đo䠠n Khảo cổ quy ước gọi l Hố thing. Hố thiપng c vch ph㡭a ty, bắc chiều di 3,86m, v⠡ch pha đng, ph�a nam l 3,92m. Một phần hiện trạng di tch Chăm được tiến hୠnh khai quật Được biết, đy l những kết quả ban đầu sau hai đợt khai quật Di t⠭ch khảo cổ Phong Lệ nằm tại địa phận thn 3, Phường Ha Thọ Đ䲴ng, Quận Cẩm Lệ, Thnh phố Đ Nẵng (đợt 1 (thࠡng 4/2011 đến cuối thng 6/2011; đợt 2 (đầu thng 7/2012 đến cuối thᡡng 8/2012). Trao đổi trong buổi tọa đm, PGS.TS Bi Duy H๲a, ủy vin hội đồng Di sản Quốc gia, cũng l một người dꠢn Đ Nẵng, ni: “Kết quả khai quật khảo cổ học ban đầu lೠ rất lớn. Nhưng n chỉ l những t㠭n hiệu cơ bản, chưa đầy đủ. V vậy, ti đề xuất, tiếp tục tiến h촠nh khai quật quy m rộng lớn, để c kết quả to䳠n diện”. Hiện vật di tch Chăm: đ thạch anh, gạch chăm được trưng b�y ng VԵ Văn Thắng, Gim đốc bảo tng Chăm cho biết thᠪm: Sau đợt bo co kết quả của đợt khai quật di tᡭch Chăm ny, chng tິi tạm thời dừng tiến hnh khai quật v đề nghị UBND Phường tiếp tục quan tࠢm cng tc bảo vệ di t䡭ch. Chng ti cũng đề nghị th괠nh phố hỗ trợ, quy hoạch di tch v khu vực chung quanh di t�ch thnh một khu bảo tồn di sản văn ha, trưng bೠy, giới thiệu sản phẩm truyền thống của địa phương, gắn liền bảo tồn di tch với pht triển kinh tế du lịch. C�c hnh ảnh về hiện vật điu khắc t쪬m thấy ở di tch Phong Lệ Cc nh� khảo cổ vẫn đang tiếp tục tm kiếm cc hiện vật nơi hố thi졪ng v những hiện vật lin quan đến khu thડp ny cng như t๬m kiếm tra cứu ti liệu lịch sử để giải m những b࣭ ẩn nơi khu thp Chăm dưới lng đất lᲠng Phong Lệ vừa được pht lộ ny. Đᠴng đảo người dn đến xem hiện vật Di tch Chăm tại l⭠ng Phong Lệ thu ht một số nh khoa học, nghi꠪n cứu nước ngoi cũng đến tm hiểu ଠ Uyn Chu - Vũ Trung
0 Rating 395 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 8, 2017
Cách ?ây n?a th? k?, v?i t?p th? kh? nh?, m?ng m?nh g?m 36 bài là ?iêu tàn, Ch? Lan Viên ?ã “??t ng?t xu?t hi?n gi?a làng th? Vi?t Nam nh? m?t ni?m kinh d?” (Hoài Thanh -  Thi nhân Vi?t Nam). Kinh d? không ph?i ch? vì lúc ?ó tác gi? còn nh? tu?i (lúc vi?t ?iêu tàn, ông ch? m?i 15-16 tu?i) mà ch? y?u vì gi?ng th? bu?n ?o n?o pha màu s?c huy?n bí k? l?. ? ?ó, Ch? Lan Viên ?i ng??c th?i gian, và b?ng t??ng t??ng ?ã ph?c hi?n m?t th?  gi?i ch? còn trong ký ?c v?i nh?ng d? c?m hãi hùng khác th??ng. ? ?ó, ng??i h?c trò m?t n??c tìm th?y l?i ???c nh?ng d?u v?t huy hoàng r?c r?  c?a m?t dân t?c m?nh m? vào lo?i b?c nh?t c?a ?ông Nam Á nh?ng ngày  nay ch? còn trong c? s? và huy?n tho?i: dân t?c Ch?m-pa. ?ây, ?i?n các huy hoàng trong ánh n?ngNh?ng ??n ?ài tuy?t m? d??i tr?i xanh?ây, chi?n thuy?n n?m m? trên sông l?ngB?y voi thiêng tr?m m?c d?o bên thành(Trên ???ng v?) Nh?ng ??y ch? là ánh h?i quang c?a m?t gi?c m? h? ?o thu?c v? quá vãng. Nó thoáng hi?n và không b?ng bó ???c v?t th??ng lòng cho con ng??i. Mà d??ng nh? nó l?i còn kh?i sâu thêm cho n?i ?au hi?n t?i: V? r?c r? ?ã tàn bao n?m tr??cBao n?m sau còn d?i ti?ng kêu th??ng Có l? ch? vì Ch? Lan Viên s?ng trong m?t giai ?o?n l?ch s? b? nô l? và trong m?t không gian tràn ng?p s?c bu?n g?i c?m. S? di?t vong c?a m?t dân t?c  ?ã d? dàng ??p m?nh vào tình c?m và trí t??ng t??ng c?a m?t ng??i trai  tr? yêu n??c. L?i thêm nh?ng ch?ng tích còn ?ó, nh?ng c? tháp s?ng s?ng nh?ng tr? v?, l?c lõng gi?a ru?ng ??ng núi non khô kh?c c?a mi?n Trung n?ng cháy, nh?ng huy?n s? g?i c?m xa xôi v? Ch? B?ng Nga, nàng M? Ê, thành ?? Bàn ?ã khi?n nhà th? tu?i tr? l?m ?i trong ni?m u u?t, tr?m c?m tuy?t v?ng : C? d? vãng là chu?i m? vô t?nC? t??ng lai là chu?i huy?t ch?a thànhC?ng ???ng chôn l?ng l? nh?ng ngày xanh(Nh?ng n?m  m?) M?c t??ng tri?n miên trong m?c t??ng, nhà th? h? Ch?  ch? th?y nh?ng vang v?ng l?ch s? kia m?t th? gi?i “?iêu tàn”. ?ó là m?t cõi âm gi?i v?i x??ng s? ??u lâu, v?i m?  không huy?t l?nh. v?i tha ma pháp tr??ng. ?ó là m?t dòng sông Linh  h? ?o ???c d?ng lên d??i tà d??ng n?ng x? hay trong ?êm m? s??ng tàn l?nh, v?i nh?ng h?n ma v?t v??ng, v?i nh?ng thành quách ?? nát trong m?t màu s?c tàn l?i kinh d?. ?iêu tànc?a Ch? Lan Viên vì th? là m?t th? gi?i h? linh, ma quái chìm ??m trong bóng t?i cô ??n l?nh l?o v?i nh?ng c?n mê s?ng c?a m?t tâm h?n vong nô b? giá l?nh: ?ây, nh?ng tháp g?y mòn vì mong ??iNh?ng ??n x?a ?? nát d??i th?i gianNh?ng sông v?ng lê mình trong bóng t?iNh?ng t??ng Chàm l? lói r? rên than?ây nh?ng c?nh ngàn sâu cây l? ng?nMuôn ma H?i s? so?ng d?t nhau ?iNh?ng r?ng th?m bóng chi?u lan h?n ??nL?ng l?ng ??a n?i r?n rã ti?ng t? quy?ây chi?n ??a ?ôi bên giao tr?nMuôn c? h?n t? s? thét g?m vangMáu Chàm cu?n tháng ngày ni?m u?t h?nX??ng Chàm tuôn rào r?o n?i c?m h?n(Trên ???ng v?) Và b?ng m?t lòng tin ?au ??n, ông d?ng lên m?t th? gi?i hoang t??ng h? ng?y, và ông tin là nó có th?t. R?i ông b? hút theo xác tín siêu hình ?ó. Nh?ng sau ?ó, xác tín b? ?ánh  v?, lúc ?y ông tr? nên cô ??n và câm ??ng. Vì th? Ch? kêu lên h?t ho?ng, m?t ti?ng kêu kh?c kho?i v? vi?c n?i ?au bi bi?n ch?t, v? vi?c m?t lòng tin và ch? còn l?i s? cô ??n. Và ông t? ng?y t?o cho mình nh?ng âm v?ng t? m?t th? gi?i khác ?? trò chuy?n: Ai kêu ta trong cùng th?m h? vôAi réo g?i gi?a muôn sao ch?i v?i ?ó th?c s? là m?t ti?ng kêu h?t ho?ng mà sâu th?m, m?t ti?ng g?i kh?c kho?i v? n?i cô ??n c?a con ng??i trong xã h?i nô l?. Th?c ra ?ó là cách nhà th? c? t?o ra m?t ng?n cách gi? ??nh gi?a nhà th? và cu?c ??i. Cho nên khi cu?c ??i "t?t c? không ngoài ngh?a kh? ?au" thì tin vui mùa xuân ??a ??n ch? còn là m?t s? m?a mai ?au ??n: Tôi có ch? ?âu có ??i ?âu?em chi xuân l?i g?i thêm s?u ?V?i tôi t?t c? nh? vô ngh?aT?t c? không ngoài ngh?a kh? ?au(Xuân) Ch? có mùa thu là th?t, c?ng nh? ch? có n?i ?au là th?t, nh?ng v?i thu ?y, c?ng ch? có m?t bóng ng??i ?i - v?, ?i t?i ?âu không bi?t, và v? ? n?i không bao gi? t?i và mong ??c: Ô hay tôi l?i nh? thu r?iMùa thu r?m máu r?i t?ng chútTrong lá bàng thu ?? r?c tr?i???ng v? thu tr??c xa l?m l?mMà k? ?i v? ch? m?t tôi Ng??i con trai m?nh m? và say ??m "ch? m?t tôi" ?y không tìm th?y cho mình m?t kho?ng l?ng thanh th?n gi?a ngày ?? m? m?ng và yêu th??ng. Nhìn vào ?âu c?ng th?y ch?t ng?t nh?ng tháp bu?n ch? v?. Tâm c?m con ng??i c? tràn ng?p s?c úa quá vãng và siêu hình. Trong kho?ng gi?a n?m, mùa nào c?ng là "??a ng?c". ? mùa xuân thì nh? mùa thu, ? mùa thu hi?n t?i thì ch?p ch?n nh? mùa thu quá kh?. Còn trong kho?ng gi?a ngày - bu?i tr?a, v?i lòng nhà th? ch? là m?t mi?n ??t siêu tr?n th?: Tr?a lên tr?i. Và xanh th?m b?u tr?iB?ng mê ly, n?m th?y tr?ng mây trôi(Tr?a ??n gi?n) Hay ngay trong bu?i ??u ngày xán l?n, ta v?n th?y Ch? m?c t??ng u u?t: ?ây muôn v?t chìm sâu trong yên l?ngMà lòng ta th?n th?c mãi không thôiHay ng??i khóc vì tháp Chàm qu?nh v?ngHay khóc vì xuân ??n g?ch Chàm r?i ?(Bình ??nh, 9h sáng ngày 25-12-1936) Ch? có bu?i t?i, n?i bóng ?êm ng? tr?, nhà th? m?i ???c sinh t?n vì ? ?ó, nh?ng linh h?n "?iêu tàn" b? khánh ki?t lòng tin m?i bi?t c?m thông và g?p ???c nhà th?: Này, em trông m?t vì sao ?ang r?ngHãy nghiêng mình mà tránh ?i nghe emCh?c có l? lính h?n ta lay ??ngKhi v?i vàng tr? l?i n??c non Chiêm (?êm tàn) Khác v?i Hàn M?c T? - n?i ?au ??i ???c di?n ??t b?ng n?i ?au ng??i, m?t n?i ?au tr?i nghi?m c?a th?t da tôi s??ng s?n và tê ?i?ng, Ch? Lan Viên nh?c nh?i m?t n?i ?au trí tu? sâu s?c. ?ó là c?n v?t vã c?a suy t??ng chiêm nghi?m v? xác tín, v? ni?m tin, v? s? t?n t?i c?a con ng??i trên m?t ??t, và v? cái Tôi b? vong thân gi?a ??i. B?i th? cách tìm ki?m ph?c sinh c?a Ch? th?t khác v?i bao nhà th? khác nh? V? ?ình Liên, Nguy?n Nh??c Pháp, Nguy?n Bính, ?oàn V?n C?,... Nh?ng thánh ???ng, tháp c?, nh?ng thiên th?n v? n? ?ang nh?y nh?ng ?i?u luân v? tr?n th? ??y g?i c?m hoan l?c trên ?á hay nh?ng nét tr?m t? c?a nh?ng con bò ?á canh gi? vòm tr?i tinh tú c?a n?n ngh? thu?t k? di?u Ch?m-pa ?ã không ???c ông chú ý. Ông ch? kh?c sâu n?i "?iêu tàn" ?ang có c?a nó ?? ph?c sinh nh?ng tâm h?n b? vong nô: Ai t??ng ??n tháp Chàm kia tr? tr?iTháng ngày luôn r?ng c?a ??i ma H?iAi nhìn ??n làn th??ng rêu l? lóiTrên th?t h?ng n?t n? g?ch Chàm t??i(Thu v?) ?iêu tàn vì th? ph?n nào có th? làm cho m?t s? ng??i bi?t suy ngh? và nh? l?i thân ph?n ?ích th?c c?a mình cùng nh?ng bài h?c l?ch s? ??u lòng c?a m?t dân t?c ch?a bao gi? ch?u làm nô l?.Và ngày nay, ??c ?iêu tàn, chúng ta c?m ?n r?t nhi?u nhà th? Ch? Lan Viên, nh?ng ? m?t bình di?n khác, tôi còn mu?n c?m ?n th? gi?i ngh? thu?t còn l?i c?a Ch?m-pa: Chính th? gi?i này không ch? là ch?t li?u cho c?m h?ng thi ca m?t th?i mà nó còn là toàn b? th?n thái bu?n bã ?o n?o và ?au ??n cùng c?c c?a ?iêu tàn c?a Ch? Lan Viên nói riêng và c?a tr??ng th? Lo?n Bình ??nh nói chung. Chính nó ?ã làm nên khí ch?t, s?c th? và tình ?i?u th?m m? cho tr??ng phái th? n?i ti?ng này, và c?ng t? ??y ghi l?i m?t d?u son khó phai trong l?ch s? thi ca Vi?t Nam hi?n ??i.LÊ QUANG ??C(theo t?p chí V?n hóa H?i An s? 2, ra tháng 09-2000) (Trà Nha S?u t?m) theo gocnhosantruong.com
0 Rating 395 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 3, 2013
Ảnh minh họa Cam Karaoke - Thạch Ngọc Xuân Chào các bạn! Champa có một nền văn hóa rực rỡ lâu đời và đã thăng trầm theo năm tháng suốt chiều dài của lịch sử, nhưng bản chất con người Chăm luôn luôn tồn tại và khó có thể mất đi trong dòng máu của họ đó là năng khiếu về nghệ thuật âm nhạc, như ca, múa, nhạc, kịch, sáng tác,… Đã từ lâu và hình như chưa có ai, hoặc nhóm nào trong cộng đồng người Cham chúng ta cho ra mắt cuốn Cam Karaoke DVD. Chắc vì họ ít quan tâm hay là chưa có điều kiện và hiểu biết về chuyên môn để thực hiện Cam Karaoke nên việc ước mong có được cuốn Cam Karaoke để trong tủ sách gia đình vẩn còn là ảo tưởng. Dẫu sao đi nữa, chúng tôi cũng đã nhiều lần thực hiện muốn ra sản phẩm Cam Karaoke DVD cho cộng đồng mình, nhưng rồi cũng bị thất bại vì chất lượng chưa được khả quang và hoàn hảo. Nay thời gian không phụ lòng người, rồi cuối cùng Cam Karaoke sẽ được ra mắt với quí đồng hương trong dịp lể hội Katé 2013, tuy nó đơn sơ mộc mạc nhưng tình cảmhoài bảo và bao nhiêu công sức, thời gian và mọi sự cố gắng đã dồn vào cho đứa con tinh thần; Cam Karaoke Vol-01 này, nên chúng tôi ước mong bà con yêu thích, động lòng và đón nhận cuốn Cam Karaoke DVD khởi đầu này. Đây là món ăn tinh thần cho mọi người Chăm chúng ta luôn đã và đang khao khác chờ đợi và mong mõi suốt nhiều thập niên qua ( Việt Nam đã có từ lâu). Cũng vì số phận dân tộc Champa không may mắn như bao dân tộc khác, nên người Chăm chúng ta chưa có điều kiện để thực hiện ước mơ nho nhỏ và rất giá trị này. Nay niềm vui lại đến trong những ngày Lễ Hội Truyền thống Champa Kate 2013, một bạn trẻ Cham VAN IKAN, là người có nhiệt huyết, luôn say mê về văn hóa, ngôn ngữ và chữ viết Chăm. Anh ta đã và đang cố gắng đem chữ viết Cham vào trong lòng mọi người dân Chăm bằng mọi hình thức qua nhiều dạng media, như tạo nhiều video clips, như films có lòng tiếng nói và phụ đề chữ Chăm, Karaoke video clips, cách học chữ Cham nhanh nhất qua tựa đề “ Akhar Thrah 7 Harei (Học chữ Cham "Akhar Thrah" trong 7 ngày)”...trên cộng đồng mạng trong những thời gian vừa qua mà ai cũng thừa nhận về việc làm có giá trị và ý nghĩa này. Vì anh ta cho rằng vốn ngôn ngữ và chữ viết Cham ngày càng mai một trong mọi giới, nhất là giới trẻ của dân tộc Chăm chúng ta trong thế kỹ 21 này. Chính vì nguyên nhân trên và muốn bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết Cham, anh ta đã và đang bỏ rất nhiều công sức, thời gian vào học hỏi và tìm tòi để làm ra sản phầm Cam Karaoke Vol.01"lần đầu tiên trong cộng đồng của chúng ta. Trong cuốn DVD này, nó được bao gồm với 12 tình khúc chọn lọc và thân thuộc với bà con. Cuốn Karaoke DVD này được trình bày song song chữ Cam Akhar Thrah và Latin Rumi (EFEO). Đây là công trình bước khởi đầu về Cam Karaoke DVD, nên vẫn không tránh khỏi về chất lượng, nhưng dù sao đi nữa nó cũng góp phần không nhỏ về tính bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết Cham chúng ta. Rất mong quí đồng hương và các bạn hữu gần xa ủng hộ, góp một bàn tay để đưa Cam Karaoke DVD Vol.01 này đến từng gia đình để con em chúng ta có cơ hội, điều kiện gần gủi tiếng mẹ đẻ qua nhiều bài hát trong cuốn Karaoke DVD một cách thiết thực hơn. Sự ủng hộ của các mạnh thường quân và gia đình là niềm tin và động lực lớn lao để chúng tôi thực hiện nhiều Video DVD Karaoke khác trong tương lai có giá trị về mặt nghệ thuật và nội dung hơn. Chúng tôi hy vọng lần sau sẽ cho ra mắt cuốn Cam Karaoke DVD Vo 2 . "Nhạc chủ đề theo yêu cầu" với hình ảnh video HD, đẹp sáng, sinh động và phong cách hơn ! Cuốn Cam Karaoke DVD Karaoke vol.01 sẽ ra mắt vào hai ngày trong dip lễ hội Katé 2013 tai U.S.A. 1. Ngày 5 tháng 10 năm 2013 tạ iSacramento, California. 2. Ngày 12 tháng 10 năm 2013 tại San jose, California Nhân dịp mùa lễ hội Katé 2013, tôi thay mặt anh em trong “Nguoicham Team” xin chúc đến bà con xa gần, bạn hữu sức khỏe, bình an, an khang và thịnh vượng. Thân chào, Thạch Ngọc Xuân
0 Rating 394 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On October 9, 2012
Thổ cẩm là nghề “mẹ truyền con nối” và là nguồn sống của cả làng Mỹ Nghiệp - Đó là chủ đề cuộc triển lãm nghệ thuật đặc sắc nhằm khơi gợi và bảo tồn những giá trị văn hóa dân gian độc đáo của dân tộc Chăm sẽ khai mạc vào chiều ngày 28/5 tại Hà Nội.   Dân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa cổ, hiện có khoảng 20 vạn người, nhiều nhất ở Ninh Thuận - 85.000 người, và Bình Thuận - 37.000 người. Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, sinh hoạt hàng ngày vẫn giữ nếp truyền thống với các lễ hội dân gian rất đặc sắc. Rija Nưgar (vào đầu năm Chăm lịch, tức tháng 4 Dương lịch) và Katê (Tết Chăm, vào tháng 7 Chăm lịch, tức tháng 10 Dương lịch) là hai lễ hội lớn nhất. Người Chăm cũng rất giỏi nghề thủ công, nổi bật nhất là nghề gốm và dệt thổ cẩm. Tại triển lãm Không gian văn hóa Chăm, công chúng sẽ có dịp thưởng lãm các sản phẩm gốm, thổ cẩm mang đậm họa tiết truyền thống của nền văn hóa Chăm cổ cùng nhiều tác phẩm văn học độc đáo nói về con người và cuộc sống của đồng bào dân tộc Chăm.   Không chỉ giỏi nghề dệt thổ cẩm, người Chăm còn được biết đến với nghề làm gốm Bên cạnh đó, công chúng được gặp lại và giao lưu với nghệ nhân Thuận Thị Trụ, người đoạt danh hiệu “Bàn tay vàng thổ cẩm Việt Nam. Bà là người có công sưu tầm hơn ba mươi hoa văn nền tưởng như đã thất truyền và từ đó cách điệu ra khoảng năm mươi hoa văn khác. Tại đây, bà sẽ kể những câu chuyện thú vị về văn hóa Chăm thông qua phần trình diễn nghệ thuật dệt thổ cẩm và những điệu múa của mình… Được biết, triển lãm sẽ kéo dài đến hết ngày 11/6 tại 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội. N.H theo dantri.com
0 Rating 391 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 20, 2013
Washington, USA ngy 20 thng 1 năm 2013, Ban Biࡪn Tập Champaka.info chỉ thật sự chỉ c bốn người thường xuyn viết b㪠i: Tiến sĩ Po Dharma, Karim( Lộ Trung Cn), Musa (Thnh C⠴ng Thỏa ) , v Thnh C࠴ng Vinh. Chỉ c bốn người cho mnh l㬠 đng, cn lại to겠n thể Cộng đồng Chăm l sai hay sao? Xin mọi người hảy ngưng tay đấu đ nhau ngay hࡴm nay. Ai cn tiếp tục viết bi n⠳i xấu người khc nữa, th chᬭnh kẻ đ, web site đ l㳠 người CỐ gݢy chia rẽ Cộng đồng Chăm. C! nhn ti, chỉ lⴠ một hạt ct trong sa mạc Champa, cầu xin cc linh hồn của Vong Quốc Champa, của Pᡴ Kongrai, của Porome, ..... hy ph hộ cho Cộng đồng Chăm của ch㹺ng ta được bnh an! Xin mọi người hảy dnh thời gian để truyền b젡: lịch sử của Vương Quốc Champa cho 90 triệu dn Việt Nam cng hiểu biết.⹠ Xin mời mọi người cng nghe: Chương trnh n鬳i chuyện về nguồn gốc v lịch sử của Vương quốc Champa của Đi EM Radio: ( www.emradio.org ) http://www.youtube.com/watch?v=uRCT8pSyQg8 Vࠠ xin mời mọi người cng xem playlist của: "Champa đ頲i quyền Dn Tộc Bản Địa " http://www.youtube.com/watch?v=OED1L1Z2Ttg&list=PL0kXM6fgiAvNn5ikOoCiDSNs7zIy0Jqbx&feature=mh_lolz Đoa karun ral. Linh Đặng Washington, USA
0 Rating 388 views 9 likes 0 Comments
Read more
By: On June 6, 2012
Văn Hiến -Văn h3a trang phục Chăm thể hiện qua cc hiện vật được trưng by ở Bảo tᠠng điu khắc Chăm rất đa dạng phong ph. T꺹y theo nghề nghiệp, trong sinh họat hng ngy, trong h࠴n lễ, trong cc lễ hội cũng như theo lứa tuổi, giới tnh… m᭠ trang phục được may theo những phong cch khc nhau. Nhᡬn từ đặc điểm giới tnh, c thể nhận thấy nếu như phụ nữ Chăm th� qung khăn mu trắng, vࠡy ở trong, o ở ngoi, cᠳ khăn mu đỏ đnh ở tay phải vୠ bn hng, b괪n tay tri c đ᳭nh tua mu đỏ. Đn ࠴ng dn tộc Chăm lại mặc quần o trắng, khăn đ⡴i đầu mu vng c࠳ dải buộc ở quần. Đồ đội đầu của đn ng Chăm phổ biến lഠ khăn, đối với người đn ng trẻ tuổi thബ khng đội khăn m chỉ vắt khăn ch䠩o vng cổ qua vai. Cch đội đầu của người Chăm biểu hiện sự ph⡢n biệt cc đẳng cấp trong x hội, đᣠn ng qu tộc th佬 đội khăn c dệt vải hoa văn quả trm c㡹ng mu trắng phủ kn mặt vải, c୲n đn ng bബnh thường th sử dụng khăn dệt trơn bằng vải th trắng kh촴ng c hoa văn. Đn 㠴ng Chăm v thiếu nữ Chăm trong ngy lễ Trong văn h࠳a dn tộc Chăm, ng giữ đ⴨n l người chủ tr nghi lễ tắm tượng thần lễ, mặc trang phục thần P଴Klong Garai, mặc o vy mᡠu trắng, bn ngực phải c gắn khăn đỏ, khăn đội đầu m고 trắng c viền tua đỏ. Thầy ko đ㩠n l người chủ tr cଡc nghi lễ lin quan đến nng nhiệp. Trong lễ Kate, thầy k괩o đn ht bࡠi thnh ca ca ngợi cc vị thần cᡳ cng đức với dn l䢠ng được người Chăm ngưỡng mộ, suy tn. Thầy mặc o v䡡y mu trắng, vy quần cࡳ viền, khăn chong đầu mu trắng c࠳ viền tua đỏ, vai phải c khăn mu đỏ vắt ngang, tay tr㠡i vắt hai khăn mu đỏ, mu vࠠng. Thầy k)o đn Kanhi, Cả Sư vࠠThầy Bng Khc với thầy k㡩o đn, thầy bng quೠng khăn chong đầu mu trࠡng viền tua đỏ, o mặc trong mu trắng, ᠡo mặc ngoi mu đỏ, vࠡy quần mu trắng, trn vડy quần c đnh m㭠u nu với hoa văn thu rất đặc sắc, vai phải của thầy b⪳ng qung khăn mu đỏ. Y phục của bࠠ Đơm Cơm trong văn ha Chăm cũng rất đặc biệt với khăn chong cổ về ph㠭a tri c viền đỏ, ᳡o vy mu trắng, vᠡy quần viền đỏ, tay phải cũng c khăn mu đỏ. B㠪n cạnh đ l h㠬nh ảnh thầy vỗ- nghệ nhn biểu diễn trống Ghinăng- một loại nhạc cụ trong dn nhạc cổ truyền của người Chăm. Thầy vỗ c⠳ khăn chong đầu mu trắng, hai bࠪn c viền tua đỏ, o v㡡y mu trắng, tay phải c khăn mೠu đỏ. Thầy Vỗ (hnh tri) -졠Trang phục c du ch䢺 rể (hnh phải) 젠 Nt độc đo ở văn h顳a trang phục người Chăm cn thể hiện trong trang phục ngy cưới. Trong ng⠠y lễ trọng đại ny, ton bộ ࠡo vy của c dᴢu mang mu trắng c viền hoa văn đỏ, cೳ tua mu đỏ đnh tr୪n khăn ở bn tri. Trang phục ch꡺ rể gồm o trong mu trắng, ᠡo ngoi mu t࠭m, trn đầu đội cả khăn đội đầu v khăn ch꠹m. Ch rể mặc vy trắng kh꡴ng viền hoa văn c3 dải khăn. Ty theo loại lễ hội v t頭nh chất lễ hội m trang phục Chăm c những điểm khೡc nhau. B Bng lೠ người dng lễ vật ln c⪡c vị thần trong cc đền thp. Bᡠ l người trung gian lm cầu nối để chuyển tải lời cầu nguyện của dࠢn lng ln cડc vị thần v ngược lại. B B࠳ng mặc o di trắng, vᠡy trắng, khăn đội đầu v cuối c viền tua đỏ, ngoೠi ra cn c th⳪m khăn trầu đỏ. B vũ sư v bࠠ Bng Kh㠡c với B Bng, Bೠ Xế l người phụ lễ trong cc nghi thức liࡪn quan đến đền thp hằng năm như lễ mở cửa thp, lễ tống ᡴn, lễ Kat v trong tang lễ. Bꠠ mặc o vy mᡠu trắng, khăn đội đầu mu trắng c viền tua đỏ, vai phải cೳ khăn mu đỏ v c࠳ v mang trn người. Ngo�i ra, trong bảo tng cn trưng bಠy trang phục của thầy Cả Sư. Đối với người Chăm theo đạo Blamn. Thầy Cả Sư cള nhiệm vụ tnh lịch php Chăm, điều h�nh v điều phối cc Paseh phục vụ tang lễ vࡠ chủ tr cc nghi thức lễ li졪n quan đến đền thp hng năm. Trang phục của thầy Cả Sư gồm vᠡy o mu trắng, vᠡy quần c viền đỏ vng xanh, khăn m㠠u trắng c viền tua đỏ, vai phải c khăn đỏ vắt ngang vai, vai tr㳡i mang v. Đối với người Chăm, đồ trang sức cũng chiếm một vị tr quan trọng trong văn h�a trang phục. Người đn ng Chăm dഹng đồ trang sức đơn giản, họ chỉ c đeo duy nhất một chiếc nhẫn, mặt nhẫn c đ㳡nh hột đen được bao quanh bằng hoa 8 cnh m họ thường gọi lᠠ chiếc nhẫn Mưta. Người phụ nữ Chăm thường đeo hoa tai c đnh tua vải m㭠u đỏ hnh nấm, hnh tr쬲n, hnh vnh khăn l젠m bằng vng, đồng thau v c࠳ đnh tua vải đỏ, cổ c đeo x�u chuỗi hột trn hnh bầu dục cũng bằng v⬠ng hoặc đồng thau, tay đeo nhẫn Mưta mặt nhẵn c đnh hột đen được bao quanh bằng hoa 4 c㭡nh: chiếc nhẫn Mưta l đồ trang sức in đậm bản sắc Chăm. Từ những hiện vật được trưng by ở bảo tࠠng Chăm, c thể nhận thấy trang phục của người Chăm chủ yếu lấy mu trắng l㠠m mu sắc chủ đạo, viền trn chઢn vy, tay o… thường lᡠ hoa văn thu mu đỏ sự trang tr꠭ trn trang phục khng qu괡 cầu kỳ nhưng vẫn tot ln được vẻ tinh tế cũng như sự độc đ᪡o, l nt ri੪ng thuộc về bản sắc khng ha lẫn, kh䲴ng pha tạp với bất kỳ dn tộc no.⠠ Trang phục Chăm trong c!c lễ hội Nhn tổng qut, 졡o di phụ nữ Chăm v phụ nữ Kinh c࠳ nhiều nt tương đồng, chỉ khc nhau ở chỗ l顠 o di Kinh cᠳ xẻ t với nt bấm để mặc hay cởi được dễ dຠng chứ khng phải chui đầu như o d䡠i Chăm. Chnh ở đặc điểm ny m� người Chăm cho rằng o di Kinh tuy giống ᠡo di Chăm nhưng được nng cao về mặt mỹ thuật vࢠ tiện lợi hơn. V cũng chnh v୬ lẽ đ, trang phục được xem như một tn hiệu biểu trưng để nhận biết, ph㭢n biệt tộc người ny với tộc người khc trong cộng đồng dࡢn tộc, l một gi trị bền vững mang mࡠu sắc ring của mnh. ꬠ Nghệ nhn thổi t (vỏ ốc biển)⹠ L Chnh theo: vntimes.com.vn
0 Rating 386 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2015
Sakaya- Lễ hội Katé của người Chăm (Sakaya)   Giới thiệu Người Chăm là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam có số dân khoảng 137 ngàn người, sinh sống trên nhiều địa phương như Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh... Nhưng Ninh Thuận là nơi có người Chăm sinh sống lâu đời và có số dân tập trung đông nhất, chiếm 50% người Chăm ở Việt Nam. Hiện nay họ vẫn còn bảo lưu nhiều phong tục tập quán, nghi lễ hội hè liên quan đến đền tháp. Trong đó có Lễ hội Katé là lễ hội đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa người Chăm . Lễ hội Katé được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 lịch Chăm nhằm để tưởng nhớ các vị Nam thần như Po Klaong Garai, Po Romé... Lễ hội được diễn ra trên một không gian rộng lớn từ đền tháp (bimong- kalan) - làng (palei) - đến gia đình (sang danaok). Lễ hội được lần lượt tổ chức theo thứ tự trước sau tạo thành một dòng chảy của lễ hội Chăm phong phú, đa dạng. Lễ hội Katé là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm. Nơi ấy chính là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ những giá trị, tinh hoa văn hóa. Do đó lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính - nơi ngưng tụ những gía trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa Chăm mà còn đem đến một phần khác của văn hóa như đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ; những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nuớc và hát kể về công việc đồng án, mùa màng, sản vật trăm hoa trăm quả trăm nghề. Lễ hội còn xuất trình trước công chúng một nền nghệ thuật ca- múa- nhạc dân gian mang một phong cách riêng biệt, độc đáo. Lễ hội Katé là giây phút thiêng liêng của người Chăm hành hương về cội nguồn dân tộc, đánh thức tháp Chăm cổ kính lặng ngủ dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, sáng loà, tỏa ra trăm sắc ngàn hương trong vườn hoa văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.   Nội dung và ý nghĩa cuả Lễ hội Katé Lễ hội Katé được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 lịch Chăm.Ðây là lễ hội của người Chăm nhằm tưởng nhớ cá vị Nam thần như Po Klaong Garai, Po Romé... Và tưởng nhớ ông bà tổ tiên , trời đất đã phù hộ độ trì cho con người. Lễ hội Katé là biểu hiện một nữa cấu trúc lưỡng hợp thuộc về dương đối lập với yếu tố âm - Lễ Cabur (lễ cúng các vị Nữ thần vào tháng 9 lich Chăm). Sự đối lập, liên kết giữa Nam thần (po) - Nữ thần (bia), Trời - Ðất (lingik- tanah), Ðực – Cái (likei – kumei), Mẹ - Cha (ama- amaik), Tối – Sáng hoặc Mặn – Lạt (yuer – klam)... là nét đặc trưng phổ quát trong nền văn hóa Chăm được thể hiện sâu sắc trên nhiều bình diện như nghi lễ hội hè, ăn mặc, màu sắc cho đến loại hình biểu diễn nghệ thuật khác. Tất cả những yếu tố trên toát lên nội dung, hàm chứa một ý nghĩa phồn thực với sự liên kết lưa đôi, cầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi, cây trồng ... Bản thân lễ hội Katé chứa đựng cốt lõi nội dung và ý nghĩa ấy.   Không gian của lễ hội Katé Katé là lễ hội lớn của cộng đồng người Chăm. Lễ hội được diễn ra trên một không gian rộng lớn từ đền tháp (bimong - kalan) - làng (palei) - đến gia đình (sang danaok). Lễ hội được lần lượt tổ chức theo thứ tự trước sau tạo thành một dòng chảy của lễ hội Chăm phong phú, đa dạng. Trình tự diễn ra lễ hội Katé người Chăm như sau :   Katé ỏ Đền- Tháp Chăm   Đền Po Nagar ở thôn Hữu Đức Lễ đón rước y phụ Po Nagar diễn ra ở đây từ lúc 12h00 đến 13h00 cùng ngày thì kết thúc.Ðịa điểm tại thôn Hữu đức, xã phước Hữu, huyện Ninh Phuớc, tỉnh Ninh Thuận , cách thị xã Phan Rang 12km về hướng Tây Nam. Ðây là lễ đón rứơc y phục của Nữ thần Po Nagar- Thần mẹ xứ sở của người Chăm gắn liền với nhiều huyền thoại, truyền thuyết. Chính Nữ thần là thủy tổ của người Chăm, đã dạy người Chăm trồng lúa, trồng bông dệt vải, và dạy cho người làm lễ hội như ngày nay. Lễ diễn ra tại một ngôi Ðền thờ (Danaok) trong làng - Ðền được xây dựng vào 1942. Nơi đây, du khách sẽ chứng kiến cuộc đón rước, trao báu vật của Nữ thần và giao lưu văn hóa giữa người Chăm và người Raglai.Tuy nhiên rất tiếc, hai ngôi tượng của Nữ thần bằng đá đã bị mất cắp vào năm vào 1997 (tượng Adakan, cao 0,80 m, nặng khoảng 100 kg, có niên đại thế kỉ 9 và tượng Po Tâh, cao 0,50m được làm bằng ximăng 1955).   Tháp Po Klaong Garai Lễ diễn ra bắt đầu từ lúc 8h30 đến 14h00 cùng ngày kết thúc. Tháp Po Klaong Garai nằm trên ngọn đồi trầu (cék hala) thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về phía Tây Bắc. ThápPo Klaong Garai là một tổng thể kiến trúc nghệ thuật bao gồm 3 ngôi tháp: Tháp chính (kalan po) cao 20,5m bên trong có thờ một tượng vua Po Klaong Garai bằng đá dưới hình thể Mukhaling (Linga có gắn mặt thần chủ) và một tượng Bò Nandin bằng đá ở lối ra vào; Tháp cổng (kalan tabah mbang) cao khoảng 8,56 m; tháp lửa (sang cuh yang apuei) cao 9,31m.Ngoài ra ở phía sau tháp chính còn có một ngôi miếu nhỏ thờ một phiến đá. Xung quanh tháp được bao bằng một vòng thành.Tháp đượcngười Chăm xây dựng vào cuối thế kỷ 12 đầu thế kỷ 13 để thờ vị vua Po Klaong Garai (1151 - 1205) - một vì vua có công với dân, với nước, được người Chăm suy tôn thành thần thủy lợi. Tháp Po Klaong Garai là một cụm tháp hoàn mỹ, đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ trong nền nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Champa. Tháp được Bộ Văn Hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật vào năm 1979. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành trung tâm thu hút cộng động người Chăm Ninh Thuận trong ngày Hội Katé hàng năm.   Tháp Po Romé Lễ diễn ra bắt đầu từ lúc 8h30 đến 14h00 cùng ngày kết thúc (lễ hội được diễn ra cùng ngày cùng giờ với tháp Po Klaong Garai).Tháp Po Romé nằm trên một ngọn đồi “buen acaow” thộc thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã Phan Rang- tháp chàm 15 km về phía Tây Nam. Tháp Po Romé được xây dựng vào thế kỷ 17 để thờ vị vua Po Romé.Tháp là tổng thể kiến trúc gồm có 3 ngôi tháp: Tháp chính, tháp cổng và tháp lửa. Nhưng hiện taị chỉ còn lại một ngôi tháp chính cao 19m bên trong có thờ một tượng vua Po Romé bằng đá dưới hình thể Mukhalinga và một tượng thờ hoàng hậu Bia Than Can bằng đá - người Eđê. Phía sau tháp chính còn có một ngôi miếu nhỏ thờ tượng Hoàng hậu Bia Than Cih bằng đá - người Chăm. Cả hai tượng đã bị mất vào 1993 và 1994. Còn hai ngôi tháp: Tháp cổng và tháp lửa đã sụp đổ. Tháp Po Romé không cao to bề thế như tháp Po Klaong Garai nhưng tháp có một phong cách nghệ thuật kiến trúc riêng biệt- Phong cách Po Romé . Tháp Po Romé được xem la ngôi tháp cuối cùng trong lịch sử nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đền tháp của người Chăm ở Việt Nam. Tháp Po Romé còn gắn liền với vị vua Po Romé có nhiều huyền thoại, truyền thuyết trong mối tình sử bi đát giữa vua Po Romé với công chúa người Eđê- Bia Than Can và công chúa Ngọc Khoa nước Ðại việt. Tháp Po Romé được Bộ Văn Hóa xếp hạn di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1992.   Diễn tiến lễ Katé ở tháp Chăm Lễ hội Katé của người Chăm Ninh Thuận diễn ra ở 3 đền tháp: Ðền Po Nagar ( Hữu đức ), Tháp Po Romé ( Hậu sanh )và Tháp Po Klaong Garai ( Ðô vinh, Tháp chàm ). Lễ diễn ra ở cả 3 nơi cùng ngày cùng giờ. Các nghi lễ cơ bản như nhau về nội dung , nghi thức hành lễ. Tuy lễ hội diễn ra ở 3 nơi nhưng thu hút được nhiều tín đồ nhất, tổ chức qui mô nhất vẫn là lễ hội Katé ở tháp Po Klaong Garai. Tiến trình lễ hội theo các bước như sau: Lễ hội Katé tại đền tháp được điều hành bởi Ban tế lễ bao gồm : - Po Adhia (cả sư Chăm Ahier) trụ trì đền tháp làm chủ lễ - Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) hát thánh ca - Muk Paya, bà múa và dâng lễ vật lên các vị thần - Camanei ( ông từ giữ đền tháp) chủ trì lễ tắm tượng - Và cùng một số Basaih (Tu sĩ Chăm ahier) phụ lễ. Lễ vật dânng cúng Katé tại đền háp bao gồm : - 01 con dê - 03 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp - 05 mâm cơm, canh cúng với thịt dê - 01 mâm cơm với muối vừng ( lithey thap) - 03 cổ bánh gạo và hoa quả - Ngoài ra còn có rượu trứng, trầu cau, xôi chè ... Sau khi lễ vật đã chuẩn bị xong, ban tế lễ đã sẵn sàng thì lễ hội bắt đầu tiến hành theo các buớc sau: Lễ rước y phục (Rok aw khan po yang) Tất cả các y phục của vua chúa thờ ở đền tháp Chăm đều do người Raglai cất giữ. Do vậy khi đến ngày lễ Katé thì người Chăm phải làm lễ đón rước người Raglai chuyển y phục về lại các đền tháp Chăm. Ðây là nghi lễ mở đầu cho ngày hội diễn ra rất trọng thể. Lễ rước y phục diễn ra ở 3 đền tháp: Ðền Po Nagar (Hữu đức), Tháp Po Romé (Hậu Sanh) và tháp Po Klaong Garai ( Ðô Vinh, Tháp Chàm). Trong đó lễ đón rước y phục Po Nagar diễn ra vào buổi chiều ngày 26/ 9/ 2000, trước ngày hội chính thức ở đền tháp một ngày. Còn lễ đón rước y phục ở tháp Po Romé và tháp Po Klaong Garai thì diễn ra vào buổi sáng ngày 27/ 9/2000. Mặc dù 03 đền tháp tổ chức nghi lễ đón rước y phục trong thời gian khác nhau nhưng nghi thức hành lễ cơ bản đều giống nhau. Ở đây chỉ mô tả lại lễ đón rước y phục cuả vua Po Klaong Garai từ đền thờ vua Po Klaong Garai tại thôn Phước Ðồng (Phuớc Hậu - Ninh Phước) đến tháp Po Klaong Garai trong ngày lễ Katé năm 1998. Trong ngày Lễ rước y phục Po Klaong Garai vào buổi sáng tại đền thờ Po Klaong Garai ở Phước Đồng, đoàn người Raglai đã tập trung đầy đủ, ông Camanei (ông từ giữ đền) dâng cúng lễ vật rượu trứng xin phép thần cho rước y phục về tháp Po Klaong Garai cúng lễ. Khi lễ đón rước kết thúc thì y phục vua Po Klaong Garai được đưa lên kiệu để đưa về tháp Po Klaong Garai. Trật tự đoàn rước lễ được sắp xếp như sau: Dẫn đầu đoàn là 05 người Raglai; tiếp theo là cả sư (Po Adhia) chủ trì đền tháp Po Klaong Garai; Thầy Kadhar keó đàn ka nhi; Payau ; Ðội vũ nhạc ; ở chính giữa là kiệu khiêng y phục vua Po Klaong Garai; hai bên là những người cầm cờ và cuối cùng là đoàn người phụ lễ đi theo. Ðoàn rước đi trên con đường dài 4km, từ thôn Phước Đồng đến tháp Po Klaong Garai. Khi đoàn rước kiệu về đến tháp Po Klaong Garai thì đội múa lễ của đoàn múa mừng trước tháp. Ðây cũng là điệu múa mừng khi kết thúc một công đoạn trong nghi thức hành lễ người Chăm. Lễ mở cửa tháp (Péh mbang yang): Sau khi kết thúc Lễ rước y phục thì các tu sĩ xin phép thần Siva làm lễ mở cửa tháp. Lễ này đượcdiễn ra trước cửa tháp, được sự điều hành bởi cả sư (Po Adhia) và ông Camanei. Lễ vật cúng xin mở cử tháp gồm có: rượu trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương và cá hương vị khác. Trong không khí trang nghiêm thầy cúng tế hát cầu lễ thần linh như sau: Jhaok aia di kraong praong, klah ba maraila ai ngap di yang Po Maâk jiep ba marai ka Po njam takai, ni ngap yau nan klau mbang  Lấy nuớc từ sông lớn Đem về tháp tắm thần Thần là thần của trời đất Lấy khăn đem đến cho thần lau chân Làm như thế ba lần (Các đoạn thơ được trích và dịch theo kinh hành lễ Katé Chăm) Sau khi đọc xong lời cầu nguyện Camanei cầm lọ nước tắm thần tạc lên tượng phù điêu thần Siva trên vòm cửa chính của tháp.Tiếp đó, thầy Kadhar kéo đàn Rabap và Payau tiến đến trước cửa tháp chính ngồi bên tượng bò thần Nandin để hát lễ xin mở cửa tháp. Lời hát lễ có đọan sau : Cuk [< cuh] dhuk pahuel gihlau, Peùh bi-mbang yang bitau yang Po laong Garai la ayet Cuk dhuk klaong ba ka-mbah hala, Peùh bi-mbang yang Po Klaong Garai la a yet Đốt bệ xông hương trầm Mở cửa đá tháp Po Klaong Garai ayet Đốt bệ trầm con mang trầu lễ Mở cửa đá tháp Po Klaong Garai ayet Khi đoạn hát lễ kết thúc, thì đòan lễ tiến vào tháp, bà Payau và ông Camanei bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm toả ra nghi ngút. Lễ mở cửa tháp kết thúc. Lễ tắm tượng thần (Manei yang) Lễ tắm tượng thần được diễn ra bên trong tháp. Lễ này gồm có Po Adhia, thầy Kadhar keó đàn Rabap, bà Payau, ông Camanei và một số tín đồ nhiệt thành thực hiện. Khi mọi người đã ngồi vào bàn lễ, xung quanh bệ thờ thần thì bà Payau rót rượu dâng lễ, thầy Kadhar kéo đàn Rabap bắt đầu hát lễ theo. Bài hát lễ tắm thần có đọan: Jhaok aia di kraong, ndua marai manei Po Klaong Garai Jhaok aia di kraong, klah ba marai manei yang Po Klaong Garai Maâk jiep njam ka Po njam trik, Po nao liwik di sap [  Múc nước ở sông, Đội đến tắm thần Po Klaong Garai Múc nước từ sông, Đem tắm thần Po laong Garai Thần đi lâu ngày lấy khăn lau mồ hôi (cho thần) Trong tháp, khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap đang hát thì ông từ cầm lọ nước tắm lên pho tượng đá, mọi người bắt tay cùng nhau tắm thần. Lúc này những tín đồ nhiệt thành lấy nước từ trên thân tượng bôi lên đầu, lên thân thể mình để cầu sức khỏe, tài lộc, may mắn. Lễ mặc y phục cho tượng thần (Anguei khan aw Po yang): Sau khi lễ tắm thần kết thúc thì đến nghi lễ mặc áo cho thần. Lễ thức được tiến hành theo lời hát thánh ca của thầy Kadhar. Lời thầy hát lễ đến đâu thì y phục thần được mặc vào đến đó. Ðầu tiên là lễ mặc váy. Lời thầy hát lễ như sau:   Danaây aia lek di cek, Po Klaong kraân jih tamun di aia tagaok manei Danaây aia laik di tuel, Yang Po Klaong Garai kraân talei ka-ing jih tamun di aia tagok manei Danaây aia laik di kraong sa [ Yang Po Klaong Garai kraân cuk aw lita di aia tagok manei)    Nghe tiếng thác đổ trên núi Thần Po Klong Garai mặc váy viền hoa jih tamun lên tắm Tiếng thác đổ xuống vịnh sâu Thần Po Klaong Garai thắt dây lưng hoa Jih tamun lên tắm Tiếng thác đổ xuống sông lớn Thần Po Klaong Garai mặc áo liat về dự lễ. Khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát thì ông Camanei, bà Payau mặc váy, áo cho tượng thần. Cứ như vậy cho đến kết thúc bài hát.   Ðại Lễ (Maliéng yang) Sau khi lễ macë y phục hoàn tất, lúc này tượng thần đã mang trên mình bộ long bào lộng lẫy, thì cũng là lúc vật dâng cúng được bày ra trước bàn thờ. Ðại lễ bắt đầu, lúc này Po Adhia làm chủ điều khiển nghi lễ, ba Payau dâng lễ vật, thầy kadhar kéo đàn Rabap hát mời các vị thần về dự lễ. Các vị thần được mời là các vị thần có công với dân với nước được dân làng ngưỡng mộ suy tôn như thần Po Nagar (thần mẹ xứ sở), thần Po Klaong Garai ( Vua Chăm trị vì năm 1151 - 1205), Po Romé (1627 - 1651), Po Par... Mỗi vị thần được mời về dự thì bà Payau dâng lễ vật, thây Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh ca, bà con dự lễ chấp tay cầu thần phù hộ độ trì cho nên công của. Lời hát lễ cuả thầy Kadhar có đoạn như sau : - Hát về Nữ thần Po Nagar: Thần là Nữ thầ xứ sở vĩ đại Thần sinh ra đất nước con người Thần mẹ cho trần gian cuộc sống Thần cho cây cối tốt tươi con người nảy nở Thần mẹ sinh ra cây lúa ruộng vườn tốt tươi  - Hát về thần Po Klaong Garai : Vào canh một, canh hai Po Klaong Garai hiện về hưởng lễ vật Vào canh hai, canh ba Po Klaong Garai hiện về hưởng lễ vật Ngài Po Klaong Garai dựng lên tảng đá vĩ đại Ngài đem ngăn sông đắp đập giữa núi Dân làng phủ phục, tôn vinh ngài làm vua Xây tháp, tạc tượng thờ thần Po Klaong Garai  - Hát mời thần Po Romé: Nước tràn về đập vỡ ra, Po Romé hiện về đắp đập giữ nước, Thần dẫn nước vào ruộng cho dân làng cày cấy Nước về đập vỡ ào ra, Trai làng chất đá đắp đập ngăn sông Trai làng bơi thuyền trên sông nước, Hoàng hậu tắm mình trong dòng nước mát trong lành - Hát về thần Po par : Em lên cao nguyên đã lâu Nhớ hái rau rừng đem vê cho anh Em lên vùng núi đã lâu Nhớ chặt cây trúc đẹp làm ống rượu cần cho anh. (Xem bài hát lễ bằng tiếng Chăm trong sách Sakaya, Lễ hội của người Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội -2003) ....... Cứ như thế thầy Kadhar kéo đàn Rabap mời trên 30 vị thần về dự , mỗi vị thần là một bài hát lễ. Po Adhia làm phép đọc kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ vật mà phù hộ độ trì dân làng. Kết thúc phần đại lễ bằng vũ điệu múa thiêng cuả bà Payau. Trong lúc bà Payau xuất thần điệu múa thiêng trong tháp để kết thúc đại lễ thì bên ngoài bắt đầu dân làng mở Hội. Những điệu trống Ginan, kèn Saranai cùng vang lên, đánh nhịp say xưa với những điệu múa và dòng dân ca Chăm. Không khí Hội cứ thế mà náo nhiệt cho đến lúc mặt trời ngã về chiều thì lễ hội Katé trên các tháp Chăm kết thúc.   Lễ hội Katé ở làng Sau khi lễ Katé ở tháp kết thúc, không khí Hội lại bùng lên ở làng Chăm. Đặc biệt, hai làng nghề Chăm (làng dệt Mỹ Nghiệp và làng gốm Bầu Trúc) là sôi động hơn cả so với những hội ở làng Palei Chăm khác. Lễ hội Katé ở làng Chăm Mỹ Nghiệp Lễ Katé ở làng dệt Mỹ Nghiệp bắt đầu diễn ra từ 13h00 – 21h00  Đây là làng thuộc thị trấn Phước Dân , huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã 12km về phía Ðông Nam. Làng Mỹ Nghiệp có tên Chăm là Caklaing, theo truyền thuyết đây là nơi sinh ra vị vua Chăm Po Klaong Garai. Làng còn có nghề dệt thủ công truyền thống nổi tiếng có lịch sử phát triển lâu đời. Ðây là nghề”mẹ truyền con nối”, hiện nay có hơn 95% gia đình làm nghề dệt. Mặc dù là nghề thủ công, dệt vải bằng tay nhưng người thợ dệt đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Sản phẩm dệt được du khách trong và ngoài nướcưa chuộng. Trong ngày lễi Katé, làng Chăm Mỹ Nghiệp, ngoài tổ chức lễ dâng cúng thần làng, tổ sư nghề dệt và tổ tiên, còn tổ chức nhiều trò chơi như thi dệt vải, đội nước, đá bóng, văn nghệ.,v.v phục vụ du khách. Lễ hội Katé làng Bầu Trúc Lễ Katé ở làng gốm Bầu Trúc cũng bắt đầu diễn ra từ 13h00 – 21h00 , Làng thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã 10km về phía Tây Nam. Làng Bầu Trúc có tên Chăm là Hamu Craok, theo truyền thuyết đây là quê hương Po Klaong Can, bạn vua Po Klaong Garai. Làng còn có một nghề dệt thủ công truyền thống nổi tiếng có lịch sử phát triển lâu đời. Ðây là nghề”mẹ truyền con nối”, hiện nay có hơn 95% gia đình làm nghề gốm. Mặc dù là nghề thủ công, gốm làm bằng tay, không bàn xoay nhưng người thợ gốm đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Sản phẩm gốm hiện nay rất đẹp, đa dạng về mẫu mã được du khách trong và ngoài nước ưa chuộng. Trong ngày lễ Katé, làng Bầu Trúc, ngoài việc tổ chức lễ dâng cúng thần làng, tổ sư nghề gốm, còn tổ chức biểu diễn gốm, văn nghệ, đá bóng phục vụ du khách. Ðây thực sự là hội làng hấp dẫn ở Ninh Thuận. Diễn tiến Katé ở làng Trước ngày lễ, dân làng thường phân công nhau quét dọn đền thờ, nhà làng, chuẩn bị sân khấu, sân bãi. Cùng với việc trên, một bộ phận khác chuẩn bị lễ vật cúng thần. Các cô thợ dệt làng Mỹ Nghiệp xem xét kỹ luỡng khung dệt, tơ sợi; các gia đình ở làng gốm Bầu Trúc chuẩn bị nguyên vật liệu, dụng cụ để làm gốm biểu diễn cho du khách xem. Buổi sáng ngày lễ, (thường làng cúng vào ngày thứ tư hoặc thứ bảy trong tuần đầu của lễ Katé) mọi người làm lễ cúng Katé ở nhà Làng để cầu mong thần phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt . Tương tự như người Việt, mỗi làng Chăm đều thờ một vị thần riêng.. Làng Mỹ Nghiệp thờ thần Po Rayak, làng Hữu đức thờ Po Klong Halau, làng Bầu Trúc thờ Po Klaong Can,v.v. Trong lễ cúng tế th
0 Rating 386 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 4, 2018
Kaum muda và Kaum Tua( H?i giá c? và H?i giáo m?i)*L?u ý thu?t ng? H?i giáo c? & H?i giáo m?i trong bài vi?t ??u n?m trong h? th?ng chính th?ng giáo c?a Islam trên th? gi?i. Khác v?i c?ng ??ng Bani ? Ninh Bình Thu?n. Nik Mansour Nik Halim Thu?t ng? “kaum Muda” và “kaum Tua” mang ngh?a ??n thu?n là “nhóm ng??i tr?” và “nhóm bô lão, ng??i già”. nh?ng trong v?n hóa Ch?m, nó l?i thiêng v? ng? ngh?a tôn giáo ?? ch? nhóm H?i giáo c? ( kaum Tua) và nhóm H?i giáo m?i ( kaum Muda). C? hai nhóm này ??u t?n t?i song song trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c. Th?t ra hai thu?t ng? nêu trên xu?t hi?n ? Mã Lai vào nh?ng n?m 50 c?a th? k? 20. Nó dùng ?? ch? nhóm tr? ?ã ???c du h?c ? Ai C?p và ? R?p và mang m?t lu?ng ki?n th?c m?i v? H?i giáo, ??i l?p v?i nhóm ng??i già v?i nh?ng khuôn kh? lu?t ??o c? x?a, c?ng ng?t và mang tính b?o th?. H? t? t??ng này ???c th? gi?i H?i giáo g?i là Wahabi và ???c ph? bi?n khi nhà n??c Arabsaudi hình thành. H? t? t??ng nh?m kiêu g?i các tín ?? quay l?i v?i nh?ng lu?t ??nh H?i giáo c? x?a t? th?i thiên s? Muhamad. Tuy th?, th?t ch?t h? t? t??ng trên n?ng tính chính tr? nh?m c?ng c? quy?n l?c c?a nhà n??c ? R?p, m?u ?? ? R?p hoá các tín ?? b?ng cách rao gi?ng Sunnah ( l?i s?ng c?a thiên s?) nh?ng n?ng v? thuy?t ngo?i ( v? b? ngoài) thay vì cái n?i ( l?i s?ng, tâm h?n ??p c?a thiên s?) . Th? nên khi xu?t hi?n ? Mã Lai, nó b? ph?n ??i k?ch li?t và ngày nay nó v?n b? ?y ban H?i giáo ( majlis agama) c?a nhà n??c Malaysia ph?n ??i và lo?i b?.Ng??i Ch?m và ng??i Mã Lai ?ã có m?i giao h?o t? xa x?a và khi nhóm ng??i Ch?m di c? sang Châu ??c h? v?n gi? m?i giao h?o qua l?i ?ó. Trong nh?ng n?m 50, khi ? Mã Lai ?ang hình thành nên m?t nhóm thi?u s? “kaum Muda” thì m?t s? ng??i Ch?m ?ang h?c t?p t?i Mã Lai c?ng ch?u ?nh h??ng. Vào n?m 1957, s? sinh viên du h?c ? Mã Lai tr? v? Vi?t Nam và chính th?c truy?n bá nh?ng t? t??ng m?i v? H?i giáo ? palei Kénh ( Châu Phong) (1). Vi?c làm trên là ti?n ?? gây xáo tr?n h? th?ng tín ng??ng c?ng nh? ??i s?ng c?a ng??i Ch?m ? Châu ??c vào th?i ?ó. Vào n?m 1960, ông Hakim Haji Mahli cùng jumaah nhìn th?y ???c m?i nguy h?i khi phái canh tân thu ph?c ???c m?t s? tín ?? và ch? tr??ng xóa b? n?n t?ng truy?n th?ng cha ông c?ng nh? phá v? giáo lý Islam mà ?ã tr? thành khuôn kh? trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c. Vì lý do ?ó mà ông cùng jumaah c?a mình ?ã t? ch?c cu?c bi?u tình l?n ? th? xã Châu ??c vào th?i ?ó ?? ph?n ??i(2). Cu?c tranh ch?p kéo dài nhi?u n?m khi?n chính quy?n ??a ph??ng ph?i tri?u t?p nhi?u cu?c h?p gi?a ??i bi?u t? hai phía. ?áng k? nh?t là cu?c h?p vào ?êm 12-4-1960 t?i thánh ???ng Niamah, xã Châu Phong, b?a ti?c ?oàn k?t vào ngày 9-11-1964 và m?t b?a ti?c k? ni?m s? ?oàn k?t do t??ng ??ng V?n Quang ch? t?a vào ngày 25-8-1966 t?i thánh ???ng Jamiul Azhar, Châu Giang. Nh?ng cu?c ?àm ??o, hòa gi?i ?ã xoa d?u và t?o nên hai h? phái H?i giáo cùng song hành hòa bình t?n t?i trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c. Nhóm H?i giáo m?i gi? thái ?? b?t ??ng, không tranh ch?p, không ch? trích l?n nhau. C? hai ??u âm th?m ho?t ??ng trong ph?m vi riêng c?a mình. Th?t ch?t nhóm H?i giáo c? ( kaum Tua) và nhóm H?i giáo m?i ( kaum muda) trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c không t?n t?i riêng l?, mà theo th?i gian có s? ?nh h??ng qua l?i. Nhóm truy?n th?ng x?a kia còn gi? r?t nhi?u l? t?c, có khi ??i ngh?ch v?i lu?t ??nh Islam nh? ilmu kabal ( thu?t bùa ngãi), ilmu falak ( thu?t chiêm tinh) ilmu gun calat ( phép thu?t võ ngh?). Nh?ng t?c l? cúng ki?ng trong nghi th?c Khatan ( c?t bao quy ??u) cho tr? em nam nh? dâng các l? v?t là g?o, mu?i, xôi n?p vàng, tr?u cau...trong l? nghi và s? c?ng ng?t trong vi?c tìm hi?u v? quy?n n?ng c?a Th??ng ?? Allah trong sifat dua puluh ( sifat 20). D?n dà nhóm Ch?m truy?n th?ng c?ng h?c h?i ???c s? ?úng ??ng trong lu?t ??nh Islam chính th?ng và lo?i b? d?n nh?ng tính ch?t ??i ngh?ch ( Syrik) trong vi?c ph?ng th? Th??ng ?? Duy Nh?t. H? ch? còn gi? l?i nh?ng thu?n phong m? t?c ??p, phù h?p v?i lu?t ??nh Islam. Nhóm Ch?m canh tân c?ng b? ch?i v?i khi h? lo?i b? h?n b?n s?c cha ông trong ??i s?ng v?n hoá. Kaum Muda ch? tr??ng lo?i b? các y?u t? truy?n th?ng s?c t?c, thay vào ?ó h? theo hoàn toàn l?i s?ng c?a thiên s?, tránh nghe theo Kias, ijmak ulama ( nh?ng lu?t ??nh do các giáo s? H?i giáo gi?i ngh?a t? thiên kinh Quran và l?i nói c?a thiên s? "hadith"). Tuy nhiên, do s? thi?u ki?n th?c v? s? chu?n hoá c?ng nh? cái g?c c?a Islam. C?ng thêm s? nh?p nh?ng phân ??nh ?âu là Sunnah và ?âu là v?n hoá ? R?p trong c?ng ??ng Muda ?ã d?n nên h? l?y "loãng v?n hoá". H? b?i r?i không bi?t bám víu vào ?âu. Ví d? nh? khi làm l? c??i, chi?u theo Sunnah và lu?t ??nh Islam thì ch? làm l? Ikaq Nikah/Kabul là xong. Nh?ng h? mu?n t? ch?c ?ám c??i thì s? t? ch?c theo phong t?c nào? ? R?p? Vi?t? Hay Ch?m?... . Th? nên theo th?i gian, h? t?o l?p l?i các y?u t? b?n s?c Ch?m song hành cùng lu?t ??nh H?i giáo. Tuy th?, s? ??i l?p trong quan ni?m gi?a hai lu?ng t? t??ng trong c?ng ??ng Ch?m v?n còn kho?ng cách nên ??n nay c? hai nhóm v?n ch?a th? th?ng nh?t m?c dù s? ??i kháng hay kì th? l?n nhau d??ng nh? ?ã không còn gi?a hai nhóm t? t??ng nói trên. Xin ???c trích ngoài lu?ng câu nói c?a Imam Shafi’i, v? Imam c?a chúng ta:“trong lu?t ??o ta nên chia làm hai: th? nh?t là nh?ng ?i?u m?i ???c t?o ra, mà nó ??i kháng, ngh?ch lí v?i Al kitab ( Qur’an), Sunnah, Ijmak ulama thì ?ó là ?i?u x?u c?n lo?i b?. Ng??c l?i nh?ng cái m?i, t?t cho chúng ta nh?ng nó không ??i ngh?ch v?i nh?ng cái ???c niêu ra ? trên thì nó ?áng ???c trân tr?ng và phát huy” Chúng ta là ng??i Ch?m Islam, không ph?i ng??i ? R?p Islam. Chúng ta tuân th? hoàn toàn theo nh?ng lu?t ??nh c?a Allah trong thiên kinh và s?ng theo l?i s?ng Sunnah Thiên s?, ch? không ph?i l?i s?ng c?a ng??i ? R?p. Chúng ta c?ng có b?n s?c t?c ng??i chúng ta, nó ??p và phù h?p v?i nh?ng lu?t ??nh c?a Allah. Mong Allah Redha ( hài lòng), hidayah ( soi sáng) và th??ng xót t?t c? cúng ta. Amin!!! (1). Bangsa Champa- m?t c?i ngu?n cách xa, Dohamid Dorohime, California, Hoa K? 2004.(2). Ng??i Chàm H?i giáo ? Tây Nam Ph?n Vi?t Nam, Nguy?n V?n Lu?n, 1974.p/s: hình ?nh v? ti?c k? ni?m s? ?oàn k?t gi? hai nhóm Ch?m do t??ng ??ng v?n Quang ch? t?a vào n?m 1966 t?i thánh ???ng Jamiul Azhar Châu Giang. ?i chung v?i t??ng ??ng ( ? gi?a) là Hakim Haji Umar Ali. Ngu?n: Facebook.com  
0 Rating 385 views 0 likes 0 Comments
Read more
ĐI MUA CHỒNGTrn phố nọ vừa mở một tiệm "Bn Chồng", nơi chị em phụ nữ cꡳ thể chọn mua cho mnh một người đn 젴ng.Ngay lối ra vo cửa hng c࠳ treo một bảng nội quy với nội dung sau đy:1. Bạn chỉ c thể vⳠo cửa hng 1 lần duy nhất.2. Cửa hng c࠳ 6 tầng, cng ln cao thબ hng cng chất lượng.3. Bạn c࠳ thể chọn bất cứ người đn ng nഠo trn tầng bất kỳ hoặc leo ln tầng cao hơn.4. Chỉ được phꪩp chọn từ tầng dưới ln, khng cho ph괩p leo trở xuống để chọn lại.Một chị nọ sau khi dừng chn trước tấm bảng ngay lối vo cửa h⠠ng liền quyết định vo trong để thử vận may.Vo tầng 1 chị đọc được tấm bảng ghi hࠠng chữ:"Những người đn ng cള cng ăn việc lm", chị nọ liền đi thẳng l䠪n tầng 2.Tấm bảng trn lối vo tầng 2 ghi: "Những người đꠠn ng c c䳴ng ăn việc lm v yࠪu trẻ con".Chị b(n đi tiếp ln tầng 3.Tấm bảng trn lối vꪠo tầng 3 ghi:"C3 cng ăn việc lm, y䠪u trẻ con v đẹp trai".- i ch`, được đấy! – Chị nọ nghĩ bụng, nhưng chn vẫn bước ln tầng 4.Tr⪪n lối vo tầng 4, tấm bảng đề: "C c೴ng ăn việc lm, yu trẻ, đẹp trai v઴ cng v biết gi頺p đỡ việc nh".Tuyệt vời! chị thốt ln - Thật lઠ kh m kh㠴ng "đổ" - Nhưng, miệng ni vậy, chn chị vẫn bước l㢪n tầng 5.Trn lối vo tầng 5 lꠠ tấm bảng: "C cng ăn việc l㴠m, yu trẻ, rất đẹp trai, biết gip đỡ việc nh꺠 v hết sức lng mạn".Chị nọ đࣣ muốn dừng chn trn tầng 5 để chọn cho m⪬nh một người chồng lắm rồi,nhưng cuối c9ng, chị vẫn vượt qua được chnh mnh để bước ch�n ln tầng cuối cng - tầng 6.Tr깪n lối vo tầng 6, chị nhn thấy tấm bảng: "Bạn lଠ người khch số 100.000.000 của tầng ny. Tầng nᠠy khng c đ䳠n ng, n chỉ nhằm mục đ䳭ch chứng minh cho bạn rằng khng ti n䠠o lm vừa lng phụ nữ.Cಡm ơn bạn đ tới thăm cửa hng ch㠺ng ti!".
0 Rating 384 views 0 likes 0 Comments
Read more