Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On December 20, 2016
[Phản biện sách] Văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á (phần 2) Chamstudies.net xin trân trọng giới thiệu phần tiếp theo về phản biện văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á của một nhà nghiên cứu trẻ. Đổng Thành Danh  Trung tâm Nghiên Cứu Văn Hoá Chăm tỉnh Ninh Thuận   Sách Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á của nhóm tác giả Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh, Lê Quốc Ân, Nguyễn Quốc Chiến được ấn hành bởi nhà xuất bản Hồng Đức (Hà Nội) vào năm 2015. Cuốn sách có 283 trang, ngoài lời giới thiệu (của Pgs. Ts. Phan An thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), lời nói đầu của Ts. Lê Sơn (thuộc nhóm tác giả), mục lục và phụ lục thì có 4 chương chính: Chương 1: Những vương quốc hùng mạnh đã từng tồn tại trên dãi đất Việt Nam trong quá khứ. Chương 2: Ba trung tâm văn hóa thời cổ Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo. Chương 3: Người Sa Huỳnh. Chương 4: Nước Việt Thường Thị, nước Lâm Ấp. Cuốn sách là một công trình chuyên khảo của nhóm tác giả về nền văn hóa Sa Huỳnh và lịch sử miền Trung Trung Bộ trong các thế kỷ đầu thiên niên kỷ I sau Công nguyên. Trong đó, các tác giả tổng hợp các nguồn tư liệu về khảo cổ học, sử học để chứng minh rằng văn hóa Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước Việt (trang 9) và lãnh thổ của người Việt cho đến thế kỷ thứ III sau Công nguyên kéo dài đến tận đèo Cả (hoặc núi Thạch Bi) (trang 10 – 11). Tuy nhiên, công trình của nhóm tác giả chứa đựng nhiều hạn chế và sai lệch về mặt học thuật cần được chỉnh sửa và bổ sung, bài viết này sẽ trình bày một số những sai lầm và thiếu sót về khoa học của cuốn sách hầu cung cấp một cách nhìn chân xác về lịch sử. Tiêu chí của một công trình nghiên cứu khoa học Xét về tiêu chí của một công trình khoa học mang tính hàn lâm, đủ khả năng đứng vững trước các phản biện khoa học, tôi nhận thấy cuốn sách này vấp phải một số các nhược điểm sau đây: Về bố cục và nội dung của cuốn sách Như đã nói, cuốn sách có 283 trang, nhưng bố cục phân chia không đồng đều, chương thì quá nhiều (chương 3 có đến 48 trang), chương thì quá ít (chương 4 chỉ có 11 trang), hai chương còn lại (chương 1, 2) mỗi chương có khoảng 20 trang. Thêm vào đó, phần nội dung chính (gồm 4 chương) chỉ có 103 trang (từ trang 27 đến trang 130), nhưng phần phụ lục lại chiếm đến 147 trang (từ trang 131 đến trang 278). Thông thường trong một bài nghiên cứu khoa học nghiêm túc phần phụ lục không thể có số lượng lớn hơn phần nội dung chính của công trình được. Đây chính là nhược điểm lớn nhất của cuốn sách khi so sánh với các công trình khoa học thực thụ. Về mặt nội dung, cuộc sách này chỉ là một công trình khảo cứu mang tính tổng hợp, tập hợp lại các nguồn tư liệu đã có trước đó về Sa Huỳnh. Trong phần Sa Huỳnh một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu (từ trang 15 – 26), nhóm tác giả chỉ tiến hành công tác tổng hợp các quan điểm của một số các học giả, nhà nghiên cứu về Sa Huỳnh như một bài tường thuật về Hội thảo 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh chứ chưa đi vào nghiên cứu. Trong chương 1, nhóm tác giả chủ yếu sao chép lại bài viết về Phù Nam – Chân Lạp của Phạm Đức Mạnh (trang 27 – 30) và G. Maspero về Champa (trang 30 – 48). Riêng phần nội dung chính về Sa Huỳnh được trình bày trong các chương 2 – 3 cũng có vấn đề, cụ thể phần II của chương 2 có mụcNhững tương đồng và dị biệt giữa văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh (trang 57 – 66) mà nội dung hoàn toàn giống với bài viết của Ts. Dương Văn Sáu trước đó[1]? Tương tự,mục tiếp theo làGiao lưu giữa văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh (từ trang 66 – 69) cũng có nội dung sao y nguyên bản từ bài viết Giao lưu giữa văn hóa Đông Sơn và văn hóa Sa Huỳnh qua tư liệu khảo cổ học của tác giả Nguyễn Văn Tiến đăng trên trang mạng của Đại học văn hóa[2]. Chương 3 mang tựa Người Sa Huỳnh, chiếm khối lượng lớn trong phần nội dung, tuy nhiên chủ yếu tổng kết lại các kết quả khai quật và nghiên cứu trước đó, chủ yếu trình bày khái quát quá trình phát hiện và nghiên cứu Sa Huỳnh cũng như khảo tả một số di tích Sa Huỳnh ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (Trung Trung Bộ). Ở chương 4, các tác giả đề cập đến Việt Thường Thị và Lâm Ấp có 11 trang, là phần tác giả trình bày quan điểm của mình rằng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh không phải là Champa (trang 120) và biên giới nước ta thời Hai Bà Trưng đến tận núi Thạch Bi (trang 123), nhưng đến một nửa nội dung là trích dẫn và sao lục nguyên văn các công trình của Maspero, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hán Thư, Nam sử, ngoài ra còn trích dẫn một đoạn ngắn trong Tấn thư (trang 128)… Tuy nhiên, điều đáng nói là ở phần cuối chương lại đặt thêm một phần phụ lục (dịch tư liệu tiếng Hán và tiếng Pháp của B. Boroutte) thay vì đặt ở phần phụ lục lớn ở cuối sách, như vậy cuốn sách có hai phần phụ lục: phụ lục của chương 4 và phụ lục của toàn bộ cuốn sách, chúng tôi chưa hề thấy một cuốn sách nào có phần đặt bố cục kỳ lạ như vậy! Cònriêng về phần phụ lục (của toàn bộ sách) dù chiếm số lượng nhiều, nhưng đó lại không phải là phần do các tác giả tự nghiên cứu hay phân tích mà chủ yếu lại là phần dịch toàn văn các bài viết của một số các học giả nước ngoài về văn hóa Sa Huỳnh (trừ phụ lục 6 là bài giới thiệu ngắn về bảo tàng Sa huỳnh ở Hội An). Cuối cùng là phần Giới thiệuThư mục tham khảo về văn hóa Sa huỳnh (trang 279 – 282) với 48 danh mục tài liệu, chúng tôi không hề biết các giả nêu danh mục này ra để làm gì vì nhóm tác giả không hề tham khảo hay có một trích dẫn nào đối với hầu hết các bài viết ấy. Về nguồn tư liệu tham khảo và trích dẫn Cuốn sách viết về nền văn hóa Sa Huỳnh và khảo cổ học miền Trung, nhưng chủ yếu sử dụng các nguồn tư liệu đã cũ của các học giả phương Tây đầu thế kỷ XX Như L. Malleret, L. Colani,H. Parmentier, W. Solheim II, O. Jansé, J. Chidanel… mà không tham khảo hay có một trích dẫn nào với các bài viết, các phát hiện mới về Sa Huỳnh[3]. Trong chương 2 và 3 là chương chủ yếu viết về Sa Huỳnh và khảo cổ miền Trung, nhưng tác giả không hề có một trích dẫn các sách, tạp chí hay các công trình nghiên cứu khoa học kể trên, mà chủ yếu sao lại một số bài viết của Colani, Malleret (trang 82), của nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (trang 115 – 118),còn lại hầu hết đều viết chay, không thấy có trích dẫn nguồn nào. Ngoài Sa Huỳnh và khảo cổ học miền Trung các tác giả còn giành sự quan tâm đến chủ đề vương quốc Lâm Ấp và Champa (chương 1 và chương 4), chính vì thế các tác giả chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu sơ cấp như Hán Thư, Tấn Thư, Nam sử, Đại Việt Sử Ký Toàn thư, thứ cấp như Le RoyaumeChampa của G. Maspero, Essaid’Histoire des Populations Mongtagnardes du Sud-Indochinois của B. Bourotte, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Tuy nhiên, đây chỉ là mục danh mục tài liệu rất hạn chế và chứa đựng nhiều sai sót về Lâm Ấp và Champa mà các tác giả sử dụng làm nguồn tham khảo. Xét về các nguồn tài liệu sơ cấp là Hán Thư, Nam sử và Đại Việt Sử ký Toàn thư, Tấn thư ta thấy đây chỉ là một vài trong số rất nhiều sử liệu cổ mà nội dung liên quan đến Lâm Ấp – Champa, bản thân nội dung hay tính xác thực của các nguồn tư liệu sơ cấp (của Trung Hoa và Đại Việt) luôn cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chính bản thân các tác giả của cuốn sách này cũng thừa nhận điều đó: “Tuy nhiên, nên biết là các tư liệu cổ sử đều thiếu các tư liệu xác thực và thường ghi chép rất khái lược, có khi thiếu mạch lạc” (trang 119). Như vậy, thay vì sử dụng thêm nhiều tư liệu sơ cấp khác của cổ sử Trung Hoa như Thủy Kinh Chú, Hải Ngoại ký sự, Tống Thư, Nam Tề Thư, Lương Thư, Trần thư, Tùy Thư, Cựu Đường Thư, Tân Đường thư[4]… hay các cổ sử Việt như Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái,…. để cùng đối chiếu, so sánh nhận diện đúng bản chất lịch sử thì các tác giả chỉ sử dụng bốn văn bản trên để chứng minh cho các luận điểm của mình. Đối với các nguồn tư liệu thứ cấp, nhóm tác giả này lại sử dụng các nguồn tư liệu ít ỏi, bản thân các công trình đó lại rất cũ, chứa đựng nhiều sai lệch và thiếu sót về Lâm Ấp và Champa, nhất là cuốn sách về Champa của Maspero đã được L. Aurousseau và L. Finot phê bình[5]. Mặt khác từ sau công trình của Maspero, nhiều công trình khác đã ra đời cũng giành sự quan tâm đến chủ đề này với nhiều nội dung và quan điểm mới, như các cuốn sách của R. Stein, G. Coedes. Po Dharma, Lafont[6], chưa kể đến hàng trăm công trình, bài viết nghiên cứu về Champa khác… Trong cuốn sách mà chúng tôi đang phản biện, tên tuổi và tác phẩm của các nhà nghiên cứu ở trên hầu như không được nhắc đến, điều đó cho thấy, các tác giả không cập nhật các nghiên cứu mới nhất về lịch sử Lâm Ấp và Champa trong mấy chục năm gần đây, từ đó tác giả sử dụng các quan điểm rất lạc hậu của Maspero, Bourotte hầu chứng minh các lập luận của mình. Tiểu kết Từ việc phân chia bố cục không đồng đều, phi khoa học, nội dung mang tính tường thuật, khái quát, chủ yếu tổng hợp, sao chép các tư liệu, bài viết đi trước cho đến cách thức sử dụng và trích dẫn các nguồn tư liệu một cách thiếu chuyên môn, nhiều chương (như chương 2, 3) không hề có tư liệu tham khảo, phần lớn viết chay, nhiều chương có trích dẫn nhưng sử dụng ít nguồn tư liệu, trong đó nhiều tư liệu đã lỗi thời, hàm chứa nhiều sai sót về học thuật, mà không hề có sự phân tích, đánh giá. Chính vì vậy, tôi cho rằng, cuốn sách Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á không thể được xem là một tác phẩm khoa học nghiêm túc, càng không thể được sử dụng để làm nguồn tham khảo cho các nghiên cứu sau này. Các quan điểm và nhận định của nhóm tác giả Dù không thể hội đủ các tiêu chuẩn cơ bản của một tác phẩm nghiên cứu khoa học, từ cách phân chia bố cục, nội dung cho đến cách sử dụng và trích dẫn nguồn tài liệu, nhưng các tác giả của cuốn sách vẫn đưa ra nhiều quan điểm về khảo cổ và lịch sử Sa Huỳnh, Champa và Trung Trung bộ. Cho nên, chắc hẳn rằng các quan điểm và nhận định của các tác giả đưa ra sẽ có nhiều thiên kiến, chủ quan thậm chí thiếu tính đúng đắn về khoa học, gây hậu quả tiêu cực cho nhận thức lịch sử trong tương lai. Trong phần này tôi sẽ phản bác và đính chính một số quan điểm ý kiến như vậy trong cuốn sách. Như đã nói, ngay từ lời nói đầu các tác giả muốn chứng minh rằng: “Vào thời Hai Bà Trưng, địa giới phía Nam nước ta… là núi Thạch Bi, ranh giới hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay” và “Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước ta trước khi bị quân Chàm xâm chiếm” (trang 9). Nhóm tác giả chủ yếu giành chương 1 (phần về Champa) và chương 4 để chứng minh cho luận điểm trên của mình, chính vì vậy phản biện của chúng tôi sẽ chủ yếu phân tích hai chương này. Trước hết để chứng minh quan điểm của mình các tác giả tiến hành các bước: 1. Xác định chủ nhân, phạm vi của văn hóa Sa huỳnh; 2. Xác định ranh giới Việt cổ và Champa cổ (Lâm Ấp) dưới thời Hai Bà Trưng (tức thế kỷ I SCN). Chủ nhân và phạm vi (không – thời gian) của văn hóa Sa Huỳnh Để chứng minh cho quan điểm thứ nhất nhóm tác giả giành nhiều quan tâm đến nền văn hóa Sa Huỳnh, một nền văn hóa thời tiền nhà nước (tiền sử, sơ sử) ở miền Trung Việt Nam. Theo đó, các tác giả tìm lập luận chứng minh rằng chủ nhân của nền văn hóa Sa huỳnh ở Trung Trung Bộ (từ Quảng Nam đến Phú Yên) là người Việt, chứ không phải là người tiền Champa (những người đã lập nên nhà nước Champa sau này). Tức là họ cũng đồng thời phủ nhận sự chuyển biến liên tục từ Tiền Sa huỳnh – Sa Huỳnh – tiền Champa (Lâm Ấp và các chính thể tương đương) – Champa đã được nhiều nhà khảo cổ thừa nhận. Quan điểm này được thể hiện ở các câu văn sau: “… Miền Trung Trung Bộ, từ đèo Cả đến đèo Hải Vân không hề là đất bản địa của dân tộc Chàm như nhiều người lầm tưởng. Chính ngành khảo cổ đã khẳng định điều đó. Tác giả John G. Chidainel trong bài viết “một số đồ gốm Sa Huỳnh và những mối liên quan với các di chỉ khảo cổ khác ở Đông Nam Á cho rằng: ‘Nền văn hóa này không chia sẽ những ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ, thường thấy tại bản đảo Ấn Trung vào thời đầu của kỷ nguyên Kitôgiáo. Mặc dù không xác định được những mối liên hệ bản chất giữa người Sa Huỳnh với người Chàm nguyên thủy nhưng những phương thức chôn cất của họ hướng tới một điểm sẽ kết nối với những người chủ của mộ cự thạch Thượng Lào’.(Xem Phụ lục 5) Nhà khảo cổ trứ danh thế giới, làm Trưởng Ban Khảo cổ của Viện Viễn Đông Bác Cổ, ngài Henri Parmentier trong bài viết “Những hố chum ở Sa Huỳnh”, Parmentier nhấn mạnh: ‘Qua các di vật tìm được ở Sa Huỳnh thiếu tất cả các chứng tích về nền văn minh Chàm’ và ‘Sự độc lập hoàn toàn của các trang trí với nghệ thuật xa xưa, xưa hơn nghệ thuật Chàm, không cho phép gắn các hố khảo cổ này với người Chàm’”(trang 10). Ở chương 4, các tác giả cũng viết: “…Ngày nay dưới ánh sáng của Khảo cổ học đang phát triển thì những năm vào thế kỷ III trước CN cho biết vùng này đã hình thành một loại nhà nước sơ khai. Nhà nước ấy nhất định không phải là tổ tiên của người Champa, vì theo Parmentier thì: ‘Qua các di vật tìm được ở Sa Huỳnh thiếu tất cả các chứng tích về nền văn minh Chàm’ và ‘Sự độc lập hoàn toàn của các trang trí với nghệ thuật xa xưa, xưa hơn nghệ thuật Chàm, không cho phép gắn các hố khảo cổ này với người Chàm’…” (Trang 120). Chỉ có ngần ấy tư liệu, chỉ viện dẫn hai nhà nghiên cứu phương Tây (chưa tính là lập lại hai lần bài viết của Parmentier) nhưng tác giả muôn phủ nhận người tiền Champa là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh.Như chúng tôi đã đề cập, những nghiên cứu của J. Chidainel và H. Parmentier là những nghiên cứu rất xưa, trong thời điểm mà các phát hiện về Sa Huỳnh vẫn còn ở giai đoạn đầu tiên, hàng chục năm sau khi các bài viết này ra đời, nhiều phát hiện mới về Sa Huỳnh cũng xuất hiện, thay đổi nhiều nhận thức về nền văn hóa ấy, và từng ấy thời gian nhiều bài viết, công trình nghiên cứu mới đã ra đời. Tuy nhiên, nhóm tác giả dường như không cập nhật chúng, đây là lỗi nghiêm trọng nhất của một công trình khoa học. Trong thực tế, những phát hiện mới đã làm thay đổi các nhận thức cơ bản về chủ nhân và phạm vi của văn hóa Sa huỳnh của các học giả phương Tây trước đây. Theo các nghiên cứu mới, chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh chính là người bản địa,chính họ đã đóng góp vào sự chuyển biến từ Sa Huỳnh sang giai đoạn hình thành các nhà nước sơ khai ở miền Trung như Lâm Ấp và sau này là Champa, phạm vi của nền văn hóa này không chỉ bó hẹp ở Trung Trung Bộ (Quảng Nam đến Phú Yên) mà còn đến tận Nam Trung Bộ (Khánh Hòa đến Bình Thuận)[7]. Quá trình chuyển biến từ Sa Huỳnh – Lâm Ấp – Champa là một quá trình liên tục, chủ yếu chuyển biến từ tác động nội sinh hơn là các tác nhân cơ học bên ngoài, tức từ Sa huỳnh sang tiền Champa không hề có sự can thiệp từ bên ngoài, do đó chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh là những người tiền Champa[8]. Ranh giới và địa giới của hai nước Việt cổ và Champa đầu công nguyên. Một khi đã phủ nhận vai trò hậu duệ của người Champa đối với nên văn hóa cổ Sa Huỳnh, nhất là ở miền Trung Trung Bộ (mà theo các tác giả là từ Quảng Nam đến Phú Yên),các tác giả tìm cách chứng minh lãnh thổ của người Việt, trước thế kỷ II – III SCN, kéo dài đến núi Thạch Bi, trong khi nước Champa được hình thành ở phía Nam Thạch Bi, chỉ từ sau khi lập quốc họ mới mở rộng cương vực lên phía Bắc đến dãy Hoành Sơn (Quảng Bình) và xác lập cương vực hai nước ở đó cho đến khi nhà nước Đại Cồ Việt hình thành (thế kỷ X). Quan điểm này của các tác giả được thể hiện rõ nhất qua các đoạn sau: “…Vào thời Hai Bà Trưng, địa giới phía Nam nước ta ở đâu? Trước đây chưa ai xác định được. Chúng tôi nghiên cứu tư liệu chữ Hán cổ và tiếng Pháp, đã chứng minh ranh giới ấy là núi Thạch Bi, ranh giới của hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay…” (trang 9). “…Xác định núi Thạch Bi là ranh giới phía Nam nước ta thời Hai Bà Trưng là một đóng góp mới. khảo cổ học củng cố cho phát hiện ấy…” (trang 11). “
0 Rating 999 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 15, 2015
 Written by Ts. Po Dharna     Nhân đọc bài viết của Quảng Đại Tuyên về “Bước đầu tìm hiểu về triết lí âm dương thông qua hình ảnh cánh diều Chăm” đăng trên web của Inrasara, những bài thuyết trình của Pgs. Ts. Thành Phần về “âm dương” ở TPHCM và quan điểm của một số trí thức Chăm thường nhắc đến “âm dương” ăn sâu vào văn hoá Chăm, một số độc giả trong nước xin Champaka.info trả lời cho biết dân tộc Chăm có triết lý “âm dương” hay không? Nếu có, thì đâu là nguồn gốc của sự du nhập triết lý “âm dương” vào nền văn hoá Chăm?   Để trả lời cho câu hỏi này, BBT Champaka.info xin Ts. Po Dharma, chuyên gia về lịch sử và nền văn minh Champa, cho biết thế nào là quan điểm của ông về triết lý âm dương Chăm.   Dân tộc Chăm không bao giờ có triết lý âm dương Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)   Trong quá trình lịch sử, Đông Nam Á là khu vực tập trung nhiều quốc gia và chủng tộc chia làm hai khối rỏ rệt. Dân tộc Chăm, Campuchia, Lao, Thai và Mã Lai Đa Đảo, v.v. chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, trong khi đó dân tộc Việt theo khuôn mẫu văn hoá của Trung Quốc. Phát xuất từ hai nền văn minh khác nhau, dân tộc Việt và Chăm đã đón nhận hai khái niệm hoàn toàn khác nhau về qui luật cấu trúc vũ trụ. Đối với dân tộc Việt, “âm dương” là triết lý nhằm giải thích cho sinh tồn của “vũ trụ”, trong khi đó dân tộc Chăm lại dựa vào qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực-cái / nam-nữ) để làm nền tảng để giải thích cho mối liên hệ giữa Chăm Ahier (Balamon) và Chăm Awal (Hồi Giáo). Chính đó là trọng tâm của vấn đề cần cứu xét lại trước khi đi đến kết luận dân tộc có chịu ảnh hưởng triết lý “âm dương” của dân tộc Việt hay không?   Triết lý âm dương của dân tộc Việt   Âm dương (tiếng Hán: Ying Yang) là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập, tạo nên toàn bộ vũ trụ, bao gồm những qui luật liên quan đến nền tảng của không gian học, thiên văn học, triết học, y học, vật lý học, v.v. Theo triết lý này, “âm” thể hiện cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm mại... đối lập nó là “dương” thể hiện sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn.. Qui luật giải thích “vũ trụ” dựa trên âm và dương được gọi là triết lý “âm dương”.   Ai cũng biết, “Âm dương” là qui luật phát sinh từ nền văn minh Trung Quốc. Kể từ đó, các chuyên gia về Đông Phương học đưa ra kết luận rằng “âm dương” là triết lý chỉ dành cho các dân tộc nằm trong không gian văn hoá của Trung Quốc, đó là xã hội người Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn trong đó có Việt Nam. Người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, không bao giờ có triết lý “âm dương” như dân tộc Việt mà chỉ có qui luật: tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ)   Biểu tượng âm dương của dân tộc Việt   Qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” của dân tộc Chăm   Qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ) là khái niệm phát xuất từ qui luật Linga và Yoni nằm trong nền văn minh Ấn Giáo, không liên hệ gì với triết lý âm dương của dân tộc Việt. Theo triết Ấn Giáo, Linga biểu tượng cho dương vật và Yoni biểu tượng cho âm vật, là hai hình tượng thiêng liêng nhất được tồn thờ trong nền văn min Ấn Giáo.   Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tín ngưỡng này gắn liền với triết lý dựa vào mối kết hợp giữa dương vật của đàn ông và âm vật của đàn bà, cấu thành động cơ của mọi sự sáng tạo. Theo triết lý này, vũ trụ sẽ bị diệt vong, nếu vũ trụ này chỉ có Linga (dương vật) nhưng không có Yoni (âm vật), hay ngược lại. Và vũ trụ này cũng bị tiêu diệt, nếu vũ trụ này có cả hai yếu tố Linga (dương vật) và Yoni (âm vật), nhưng không kết hợp với nhau một cách sung túc về tình dục.   Người Chăm là cộng đồng chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo. Tục thờ Linga và Yoni vẫn còn thể hiện hôm nay qua nhiều tục lễ của người Chăm nhất là lễ Kate và Ca-mbur trên đền tháp. Và mối liên hệ giữa Linga và Yoni vẫn còn đó, nhưng người Chăm gọi là qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực-cái / nam-nữ).   Đối với người Chăm, “tanaow-binai / lakei-kamei” là triết lý của hai thực thể đối lập nhau nhưng không thể tách rời với nhau. Hoàn toàn khác hẳn với triết lý “âm dương” của dân tộc Việt, qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” của dân tộc Chăm chỉ áp dụng vào không gian rất giới hạn nhằm giải thích cho mối liên hệ giữa Awal và Ahier, tức hai thực thể tín ngưỡng hoàn toàn khác nhau về triết lý và nghi lễ, nhưng lúc nào cũng gắn liền với nhau một cách có hệ thống, không thể tách rời nhau được. Awal và Ahier là hai thuật ngữ có nguồn gốc lịch sử riêng:   • Awal là từ Á Rập có nghĩa “trước, khởi đầu”. Chăm Awal ám chỉ cho những người Chăm đã theo Hồi Giáo “trước” triều đại Po Rome, tức là Chăm Bani hôm nay.   • Ahier cũng là từ Á Rập, có nghĩa là “sau, cuối cùng”. Chăm Ahier ám chỉ cho những người Chăm chấp nhận Po Uluah là đấng thượng đế “sau” triều đại Po Rome, tức là Chăm Balamon hôm nay.   Cho đến hôm nay, người ta không biết triết lý “tanaow-binai / lakei-kamei” đã xuất hiện trong xã hội Chăm từ lúc nào. Theo truyền thuyết Chăm cho biết, trước vương triều Po Rome, Hồi Giáo đã có mặt tại vương quốc Champa, nhưng sự hiện diện của Hồi Giáo chỉ nằm bên lề của xã hội. Các chức sắc Acar của Chăm Bani không đóng vai trò gì trong triều đình bên cạnh vua chúa Champa như các vị tu sĩ Basaih của Chăm Balamon. Sự cách biệt này đã gây ra bao xung đột giữa hai cộng đồng, buộc vương triều Po Rome phải giải quyết vấn đề bằng cách triển khai qui luật "tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ) để làm biểu tượng cho sự gắn bó giữa Chăm Awal và Chăm Ahier, tức là hai tín ngưỡng hoàn toàn đối lập nhau, nhưng không thể tách rời với nhau được, như mối liên hệ giữa nam và nữ.   Chăm Awal và Chăm Ahier là hai cộng đồng tín ngưỡng biểu tượng cho hai thực thể: tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ). Kể từ đó, tất cả những gì nằm trong hai tín ngưỡng này đều được phân chia thành hai thực thể khác nhau, hoặc Tanaow-lakei (nam) hay Binai-kamei (nữ), dù đó là các bậc tu sĩ, những vật dụng, thức ăn, màu sắc áo quần mà người Chăm thường dùng trong lễ tục. Tanaow-lakei (nam) hay Binai-kamei (nữ) là hai yếu tố đối lập nhau nhưng luôn luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời với nhau được trong tín ngưỡng của người Chăm, cấu thành yếu tố cơ bản để Awal và Ahier cùng nhau phát triển và tồn tại. Những thuật ngữ đối lập nằm trong hệ thống tín ngưỡng Awal và Ahier là:   • Tanaow (đực) – Binai (cái) • Lakei (nam) – Kamei (nữ) • Klam (ám chỉ cho nam, những gì có màu rực rở nếu là khăn vải, có thịt nếu là thức ăn và có nhiều hương ngọt nếu là bánh trái) – Yuer (ám chỉ cho nữ, những gì có màu lờ nhạt nếu là khăn vải, không có thịt hay ít ngọt nếu là thức ăn) • Pagruak (úp lại, ám chỉ cho cách nằm của đàn ông khi làm tình) – Pa-ndang (nằm ngữa, ám chỉ cho cách nằm của đàn bà khi làm tình)   Dựa vào qui luật vừa nêu trên, người Chăm đưa ra hàng loạt danh sách của các biểu tượng tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) trong cách cấu trúc tín ngưỡng Awal và Ahier như sau:   Biểu tượng Lakei-Kamei • Basaih biểu tượng cho lakei (nam) – Acar biểu tượng cho kamei (nữ). Vì Basaih ngồi trong nghi lễ như đàn ông (crah kanal) trong khi đó Acar ngồi như đàn bà (jaoh angua) • Basaih > kamei (nữ) – Acar > lakei (nam). Vì Basaih để tóc dài trong khi đó Acar cạo đầu như con trai • Basaih > kamei (nữ) – Acar > lakei (nam). Vì Basaih mang bị túi có hình dạng âm vật và Acar mang bị túi có hình dạng dương vật   Tu sĩ Chăm Awal ngồi theo phong cách đàn bà Tu sĩ Chăm Ahier ngồi theo phong cách đàn ông   Biểu tượng Klam-Yuer Trong các lễ tục, một số dụng cụ, khăn vải, áo quần hay thức ăn, v.v. cũng đều mang biểu tượng cho Lakei (nam) và Kamei (nữ), luôn luôn đi đôi với nhau:   • Kaya klam, ám chỉ cho “lakei”, bao gồm bánh tét, bánh bột gạo hấp (kur) và chuối – Kaya yuer, ám chỉ cho “kamei”, gồm có nếp, bánh bột gạo hấp (kur) và chuối • Aw klam, ám chỉ cho “lakei”, tức là áo có màu rất đậm – Aw yuer, ám chỉ cho “kamei”, tức là áo có màu hơi phai dợt • S’alaw klam ám chỉ cho “lakei”, vì s’alaw klam là mâm cúng có thịt – S’alaw yuer ám chỉ cho “kamei”, mâm cúng không có thịt.   Biểu tượng Atau pa-ndang–Yang pagruak Atau là thuật ngữ ám chỉ cho thần linh có nguồn gốc từ hệ thống Hồi Giáo và Yang là thần linh mang tính cách bản địa.   • Trong các lễ tục dành cho thần linh thuộc về “Atau”, thì người Chăm phải để nãi chuối nằm ngữa trên mâm cúng hay trải chiếu nằm ngữa (pa-ndang). • Trong các lễ tục dành cho thần linh thuộc về “Yang”, thì người Chăm Ahier hay Awal phải để nãi chuối nắm úp lại trên nâm cúng hay trải chiếu nằm úp lại (pagruak).   Biểu tượng Tanaow-binai   Vào dịp cúng tế Po Yang In, người Chăm thường tổ chức lễ Paper Kalang (lễ thả diều). Lễ tục này có nguồn gốc từ Mã Lai. Trong lễ này gồm có hai con diều mang tên là Kalang tanaow (diều đực) và Kalang binai (diều cái). Đây là hai biểu tượng nằm trong hệ thống tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) của dân tộc Chăm, không liên hệ gì đến triết lý “âm dương” của người Việt như một số người thường hiểu lầm, để rồi từ đó họ tự chế biến ra bao lý thuyết mơ hồ nhằm giải thích cho sự hòa hợp các yếu tố: trời-đất, đực-cái, đất-nước, mặt trời-mặt trăng, không trung-mặt đất, hình tròn-hình vuông, vân vân, không liên hệ gì đến truyền thống lễ Paper Kalang (lễ thả diều) của dân tộc Chăm.   Tóm lại, người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Giáo, không bao giờ có qui luật “âm dương” của Trung Quốc như dân tộc Việt. Nếu một số trí thức Chăm hôm nay thường bàn về triết lý “âm dương” trong nền văn hoá Chăm, thì đó chỉ là quan điểm mang tính cách suy diễn, không dựa vào cơ sơ khoa học nào, vì những lý do sau đây.   1). Yếu tố ngôn ngữ Trong kho tàng ngôn ngữ, người Chăm không có cụm từ để ám chỉ cho “âm dương”. Thế thì từ “âm dương” xuất hiện từ đâu đến? Có chăng “âm dương” chỉ là cụm từ do một số trí thức Chăm vừa sáng chế ra dưới chế độ xã hội chũ nghĩa, mang tính cách suy đoán, phát xuất từ sự nhằm lẫn giữa qui luật tanaow-binai / lakei-kamei (đực-cái / nam-nữ) của người Chăm và triết lý “âm dương” của dân tộc Việt.   Một khi ngôn ngữ Chăm không có từ vựng để ám chỉ cho “âm” và “dương”, thì người ta có quyền đưa ra kết luận ngay: văn hoá Chăm không có qui luật “âm dương” hay chịu ảnh hưởng ít nhiều về qui luật này.   2). Yếu tố lịch sử Người Chăm là thần dân của vương quốc Champa xưa kia. Sau tám thế kỷ đương đầu với cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt, chấp nhận cúi đầu sống dưới nền đô hộ của nhà Nguyễn kể từ năm 1692 và chịu bao thống khổ của chính sách đồng hoá và diệt chủng của hoàng đế Minh Mệnh kể từ năm 1832, nhưng dân tộc Chăm không tiếp thu từ những yếu tố gì mang tính cách văn hoá, tín ngưỡng hay nghệ thuật của dân tộc Việt, ngoại trừ một vài chi tiết rất nhỏ nhoi nằm bên lề của nền giao lưu văn hoá, như:   • Vây mượn vài từ tiếng Việt: klan thu = trần thủ, lik kleng = lý trưởng, aen ngai = ơn nghĩa, cip = chịu, v.v., • Vẽ biểu tượng “âm dương” trên trống baranang mà người Chăm cũng không biết tên gọi biểu tượng này là gì. Sự hiện diện của biểu tượng “âm dương” trên trống của người Chăm chỉ bắt đầu dưới thời vua Minh Mệnh, tức là vào lúc Minh Mệnh buộc dân tộc Chăm phải mời người Kinh diễn tuồng hát bội trong lễ múa Rija để phô trương cho tinh thần đoàn kết dân tộc Chăm-Việt. • Bắt chước vài món ăn có dầu mỡ: cien = chiên, sao = xào… • Văn hoá ăn đủa thay vì ăn bóc kể từ thời Ngô Đình Diệm   Hát bội (hình trên hết) trong lễ Rija Chăm dưới thời Minh Mệnh Biểu tượng âm dương trên trống Chăm kể từ thời Minh Mệnh   Ai cũng biết, tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) là qui luật ra mời vào thời Po Rome (1627-1651), tức là vào thời kỳ hưng thịnh của Champa, một quốc gia độc lập không bao giờ chấp nhận những yếu tố văn hoá của dân tộc Việt ở phương bắc xâm nhập vào đất nước này. Kể từ đó, là tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) là qui luật riêng của dân tộc Chăm dựa vào triết lý Linga và Yoni của Ấn Giáo, chứ không phải là qui luật chịu ảnh hưởng triết lý “âm dương” của dân tộc Việt.   3). Yếu tố biên giới Mặc dù nằm trong khu vực Đông Nam Á, nhưng dân tộc Chăm có khái niệm về biên giới hoàn toàn khác biệt so với các dân tộc khác. Theo truyền thống, biên giới Champa là ranh giới mang tính cách chính trị và tín ngưỡng, có yếu tố thần quyền trấn giữ, nhằm   • Ngân cấm bất cứ ai dùng bạo lực để xâm nhập vào lãnh thổ của mình. • từ chối mọi yếu tố văn hoá hay nghệ thuật của dân tộc khác du nhập vào lãnh thổ của mình, dù văn hoá này là triết lý âm dương của người Việt đi nữa.   Và biên giới thần quyền này vẫn còn có hiệu lực cho đến thời Việt Nam Cộng Hoà. Mặc dù chung sống trên địa bàn dân cư ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, nhưng phong tục Chăm không bao giờ chấp nhận người Kinh xây dựng nhà cửa trong biên giới thôn làng của họ. Ngay trong gia đình, con em người Chăm cũng không có quyền nói tiếng Việt, vì truyền thống Chăm xem đây là tiếng nói ngoại lai, không thể xử dụng trong biên giới văn hoá và xã hội của dân tộc này.   *   Dân tộc Chăm và Việt là hai cộng cồng chịu ảnh hưởng hai nền văn minh hoàn toàn khác biệt. Nếu dân tộc Việt có triết lý “âm dương” thì dân tộc Chăm cũng có qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ). Đây là hai triết lý phát xuất từ hai nguồn gốc khác nhau và có hai mục tiêu hoàn toàn khác nhau.   Để giải thích cho hai thực thể đối chọi nhau nhưng không thể tách rời với nhau trong văn hoá Chăm, thì các nhà nghiên cứi nên dựa vào qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” để phân tích vấn đề, chứ không nên xoá bỏ qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” để thay vào đó triết lý “âm dương” của dân tộc Việt, không liên hệ gì với yếu tố văn hoá của dân tộc Chăm.   Theo Champaka.info  
0 Rating 988 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2012
VĂN HÓA CHAMPA 1. Sơ lược lịch sử vương quốc Chămpa Trên dải đất Việt Nam ngày nay vào thời xưa đã từng tồn tại ba quốc gia. Về đại thể thì miền bắc là lãnh thổ Đại Việt, miền trung là địa bàn của vương quốc Chămpa và miền nam là một phần lãnh thổ của vương quốc Phù Nam. Các kết quả nghiên cứu về khảo cổ học, dân tộc học, sử học… ngày càng chứng minh rõ ràng hơn về cội nguồn của ba quốc gia cổ đại ấy. Có thể nói một cách khái quát là văn minh Đại Việt bắt nguồn từ văn hóa Đông Sơn, văn minh Chămpa phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam mà một phần quan trọng là văn hóa Óc Eo có nguồn gốc từ văn hóa Đồng Nai. Vào thời ấy cương vực, bờ cõi, biên giới giữa các quốc gia cổ đại luôn là vấn đề không bao giờ rành mạch rõ ràng. Tuy vậy nếu theo phân bố hành chánh ngày nay thì có thể coi các tỉnh ven biển miền Trung – từ Quảng Bình đến Bình Thuận – và các tỉnh khu vực Tây Nguyên là thuộc địa bàn của vương quốc Chămpa cổ xưa.  Trong quá trình phát triển vương quốc Chămpa được ghi chép trong các biên niên sử với các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, từ thế kỷ IX là Chămpa (hay Chiêm Thành). Vương quốc Chămpa có nhiều thành phần tộc người, xuất hiện từ đầu công nguyên. Tại khu di tích Mỹ Sơn (huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) có một tấm bia của vua Paksadarma Vikrantavarma I (nửa đầu thế kỷ VII) ghi lại truyền thuyết về sự hình thành vương quốc Chămpa. Theo đó thì đã có một người Ấn Độ tên là Kaudinay (có nghĩa là người Bàlamôn vĩ đại nhất) đến và lấy nữ chúa Soma, con gái vua rắn Naga và sáng lập ra một vương triều. Đây là một huyền thoại phổ biến ở khu vực Đông Nam Á – như sự hình thành vương quốc Phù Nam cũng là một người Kaudinay lấy nữ chúa Liễu Diệp – huyền thoại thể hiện truyền thống văn hóa bản địa mang đậm tính chất Mẫu hệ có từ trước khi nền văn minh phụ hệ/ phụ quyền từ Ấn Độ ảnh hưởng đến khu vực này. Lịch sử vương quốc Chămpa qua sử liệu các quốc gia láng giềng như Trung Quốc, Đại Việt, Khmer, Java… phản ánh những nét khái quát như sau. Thư tịch cổ của Trung Quốc đã ghi chép những cuộc nổi dậy của nhân dân huyện Tượng Lâm (huyện cực nam vùng đất mà nhà Hán chiếm đóng những năm đầu công nguyên). Đến năm 192 nhân lúc nhà Hậu Hán loạn, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy giết huyện lệnh, giành tự chủ. Người đứng đầu cuộc khởi nghĩa là Khu Liên (có thể tên này là ghi âm lại từ kurung của ngôn ngữ cổ Đông Nam Á, có nghĩa là tộc trưởng – vua). Theo sách Thủy kinh chú quốc gia mới thành lập này có tên Lâm Ấp, “phía nam giáp nước Phù Nam… lợi dụng núi non hiểm trở, họ không chịu quy phục Trung Quốc” như Tấn thư chép khoảng năm 280. Lương sử (khoảng đầu thế kỷ VII) còn ghi lại phổ hệ những ông vua Chămpa sau Khu Liên như Phạm Hùng, Phạm Dật, Phạm Văn, Phạm Tư Đạt… đều là những tên gọi phiên âm ra tiếng Hán từ chữ Ấn Độ cổ. Những kết quả nghiên cứu mới nhất của nhiều học giả trong và ngoài nước thì vương quốc Chămpa được hình thành bởi một hệ thống gọi là mandala hay là một vương quốc bao gồm một liên minh/ liên lập của nhiều tiểu quốc có địa bàn kề cận nhau và tương đồng về văn hóa tộc người. Thuật ngữ mandala được các nhà nghiên cứu dùng để diễn tả một hệ thống chính trị – kinh tế được phát hiện ở hầu hết các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được thần linh hóa và tự xưng là thủ lĩnh của các tiểu vương khác – mà trên lý thuyết là những chư hầu của họ. Như đã nói ở trên, địa bàn vương quốc Chămpa ở miền Trung, khu vực địa hình hẹp chiều ngang tây – đông mà kéo dài theo chiều bắc – nam, lại bị chia cắt bởi các đèo cắt ngang do núi ăn lan ra biển. Song song với những con đèo này là những dòng sông bắt nguồn từ dãy Trường Sơn chảy xuôi ra biển theo hướng tây – đông. Những dòng sông này và chi lưu của nó là những đường giao thông chủ yếu trong từng khu vực. Vùng hạ lưu hình thành dải đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng là cơ sở của nền kinh tế nông nghiệp, cửa sông rộng nối với biển Đông hình thành các bến cảng – đầu mối liên hệ với các tiểu vùng khác bằng đường biển. Địa hình này tạo thành những tiểu vùng – tiểu quốc tập hợp thành vương quốc Chămpa. Những chuyến điền dã của giáo sư Trần Quốc Vượng và cộng sự tại miền Trung trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã phát hiện mô hình một tiểu quốc Chămpa dựa trên trục quy chiếu là các dòng sông lớn ở mỗi tiểu vùng địa hình. Theo mô hình này thì mỗi tiểu quốc phải có ba thiết chế – ba trung tâm, tính theo dòng chảy của sông từ núi (tây) ra biển (đông) là: trung tâm tôn giáo, hay là thánh địa, thường ở phía thượng nguồn các dòng sông – trung tâm chính trị, hay là thành cổ, thường ở vùng đồng bằng hạ lưu và ở phía nam dòng sông – trung tâm kinh tế thương nghiệp, thường là các cảng nơi cửa sông, cửa biển. Điển hình như tiểu quốc Amavarati vùng Quảng Nam, với dòng sông Thu Bồn ta thấy có thánh địa Mỹ Sơn, thành cổ Trà Kiệu và cảng thị Đại Chiêm – Đại Chiêm hải khẩu (Hội An). Do địa hình chung của cả vương quốc như vậy nên mỗi tiểu vùng – tiểu quốc phát triển tương đối độc lập và luôn tranh giành ảnh hưởng và địa vị đứng đầu cả vương quốc. Tiểu quốc và vị Tiểu vương nào hùng mạnh hơn sẽ có ảnh hưởng bao trùm và trở thành trung tâm và Quốc vương đứng đầu cả vương quốc. Tiểu vùng Amavarati lớn mạnh hơn cả có lẽ nhờ thương cảng Đại Chiêm hải khẩu Chămpapura, đã tập hợp được các tiểu quốc thành vương quốc, đặt kinh đô đầu tiên ở thành phố Sư tử Trà Kiệu Simhapura và Mỹ Sơn Srisambhubhadresvara là thánh địa. Đây là một trong những trung tâm quy mô và quan trọng nhất của vương quốc Chămpa. Các trung tâm lớn – tiểu vùng quan trọng – khác là Bình Định (Vijaya), Phú Yên – Khánh Hòa (Kauthara) và Ninh Thuận - Bình Thuận (Panduranga). (1) Vương quốc Chămpa cổ từng có nhiều tôn giáo, tín ngưỡng. Họ tôn thờ Nữ Thần Mẹ của vương quốc là Pô Inư Nagar theo truyền thống tín ngưỡng Mẫu hệ lâu đời của cư dân Đông Nam Á. Tín ngưỡng này còn tồn tại khá đậm nét trong xã hội người Chăm hiện nay. Từ khi tiếp nhận những ảnh hưởng của văn hóa – văn minh Ấn Độ người Chăm cổ theo Ấn Độ giáo, quốc vương là người quyết định tôn giáo chính thống của vương quốc. Tôn giáo chính của người Chăm là Ấn Độ giáo, thờ một hay cả ba vị Thần của Tam vị nhất thể là Brahma – Visnu – Siva. Tuy nhiên người Chăm cổ tôn sùng thần Siva hơn cả. Các văn bia cổ bằng chữ Phạn (Sanskrit) trong khu Mỹ Sơn đã tôn Siva là Chúa tể của muôn loài, là cội rễ của nước Chămpa. Thần Siva thường được thờ bằng ngẫu tượng sinh thực khí nam giới. Ngoài ra người Chăm cổ còn theo cả Phật giáo với trung tâm Đồng Dương (Quảng Nam) phát triển cực thịnh hồi thế kỷ IX – X. Bên cạnh việc tiếp nhận tôn giáo Ấn Độ, người Chăm cổ đã tiếp thu cả mô hình tổ chức chính quyền nhà nước mà nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đặc trưng chủ yếu là vương quyền kết hợp với thần quyền, các quốc vương Chămpa thường được đồng nhất với thần Siva. Người Chăm cổ có nền kinh tế đa thành phần, đó là nông nghiệp đa canh: trồng lúa, dâu tằm, bông, hoa màu… Lâm nghiệp: khai thác gỗ và hương liệu quý… Ngư nghiệp: đánh bắt thủy hải sản và thủ công nghiệp: làm gốm, thủy tinh, rèn sắt, chế tác đồ trang sức và mỹ nghệ vàng bạc… Đặc biệt người Chăm cổ giỏi nghề buôn bán bằng đường biển và đường sông. Để thích ứng với vùng đất gần như quanh năm khí hậu khô hạn, người Chăm cổ đã có những hệ thống thủy lợi từ việc lợi dụng những mạch nước chảy từ núi, đồi gò mà xây dựng giếng, hồ đập… Sự phong phú và đa dạng của những di tích di vật Chămpa còn lại đến nay cho thấy một xã hội rất phát triển trên cơ sở một nền kinh tế có cơ cấu thích hợp mà nổi bật là tính hướng biển. Vương quốc Chămpa nổi tiếng trong lịch sử cổ trung đại với hệ thống cảng thị phục vụ cho việc đánh cá ngoài khơi xa, buôn bán, trao đổi giao lưu với những quần đảo ở biển Đông và xa hơn, đến Trung Quốc và Ấn Độ do nằm trên trục giao thông đường biển quan trọng nối liền hai trung tâm văn minh lớn của thế giới. Truyền thống văn hóa bản địa của cư dân cổ Đông Nam Á ngoài văn hóa nông nghiệp (lúa cạn và lúa nước) còn có văn hóa thương nghiệp đường biển của những tộc người cư trú ven biển và trong các quần đảo trong biển Đông, trong đó có người Chăm. theo http://diendankienthuc.net
0 Rating 985 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 3, 2014
MIỀN TRUNG VIỆT NAM VÀ VĂN HOÁ CHĂMPA (MỘT CÁI NHÌN ĐỊA - VĂN HÓA)  Trần Quốc Vượng   I. Lời mở Từ một hai thế kỷ đầu Công nguyên cho đến các thế kỷ XVII-XVIII, trên dải đất miền Trung Việt Nam hiện tại, chủ yếu là từ Đèo Ngang cho đến Hàm Thuận, nhiều thời bao gồm cả Tây Nguyên, đã nảy sinh, phát sáng rực rỡ rồi tắt dần một nền văn minh độc đáo, ta gọi là văn minh Chămpa mà sợi dây liên kết (theo F. Engels: "sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước" (xem Nguồn gốc gia đình tư hữu và Nhà nước, 1882) là các nhà nước mà sử sách Trung Hoa, Đại Việt gọi bằng những tên Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, với các miền lãnh thổ - cũng có thể là các "tiểu quốc" xuất hiện trong sử sách Hoa Việt dưới những cái tên Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, châu Ô, châu Lý, Chiêm Động, Cổ Lũy, Thi Bị, Thượng Nguyên, Bôn đà lãng..., hay trong bi ký Phạn - Chàm với những tên Chămpapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga, Virapura, v.v... Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn, các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, Chăm H'roi, Raglai, Jarai, Rhaday... Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc), Bình Thuận hay là các phế tích "thành lồi', "giếng Hời", "cánh đồng chăm" theo cách gọi của người Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết..., những "thánh địa" (sanctuaive) Mỹ Sơn, Đồng Dương, Phong Nha, những cụm/nhóm đền - tháp Chămpa trong thung lũng, trên sườn đồi, chân núi, ven biển, trong rừng sâu..., những dòng họ Ông, Ma, Trà, Chế... với những con người da đồng hun, mũi cao, mắt sâu, tóc xoăn, những huyền tích, những lễ hội Katé, nhiều di tích Chăm và ảnh hưởng văn hóa Chăm còn "nhìn" thấy được và có thể tìm hiểu, nghiên cứu được ở Thanh, Nghệ, Tĩnh, ở châu thổ Bắc Bộ, ở ngay nội đô và ven đô Hà Nội... Và ngôn ngữ Chăm vẫn là sinh ngữ (Ngôn ngữ là sản phẩm/thành phần văn hóa). Người ta bảo "chính trị qua đi, văn hóa ở lại" (Les poliques passent, les cultures restent)". Văn hóa Chămpa đã và vẫn là một bộ phận hợp thành, là những thành tố của phức thể (multiplex) văn hóa việt Nam... Dưới đây, tôi muốn trình ra một cái nhìn địa - văn hóa về Chămpa dựa trên những kết quả thăm dò điền dã nhiều năm qua từ những làng Việt vốn là khu biệt cư (isolat) Chăm ở châu thổ sông Hồng và đặc biệt ở miền Trung, từ chân đèo Ngang tới Xuân Lộc - Biên Hòa, lưu vực Đồng Nai thượng, hạ... Tôi rất yêu quý tộc người Chăm - một tộc người có một nền văn hóa đặc sắc trải mấy phong sương... Một anh bạn Chămpa học (không bao giờ nghĩ rằng tôi giỏi như và hơn anh ấy) bảo rằng có lẽ vì tôi nặng tình với Chămpa nên có duyên với các di tích Chămpa. Có lẽ vậy... II. Bối cảnh và tảng nền địa văn hóa miền Trung 1. Trong bài này, tôi xin phép không nói đến Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng thuộc miền Trung, đúng hơn Bắc Trung bộ. Có nhà địa lý học nói rằng trên một ý nghĩa nào đó thì châu thổ sông Mã, sông Lam chỉ là sự "nối dài" của châu thổ Bắc bộ. Tôi không dám nghĩ thế, song về văn hóa - khảo cổ học, từ trước Công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là thuộc không gian văn hóa Đông Sơn (chỉ cần kể hai khu di chỉ mộ táng lớn: Đông Sơn (Thanh Hóa), Làng Vạc (Nghệ An). Trước đó nữa, di chỉ Cồn Chân Tiên, xứ Thanh hoàn toàn có chất Gò Bông (Phùng Nguyên) - Đồng Đậu của sơ kỳ Kim khí trung châu sông Nhị và gốm Hoa Lộc (sơ kỳ Kim khí đặc trưng ven biển xứ Thanh) tìm thấy ở nhiều di chỉ xứ Đoài miền Bắc (Gò Mả Đống, Gò Ghệ, Gò Giạ). Trước đó nữa, thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về không gian văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc - văn hóa học đều xem miền núi Thanh - Nghệ là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc Bắc bộ. Cố nhiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là không gian Việt cổ (Lạc Việt) và cũng như Giao chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân, Ái châu (Thanh), Diễn châu, Hoan châu (Nghệ), Đức châu (Tĩnh) từ đầu Công nguyên (Hán) đã nằm chung trong "lồng" Bắc thuộc Giao Châu rồi An Nam đô hộ phủ thời Hán - Đường, và cùng giành quyền tự chủ chung ở thế kỷ X. Thế kỷ X và đầu thế kỷ XI. Ranh giới phía Nam của Đại Cồ Việt - Đại Việt là Đèo Ngang - Hoành Sơn hayNam Giới (vùng cửa Sót, Hà Tĩnh nay, bên bắc đèo Ngang một chút). Tuy nhiên, cũng cần để ý đến ba chuyện: + Nhiều nhà khảo cổ học cho rằng văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ) là cội nguồn của văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình) và văn hóa Bàu Tró lại là cội nguồn của văn hóa Sa Huỳnh (Trung Trung bộ): Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ có quan hệ hữu cơ về Di truyền văn hóa. + Thời gian gần đây đã tìm được trống đồng loại I Heger và đồ đồng Đông Sơn ở nhiều địa điểm Quảng Bình (Phù Lưu), trống Thanh Khê (thố) (Bố Trạch), Quảng Trị (Dak Krông, Hướng Hóa), rìu lưỡi xéo, trống đồng Thừa Thiên (Ô Lai, Phong Điền)... Ngược lại, cũng tìm khuyên tai hai đầu thú kiểu Sa Huỳnh ở Xuân An (nay là thị trấn Xuân An, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) dưới chân dải Hồng Lĩnh bên hữu ngạn sông Lam. Gốm Sa Huỳnh ở Cồn Yàng[1] (Hương Trà, Huế) có nhiều mô típ trang trí kiểu Phùng Nguyên - Đông Sơn. Do vậy: + Cái giả thuyết khoa học cho rằng Bình - Trị - Thiên là khu đệm trước công nguyên dăm thế kỷ giữa văn hóa Sa Huỳnh từ Trung Nam Trung bộ tỏa ra và văn hóa Đông Sơn từ Bắc Trung Bộ lan vào, hay đó là vùng giao thoa văn hóa Sa Huỳnh - Đông Sơn vẫn tỏ ra có lý, tuy các di tích cả Sa Huỳnh, cả Đông Sơn, tìm và đào được ở Bình Trị Thiên còn khá mờ, khá ít, thua xa Sa Huỳnh Quảng Nam hay Đông Sơn Thanh Nghệ. Có lẽ còn cần thâm canh khảo cổ sơ kỳ kim khí ở Bình Trị Thiên nhiều hơn nữa mới hiểu được cội nguồn văn hóa Chămpa. + Nghệ An có người Bồ Lô (Poulo = Đảo nhân) ở Cửa Lò, cửa Hội, có Bà Lỗ Man ở cửa Cờn Quỳnh Lưu, Diễn Châu mà sử biên niên ghi ở thế kỷ X (thời Lê Hoàn). Từ đầu Công nguyên, Cửu Chân (Thanh Nghệ), Nhật Nam (Quảng Bình - Quảng Nam) luôn luôn theo biên niên sử Trung Hoa - phối kết nổi dậy chống Bắc thuộc, đặc biệt năm Xích Ô 11 (248) Lâm Ấp đánh chiếm đến Hoành Sơn thì ở xứ Thanh có khởi nghĩa Bà Triệu. Lâm Ấp, Chiêm Thành thường đánh phá Cửu Đức, Đức Châu (Tĩnh) và có lúc chiếm Thanh Nghệ một thời gian (đầu IX). Do vậy cần lý giải thêm quan hệ tộc người và văn hóa Việt (Thanh - Nghệ - Tĩnh) - Chăm (Bình Trị Thiên) ở vùng này. Tôi cho rằng có cư dân ngữ hệ Mã Lai - tiền Chăm ở vùng ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh, chủ nhân các văn hóa Hoa Lộc, Bàu Tró. + Chưa kể sau này (từ XI-XII trở đi) văn hóa Mường - Việt được lan truyền từ Thanh Nghệ Tĩnh vô Bình Trị Thiên và giao thoa với văn hóa Chămpa vùng Bắc. + Hay lại có giả thuyết cội nguồn tiếng nói và tộc người Tiền Việt - Mường hay/và Việt - Mường chung là từ miền Tây Nghệ - Tĩnh - Bình lan tỏa ra miền Bắc của nhiều học giả trong và ngoài nước (P. Ferlus, P. Schneider, G. Diffloth...). + Và từ H. Quarich Wales, Olov Janse ở thập kỷ 30 cho đến nay vẫn có giả thuyết là Chămpa đã là một trong những người thừa kế văn hóa Đông Sơn như G. Condominas đã tìm ra di duệ nghệ thuật Đông Sơn ở cột đâm trâu Tây Nguyên. Vậy cứ còn phải nghiên cứu nữa, nghiên cứu mãi... mà vai trò khảo cổ học là có tầm quan trọng quyết định đối với văn hóa Chămpa. Tiếc rằng Bình Trị Thiên cũng như Tây Nguyên còn là miền yếu của Khảo cổ - Văn hóa học Việt Nam. 2. Kèm theo đây là một sơ đồ - mô hình địa văn hóa Việt Nam, thể hiện cái nhìn của tôi về các vùng địa - văn hóa đa dạng của một Việt Nam thống nhất hôm nay. Nhưng bài này chỉ nói về miền Trung và văn hóa Chămpa. 3. Nói đến miền Trung, ai cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc - Nam. Tây là dải Trường Sơn, người Pháp gọi là Chaine annamitique; GS.TS Trần Kim Thạch chia đoạn Trường Sơn Nam, từ Quảng Nam đến Vũng Tàu, gọi nó là Nam Sơn. Trường Sơn mênh mông rừng rậm, với nhiều tầng cây nhiệt đới. Có một dải đồi ở miền chân núi (piérmont) mà người Nga gọi là miền trước núi (pretgorie = sơn cước). Từng đoạn, từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh; đi từ Bắc vô Nam Trung bộ là ta cứ lần lượt vượt ra "một dèo, một đèo, lại một đèo": đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả... ấy là ta chỉ kể các đèo lớn, chứ thật ra còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo Hoàng Mai - Khe nước lạnh - Lèn Hai Vai khoảng giữa Thanh Nghệ, đèo Lý Hòa - núi Lễ Đế (hay núi Ma Cô - tên này có ghi trong sử) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng giữa Quảng Ngãi và Bình Định... Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông ra biển, sông ngắn, nước xanh biếc, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu, tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền (landing) rất tốt. Vận động tạo sơn còn "ném" ra biển xa các đảo và quần đảo. Chưa kể các quần đảo san hô xa khơi (Hoàng Sa, Trường Sa), chỉ nói các đảo gần bờ như Hòn Mê - Biện Sơn - Nghi Sơn (Thanh), Song Ngư, Hòn Mát (Nghệ Tĩnh), Hòn Cỏ - Hòn La (2 Hòn La), Hòn Nồm (2 Hòn Chùa), Hòn Gió (Quảng Bình), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hòa)... tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông. Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới năm 1994, song lại bị đảo Hải Nam"thút nút" ở bên ngoài. Chất văn hóa biển của Giao Châu - Đại Việt buổi đầu là nhạt. Bắt đầu từ miền Trung, đường bờ biển Việt Nam "ưỡn" cong, "lồi" ra phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn hóa Chămpa ngày trước, văn hóa các vùng Trung bộ Việt Nam ngày nay rất mặn mòi, như chượp, mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, các loại đặc sản miền Trung. Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 4). Ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xưa bà con ta gọi là "gió Lào") nên, nói như một câu ca dân gian Quảng Trị: "Tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn...". Bốn năm liền, từ 1992 đến 1995, cứ vào tháng 7 - tháng 8 tôi vô công tác Quảng Trị, Quảng Bình và hưởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn cát nóng khô. Càng nóng càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chămpa - Trung bộ (Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cách giải thích hiện tượng này). 4. Để dễ hình dung, tôi đã mô hình hóa miền Trung thành hình hộp chữ nhật đứng - cạnh Tây là núi đồi - cạnh Đông là biển, với các đèo - sông, chia nó thành các xứ - vùng hình chữ nhật ngang. Từ đó với phương pháp tiếp cận tổng thể (system analysis), tôi "nhìn" miền Trung như một phức sinh thái (multiplex), với 7 hằng số địa lý sau: a) NÚI ĐỒI là sự ngăn cách mà cũng là sự nối tiếp: ĐÈO chính là cái gạch nối: Đèo nối Đông Tây: - Mụ Giạ (Nghệ Tĩnh) - Cha Lo (Quảng Bình) - Lao Bảo (Quảng Trị) - nay là cửa khẩu Quốc tế - Đèo Kiền Quảng Nam, đèo An Khê (Bình Định) qua Gialai và Kontum, Daklak, Dakmil... Đèo nối Bắc - Nam: Đèo Ngang chẳng hạn, mà nhà thơ PTD nói vui: núi ngang (T-Đ), đèo dọc chứ (B-N), sao gọi Đèo Ngang? Hay ở đó có câu của cổ nhân (Bùi Dương Lịch): Thạch thành Lâm Ấp trúc Lục lộ Tử An bình (Lũy đá Lâm Ấp xây Đường bộ Tử An đắp) - Ngô Tử An thời Lê Hoàn được sai làm đường vượt đèo Ngang sang miền Địa lý của Chiêm Thành: "Mùa thu, tháng Tám, Nhâm Thìn (992), sai Phụ quốc là Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam giới đến châu Địa lý" (Toàn thư, Bản kỷ, q.I). Hè 1995, tôi đã di dọc dài lần theo cái gọi là "Lâm Ấp thế lũy" này, từ Hoành Sơn quan (Đông) đến vùng núi Chóp Chài, Quảng Lưu - Quảng Trạch (Tây); Dân gian cũng có người gọi là "Lũy Hoàn vương" - Lũy này là đắp nối các đỉnh của dải đồi trước núi Hoành Sơn về phía Nam (phía Quảng Bình), kè đá tảng rất to chắc, bề mặt có nơi đo được 25m, cao 3-5m (tuy nay bị phá đã nhiều). Sách Tấn thư (q.95) chép năm Vĩnh Hòa thứ 3 (347) vua Lâm Ấp là Phạm Văn đánh Nhật Nam, thông báo với thứ sử Giao Châu Chu Phiên (Phồn) đòi lấy Hoành Sơn làm phân giới, Phạm Văn sai lấy đá đắp lũy và cũng bắt đầu xây thành Khu Túc trên sông Thọ Linh (sông Giang theo Đào Duy Anh). Thơ văn Nguyễn Hàm Ninh (giữa XIX) nói về núi Chóp Chài và núi Vọng Bái ở Quảng Lưu, Quảng Trạch có câu: "Tảng đá vua Lồi còn sót lại[2] Việc công hầu giành giật núi Thành Thang" Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, chúa Nguyễn Nam sông Gianh) sử dụng - cải tạo lại thành Cao Lao (≈ thiềng Kẻ Hạ ≈ thành Khu Túc (theo đoán định của Đào Duy Anh), còn ở Bắc Bố Chính (Bắc sông Gianh), chúa Trịnh cải tạo sử dụng lại hệ lũy Lâm Ấp và núi Vọng Bái. Cũng thơ văn Nguyễn Hàm Ninh viết: Cột cờ chúa Trịnh đổ rồi Dấu dinh lũy còn chơn vơn trên hòn Vọng Bái (Vọng Bái, nay thuộc thôn Tam Đa, xã Quảng Lưu, Quảng Trạch). Thời chống Pháp, chống Mỹ, đây là chiến khu Trung Thuần, với các tướng lĩnh Trần Hường, Đồng Sỹ Nguyên... Các nhà quân sự, từ Chămpa, qua Trịnh - Nguyễn đến ngày nay đều "nhìn" ra tầm quan trọng của các vị trí chốt trên các địa hình vùng Đèo Ngang là việc thường của binh pháp. Theo cán bộ và dân gian Quảng Bình, khoảng năm 1970, tướng quân Võ Nguyên Giáp cũng đã vô đây tổ chức các binh đoàn để chuẩn bị chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (tháng 3-1971). b) Chúng ta cũng nên "nhìn" SÔNG - BIỂN như đã "nhìn" NÚI - ĐỒI - ĐÈO, đó là cái nhìn biện chứng, vừa thấy mặt cắt ngăn vừa thấy mặt nối tiếp. Do một trăm năm nay, từ thời thực dân Pháp, với tư duy giao thông bộ, hễ cứ thấy miền nào bị sông ngăn (mà họ lại ít xây dựng cầu đường) là nhà cầm quyền chia đôi bờ sông thành hai đơn vị hành chính khác nhau: ở Bắc: Sơn Tây/Vĩnh - Phúc Yên, Thái Bình/Nam Định (qua sông Hồng)... Bắc Giang/Bắc Ninh (qua sông Cầu)... Ở miền Trung: Nghệ/Tĩnh (qua sông Lam), Bình/Trị (qua sông Sa Lung), Trị/Thiên (qua sông Ô Lâu), v.v... Thật ra, qua tư duy giao thông thủy của bản sắc văn hóa sông nước của việt Nam và miền Trung, đôi bờ sông chỉ là hai nửa của một, từ một làng, một huyện đến một tỉnh, xứ... Từ Chămpa đến Đại Việt - Việt Nam chẳng hạn, đôi bờ sông Thu Bồn - sông Chợ Củi chỉ là hai nửa của một Amaravati - Quảng Nam, đôi bờ sông Côn chỉ là hai nửa của một Vijaya - Bình Định... Sông không chỉ được "nối" bằng các bến đò ngang và hình ảnh "các cô lái đò" đã vào rất sâu folklore và văn hóa Việt Nam. Sông còn là sự nối tiếp Núi - Biển bằng các con đò dọc, bằng bè mảng... Tôi rất thích câu ca dao của hai cảng Hội An, Thi Nại - hai cảng rất cổ từ thời Chămpa đến nay: Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le (mít non) chở xuống, cá chuồn gửi lên. Hè 1994, tôi lên công tác ở một huyện trung du xứ Quảng và làm ra cái vẻ có "hiểu biết" về kinh tế, tôi hỏi cán bộ huyện: "Sao các đồng chí không học lối nuôi "cá lồng" dọc sông của miền Bắc?" và được trả lời: "Có đấy, nhưng thất bại vì dân tôi quen ăn đồ hải sản rồi, mà ngày nào chả có thuyền ngược lên đây mua bán hải sản!" Sự ngu ngốc này của tôi có cội nguồn lịch sử: Tôi là người Hà Nội, thuộc châu thổ Bắc bộ đã ở quá xa biển (# 100km) và ở thế hệ bố - mẹ - ông - bà tôi, hầu hết người Hà Nội đều không thích/không ăn được đồ biển, từ cá thu phải nấu lót bằng lá chè tươi (nhiều chất tanin khử mùi tanh) và "chả Sài Gòn" (nem rán) có "đệm" thêm thịt cua bể với thịt lợn, giá, miến... Qua kinh nghiệm điền dã ở miền Trung và cả Tây Nguyên, tôi thấy dân vùng này hay "xài" đồ biển. Tôi cho đó là bản sắc địa - văn hóa, được người Việt thừa kế từ người Chăm, cũng như nươc smắm, mắm nêm, chượp... và rau diếp cá (cho đến nay đa số người châu thổ Bắc bộ không thích/không ăn được rau diếp cá, họ chỉ dùng làm một vị thuốc nam). Bà tiến sĩ Pamela Gutman, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Đại học Sidney (Australia) có thông báo cho tôi biết rằng: Các nhà khảo cổ học biển (maritime archaeology) đã tìm thấy một con tàu đắm chở các thùng nước mắm từ Chămpa sang bán cho Roma cổ đại. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong một cuốn sách của L. Ferrand về các nguồn tài liệu của Ả Rập - Ba Tư từ thế kỷ VIII - đến thế kỷ XIV, khách thương hồ quốc tế đều gọi biển Đông là biển Chămpa. Biển là cái gạch nối giữa không gian văn hóa Sa Huỳnh - Chămpa - Óc Eo với thế giới Đông Nam Á hải đảo - Mã Lai và các không gian văn hóa biển khác, từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ dương và v.v.... c- Ngoài NÚI - ĐỒI - ĐÈO - SÔNG - BIỂN, Chămpa cổ miền Trung nay còn có CỒN - BÀU - ĐẦM PHÁ... Để tiện theo dõi có hệ thống, tôi và bạn tôi là GS Mai Đình Yên sẽ đề cập đến các hệ sinh thái ở ngay sau đây. 5. a) Những nghiên cứu mới nhất (xem Mai Đình Yên, Trần Quốc Vượng và các tác giả khác, Môi trường học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994) đã phân loại các hệ sinh thái tự nhiên làm 3 nhóm: - Nhóm các hệ sinh thái trên cạn. - Nhóm các hệ sinh thái ở nước. - Nhóm các hệ sinh thái ngập nước. Như đã nói ở phần trên (mục 4) miền Trung nay - Chămpa cổ - nằm hẹp giữa núi và Biển, có đầy đủ các kiểu sinh thái trên cạn chính, như: - Hệ sinh thái núi cao; hệ sinh thái hang động. - Hệ sinh thái núi trung bình và thấp. - Hệ sinh thái đồi gò. - Hệ sinh thái châu thổ (đồng bằng). - Hệ sinh thái ven biển. - Hệ sinh thái các đảo. Với cấu trúc đặc trưng là các thảm thực vật - thành phần quan trọng của quần xã rất phồn tạp (GS.TS Thái Văn Trừng, nhà lâm - sinh học tài danh, từ 1978 đã phân thành 19 kiểu thảm thực vật). Các hệ sinh thái ở nước cũng được phân thành các nhóm, các kiểu khác nhau như sau: + Nhóm hệ sinh thái nước ngọt, nước đọng. - Ao - Vũng - Hồ - Đầm (miền Trung gọi là Bàu) - Ruộng nước - Đập nước (Chămpa, theo Ấn Độ, gọi là Barak) - Đất ngập nước Đất ngập nước, từ Quảng Bình đến Nam - Ngãi... nằm giữa hai dải cồn cát Đông/Tây (theo L. Cadieriè) hay Đại/Tiểu Trường Sa (theo Lê Quý Đôn). Dưới chân các Cồn (Dune), thường có các Bàu (Stew) hay các rạch nước. Các nhà khảo cổ thường phát hiện được các di chỉ cư trú ở ven bàu và di chỉ mộ táng ở trên cồn. Vài ví dụ về văn hóa Bàu Tró và Sa Huỳnh - tiền Chămpa: Quảng Bình - Bàu Khê, Bàu Tró, Cồn Nền, Ba Đồn, Cường (Khương) Hà... Quảng Trị - Bàu Đông, Cồ
0 Rating 977 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On January 18, 2017
    San Jose: ngày 17 tháng 01 năm 2017  THƯ KÊU GỌI (V/v Ủng hộ đồng bào Cham Plei Ram bị lũ lụt) Kính gửi:  - Quý Đồng Hương - Quý công ty, các tổ chức Hội Đoàn, Doanh Nhân và nhà Hảo Tâm Thưa Quý vi, Như Quý vị đã biết về cơn bão và lũ lụt lớn ở Miền Trung Việt Nam cuối năm 2016 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề về mùa màng và nhà cửa. Làng Cham Plei Ram (Văn Lâm) thuộc Huyện Thuận Nam, Tỉnh Ninh Thuận cũng không ngoại lệ. Lũ lụt lịch sử này đã cuốn trôi đi những hạt lúa chin, khu chân nuôi gia cầm, cây ăn trái và hoa màu đang trong mùa thu hoạch. Sự mất mát do thiên tai gây ra đã làm cho cuộc sống bà con Cham Plei Ram phải lâm vào hoàn cảnh đói nghèo, cơ cực và khốn khổ. Trước tình cảnh thương tâm này và với tình thần “ Lá lành đùm lá rách. Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Ban vận động cứu trợ Plei Ram Hải Ngoại hiện đang phát động phong trào kêu gọi những đứa con xa xứ cùng chung tay giúp đỡ về vật chất, tinh thần để giảm bớt những khó khăn, sớm ổn định cuộc sống của bà con Cham chúng ta ở quê nhà. Thời gian ủng hộ:  Đến cuối tháng 01 năm 2017. Chúng tôi rất mong và đón nhận lòng bao dung đóng góp từ Quý vị. Chúc Quý vị và ba con một năm mới sức khỏe và thành đạt. Lời chào thân ái, T.M Ban vận động Cứu trợ Plei Ram Trưởng ban   Thiên Sanh Thêu   Đại diện khu vực: San Jose, CA:                                                               Los Angeles, CA Não Thành Đon (408) 805-6864                                   Từ Công Nhường (949) 351-8234 Châu Sarif         (408) 821-4708  Seattle, WA                                                                    Sacramento, CA Châu Văn Triển (206) 334-3753                                   Từ Công Ánh (916) 878-8670 Mọi sự đóng góp và ủng hộ Check hay Money Order xin gởi vể địa chỉ: THEU THIEN 1537 Thornbriar Dr San Jose, CA 95131 (408) 452-0957   Danh Sách ủng hộ cho cứu trợ Lũ Lụt Plei Ram 2017 <colgroup><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 1848; width: 39pt;" width="52" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 1450; width: 31pt;" width="41" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 12288; width: 259pt;" width="346" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 455; width: 10pt;" width="13" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 6456; width: 136pt;" width="182" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 1991; width: 42pt;" width="56" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 9898; width: 209pt;" width="278" /></colgroup> STT   HỌ VÀ TÊN   SỐ TIỀN (USD)   GHI  CHÚ               1   Ô.Bà   Victor Wang ( Chủ Tịch Kim Hoàn)       1000   San Jose 2   Nhóm thiện nguyện " VÌ TÂM " Plei Ram   800   Việt Nam 3   Thiên Sanh Thêu   100   San Jose 4   Yassin   Bá   100   San Jose 5   Châu văn Ninh   100   San Jose 6   Từ Hữu Tý   100   San Jose 7   Từ Hữu Lợi   50   San Jose 8   Não Thành Đơn (Cổng)   50   San Jose 9   Trượng Thanh An   50   San Jose 10   Bạch Thanh Thoảng   50   San Jose 11   Báo thị Rằng   50   San Jose 12   Thập Danh Đắng   50   San Jose 13   Bá    Ibraham   100   San Jose 14   Thập Văn Lô   20   San Jose 15   Tuôn    SaRi   100   San Jose 16   Bá Văn Việnk   50   San Jose 17   Châu    Sarif   100   San Jose 18   Văn Phương Thành (Zamin)   100   San Jose 19   Đạt Xuân Hiệp   60   San Jose 20   Bá Trung Tuyên (Bryan)   100   San Jose 21   Bá Trung Thiệu (Brandon)   100   San Jose 22   Báo văn Cân   100   San Jose 23   Báo Văn Đon   100   San Jose 24   Bá     Aly   100   San Jose 25   Bá    Kathy (Mộng Huy)   100   San Jose 26   Bá Anh Tâm   50   San Jose 27   Châu Thành Đạt (Rossi)   50   San Jose 28   Châu   Emily     (Dona)   50   San Jose 29   Châu   David  (Aman)   50   San Jose 30   Bá văn Dư   100   San Jose 31   Soriya   Từ   40   San Jose 32   Văn Hồng Kỳ  (Muosta)   50   San Jose 33   Bá   IMâm   50   San Jose 34   Từ Hữu Nuh   50   San Jose 35   Văn H.Phương Thư ( Vich )   50   San Jose 36   Văn T.Phương Châm   50   San Jose 37   Thập Danh Đức   50   San Jose 38   Qua Anh Dũng + Hoa    50   San Jose 39   Trương Thanh Lệ ( Tuệ )   50   San Jose 40   Kiều    Thiên   50   San Jose 41   La Hoài Công   50   San Jose 42   Nguyễn Văn Dậu   50   San Jose 43   Vicky Trang  ( Friend Levy )                50   San Jose 44   Uyên chi Nguyễn ( friend Levy )   50   San Jose 45   Lâm  SanI  ( Friend Levy )   50   Sacramento 46   Từ Công Ánh   100   Sacramento 47   Thiên Sanh Thử   100   Sacramento 48   Kiều Văn Quang   100   Sacramento 49   Từ Công Nhường   100   Los Angeles 50   Bá thị Kim Loan + Kiệt    100    Lousiana 51   Bá   Sami   ( Mộng Hoàng  + Hà )   100   Texas 52   Đạt Xuân Mong   50   San Jose 53   Đạt Xuân Điện   20   San Jose 54   Đạt thị Vân ( Nak )   50   San Jose 55   Đạt Nguyên    20   San Jose 56   Ngư    Nhẹ   50   San Jose 57   Ngư    Lập   20   San Jose 58   Ngư    Đô   20   San Jose 59   Ngư    Phương   20   San Jose 60   Ngư    Tính   20   San Jose 61   Nguyễn    Sao   50   San Jose 62   Nguyễn    Bảo   20   San Jose 63   Micheal Lê Minh Hải (Dịch vụ Di Trú Bảo Lãnh)   250   San Jose 64   Ysa Cosiem   100   Maryland 65   Kevin Champa   200   San Jose 66   Văn Phương Trình    50   San Jose 67   Lưu Hoàng Dzư    50   Tenessee 68   Báo Ysa (Đại)    50   Sacramento 68   Bá thị Mai (Mák)   50   San Jose 69   Miêu Văn Tuấn   50   San Jose 70   Bá Trung Dung   50   Seattle 71   Phú Minh Thánh   50   Seattle 72   Báo Văn Khoảnh   100   Oregon 73   Hứa Đại Ninh + Saro   50   San Jose  74   Abdullah Châu (Châu Văn Triển)   100   Seattle 75   v/c Imana Châu   100   Seattle 76   Ali Châu (Châu VănTrở)   50   Seattle 77   Châu Văn Mách   50   Seattle 78    Anh chị em và các cháu mỗi người $20   470   Seattle 79    v/c Karim Abdul Rahman   100
0 Rating 972 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 5, 2012
NGHỀ LM NHẪN MATA CỦA NGƯỜI CHURU Ở LNG HAWAI – LM ĐỒNG Sakaya(Bi đăng trn tạp chભ Văn ho Nghệ Thuật, Bộ Văn ho- Thᡴng tin, số 330, 12/2011, tr.73-75)Tm tắt㠠 Bằng tư liệu điền d#, khảo st tại thực địa, nội dung bi viết nᠠy trnh by về quy tr젬nh lm nhẫn bạc của người Churu ở Lm Đồng bao gồm giai đoạn tࢬm nguyn liệu, đc khu꺴n, nấu bạc, gia cng, trang tr chiếc nhẫn….䭠Nghề n y c lin quan đến nghề kim ho㪠n của Champa một thời nổi tiếng đ bị biến mất nhưng hm nay c㴲n st lại ở một lng Churu- L㠢m Đng. Đy l䢠 một nghề truyền thống qu gi của tộc người anh em cần được bảo tồn v� pht huy 1.Vᠠi nt về người ChuruNgười Churu l d頢n tộc thiểu số ở nước ta, c số dn khoảng 10.746 người, sinh sống chủ yếu ở L㢢m Đồng v một nhm nhỏ ở Ninh- B೬nh Thuận[1]. Người Churu cng hệ ngn ngữ M鴣Lai – Đa Đảo với người Chăm, Raglai v Eđ. Đặc điểm chung dễ nhận thấy nhất của người Churu lઠ ở nh sn, lࠠm ruộng nước, nui tru, l䢠m nghề thủ cng truyền thống (nghề gốm, nhẫn đeo tay, đan lt, m䡢y tre), sống từng lng (palei), người đứng đầu lng gọi lࠠ Po Palei, gia đnh mẫu hệ (vợ cưới chồng), c tục thổ t쳡ng, thờ cng tổ tin, thờ đa thần, hꪠng năm lm lễ cng l຺a, v.v.Trong những đặc điểm nu trn, chꪺng ti quan tm nhất l䢠 nghề lm nhẫn Mata. V nghề nଠy đang c xu hướng biến mất, chỉ cn lại duy nhất một gia đ㲬nh anh Ya Bơyu- 39 tuổi tại lngHawaii, xࠣ Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh Lm Đồng đang cn lⲠm loại nhẫn ny. 2. Chiếc nhẫn Mata của người Churu2.1 Nguồn gốc lịch sử Theo lời kể của ࠴ng Ya Bơyu, nghề lm nhẫn ny c࠳ nguồn gốc từ dng họ Kayong của người Raglai – Ninh Thuận truyền đến. Cch đ⡢y ba đời, ng nội của ng t䴪n Kayong Ya Kran– người Raglai ở Ninh Thuận đến lấy vợ người Churu ở lng Prok (Đức Trọng – Đơn Dương, Lm Đồng) ngࢠy nay. Sau đ ng nội của 㴴ng truyền lại cho cậu của ng v cuối c䠹ng cậu ng truyền lại cho ng đến ng䴠y nay. ng Ya Bơyu kể, nghề nԠy họ chỉ truyền theo dng mẹ, cha khng được truyền cho con mⴠ chỉ truyền cho chu trai bn d᪲ng họ mẹ (con trai của em gi hoặc con trai của chị gi ᡴng ấy). V vậy, ng nội hoặc cậu 촴ng khng truyền nghề cho con trai m chỉ truyền lại ch䠡u trai. Ngy nay, mặc dng nghề n๠y chỉ cn tồn tại ở⠠duy nhất một gia đnh nhưng ng Ya Bơyu vẫn kh촴ng dạy nghề ny rộng ri cho ai m࣠ chỉ dạy được duy nhất một con trai ng ấy l Ya Thương, 17 tuổi v䠠 chu trai l Ya Thang 18 tuổi. ᠔ng Ya Bơyu ni rằng, nếu đng luật tục l㺠 ng khng bao giờ dạy cho con trai m䴠 chỉ dạy cho chu trai l chᠭnh. V vậy, trong việc truyền nghề ng vẫn xem ch촡u trai mnh l ch젭nh. Nhiều đứa con trong lng xm cũng đến nhೠ ng học nghề nhưng khng th䴠nh. Vừa rồi nh nước hỗ trợ kinh ph cho ୴ng cũng dạy cho 10 người trong lng nhưng khng ai thഠnh cng, học xong rồi bo nghề, cuối cng chi c乲n lại cn trai v ch⠡u trai của ng biết lm th䠴i[2]. ng Ya Bơyu cԲn ni lm nghề n㠠y cũng c tổ tin chứng gi㪡m v theo ph hộ, tr๴ng coi, v vậy trước khi vo học nghề 젴ng phải cng tổ nghề tại nh ꠴ng cậu một con g v một chࠩ rượu v sau khi ra nghề cũng cng tạ tương tự. Cຳ như vậy người thợ mới hnh nghề ny được suốt đời[3].Lࠠm nghề ny cũng c một số ki೪ng cữ. Khi đc nhẫn, đổ thỏi bạc cũng phải chọn ngy để nhẫn khỏi bị cong, nứt. Ngoꠠi ra cn khing cử đối với một số người lạ trong l⪠ng khng ph hợp với tuổi của thợ nhẫn. Nếu kh乴ng may, những người khng hạp tuổi vo nh䠠 người thợ, th hm đ촳 người thợ phải nghỉ lm cả ngy, vࠬ nếu lm sản phấm thế no cũng bị hư[4]. 2.3. Qui trࠬnh lm nhẫn Mata2.3.1.C࠴ng cụ lm nhẫn Những dụng cụ cơ bản lm nhẫn Mata như sau:Những c࠴ng cụ bằng gỗ truyền thống-Pơtak: c4ng cụ lm bằng gỗ (loại gỏ đỏ) di khoảng 20cm, rộng 8 cm d࠹ng để se sợi sp ong để tạo hoa văn cho nhẫn.-Gai pơtak: cũng tương tự nhưᠠpơtaknhưng c3 cn, tay cầm di khỏang 10 cm, dᠹng để ko sợi sp ong.-顠Gai mata tarah: gậy gỗ c lồi ở phần đầu dng để l㹠m khun mắt nhẫn-Gai long kayau: c䠢y gỗ trn hơi nhỏ ở phần đầu v lớn dần ở phần th⠢n, di khỏang 30cm, đường knh khoảng 1-2cm, d୹ng để tạo độ rộng hẹp đường knh của chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong.-�Gai lon pasei: cy sắt trn hơi nhỏ ở phần đầu vⲠ lớn dần ở phần thn, di khoảng 30cm đường k⠭nh khoảng 1-2cm, dng để tạo độ rộng hẹp đường knh của chiếc nhẫn bạc khi đ魣 đc xong.-Những cꠢy que nhỏ bằng cy hoặc gỗ dng để tạo hoa văn⹷ Những cng cụ bằng sắt-䠠Taow asit: Dao nhỏ bằng sắt dng để khắc vạch, cắt gọt khi lm mẫu nhẫn-頠Gai pasei: C"y dũa sắt dng đễ dng để dũa cho bẳng những vết nối của chiếc nhẫn bạc khi đ鹺c xong- K(m sắt: dng cắt v uốn cong v頲ng nhẫn- B:a sắt: dng để đập mỏng những bộ phận của nhẫn bạc khi cần thiết.Đy l颠 những cng cụ hiện đại mới ảnh hưởng nghề lm kim ho䠠ng của ngườiKinh sau ny. 2.3.2. Nguyn liệu lઠm nhẫn - Priak (thỏi bạc): L nguyn liệu chભnh lm nhẫn Mata của Churu-ࠠRalin (sp ong): dng để tạo mẫu chiếc nhẫn trước khi dṹng bạc để đc-ꠠEh kubau (phn tru): Chủ yếu l⢠ phn tru ngh⢩, quấy lỏng dng để lm khu頴n để đổ bạc vo lm nhẫn.-ࠠ Hala dua (l! dứa): dng để lm phẻo đổ bạc v頠o khun đc.-亠 Baoh chum ket (tri bồ kết): dng để nấu nước tạo độ bṳng cho chiếc nhẫn 2.3.3. Qui trnh lm nhẫn Tạo mẫu nhẫnNhẫn đầu ti젪n được lm mẫu bằng sắp ong, trang tr đầy đủ cୡc hoa văn v cả đến việc khắc vạch đầy đủ tất cả những gc cạnh mೠ thợ cần trang tr. Khch thước nhẫn được thợ định sẵn v� nhẫn bằng mẫu sắp ong c thể co giản được bằng cy gậy gọi l㢠 “gai lon kayau”.Mỗi lần tạo mẫu -t nhất từ 2-3 chiếc nhẫn (xem ảnh) Tạo khun đổ nhẫn bạcSau khi hon chỉnh mẫu nhẫn bằng s䠡p ong, người thợ bắt đầu tạo khun để đổ nhẫn bạc. Khun được l䴠m bằng cch như sau: người thợ lấy 2-3 chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong cột vᡠo đầu một que tre di khoảng 20cm v ở phần giữa của que tre c࠳ gắn thm một chiếc phẻo nhỏ lm bằng lꠠ dứa dnh vo hai chiếc nhẫn mẫu để đổ bạc n�ng chảy vo khun. Sau đള thợ nhng nguyn phần đầu que tre cꪳ gắn những chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong vo phᠢn tru quấy lỏng để sẵn trong một x nhỏ rồi đem phơi, khoảng 15 phⴺt sau th phn tr좢u kh bm v䡠 bao bọc xung quanh chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong. Cứ 15 pht họ nhẺng que tre c gắn nhẫn mẫu bằng sp ong v㡠o phn tru một lần, nh⢺ng khoảng 3 lần th phn tr좢u bm vo nhẫn mẫu bằng sᠡp ong cng dy, tạo lớp ࠡo cho chiếc nhẫn mẫu, từ đ m th㠠nh khun.L䠲 nấu thỏi bạc lm nhẫnn MataL nấu thỏi bạc để tạo nhẫn Mata cಳ khch thước nhỏ, đơn giản, chỉ sử dụng bếp lửa v hai ống hơi bằng ống sắt, giống như ống hơi thợ r�n để thổi lửa. Ngy nay, l đổ bạc của ಴ng Ya Bơyu hiện đại hơn, được xy bằng gạch (di 50cm x rộng 30cm x cao 0,5cm), ống thổi lửa được l⠠m bằng motơ điện. Với l ny, chỉ cần 1-2 kg thang c⠳ thể đủ nấu bạc nng chảy để đổ được từ 3-6 chiếc nhẫn Mata. Cch đổ bạc để tạo th㡠nh nhẫnn MataKhi l lửa chuẩn bị xong, hai người thợ (một thợ chnh v⭠ thợ phụ) bắt đầu lm cng việc đổ nhẫn bạc. Đầu tiപn người thợ phụ (vợ ng Ya Bơyu) đưa khun nhẫn mẫu bằng s䴡p ong c bao bọc phn tr㢢u kh vo l䠲 lửa, khoảng 5 pht sau th chiếc nhẫn mẫu bằng sꬡp ong trong khun phn tr䢢u bị nng chảy ra ngoi, ch cn lại khu㠴n trống. Lc ny thợ ch꠭nh, ng Ya Bơyu đưa ci ch䡩n nhỏ lm bằng gốm c bỏ thỏi bạc vೠo l. Lửa l được thổi mạnh, khoảng 10 phⲺt sau th bạc nng chảy, thợ ch쳭nh cầm đũa di bằng sắt gấp chn gốm đựng bạc nੳng chảy đổ vo khun trống bằng phഢn tru theo đường phẻo nhỏ lm bằng l⠡ dứa gắn với que tre m người thợ phụ đang cầm sẵn. Khoảng vi ph࠺t sau th người thợ phụ đưa khun đ촣 đổ bạc nhn vo t꠴ nước lạnh để sẵn gần đ. Khi khun đổ bạc đang n㴳ng được nhn vo nước lạnh th꠬ nhiệt độ thay đổi đột ngột nn khun bằng ph괢n tru bị vỡ ra v cuối c⠹ng bn trong chỉ cn lại chiếc nhẫn bằng bạc đẹp mắt. Đ겳 l qui trnh đ଺c nhẫn Mata của người Churu (xem ảnh). Trang tr hoa vănHoa văn tr�n nhẫn được trang tr ngay lc nhẫn l�m mẫu bằng sp ong để in dập trước vo khuᠴn bằng phn tru, chỉ c⢳ hoa văn “mata” (mắt) được gắn kết sau khi nhẫn bạc được đc xong. Để tăng thm độ tinh xảo, đẹp mắt cho chiếc nhẫn Mata, sau khi đꪺc xong nhẫn bạc, người thợ dng những chiếc dũa sắt, dũa lại những đường gờ, những vết nối cho bằng phẳng. Cuối cng họ đem nhẫn đi nấu với tr鹡i chm kết khoảng nửa giờ để tăng thm độ b骳ng v sng cho nhẫn bạc. Hoa văn trang tr࡭ trn nhẫn chủ yếu l hoa văn “Mata”(mắt), m꠴ tả mặt trời được khắc họa bằng ngi sao tm c䡡nh, ở chnh giữa c gắn một hột tr�n mu đỏ gọi l “baoh kraik” (hột cࠢy kơnia) v hoa văn hnh b଴ng la di, chạy xung quanh mặt trời hoặc phủ đầy v꠲ng nhẫn. Bn cạnh hoa văn la c꺲n c hoa văn l rừng v㡠 mắt con su nhưng loại hoa văn ny chiếm tỉ lệ ⠭t, khng phổ biến. Hoa văn trang tr tr䭪n chiếc “nhẫn mata” của người Churu c cả 3 loại: hoa văn m tả sự vật, thực vật v㴠 động vật. Tuy nhin hoa văn “Mata” m tả h괬nh mặt trời v bng lഺa l hoa văn chnh (chủ đạo) của chiếc nhẫn nୠy.Chnh v vậy người Churu chọn hoa văn Mata để đặt t�n cho chiếc nhẫn truyền thống của họ, đ l “Tarah Mata” (Nhẫnn Mata). Hoa văn trang tr㠭 trn chiếc nhẫn Mata đ phản ảnh được tộc người Churu cꣳ trnh độ tay nghề tinh xảo, c nghề luyện kim ph쳡t triển từ lu đời. Hoa văn hnh mặt trời v⬠ bng la đ亣 cho ta biết tổ tin người Churu l cư dꠢn nng nghiệp, trồng la nước, thờ thần mặt trời. V亠 khi quan st cuộc sống người Churu hiện nay chng ta cẲn thấy, người Churu khng chỉ lm ruộng nước, thờ thần mặt trời m䠠 cn nui trⴢu, ở nh sn, mặc vࠡy, o chui đầu (phoncho), thờ đa thần v hᠠng năm lm lễ cng ruộng, mừng l຺a mới,.v.v. Chiếc nhẫn Mata của người Churu đ chứa đựng một phần những hằng số văn ha của cư d㳢n nng nghiệp vng Đ乴ng Nam . 3. Nhận định về chiếc nhẫn Mata của người Churu3.1. ] nghĩa về mặt vật chất Hiện nay, cc nh nghiᠪn cứu chưa tm thấy nghề dệt của người Churu; cn nghề đan l첡t my tre đang c xu hướng biến mất, chỉ cⳲn lại lay lắt nghề gốm v nghề lm nhẫn. Tuy nhiࠪn, nghề lm nhẫn hiện chỉ cn sಳt lại một gia đnh duy nhất, v vậy n쬳 l di sản văn ha vật chất qu೭ gi của người Churu. Chiếc nhẫn Mata của người Churu thường lm bằng bạc, thỉnh thoảng lᠠm bằng đồng hoặc vng. Chiếc nhẫn Mata, khng chỉ được sử dụng trong cộng động người Churu mഠ khi sản xuất ra nhiều họ cn đem bn, trao đổi với người Chăm v⡠ người Raglai,v.v. Chiếc nhẫn Mata cũng l vật qu của người Chăm vའ người Raglai trong cuộc sống hng ngy cũng như trong cưới hỏi, tang ma,v.v. Ch࠭nh v vậy n l쳠 vật qu gi đối với c� nhn, cộng đồng sở hữu n. Xưa kia người ngh⳨o chỉ đeo nhẫn Mata bằng đồng, người giu c th೬ đeo nhẫn bằng bạc v giu hơn lࠠ bằng vng. V vậy, chiếc nhẫn Mata cଳ gi trị vật chất rất cao. V bạc, vᬠng l loại qu hiếm, ngୠy xưa chiếc nhẫn Mata c thể đổi bằng heo, tru, ng㢠y ny được định gi bằng tiền mࡠ nh ngho cũng khਲ਼ mua sắm được. 3.2. nghĩa về mặt tinh thần Chiếc nhẫn Mata khݴng chỉ c gi trị về mặt vật chất m㡠 n c 㳽 nghĩa về mặt tinh thần rất lớn. Chiếc nhẫn Mata đ đi vo phong tục tập qu㠡n của người Churu. L người Churu (cũng như người Chăm) khi đến tuổi trưởng thnh (từ 18 tuổi trở lࠪn), cả nam v nữ đều phải đeo nhẫn Mata. Đ lೠ dấu hiệu để nhận biết đồng tộc của họ. Trong đm cưới, vai tr của nhẫn Mata thật quan trọng. Những cᲴ gi Churu khi đi hỏi chồng, ngoi chᠩ rượu lễ, heo g, cn cಳ chiếc nhẫn Mata như vật snh lễ trao cho chồng. Sau ny khi đ� thnh vợ thnh chồng, chiếc nhẫn Mata trở thࠠnh vật chứng hn nhn, l䢠 biểu tượng của sức mạnh tnh yu v쪠 sự gắn b keo sơn của vợ chồng. Nếu sau ny chồng c㠳 muốn ly dị vợ th chiếc nhẫn Mata trở thnh vật chất của h젴n nhn để hai bn tộc họ (b⪪n vợ – bn chồng) xem xt. Nếu chồng muốn ly dị thꩬ chồng phải trả lại chiếc nhẫn cưới (nhẫn Mata) cho vợ v đền duyn cho vợ từ 2- 7 con trઢu. Chiếc nhẫn Mata cn l vật lễ quan trọng trong đ⠡m tang của người Churu (cũng như người Chăm). Khi người Churu chết, ngoi những đồ ty t๡ng như o quần, thức ăn hng ngᠠy cn phải c chiếc nhẫn Mata thⳬ linh hồn người chết mới siu thot. 3.3. ꡝ nghĩa về mặt lịch sử v mối quan hệ tộc ngườiࠠChiếc nhẫn Mata của người Churu c từ lu đời v㢠 c quan hệ gần gũi với chiếc nhẫn Mata của người Chăm kể cảt㠪n gọi, kiểu dng, hoa văn trang tr, biểu tượng văn h᭳a, nghĩa vật chất v tinh thần.� Tuy nhin c điều nghịch l곭, mặc d hiện nay người Chăm cn sử dụng loại nhẫn Mata n鲠y phổ biến trong đời sống hằng ngy, trong lễ cưới, tang ma, lễ hội nhưng khng cള ai l người Chăm cn biết lಠm loại nhẫn ny. Ngược lại nghề lm nhẫn Mata lại xuất hiện ở người Churu. Ở người Chăm c࠲n xảy ra một trường hợp khc, đ l᳠ từ xưa đến nay người Chăm thường sử dụng giấy để ghi chp chữ Chăm truyền thống nhưng khng c鴳 người Chăm no biết lm giấy mࠠ lại xuất hiện nghề lm giấy ở người Raglai m ch࠺ng ti đ c䣴ng bố ở Tạp ch Dn tộc học số�[5]. Từ nghề lm nhẫn Mata của người Churu v nghề lࠠm giấy thủ cng của người Raglai đ cung cấp cho ch䣺ng ta những bằng chứng tư liệu lm sng rࡵ thm về mối quan hệ mật thiết giữa người Chăm, Raglai v Churu v.v. Vậy đến đꠢy c một vấn đề đặt ra, nghề lm nhẫn Mata của người Churu c㠳 ảnh hưởng từ người Chăm hay khng? Hoặc người Chăm chỉ biết sử dụng chiếc nhẫn Mata nhưng khng biết l䴠m, chỉ mua lại từ người Churu? Như chng ta đ biết trước kia, vương quốc Champa l꣠ một quốc gia đa dn tộc dn tộc, trong đ⢳ c người Chăm, Raglai, Churu, Eđ, Koho, Stieng,v.v Trong đ㪳, người Chăm l dn tộc chủ thể sinh sống ở đồng bằng vࢠ ven biển, cn dn tộc anh em kh⢡c sống ở Trường Sơn – Ty Nguyn. C⪡c dn tộc anh em của quốc gia Champa bnh đẳng với nhau tr⬪n tất cả phương diện, chứ khng phải quan hệ giữa Chăm v c䠡c dn tộc Trường Sơn – Ty Nguy⢪n l quan hệ thống trị v bị trị như một số nhࠠ sử học Việt Nam thường đề cập. Bằng chứng, vua Po Rome gốc người Churu, vợ Po Rome l Bia Than Can gốc người Eđ vઠ nhiều văn bản Chăm cn cho biết người Raglai l tộc người quan trọng đ⠣ tham gia xy dựng đền thp v⡠ giữ những kho bu vật của vua cha Champa[6]. Bằng chứng khạc, Ty Nguyn hiện c⪲n được ghi lại trn bia k Champa ở Mỹ Sơn như lꭠ thần dn của vương quốc Champa[7]v⠠ cụ thể nhất l cc đền thࡡp Chanpa trn đất Cao Nguyn như Yang Praong (Đắc Lắc), Yang Mun (Kon Tum)ꪠ[8]v thnh địa Ct Tiᡪn ở Lm Đồng cũng c li⳪n quan đến người Chăm v anh em Trường Sơn – Ty Nguyࢪn[9]. Một bằng chứng khc, người cc dᡢn tộc Trường Sơn – Ty Nguyn cũng c⪹ng tham gia với người Chăm chống lại người Khme xm lược đất Champa vo thế kỉ 12-13, hiện nay ở l⠠ng Kran Gok – lng gốm Churu (Lm Đồng) cࢲn nhiều mộ binh lnh Khme m họ gọi l� “kut kur”[10]. Trong lịch sử cũng cn c nhiều cuộc chiến tranh giữa người Champa với Khme vⳠ giữa Champa với Đại Việt[11]. Trong những cuộc chiến ny, Champa cũng đ từng dࣹng đội qun voi hng mạnh do c⹡c dn tộc anh em ở Ty Nguy⢪n đảm trch để xung trận tiến đến Thăng Long v nhiều lần tiến đến Angko- Cambodia[12]. Hơn nữa, những cuộc khởi nghĩa cuối cᠹng của nhn dn Champa chống lại Đại Việt đầu thế kỉ 20 như Tuen Phaow v⢠ Ja Thah Wa m sử Việt gọi l cuộc khởi nghĩa Tuần Phủ vࠠ Điền Sư cũng c đa số cc d㡢n tộc anh em như Churu, Raglai, Koho tham gia[13]. Một bằng chứng khc ngy nay cᠲn hiện hữu l người Raglai ở Ninh Thuận vẫn giữ kho bu (những y trang) của vua chࡺa Champa v l tộc người ch࠭nh quyết định trong cc lễ khai trương cng đền thạp của Champa ở Ninh Thuận[14]. Từ những dữ liệu lịch sử trn, cho thấy giữa cc dꡢn tộc Trường Sơn – Ty Nguyn v⪠ Chăm lun gắn b mật thiết với nhau trong suốt chặng đường lịch sử thăng trầm của vương quốc Champa tồn tại gần 18 thế kỷ ở dảy đất Miền Trung -T䳢y Nguyn Việt Nam. V vậy khꬴng c g ngạc nhi㬪n, khi hiện nay người Chăm cn sử dụng giấy để viết chữ nhưng khng ai lⴠ người Chăm biết lm giấy m xuất hiện nghề lࠠm giấy truyền thống ở người Raglai. Tương tự, ngy nay người Chăm cn sử dụng chiếc nhẫn Mata nhưng kh಴ng ai l người Chăm biết lm mࠠ xuất hiện nghề lm nhẫn Mata ở người Churu. Bởi v Champa lଠ một quốc gia đa dn tộc, do đ, kh⳴ng phải bất cứ nghề g người Chăm cũng lm m젠 c sự phn c㢴ng r rng, t堹y theo vng, từng địa phương m họ c頳 nghề khc nhau. Chẳng hạn, ở H Nội cᠳ 36 phố phường, mỗi phố phường lm những nghề thủ cng khഡc nhau. V Champa cũng vậy, c thể người Chăm Mỹ Nghiệp lೠm nghề dệt, người Raglai lm giấy, người Churu lm nhẫn Mata,v.v rồi đem bࠡn hoặc trao đổi với nhau l việc bnh thường, chứ kh଴ng phải nghề lm nhẫn Mata của người Churu l ảnh hưởng từ người Chăm như một số học giả đࠣ lầm tưởng.4. Kết luậnNghề l m nhẫn Mata của người Churu l một nghề thủ cng quഭ gi cn sᲳt lại trong di sản văn ha của người Churu. Hiện nay chiếc nhẫn Mata ny c㠲n đang được sử dụng phổ biến trong đời sống hng ngy cũng như trong phong tục cưới gࠣ, tang ma, lễ hội của người Churu. V vậy n c쳳 gi trị cả về vật chất v tinh thần. Chiếc nhẫn Mata, xᠩt từ cng cụ, nguyn liệu, c䪴ng đoạn chế tc, đến trang tr hoa văn đ᭣ biểu lộ trnh độ tay nghề tinh xảo của thợ thủ cng v촠 nghề nay cũng đ pht triển từ l㡢u đời. Đặc biệt qua hoa văn chng ta c thể nhận biệt được đặc trưng văn h곳a của chủ nhn chiếc nhẫn ny v⠠ mối quan hệ của họ với cư dn quanh vng, đặc biệt c⹳ quan hệ với người Chăm v vương quốc Champa trong qu khứ lịch sử. Với ࡽ nghĩa như vậy, cho nn chng t꺴i đề nghị Đảng – Nh nước, cc cơ quan chức năng nࡪn gấp rt nghin cứu, bảo tồn vꪠ pht triển nghề lm nhẫn Mata nᠳi ring v nghề kim hoꠠng ni chung nhằm pht huy tay nghề thợ thủ c㡴ng, tạo ra nhiều sản phẩm (kể cả truyền thống v hiện đại) để đp ứng nhu cầu đa dạng về thị trường đồ trang sức ngࡠy nay. Qua đ m tạo c㠴ng ăn việc lm, vừa pht triển kinh tế vừa bảo tồn một loại h࡬nh di sản văn ha qu hiếm c㭲n st lại trong một gia đnh của người Churu ở Việt Nam./. [1]㬠Nguyễn Văn Huy (Chủ bin),Bức Tranh cꠡc dn tộc Việt Nam, Nxb Gio dục, 1997, tr. 25-26. [2]⡠Ghi theo lời kể của ng Ya Bơyu 39 tuổi tại lng Hawai, x䠣 Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh Lm Đồng vo ng⠠y 27/12/2009. [3]Ghi theo lời kể của 4ng Ya Bơyu, 39 tuổi tại lng Hawai, x Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh L࣢m Đồng vo ngy 27/12/2009. [4]ࠠGhi theo lời kể của ng Ya Bơyu, 39 tuổi tại lng Hawai, x䠣 Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh Lm Đồng vo ng⠠y 27/12/2009. [5]Sakaya, “Nghề thủ cng truyền thống của người Raglai Ninh Thuận”,Tạp ch䠭D"n tộc học,Viện D"n tộc học, Số 6/2003, tr. 65-68. [6] Sakaya, “Xc định lại tượng thờ hong hậu tại thᠡp Po Rom Ninh Thuận”, Trong sch顠Những pht hiện mới về Khảo cổ học năm 1997, Nxb Khoa hoc X hội, Hᣠ Nội, 1998, tr. 646 -650; Lễ hội Kat Chăm, Sở Du lịch v Thương Mại Ninh Thuận xuất bản, Phan Rang, năm 2000. Bꠠi thơ Paoh Catuai,Văn bản Cham k- hiệu PC.141 đang lưu giữ tại EFEO – Malaysia. [7] L. Finot, Notes d’pigraphie. XI. Les inscriptions de Mi‑son,黠BEFEOIV, 1904, tr .897–977.
0 Rating 966 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 5, 2012
Sự Hình Thành Hội Đồng Tối Cao Dân Tộc Bản Địa tại Việt Nam Written by Musa PoromeSunday, 02 December 2012Trước kia có rất ít người biết đến về "Dân Tộc Bản Địa", nhưng ngược lại ngôn từ "Dân tộc thiểu số" mà ngày nay người Việt ta thường gọi là "dân tộc ít người"lại rất phổ thông. Thế nhưng, thế nào là dân tộc bản địa, và thế nào là dân tộc thiểu số hay dân tộc ít người, và nó khác nhau ở vị trí nào?. Nhìn chung, thì chúng ta tưởng hai cụm từ này gần như đồng nghĩa, nhưng thực chất nó không như mình tưởng. Do bởi, dân tộc thiểu số hay dân tộc ít người có nghĩa là dân tộc này chỉ có một nhóm nhỏ di cư từ một quốc gia nào đó đến sống và lập nghiệp tại một quốc gia mới, chẳng hạn như người Trung Hoa ở Việt Nam thuộc dạng di dân là thuộc nhóm dân tộc thiểu số, và các dân tộc khác như dân tộc Chru, Roglai, Rhade, Koho, Stieng, Mường, Mán, Mèo, Khmer Krom, Chăm, Stieng, Chăm Hroi, và..v.v... cũng thuộc nhóm dân tộc thiểu số khi so với một dân tộc đa số là người Việt sống tại Việt Nam. Ngược li, dân tộc bản địa thì khác, họ có thể là nhóm đa số hay thiểu số, và nhóm dân tộc này đã đến khai khẩn đất hoang lập nơi sinh sống, lập nghiệp, và thành lập một quốc gia có cơ cấu tổ chức để cai quản một bộ tộc, hay cơ cấu hành chánh để điều hành một quốc gia rõ ràng. Thí dụ, trường hợp của hai dân tộc Champa và Khmer Krom. Theo sử liệu ghi chép, vương quốc Champa đã có mặt xuyên qua đồng bằng và cao nguyên trung phần từ thế kỉ thứ II mà ngày nay vùng đất này đã đổi tên gọi thành Việt Nam. Còn những thần dân Khmer Krom hiện đang sống dọc theo bờ sông Mekông mà biên giới của vương quốc họ trước kia trải dài từ Biên Hoà cho đến mũi Cà Mau. Vương quốc Champa đã bị Đại Việt xâm lăng và xoá tên khỏi bản đồ Đông Dương từ năm 1832, và một phần lảnh thổ phía bắc của Kampuchea (vùng đồng bằng sông Cửu Long thuộc miền nam Việt Nam ngày nay) cũng đã bị Đại Việt chiếm đóng. Hai vương quốc này đã có mặt lâu đời trên cố hương của họ, họ bị dân quân Đại Việt xâm chiếm và tàn sát để rồi ngày nay phải trở thành một tộc người thiểu số què quặt liên tục bị nhóm dân đa số uy hiếp. Vì thế, cả hai thần dân Champa và Khmer Krom đều hội đủ cả hai yếu tố dân tộc thiểu số và dân tộc bản địa một cách bất khả nghi. Có một số dân bản địa may mắn được sống ưu đãi dưới ách thống trị của các nước dân chủ và tiến bộ như dân tộc bản địa Da Đỏ (Indian) tại Hoa Kỳ. Họ đã được chính quyền Hoa Kỳ dành nhiều chính sách nâng đở để nâng cao đời sống của họ, họ không bị thọ thuế, miễn đóng tiền bảo hiểm sức khoẻ, miễn đóng học phí, được hưởng trợ cấp hàng tháng, và đặc biệt hơn nữa là những khu gia cư đất đai của họ được quyền bất khả xâm phạm, họ tự do quản trị những bộ tộc theo đúng luật lệ và phong tục tập quán của họ, họ tự do kinh doanh và bảo tồn bản sắc dân tộc của họ, và v.v... Có những quốc gia đã dành cả quyển tự trị cho người dân bản địa của họ để tự quản trị và bào tồn bản sắc văn hoá dân tộc của họ như trường hợp của dân bản địa Manoca ở Pháp. Đông Timo được chính quyền Nam Dương trao trả độc lập và gần đây nhứt tại Sudan đã bị thế giới chia ra thành 2 quốc gia, và .v.v.... Thế giới ngày càng văn minh, khoa học ngày càng tiến bộ. Văn minh và tiến bộ đã đóng góp nhiều yếu tố quan trọng trong việc giúp con người khai quật lại những gì đã bị thế giới lãng quên, góp phần giúp các nhà nghiên cứu nhân chủng tìm lại nguồn gốc của thế nhân. Ngày nay, Liên Hiệp Quốc cũng đã phải mở ra trang sử mới để soạn lại nội dung của hiến chương nhằm mang quyền lợi tối cao về cho nhóm người thiểu số và các dân tộc bản địa trên thế giới. Năm 2007, đã có hơn 192 quốc gia ký tên vào bản hiến chương này trong đó có Việt Nam. Tiếc rằng, chính quyền Việt Nam đã đặt bút ký nhưng lại từ chối cho rằng Việt Nam ta không có dân tộc bản địa ngoài 43 nhóm người thuộc dạng dân tộc thiểu số. Câu hỏi cần đặt ra ở đây rằng tại sao chính quyền lại từ chối trong khi ở Việt Nam có ít nhứt 4 dân tộc thuộc nhóm dân bản địa điển hình như: Dân tộc Kinh ở miền bắc, dân tộc Chăm sống dọc miền trung, dân tộc Thượng sống ngập vùng tây nguyên trung phần, và nhóm dân Khmer Krom sống dọc bờ sông Mekông miền nam Việt Nam? Chính quyền Việt Nam có thể từ chối và đánh lừa cơ quan Liên Hiệp Quốc nhưng khó vượt được nhãn quan của thế giới, và của các nhà nghiên cứu khoa học tiến bộ ngày nay. Vì rằng, những đền tháp kia vẫn còn đứng sừng sững dọc miền trung, dẫu nó đã và đang đổ nát hoang tàn trên những đồi núi cô quạnh, và những thần dân thuộc vương quốc Champa xưa kia nay vẫn còn nói tiếng nói của họ. Đây là lý do đưa đến sự thành hình một tổ chức liên minh mang tên "Hội Đồng Tối Cao Của Các Dân Tộc Bản Địa Tại Việt Nam" nhằm mục đích đấu tranh cho 3 mục tiêu sau: 1. Yêu cầu LHQ dùng quyền tối cao để đòi chính quyền Việt Nam phải thừa nhận ít ra có ba nhóm dân tộc bản địa, và yêu cầu chính quyền Việt Nam phải thực thi chính sánh theo đúng hiến chương LHQ đề ra mà chính quyền Việt Nam đã đồng ý đặt bút ký tên. 2. Yêu cầu chính quyền Việt Nam phải thừa nhận ít ra có ba nhóm dân tộc bản địa tại Viêt Nam, trong đó có các dân tộc Tây Nguyên, dân tộc Champa và dân tộc Khmer Krom. 3. Yểm trợ hiến chương Liên Hiệp Quốc đề ra cho các dân tộc bản địa trên thế giới.  Đây là lần đầu tiên tại hải ngoại có ba dân tộc liên minh hình thành một tổ chức đấu tranh cho cùng một mục tiêu chung, nên là cơ hội tốt mang yếu tố cần thiết cho toàn thể người Chăm chứ không phải cho một tổ chức hội đoànhay cá nhân nào. Có nghĩa là mỗi ngưởi Chăm có tinh thần và trách nhiệm với dân tộc cần đóng góp khả năng cũng như tài trợ tài chánh để bánh xe của Hội Đồng nhẹ nhàng lăn bánh đạt mục tiêu. Nhân đây, tôi kêu gọi toàn thể người Chăm ở hải ngoại hãy dẹp bỏ quan điểm cá nhân, chớ phân biệt tổ chức hội đoàn cũng như tôn giáo, để cùng nhau góp phần hàn gắn những rạn nứt trong cộng đồng mà cùng đấu tranh mang quyền lợi về cho dân tộc. Cuộc đấu tranh này cần thời gian, nên kết quả của nó sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự bảo trợ đóng góp tài chánh từ mỗi cá nhân người Chăm ở hải ngoại. Chúng tôi rất mong được sự đóng góp của quí vị. Mọi ngân phiếu xin gửi về cho hai tổ chức sau đây:  1. Pay to the order of: CSCD-Champa Po Box 582792. Elk Grove, CA 95758-0049. USA.  2. Pay to the order of: IOC-Champa Po Box 28024. Anaheim, CA 92602. USA.  Ai cũng thừa biết một khi Hội Đồng Tối Cao này thành hình thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi lối tuyên truyền xuyên tạc chống đối từ bộ phận cơ quan công an Việt Nam, thậm chí họ sẽ lên án kết tội Hội Đồng này là đối tượng âm mưu phản động chống chính quyền. Thế nhưng, chúng tôi vẫn biết việc đó là trách nhiệm việc làm thường ngày của bộ phận cơ quan công an Việt Nam. Tuy rằng, việc làm của Hội Đồng chỉ nhằm đấu tranh cho 3 mục tiêu đề trên chứ không mang một ý nghĩa hay dưới một màu cờ âm mưu phản động nào cả, mà chỉ mang ý nghĩa hợp tác xây dựng một quốc gia Việt Nam thì đúng nghĩa của nó hơn. Vì rằng, nghĩa vụ của tổ chức là chỉ đấu tranh mang quyền lợi đến cho nhân dân nước Việt Nam chứ không phải cho nhóm kiều bào Chăm ở hải ngoại.   Ở đây, chúng ta cần đặt lại câu hỏi, là tại sao chính quyền Việt Nam từ chối không thừa nhận có dân tộc bản địa tại Việt Nam? phải chăng chính quyền không muốn giúp đở nâng cao đời sống của họ, hay vì một khi thừa nhận họ là dân tộc bản địa thì việc thực thi hiến chương của Liên Hiệp Quốc sẽ là một gánh nặng cho quốc gia Việt Nam? Thế thì còn đâu là từ ngữ "Nhà nước vì dân" trong khi nhân loại trên thế giới ngày nay đang vươn mình đòi công lý tương đồng, cần hội nhập phát triển đời sống văn minh và tiến bộ! Chính quyền Việt Nam từ cấp trung ương đến địa phương cần nên hiểu rằng dân tộc Champa ngày nay không còn tha thiết gì hơn là ao ước được nhóm dân tộc đa số đón nhận họ vào một cộng đồng chung trên đất nước Việt, thay vì cứ tiếp tục phân biệt, coi thường và đánh giá họ là những hạng dân hạ cấp mọi rợ, Thượng-Chàm. Họ mong muốn được chính quyền quan tâm giúp đở không phân biệt gai cấp, họ mong muốn con em của họ khi tốt nghiệp ra trường sẽ được cơ quan nhà nước tiếp nhận họ có được công ăn việc làm ổn định. Họ không muốn bị chính quyền tiếp tục xem họ là đối tượng phản động, và họ mong muốn chính quyền dành chút đặc ân để được hưởng quyền tự do trong khuôn viên văn hoá và phong tục tập quán của họ.  Chính quyền Việt Nam phải thừa nhận dân tộc Champa là nhóm dân bản địa theo đúng tục ngữ "ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây ". Cần chiếu cố và thực thi đúng theo Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc mà Chính phủ Việt Nam đã đặt bút ký tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc vào năm 2007 tại New York.  
0 Rating 939 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On February 23, 2019
Tg- Nguy?n V?n Huy   Ban biên t?p Thông Lu?n vô cùng th??ng ti?c thông báo cùng quý ??c gi? Thông Lu?n tin bu?n : Nhà v?n hóa s? h?c Po Dharma v?a t? tr?n ngày 21/02/2019 t?i thành ph? Toulouse, mi?n Nam n??c Pháp, sau m?t c?n b?o b?nh, h??ng th? 74 tu?i. L? h?a thiêu s? ???c c? hành t?i Toulouse ngày 26/02/2019. Ban biên t?p Thông Lu?n chân thành chia bu?n cùng gia ?ình Po Dharma, m?t thân h?u c?a T?p H?p Dân Ch? ?a Nguyên t?i P   podharma1   Di ?nh Phó Giáo s? Ti?n s? Po Dharma Po Dharma tên th?t là Qu?ng V?n ??, sinh n?m 1945 (tr??ng Vi?n ?ông Bác C? Pháp ghi n?m sinh c?a ông là 1948) t?i thôn Ch?t Th??ng (palei Baoh Dana), xã Ph??c H?u, huy?n Ninh Ph??c, t?nh Ninh Thu?n là m?t nhà nghiên c?u v?n hóa s? ng??i Ch?m. Sau khi gia nh?p t? ch?c Fulro t?i Campuchia n?m 1968, ông Qu?ng ??i ?? ??i tên thành Po Dharma. Po theo ti?ng Ph?n c? là tên g?i tôn kính m?t c?p lãnh ??o hay m?t ch?c s?c, Dharma ? ?ây không mang ngh?a Ph?t giáo mà ch? là ký hi?u ti?ng ch?m c?a tên ??i ??. T? ?ó Po Dharma tr? thành tên g?i chính th?c c?a Qu?ng ??i ?? trong m?i giao d?ch và tác ph?m nghiên c?u. T?i Pháp, tên chính th?c c?a ông la Po Dharma Quang. Xu?t thân t? m?t gia ?ình nông dân g?m 7 anh ch? em, Po Dharma là ng??i duy nh?t trong gia ?ình t?t nghi?p ??i h?c. Tháng 9/1972 ông ???c ??a sang Pháp du h?c và theo ?u?i nghi?p nghiên c?u s? và v?n hóa ng??i Ch?m vùng Phan Rang cho ??n khi t? tr?n. Sinh tr??ng trong lãnh th? c?a v??ng tri?u Panduranga-Champa c? (Ninh Thu?n và Bình Thu?n ngày nay), Po Dharma ?ã dành tr?n th?i gian c?a ??i mình ?? nghiên c?u và ph?c h?i b?n ch?t ch?m trong lãnh v?c l?ch s? và v?n hóa. Ông là tác gi? c?a nhi?u công trình nghiên c?u trong lãnh v?c này. Trong th?i gian còn là h?c sinh, t? 1966 ??n 1968, Po Dharma là thành viên tích c?c trong phong trào b?o v? v?n hóa ch?mpa trong môi tr??ng Vi?t Nam ? Phan Rang. Tr?n sang Campuchia tháng 9/1968, Po Dharma tham gia phong trào Fulro và là thành viên tích c?c c?a l?c l??ng này t?i x? Chùa Tháp. T?t nghi?p tr??ng liên quân Cao Miên (Ecole Militaire Interarmes du Cambodge) n?m 1969 và sau nhi?u th??ng tích trong chi?n ??u võ trang, tháng 9/1972 Po Dharma ???c chính quy?n Lon Nol cho sang Pháp du h?c. N?m 1978 ông t?t nghi?p c? nhân t?i Phân khoa L?ch s? và v?n t? h?c (Sciences historiques et philologiques) thu?c ??i h?c Sorbonne, n?m 1980 ??u cao h?c t?i Tr??ng Cao ??ng th?c hành (Ecole pratique des hautes études-EPHE) và n?m 1986 t?t nghi?p ti?n s? t?i ??i h?c Paris-III (Sorbonne). N?m 1972, Po Dharma gia nh?p Tr??ng Vi?n ?ông Bác C? Pháp (Ecole française de l'Extreme-Orient-EFEO) v?i t? cách là c?ng tác viên k? thu?t chuyên v? l?ch s? và n?n v?n minh Ch?mpa và n?m 1982 tr? thành thành viên khoa h?c biên ch? c?a tr??ng. N?m 1987, ông ???c g?i sang Mã Lai ?? m? và t? ch?c ?i?u hành chi nhánh c?a tr??ng EFEO t?i Kuala Lumpur. Tr? v? l?i Paris n?m 1993, Po Dharma là gi?ng viên t?i Tr??ng Cao ??ng khoa h?c xã h?i (Ecole des hautes études en sciences sociales-EHESS). N?m 1999, Po Dharma ???c c? làm giám ??c chi nhánh c?a tr??ng EFEO t?i Kuala Lumpur. N?m 2003, ông lên ch?c Phó Giáo s? c?a tr??ng EFEO và gi?ng d?y t?i nhi?u tr??ng ??i h?c Pháp (EFEO, EHESS, INALCO) và n??c ngoài nh? ??i h?c Malaya, ??i h?c Kebangsaan (Mã Lai), ??i h?c Tokyo (Nh?t B?n), ??i h?c B?c Kinh, Qu?ng Châu, Qu?ng Tây (Trung Qu?c). Ông c?ng th??ng có m?t trên các di?n ?àn khoa h?c qu?c t? ? Châu Âu, Châu Á và Châu M? ?? trình bày nh?ng ?? tài liên quan ??n Ch?mpa. V? h?u n?m 2016, Po Dharma ?ã cùng gia ?ình d?n nhà t? Sarcelles, m?t thành ph? ngo?i ô phía b?c Paris, v? Toulouse, m?t thành ph? n?ng ?m mi?n Nam n??c Pháp d??i chân núi Pyrénées. Bên c?nh chuyên ?? nghiên c?u và gi?ng d?y, Po Dharma còn n?m trong phái b? tr?c thu?c B? Ngo?i giao Pháp ? Kuala Lumpur ?? ?i?u hành ch??ng trình h?p tác song ph??ng Pháp-Mã Lai v? v?n ?? xã h?i và nhân v?n, ?ào t?o sinh viên c?p th?c s? và ti?n s? chuyên v? l?ch s? và v?n hóa Ch?mpa và t? ch?c h?n 15 h?i th?o qu?c t? v? m?i liên h? gi?a Ch?mpa và th? gi?i Mã Lai, ??c bi?t là các ngu?n ph??ng ng? ?ông D??ng (Indochina), Mã Lai và Nam Á (Austronesian). Trong h?n 40 n?m làm vi?c trong ngành nghiên c?u khoa h?c và xã h?i Ch?mpa, Po Dharma ?ã xu?t b?n 14 tác ph?m khoa h?c v? l?ch s? và v?n hóa Ch?mpa ; t?p trung h?n 2.565 trang vi?t b?ng ti?ng Pháp và song ng? Pháp-Mã Lai. Ông c?ng t?ng làm ch? biên c?a 7 công trình nghiên c?u v? m?i liên h? gi?a Ch?mpa và th? gi?i Mã Lai, t?ng c?ng h?n 1.283 trang, 45 bài kh?o lu?n ??ng r?i rác trên m?t báo chí khoa h?c trên th? gi?i t?p trung g?n 700 trang. Các tác ph?m c?a Po Dharma, d?a trên tài li?u l?u tr? và b?n th?o vi?t b?ng ch? vi?t tay, t?p trung vào l?ch s? và n?n v?n minh Ch?mpa t? cu?i th? k? XV ??n ??u th? k? XIX. Ông ?ã cùng v?i Giáo s? Pierre-Bernard Lafont th?c hi?n m?t b?n danh m?c g?m các b?n th?o th? vi?n Pháp và th? m?c v? Ch?mpa và Ch?m, m?t bài phê bình v? các tác ph?m c?a nh?ng ng??i tiên phong nghiên c?u v? ch? ch?m. Ngoài ra Po Dharma còn cho xu?t b?n m?t tài li?u v?n hóa b?ng ti?ng ch?m c?. Nh?ng công trình ?óng góp ph?c h?i và l?u tr? l?ch s? và v?n hóa ch?m ?áng k? nh?t c?a Po Dharma là ?ã vi tính hóa các b?n th?o và tài li?u l?u tr? b? ?nh h??ng b?i các cu?c t?n công c?a th?i gian (B? s?u t?p nghiên c?u các b?n th?o ch?m, b?n sao l?i các b?n th?o ch?m). ??i v?i nh?ng nhà s? h?c và dân t?c h?c, công trình nghiên c?u khoa h?c v? l?ch s? lãnh ??a Panduranga-Champa c? (Ninh Thu?n và Bình Thu?n ngày nay) c?a Po Dharma r?t là quí giá vì tính khoa h?c và khách quan c?a nó. Po Dharma ?ã ??i chi?u c?a ngu?n s? li?u c?a hoàng gia Ch?mpa v?i biên niên s? Vi?t Nam, biên niên s? Khmer, biên niên s? Malay c?ng nh? nh?ng câu chuy?n v? du khách Châu Âu.  ?ài SBTN ph?ng v?n Ti?n s? Po Dharma Bên c?nh nh?ng công trình khoa h?c vi?t b?ng ti?ng Pháp và Mã Lai, Po Dharma còn là t?ng biên t?p c?a T?p San Ch?mpaka vi?t b?ng ti?ng Vi?t dành cho ??c gi? Ch?m và Vi?t Nam mu?n tìm hi?u l?ch s? và n?n v?n minh Ch?mpa. Hình thành vào n?m 1999 do IOC-Ch?mpa ?n hành, T?p San Ch?mpaka ra m?t cho ??n hôm nay là 14 s?, t?p trung nh?ng bài vi?t có giá tr? khoa h?c c?a nh?ng nhà nghiên c?u trên th? gi?i và m?t s? trí th?c Ch?m ? h?i ngo?i, t?ng c?ng h?n 2.000 trang. Song song v?i trách nhi?m ?i?u hành T?p san Ch?mpaka, Po Dharma còn là sáng l?p viên c?a trang web champaka.info, ra m?t vào ngày 1/4/2012, c? quan ngôn lu?n duy nh?t c?a dân t?c Ch?m trên th? gi?i nh?m b?o v? danh d?, quy?n l?i và di s?n v?n hóa c?a dân t?c này. Website champaka.info còn là trung tâm t? li?u ch?a ??ng hàng ngàn trang c?a bài vi?t v? l?ch s? và n?n v?n minh Ch?mpa. Công trình l?n nh?t mà Po Dharma ?ã th?c hi?n tái b?n Archives royales du Champa vi?t t? n?m 1702 cho ??n tri?u ??i T? ??c (1847-1883) t?p trung 4.402 trang vi?t b?ng ký t? Akhar Thrah Ch?m ???c ch?ng th?c b?i 408 ?n tri?n mà nhà Nguy?n ban cho v??ng qu?c Ch?mpa. M?c tiêu c?a ch??ng trình này nh?m trình bày m?i trang t? li?u hoàng gia có hình nguyên g?c, kèm theo b?n chuy?n ng? Latin và ph?n tóm t?t v? n?i dung. S? ra ?i c?a Po Dharma là m?t m?t mát l?n cho dân t?c Vi?t Nam, ông là m?t trí th?c, m?t nhà nghiên c?u làm vi?c có ph??ng pháp, nh?ng công trình nghiên c?u c?a ông mang tính khách quan và khoa h?c x?ng ?áng là nh?ng tài li?u tham kh?o có giá tr?. ??i v?i c?ng ??ng ng??i Ch?m, s? ra ?i c?a Po Dharma còn h?n m?t s? m?t mát, ?ó là s? h?t h?ng v? lãnh ??o tinh th?n và v?n hóa. C?ng may là Po Dharma ?ã ?? l?i cho các th? h? tr? ch?m m?t gia tài v?n hóa kh?ng l? c?n ph?i gi? gìn và vinh danh trong lòng dân t?c Vi?t Nam. Nguy?n V?n Huy Ngu?n : Facebook
0 Rating 933 views 1 like 0 Comments
Read more
Nếu bạn l người yu vật lઽ v Einstein, bạn chắc biết đến những bi bࠡo gần đy về Hạt neutrino được tuyn bố c⪳ thể nhanh hơn nh sng. Loại hạt bᡭ ẩn ny c thể đi xuy೪n qua tri đất v xuyᠪn qua bạn m khng hề giảm tốc. Vഠo thng 9/2011 cc nhᡠ vật l của Tổ chức Nghin cứu Nguy�n tử chu u (CERN) v₠ Viện Vật l Nguyn tử Italy (INFN) bắn 15.000 luồng hạt neutrino bằng m�y gia tốc hạt lớn từ Geneva tới phng th nghiệm Gran Sasso tại Italy. V⭠ thời gian tnh ra được th thấp hơn thời gian �nh sng đi được cng quảng đường đṳ, tức l vận tốc nhanh hơn cả nh sࡡng. Th nghiệm được lặp lại v kết quả vẫn vậy. Thuyết Tương đối của Einstein vẫn chưa bị ph� vỡ Nhưng theo bo co từ bᡡo Science Insider, nhm thực hiện đ kh㣴ng tnh đến hiệu ứng khoảng cch bị giảm (theo Thuyết Tương đối Đặc biệt của Einstein) n�n đ dẫn đến kết quả sai hon to㠠n. V theo tnh toୡn lại từ cc nh khoa học thᠬ thời gian hạt neutrino cn đch chậm hơn tới 4 nano gi᭢y so với thời gian nh sng đi được. Nguồn: Science Insider, LiveScience
0 Rating 906 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 10, 2015
  Di sản Champa trong lòng Quảng Trị Trong diễn trình lịch sử của Quảng Trị có một thời gian khá dài gần một thiên niên kỷ đất này thuộc lãnh thổ vương quốc cổ Chămpa. Trước khi khi chịu sự phán quyết nghiệt ngã của lịch sử trong quy luật tồn tại, bộ phận dân cư của dân tộc này đã vừa phải kiên trì vật lộn với những thử thách nghiệt ngã của tự nhiên, vừa phải đương đầu với nhiều thế lực của xã hội trong cuộc giành giật sinh tử để không ngừng tạo lập và phát triển vương quốc. Quá trình xây dựng và đấu tranh để sinh tồn của bộ phận cư dân Chămpa trên vùng đất quảng Trị không chỉ tạo ra được những cơ sở có tính chất tiền đề cho sự phát triển vững chắc của vùng đất này mà còn để lại nhiều dấu tích về một nền văn hóa hết sức phong phú và độc đáo, góp phần tạo nên sự đa dạng của văn hóa Quảng Trị.Đến nay, văn hóa Chămpa đã không còn là một bộ phận tồn tại độc lập và song hành với chính chủ nhân của nó. Tất cả đã hòa chung vào dòng chảy của văn hóa người Việt Quảng Trị - lớp người kế nhiệm/kế tục/kế thừa những gì trước đó, biến hóa cái của tiền chủ thành cái của hậu chủ. Sự “hợp thức hóa" khá mềm dẻo, khôn ngoan của người Việt trên nền các di sản văn hóa người Chăm ở cả lĩnh vực vật chất lẫn tinh thần để làm đa dạng, phong phú cho vốn liếng di sản của mình âu cũng là một thế ứng xử rất văn hóa của người Quảng Trị nói riêng, người Việt Nam nói chung. Văn hoá Chămpa ở Quảng Trị cho đến nay tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau nhưng nhìn chung tập trung vào các loại hình tiêu biểu đáng chú ý là: Đền tháp - thành luỹ - hệ thống các công trình khai thác nước và mộ táng. 1. ĐỀN THÁP Quảng Trị hôm nay, các đền tháp Chăm không còn soi bóng xuống các dòng sông Sa Lung, Bến Hải, Vịnh Định, Thạch Hãn, Cổ Hà nữa, song vẫn còn có rất nhiều những địa điểm có dấu tích về sự hiện diện của các công trình đền tháp. Qua nhiều năm nghiên cứu, khảo sát thực địa ở các địa phương trên cơ sở xác minh những địa điểm đã được người Pháp thống kê cũng như những địa điểm mới được phát hiện thêm, chúng tôi đã thống kê được một danh mục gần 30 phế tích thuộc dạng đền tháp. Trong số này bao gồm: Duy Viên (xã Vịnh Lâm), Nam Sơn, Huỳnh Xá (xã Vĩnh Sơn), thuộc huyện Vĩnh Linh; An Xá (xã Trung Sơn), Phường Sỏi (xã Do Phong), Hà Trung (xã Do Châu) thuộc huyện Do Linh); Kim Đâu (xã Cam An), Định Xá, Lâm Lang (xã Cam Hiếu) thuộc huyện Cam Lộ; Trương Xá (phường IV), Đông Hà (Phường III) thuộc thị xã Đông Hà; Trâm Lý (xã Hải Quy), Trà Lộc (xã Hải Xuân), Câu Hoan (xã Hải Thiện), Trung Dân (xã Hải Thành), Trường Sánh (xã Hải Trường) thuộc huyện Hải Lăng; Thạch Hãn (phường 2) thuộc thị xã Quảng Trị); Dương Lệ, Võ Thuận (xã Triệu Thuận), Trà Liên (xã Triệu Giang), Ngô Xá (xã Triệu Trung), Bích La (xã Triệu Đông), Nhan Biểu, Đa Nghi (xã Triệu Thượng), Quảng Điền (xã Triệu Đại), Phương Sơn, Thượng Trạch (xã Triệu Sơn) thuộc huyện Triệu Phong. Các địa điểm di tích này được gọi tên theo tên địa danh của các làng. Một vài nơi khác như An Lộng, Bích Khê, Đại Hào, Liêm Công... có được các nhà nghiên cứu người Pháp lưu ý đầu thế kỷ nhưng nay đã không còn dấu vết gì . Do những biến động mạnh mẽ và thường xuyên của các điều kiện tự nhiên, xã hội nên cho đến nay, tất cả các địa điểm mang dấu tích đền tháp kể trên chỉ còn tồn lưu dưới dạng phế tích với những cồn đất mang các tên gọi như Cồn Giăng, Lùm Giăng, Lòi Giăng...; với các đống gạch vụn nát, các thành phần kiến trúc, các phù điêu, các đối tượng nguyên là các vị thần Chăm nằm ngổn ngang và bên trên đó thường là những ngôi miếu thờ của người Việt. Những năm gần đây, nhiều địa điểm di tích bị huỷ hoại một cách nghiêm trọng, một phần do bom đạn của chiến tranh, nhưng phần khác là do nhân dân địa phương đào bới để lấy đất, lấy gạch hoặc tìm những cổ vật quý Chăm pa. Cách đây gần trọn một thế kỷ, vào năm 1905, linh mục Cadière đã tiến hành khảo sát và lập một danh mục khá đầy đủ về các địa điểm có dấu tích đền tháp Chăm trên toàn khu vực Bình Trị Thiên, trong đó Quảng Trị là địa bàn có số lượng nhiều di tích hơn cả. Từ đó cho đến nay, lần theo những trang tư liệu có tính chất gợi mở này, các nhà nghiên cứu đã một mặt xác định lại tính chân thực của những địa điểm đã phát hiện; mặt khác cũng đã tìm thêm được một số địa điểm mới. Có di tích do bị đào bới mà tình cờ phát hiện, lại có di tích đã được các nhà nghiên cứu tiến hành khai quật; nhưng dù cố gắng đến mấy thì trên một thực tế của sự hoang tàn, đổ nát như vậy, các kết quả nghiên cứu, thẩm định cũng chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát, mô tả, cao hơn một chút là sự đánh giá, phác thảo một chân dung mờ nhạt dựa trên cơ sở những gì có thể nhìn thấy được, cảm nhận được chứ khó có thể đạt đến do chính xác hoàn toàn như những gì mà di tích vốn có. Tuy nhiên, với những gì hiện còn, có thể thấy rằng ở một địa bàn không lấy gì làm rộng lớn như Quảng Trị thì việc tồn lưu một số lượng đền tháp như thế quả thật xứng đáng để gọi là "xứ tháp" của khu vực Bình - Trị - Thiên. Đó là một đặc điểm nổi trội hơn hẳn trong toàn khu vực.  Địa bàn phân bố của các đền tháp nằm rải rác khắp nơi từ vùng ven biển lên tận vùng đồi trung du, nhưng mật độ nhiều nhất vẫn là ở đồng bằng - nơi nguyên là những làng cổ Chăm. Cũng như các nơi khác trong lãnh thổ của vương quốc Chămpa, đa số các đền tháp ở Quảng Trị thường được dựng trên những mô đất cao vùng gò đồi hay ven triền các cồn cát. Một số khác dù nằm giữa vùng đồng ruộng (như tháp Kim Đâu, Trung Đơn, Ngô Xá, Bích La, Quảng Điền) thì địa điểm tọa lạc đều ở các cồn đất có địa hình dương từ 5 - 10m. Trên từng bậc địa hình từ đông sang tây ở đâu chúng ta cũng có thể bắt gặp các dấu tích đền tháp: Phía tây cồn cát ngoài gần biển (Đại Trường Sa) là di tích ở Phương Sơn/An lưu. Giữa hai dãi cồn/đụn cát (thuộc vùng đồng ruộng) là các di tích ở Bích La, Trung Đơn, Dương Lệ, Quảng Điền, Ngô Xá... Trên dải cồn/đụn cát trong (Tiểu Trường Sa) là các di tích ở Trà Lộc, Câu Hoan, Hà Trung, Đa Nghi... Vùng tiếp giáp các đồi trung du là các di tích ở Phường Sỏi, Huỳnh Xá, Duy Viên, Lâm Lang, Trương Xá, Đông Hà, Nhan Biểu...Vùng trên cùng, ở cuối địa hình đồi là tháp An Xá. Quy mô các đền tháp Chăm ở Quảng Trị nói riêng, vùng phía bắc vương quốc Chăm pa nói chung thường có kích thước vừa và nhỏ, ít có những khu đền tháp lớn, tập trung với những ngôi tháp đồ sộ, uy nghi như Mỹ Sơn, Đồng Dương, PÔ Naga... Đền tháp là công trình kiến trúc tôn giáo của người chăm chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ nên các kalan là hình ảnh thu nhỏ của "trung tâm vũ trụ” trên núi Mêru, nơi ngự trị của các thần linh theo tín ngưỡng thờ các vị thần ở hạ giới nên được tuân thủ theo những quy định chặt chẽ. Do là bố cục hướng tâm, các trục xoay ra bốn hướng, mặt tiền cũng như cửa chính quay về hướng đông - hướng của các vị thần linh và cũng là hướng của tầm nhìn chiến lược về biển của người Chăm. Bên cạnh những khu đền tháp được xây dựng tập trung theo mô hình một kalan thờ thần chính (thường là bộ ngẫu tượng Linga - Yoni: thể .hiện quan niệm thờ sinh thực khí, biểu trưng của sáng tạo bằng sự sinh sôi, nảy nở) ở trung tâm và vài kalan thờ các thần phụ (thuộc bộ 3: Brahma - đấng sáng tạo, Shiva - đấng hủy diệt, Visnu - đấng bảo tồn hoặc các vị thần liên quan gần gũi với "tam vị nhất” theo này) vây xung quanh là những đền tháp được xây dựng theo mô hình đơn lẻ, dưới dạng độc tháp. Các khu tháp được xây dựng có quy mô lớn, tập trung vốn là "thánh địa" của một vùng, nơi hành hương, hành lễ hàng năm, còn các tháp nằm đơn lẻ vốn chỉ là các đền thờ của một hay nhiều grama (làng xã), nơi nhân dân vẫn đến lễ bái thường ngày. Có bốn địa điểm thuộc di tích đền tháp ở Quảng Trị qua các dấu tích hiện còn có thể thấy chúng là những trung tâm tôn giáo của mỗi vùng trong toàn bộ địa bàn này. Đó là: - Hà Trung - ngôi đền Indrakantesvara của Hoàng hậu Tribhuvanadevi và An Xá - trung tâm tôn giáo của vùng châu Ma Linh. - Trương Xá (thượng nguồn sông Hiếu) và Dương Lệ - trung tâm tôn giáo của vùng bắc châu ô. - Câu Hoan - trung tâm tôn giáo của vùng nam châu ô. Trong số này, ngoại trừ ngôi đền Indrakantesvara thì các khu đền tháp khác đều lấy biểu tượng của bộ sinh thực khí Linga - Yoni làm đối tượng thờ chính, đặt ở tháp trung tâm và vây quanh nó là từ ba đến bốn kalan trở lên. Đặc biệt, Ở khu tháp Dương Lệ, với những dấu vết hiện còn qua các cấu kiện kiến trúc, nền móng..., nhất là kích thước to quá cỡ của bệ Yoni, có thể coi đây là một cụm tháp lớn hơn cả và hẳn là nó đã giữ vai trò như một thánh địa không chỉ của vùng bắc châu Ô xưa mà còn là của cả một vùng khá rộng lớn thuộc vùng bắc vương quốc Chăm pa (ít nhất là từ nam châu Rí đến châu Ma Linh dưới các thế kỷ từ VII đến XIII). Ngoài các khu đền tháp có quy mô lớn như đã nêu trên, các đền tháp còn lại ở Quảng Trị hoặc được xây dựng theo mô hình một vài tháp với quy mô nhỏ, hoặc dưới dạng tháp đơn lẻ (chỉ có 1 kalan). Những tháp này cũng đều thờ Linga/Mukhalinga - Yoni. hoặc những vị thần khác như Nandin, Shiva, Buddha, Dvarapata... Các đền tháp Chăm ở Quảng Trị qua những dấu tích còn lại cho thấy đa phần đều sử dựng nguyên liệu chính là gạch nung. Một số tháp sử dụng kỹ thuật kết hợp gạch nung với đá (sa thạch - mè), nhưng thường rất ít, chỉ ở những cấu kiện trụ cửa, bậc cửa, lin tau, các khối đá bó vỉa ở móng tháp, bệ thờ, đài thờ, vật trang trí... (như Hà Trung, An Xá, Bích La, Dương Lệ, Trà Liên, Trung Đơn...), còn một số tháp khác hầu như chỉ xây bằng gạch (như Trà Lộc, Quảng Điền, Lâm Lang, Trương Xá, Trường Sánh, Nhan Biểu...). Trong số các công trình có sử dụng vật liệu đá thì Hà Trung là tiêu biểu. Ỡ đây theo khảo tả của H.Parmentier là thuộc một dạng kiến trúc đặc biệt, có năm tảng đá khổng lồ bằng sa thạch (hiện còn bốn tảng) nguyên là cột của một gian nhà lớn kiểu như ngôi nhà cột Đồng Dương và PÔ Naga; bên cạnh nhiều cột ốp (ít nhất là 10 cột) cùng với rất nhiều các cấu kiện khác có kích thước lớn được sử dụng bằng đá, cụ thể là tập trung vào công trình mà ông cho là thuộc một kiến trúc thấp như Mỹ Sơn B5 hay kiến trúc dài của Tháp Bạc. Đó là chưa kể các bệ cột, các đài thờ, các trang trí kiến trúc khác. Ngô Văn Doanh thì cho rằng: "Hà Trung là khu kiên trúc Chăm pa duy nhất hiện được biết dùng nhiều đá nhất để làm các bộ phận kiến trúc khác nhau” Việc những người thợ Chămpa xây cất nên các công trình sử dụng nhiều khối đá sa thạch có kích thước lớn tại một vùng đất hoàn toàn vắng bóng nguồn vật liệu này, quả là một bí ẩn kỳ tài về phương cách vận chuyển và tạo tác. Cách thức, kỹ thuật xây dựng những tháp gạch Chămpa ở Quảng Trị cũng giống như nhiều nơi khác trên khu vực miền Trung, cho đến nay vẫn còn là những ẩn số. Tuy nhiên, trên thực tế tại các phế tích đền tháp đã sụp đổ, một đặc điểm chung là người ta khó tìm thấy (hoặc có thì cũng rất ít) những viên gạch còn nguyên vẹn mà chỉ toàn là những mảnh vỡ vụn nát không định hình, thậm chí ở một vài nơi, dù đào bới đến phần móng cũng chỉ thấy những lớp gạch dã mụn ra thành đất. Điều này bởi nhiều lý do, trong đó có sự tác động mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, điều kiện lịch sử phức tạp và đầy biến động của vùng đất này; nhưng xét cho cùng thì cũng có thể thấy rằng các tháp Chăm ở Quảng Trị đều được sử dụng loại gạch có độ nung thấp. Ớ một số nền móng tháp như Hà Trung, An Xá, Dương Lệ... tuy còn một ít gạch nguyên được tìm thấy trong các đợt khai quật nhưng độ nung không cao. Đó là những viên gạch có kích thước lớn hơn nhiều so với gạch người Việt hiện đại; độ dày, mỏng, to, nhỏ tương tự nhau; chúng thường có màu nâu non và ở bên trong có lõi màu nâu đen. Giữa các viên gạch hoàn toàn không tìm thấy những dấu hiệu về việc sử dụng chất kết dính mà chỉ như là được xếp chồng lên nhau theo từng lớp. Vấn đề về cách thức và kỹ thuật xây dựng tháp Chăm mặc dù còn tồn nghi với nhiều giả thiết đang tiếp tục được các nhà nghiên cứu tìm tòi, song có thể nói bên cạnh những đặc điểm chung thường thấy ở các nơi thì chắc chắn những người thợ xây dựng các tháp Chăm ở Quảng Trị đã có một trình độ kỹ thuật cao, một sự sáng tạo vượt bậc và có sự linh hoạt chút ít trong phương pháp để tùy thuộc vào điều kiện của địa phương mình. Điều đáng ngạc nhiên là cho đến nay, trên các phế tích đền tháp ở Quảng Trị, chúng tôi vẫn chưa phát hiện ra những viên gạch Chăm có trang trí. Điều này có lẽ do tất cả những lớp gạch có trang trí ở các đền tháp đã bị mủn nát, không còn nguyên hình dạng nên không thể nhìn thấy được các hoạ tiết trang trí. Về niên đại xây dựng các đền tháp Chăm thì cho đến nay chưa có một dấu hiệu nào để có thể làm căn cứ xác nhận được một trong số hơn. 20 địa điểm mang dấu tích đền tháp ở Quảng Trị có trước thế kỷ VIII. Dĩ nhiên, không thể loại trừ một số ngôi tháp được xây dựng vào thời gian trước đó mà do nhiều lý do khách quan cũng như chủ quan, chúng ta chưa có điều kiện tiếp cận. Tháp có niên đại sớm nhất mà chúng tôi biết được qua phong cách nghệ thuật điêu khắc đá là Bích La Trung. Tấm phù điêu lá nhĩ (tympan) tạc hình Shiva múa điệu vũ trụ (tandra) hiện đang trưng bày ở Bảo tàng nghệ thuật Chăm Đà Năng được mang về từ tháp Bích La đã được các nhà nghiên cứu xác định là thuộc phong cách Hòa Lai (đầu thế kỷ IX). Tuy nhiên, theo pho tượng Shiva khất thực tìm được ở Trâm Lý mà chúng tôi nghi là thuộc tháp Trà Lộc thì địa điểm này có khả năng thuộc thời kỳ sớm nhất: phong cách Mĩ Sơn El (thế kỷ VIII). Tháp có niên đại muộn hơn cả là Trung Đơn được xác định bởi phù điêu thủy quái Makara mang phong cách Trà Kiệu (thế kỷ XI). Các ngôi đền tháp khác như Hà Trung, Dương Lệ, Câu Hoan, Trà Liên, Duy Viên, An Xá... qua những dấu vết còn lại đều cho thấy chúng hoặc sớm hoặc muộn đều thuộc thời đại Đồng Dương (cuối thế kỷ IX đầu thế kỷ X). Có một địa điểm được xác định niên đại xây dựng tương đối chính xác là khu đền tháp Hà Trung. Thông qua nội dung của cột bia ký chạm dày đặc chữ Chăm cổ ở cả bốn mặt, nhà nghiên cứu Majumdar xác định ngôi đền được xây dựng vào năm 838 saka (năm 916 tây lịch) dưới thời vua Indravarman. Ngoài ra, các nhà khảo cổ học của Trung tâm Văn hoá Việt Nam (Đại học quốc gia Hà Nội) và Bảo tàng Quảng Trị trong đợt khai quật khu tháp An Xá tháng 7-1993 cũng đã khẳng định cụm tháp này được xây dựng trong thời đại đầu Đồng Dương. Như vậy, có thể nói trong bốn thế kỷ từ VIII đến Xi là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật kiến trúc đền tháp Chămpa trên vùng đất Quảng Trị. Sau đó, vì không thể chống cự nổi trước sức mạnh Nam tiến của người Việt nên lãnh thổ Chăm pa ngày một thu hẹp dần kể từ cuộc chinh phạt của Lý Thường Kiệt đầu thế kỷ XI cho đến khi mất hết quyền sở hữu đất đai, kể cả quyền sở hữu các công trình văn hóa để tan biến vào trong cộng đồng người Việt tại xứ này sau thế kỷ XIV. Điều này lý giải vì sao các đền tháp ở Quảng Tri không có niên đại muộn hơn thế kỷ XI. 2. THÀNH LŨY Trên toàn địa bàn tỉnh Quảng Trị qua những cứ liệu thực tế và sự lưu truyền trong dân gian cho thấy hiện có hai địa điểm liên quan đến những công trình kiến trúc thành lũy mà cho dù trải qua thời gian đã trở nên hoang phế nhưng vẫn còn để lại những vết tích đáng tin cậy. Đó là địa điểm Bến Lũy thuộc làng Cổ Lũy, xã Vinh Giang, huyện Vĩnh Linh và địa điểm nằm ở phía tây nam khu chợ Thuận thuộc làng Vệ Nghĩa, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Cả hai công trình hiện chỉ cỏn những dấu tích mờ nhạt, nhưng dựa vào những chứng cứ về khảo cổ học trên trục lịch đại với các hiện vật thuộc nền văn hóa trước và trong thời kỳ Chămpa cũng như sự quy chiếu về mặt địa lý, lịch sử... trong khu vực tọa lạc của những địa điểm này, các nhà nghiên cứu đã bước đầu phục dựng lại được quy mô, cách thức xây dựng, phác họa được bối cảnh ra đời, sự tồn tại và ý nghĩa của các công trình nói trên và khẳng định chủ kiến tạo ban đầu là thuộc về một dân tộc bản địa có trước người Việt: người Chăm. Đây chính là hai tòa thành được gọi theo hai tên: thành Cổ Lũy (gọi theo tên địa danh) và thành Thuận Châu (gọi theo cách hiểu là thành cũ của châu Thuận từ thời nhà Trần). Thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu đều được xây dựng trên vùng đồng bằng ven biển, gần các con sông chính trong vùng là sông Bến Hải/Hiền Lương (sông Hồi/sông Minh Lương) và sông Thạch Hãn, đặc biệt là gần hai cửa biển: Cửa Tùng (cửa Tùng Luật), Cửa Việt (cửa Việt Yên) nhằm tạo ra tại những nơi này các lỵ sở hành chính gắn kết với các thị tứ để vừa thiết lập nên trung tâm chính trị, đồng thời làm nhiệm vụ trấn giữ những địa bàn xung yếu ven biển - nơi nối thông từ bên ngoài với các vùng đồng bằng dân cư rộng lớn ở hai phía bắc và nam của khu vực Quảng Trị. Người Chăm với con mắt nhìn chiến lược về biển cũng như có nhiều lợi thế về mặt quân sự biển nên các trung tâm chính trị, quân sự được đặt không xa so với cửa biển. Từ đây theo các trục sông về phía tây là những trung tâm tôn giáo (đền tháp/thánh địa) nối kết chặt chẽ với các trung tâm thương mại (cảng sông, cảng biển) về phía đông để tạo ra thế liên hoàn. Sự gắn bó mật thiết giữa trung tâm chính trị, quân sự, trung tâm văn hóa và kinh tế đã trở thành một mô hình tương đối trọn vẹn, có ý nghĩa nhiều mặt trong chiến lược quốc phòng và phát triển dân sinh. Thành lũy của người Chăm ở Quảng Trị là kết quả của nghệ thuật sử dụng triệt để những gì đã có của tự nhiên như địa hình, cung đường, sông nước... để phát triển lên một trình độ hoàn thiện, làm cho nó trở thành những pháo đài phòng thủ chắc chắn, tiện cho việc giao thương về kinh tế, văn hóa, xã hội trên vùng mà nó chi phối. Thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu là hai tòa thành cổ giữ vai trò trọng yếu trong hai khu vực thuộc châu Ma Linh và Châu Ô xưa. Kiến trúc của thành đều được đạp bằng đất, thường có hình chữ nhật, bốn mặt là các lũy đất. Cấu tạo của lũy là nền đất nện chặt, kè đá củ đậu (đá cuội) hoặc đá ong lẫn lộn. Chiều cao của lũy không lớn (cao nhất chỉ chừng hơn 5m). Ớ một vài nơi của hệ thống tuy, qua thực tế hiện còn cho thấy có dấu hiệu về sự tồn tại của những mảng tường thành được đạp bằng gạch, tuy nhiên đấy có thể chỉ là những điểm nguyên là cổng thành hoặc là bề mặt của thân thành phía bên trong. Xung quanh lũy là hệ thống hào thành rập rờn sông nước được tận dụng từ chiều uốn khúc của các con hói, nhánh sông. Bên trong là bãi đất bằng rộng dùng xây dựng các dinh thự, kho tàng. Bên ngoài thành là khu vực thị tứ, nơi giao lưu buôn bán tấp nập nhờ mạch nối của các trục đường giao thông thủy, bộ. Thời điểm có sự hiện diện của thành Cổ Lũy và thành Thuận Châu trên vùng phía Bắc vương quốc Chăm pa có thể đã bắt đầu từ thế kỷ IV - V trong thời kỳ hình thành và phát triển của vương triều Gangaraja. Những tài liệu hiếm hoi về các tòa thành cổ Chămpa đã không cho phép chúng ta khẳng định qui mô, cách thức và kỹ thuật xây dựng, càng không thể biết được điều gì chính xác về thời gian hình thành. Tác giả Phan Khoang trong "Việt sử xứ Đàng Trong" cho rằng "từ đời Phạm Văn, người Chăm đã biết thuật xây thành, đắp lũy, họ kiến trúc những tường thành bằng gạch, có những tháp canh bằng đá để bảo vệ những thành thị". Chúng tôi cho rằng rất có thể người Chăm đã biết kỹ thuật đắp các lũy thành bằng đất sớm hơn. Song dù sao, qua một số nguồn thư tịch cổ Trung Hoa và Đại Việt cho chúng ta biết rằng vùng đất Bình Trị Thiên chính thức thuộc về người Chăm từ giữa thế kỷ IV, dưới thời Phạm Văn nên việc xây dựng các công trình quân sự để phòng thủ, chống lại sự xâm lấn của thế lực phong kiến Trung Hoa hẳn đã phải thực hiện trong khoảng thời gian này. Cố nhiên, các thành lũy Chăm pa chắc chắn là sự nâng cao hơn, hoàn thiện hơn từ những đôn lũy của chính quyền đô hộ Trung Hoa tại quận Nhật Nam. Nó cũng như về sau này, khi còn xẩy ra cuộc tranh chấp Chăm - Việt (thế kỷ XI - XIV), nhà Trần đã sử dụng và sửa sang lại thành Thuận Châu và Hóa Châu. Học giả Đào Duy Anh cho rằng "chỗ thành Thuận Châu của nhà Trần, xưa kia có lẽ là trị sở Ô Châu của Chiêm Thành. Chúng tôi ngờ rằng thành Chu Ngô của nhà Hán ở vào khoảng ấy”. Như vậy, rất có thể thành Thuận Châu được xây dựng trên nền tảng của thành Chu Ngô - một thời gian từng là quận trị của quận Nhật Nam; còn thành Cổ Lũy là sự nâng cấp từ một đồn lũy quân sự trấn giữ, bảo vệ cảng biển Cửa Tùng dưới thời nhà Hán. Thành Cổ Lũy có thể đã chấm dứt vai trò của mình từ trước thời nhà Trần (thế kỷ XIII); còn thành Thuận Châu vẫn được người Việt sử dụng suốt trong các thế kỷ XIV - XV - XVI. Sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng chọn ái Tử để xây dựng thủ phủ Đàng Trong của nhà Chúa Nguyễn (cách Thành Thuận 2km về phía tây) thì tòa thành này chỉ còn được sử dụng làm lỵ sở của một huyện: huyện Vũ Xương (sau đổi thành Đăng Xương). Tầm nhìn chiến lược về biển của người Chăm đến đây đã được thay thế bằng con mắt nhìn chiến lược về vùng núi và trung du của người Việt. 3. CÁC CÔNG TRÌNH KHAI THÁC NƯỚC Trên vùng đất luôn khô rát, cháy bỏng bởi gió Lào mà người Quảng Trị từ xưa đến nay phải gánh chịu thì nhu cầu về nước luôn là nỗi khát vọng ám ảnh và trở thành nỗi trăn trở ngàn đời buộc các thành phần cư dân nơi đây phải luôn tìm cách tạo ra cho mình những cách thức kỹ thuật cốt làm sao khai thác được nguồn nước phù hợp với điều kiện địa lý, thủy văn của vùng đất mình cư trú. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, các thế hệ người dân Quảng Trị thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau đã không ngừng vật lộn với môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, không ngừng sáng tạo và liên tục kế thừa những thành tựu văn hóa của nhau trong lĩnh vực khai thác nguồn nước, trong đó có thành quả quan trọng của một bộ phận cư dân Chăm pa. Hệ quả của sự sáng tạo và kế thừa này đã sản sinh ra hàng loạt những công trình khai thác nước cổ với tính chất, quy mô, kỹ thuật giống và khác nhau tồn tại cùng thời gian cho đến tận ngày nay. Hệ thống các công trình khai thác nước cổ ở Quảng Trị rất phong phú và đa dạng theo sự ảnh hưởng của điều kiện địa hình. Nếu không tính các công trình thuộc sản phẩm riêng biệt của người Việt giai đoạn sau này thì hệ thống khai thác nước cổ (mà chúng tôi cho là của người Chăm) ở Quảng Trị bao gồm các loại hình với các đặc điểm sau đây: a. Hệ thống các công trình khai thác nước gồm nhiều thành phần cấu trúc phức tạp, liên hoàn, đa hình dạng, đa chức năng, nằm ven các triền đồi đất đỏ bazan hoặc ven các triền đồi cát vùng đồng bằng và ven biển để nhằm khai thác mạch nước nổi (phun lộ thiên hay phun ngầm). Hệ thống này bao gồm những công trình mang tính chất “dẫn thủy nhập điền" có vai trò thủy lợi cao, được nhân dân các địa phương quen gọi là giếng với các tên gọi: giếng Bà, giếng Ông, giếng Lợi, giếng Gai, giếng Kình, giếng Đào, giếng Côi, giếng Dưới, giếng Trạng, giếng Máng, giếng Tép, giếng Pheo, giếng Đàng, giếng Mới... Ở vùng đất đỏ bazan tây Do Linh (Do An, Do Sơn); giếng Đắn, giếng Ba Vòi, giếng Mài Rạ... Ở vùng đất đỏ đông nam Vinh Linh (Vinh Hiền, Vinh Thành), giếng Mới, giếng Làng, giếng Chùa, giếng Đá Ở vùng cồn cát đông Do Linh (Do Mỹ). Hệ thống này vận dụng triệt để những ưu điểm tự nhiên vốn có tại các bề mặt địa hình để tạo ra những cấu trúc, cách thức kỹ thuật phù hợp trên cơ sở sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ. Có loại cấu trúc gồm nhiều thành phần phức tạp, liên hoàn với nhau tạo thành hệ thống (systèms) với sự có mặt của các bể lắng (bassin supérieur), máng/vòi dẫn diệc dễ cu ve), bể hứng (bassin d'alimentation), vũng (puits'), các mương phai bên cạnh những hồ chứa, đập nước cùng tham gia vào quá trình lưu thông dòng chảy (như giếng Đào, giếng Trạng làng An Nha, giếng Máng làng Long Sơn, giếng Gái làng Thanh Khê xã Do An...); lại có loại chỉ cấu trúc đơn giản, gồm một, hai thành phần với. bể và mương dẫn (như giếng ông, Giếng Bà, giếng Tép Giếng Gai làng Hảo Sơn xã Do An...) hoặc chỉ là những hố đào sâu xuống đất có kè đá xung quanh dạng vuông hay tròn nằm độc lập để nhận nước ngầm thấm ra từ vách của một giếng bên trên (như giếng Đắn, giếng Mới, giếng Trạng làng Liêm Công xã Vĩnh Thành...). Có loại không hề sử dụng nguyên liệu đá mà chỉ đắp bằng đất, hoặc kè chắn xung quanh thành giếng bằng một ít gạch, các tấm gỗ, cọc tre (như các giếng ven cồn cát làng An Mỹ xã Do Mỹ, các giếng Khai, giếng Mới, giếng Chùa Ở làng Thủy Tú, Vĩnh Tú, Vĩnh Linh); cũng có loại sử dụng nguyên các viên đá từ trong tự nhiên (đá ong, đá bazan) hoặc được chế ra theo cách chế tác giản đơn để xây những bể lắng bể hứng, mương dẫn bằng kỹ thuật xếp, kè đá (các giếng đá xếp ở các làng Hảo Sơn, An Nha, An Hướng, Phường Xuân, Thanh Khê xã Do An); bên cạnh đó, lại có loại xây dựng công phu bằng cách xếp chồng những bi đá hình tròn được chế tác theo kỹ thuật đẽo, mài trình độ cao để tạo ra bể chứa (có nơi lại có lỗ thoát nước ra ngoài qua thành giếng) hay xếp những viên đá được chế tác có bề mặt nhẵn dùng lát nền quanh thành giếng (như giếng Pheo, giếng Mới, giếng Đàng, Giếng Boong Ở tây Do Linh (Tân Văn, Do An), giếng Đá Ở đông Do Linh (Như Thượng, Do Mỹ).
0 Rating 902 views 0 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On November 26, 2012
Vấn đề xung đột x hội Champa trong qu tr㡬nh lịch sử Trong bất cứ lịch sử của một quốc gia no, vấn đề x hội luࣴn lun l một đề t䠠i quan trọng trong cơ cấu tổ chức của một cộng đồng. Mọi yếu tố, d v t鴬nh hay cố , nhằm đưa đẩy dn tộc đến sự xung đột v� hiềm th lẫn nhau, sẽ c một t鳡c dụng v cng tai hại trong cơ cấu tổ chức x乣 hội đ. V mọi xung đột x㠣 hội l động cơ thc đẩy một tập thể dຢn tộc đi vo con đường diệt vong.Trong qu tr࡬nh lịch sử Champa, vấn đề xung đột x hội đ trở th㣠nh một đề ti m nhiều nhࠠ nghin cứu thường nu ra. ꪐa số đ nhận định rằng, sự xung đột lin tục trong nội bộ Champa m㪠 lịch sử đ từng đề cập l nguy㠪n nhn chnh đ⭣ đưa vương quốc ny đến chỗ diệt vong.C 5 nguy೪n nhn m lịch sử champa để lại: -1: Tranh gi⠠nh quyền lực giữa hai hang tc cau vⴠ dừa ngy cng lớn -2:Cࠡc tn gio lớn trong khu vực du nhập ng䡠y cng mạnh, lm đảo lộn trật tự xࠣ hội champa c từ lu đời.Xung đột giữa ấn gi㢡o,đạo hồi v nho gio lࡪn đến đỉnh điểm. -3: Chnh lệch giu ngh꠨o giữa hong tộc v cࠡc tiểu vương -4: Sai lầm qun sự khi đẩy mạnh tu thuyền giao thương xa bờ nhưng kh⠴ng cũng cố phng thủ qun sự,khi d⢢n số t v thưa thớt.-5: Nội bộ trong cộng đồng nh�n dn khng đoⴠn kết.cc tiểu vương chưa thống nhất, nhất qun trong chᡭnh tri,kinh tế v cả qun sự Xࢣ hội Champa trước thế kỷ 15Từ ngy lập quốc đến 1471, năm đnh dấu sự thất thủ thࡠnh Vijaya, vấn đề chiến tranh nội bộ vẫn l một yếu tố quan trọng trong tiến trnh lịch sử của vương quốc Champa. Trải qua hằng thế kỷ, tư liệu lịch sử cũng đଣ ghi nhận biết bao biến cố x hội trong vương quốc ny. Tuy nhi㠪n, những tư liệu đ, nhất l c㠡c bản văn viết trn bia đ đꡣ được tm thấy ở Champa, chỉ cho php ch쩺ng ta kết luận rằng mọi xung đột x hội trước thế kỷ thứ 15 chỉ do một nguyn nh㪢n chnh yếu, đ l� việc tranh chấp chnh trị nhằm độc quyền cai trị trn vương quốc Champa giữa hai d�ng tộc của cc vua Champa thời trước: dng tộc cᲢy Cu nắm quyền cai trị tiểu vương quốc Panduranga (Phanrang-Phanri) v Kauthara (Kh⠡nh Ha- Ph Y⺪n) ở miền nam; dng tộc cy Dừa, nắm quyền cai trị ở ph⢭a bắc Champa, đ l Vijaya (B㠬nh ịnh) Amaravati (Quảng Nam vР Quảng Ngải) v Indrapura (Huế).Chnh v୬ sự khc biệt nguồn gốc giữa hai dng tộc cᲢy Cu v c⠢y Dư ny mࠠ cc nh lᠣnh đạo thường dng chiến tranh hay vũ lực để tm lối tho鬡t cho những vấn đề lin quan đến sự sống cn của li겪n bang Champa (một thể chế chnh trị rất gần gủi với thể chế lin bang M� Lai hm nay). ứng tr䐪n phương diện lịch sử m ni, chiến tranh nೠy chỉ l một phương thức nhằm giải quyết sự xung đột chnh trị giữa hai tiểu vương quốc ở miền nam vୠ ba tiểu vương quốc ở miền bắc, chứ khng phải l vấn đề nội chiến ph䠡t xuất từ mối hiềm th giữa dn tộc Champa. Ch颭nh v thế, một khi chiến tranh đ chấm dứt, l죣nh tụ dng tộc no may mắn được l⠠m chủ tnh hnh qu쬢n sự sẽ trở thnh nh lࠣnh đạo tối cao của Champa, gọi l vị vua của cc vua Champa (Raja diraja Campa) nắm quyền cai tri trࡪn ton lnh thổ của vương quốc n࣠y m bia đ đࡣ ghi l Po Tanah Raya “Quyền lm chủ trࠪn ton diện lnh thổ›. Ngược lại, dࣲng tộc no km may mắn, th੬ phải chấp nhận sự yếu thế với tất cả lng hnh diện: kh⣴ng hiềm khch với dng tộc kh�c v cũng khng tബm cch trả th vṬ sự thất bại của mnh. iều đ쐡ng nu ra, l hai d꠲ng tộc Champa ny c một ೽ thức hệ rất đặc biệt về tư tưởng đấu tranh chnh trị của họ. Một khi đ th�nh cng, chnh quyền trung ương Champa thường khắc l䭪n bia đ điều giải thch nguy᭪n nhn chnh yếu của biến cố đ⭣ xảy ra v tuyn bố rવ rệt kết quả của pha thất trận v ph�a thắng trận. Mặt d bị thất trận, dng tộc thua k鲩m ny, nhất l d࠲ng tộc ở miền nam, khng bao giờ tm c䬡ch để xa bỏ những dng chữ tr㲪n bia đ. Ngược lại, họ coi đ l᳠ những kỷ niệm cao cả v thing liપng trong quy luật đấu tranh chnh trị: ăn lm vua nhưng kh�ng v thua m l젠m giặc. Trong qu trnh lịch sử ᬐng Nam , quy luật đấu tranh ch䁭nh trị ny chỉ xuất hiện ở vương quốc Champa m th࠴i.Khởi đầu của sự cch biệt nam bắc ChampaSự xung đột x hội đầu tiᣪn trong lịch sử Champa đ xảy ra vo những năm cuối c㠹ng của thế kỷ 11. Sau ngy từ trần của vua Champa Jaya Simhavarman đệ nhị vo năm 1044, một tướng tࠠi xuất thn từ gia đnh quan chức trong triều đ⬬nh Champa, nổi lọan chiếm ngi ở thủ đ Vijaya, v䴠 tự tn mnh l䬪n lm vua Champa lấy tn lઠ: Jaya Paramesvaravarman đệ nhất (1044-1060). V khng đồng 촽 với chnh sch d�ng sức mạnh qun sự để chiếm đoạt ngi vua Champa, tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vⴹng dậy tuyn chiến chống lại chnh quyền của Jaya Paramesvaravarman đệ nhất vꭠo năm 1050, nhưng khng thnh c䠴ng. Trong một bản văn viết trn bia đ hiện cꡲn ở trn thp Po Klaong Garai (Phan Rang), vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất chỉ trꡭch kịch liệt nhn dn Panduranga l⢠ những “kẻ ngu muội, những người v tn chỉ lu䴴n lun c th䳡i độ hiềm th... chống lại vua Campa”. Bản văn kết tội nhn d颢n Panduranga trn bia đ nꡠy cũng c nghĩa l kết tội d㠲ng cy Cu ở miền nam chỉ t⢬m cch xen lấn vo nội bộ Champa ở miền bắc thuộc dᠲng cy Dừa.Chiến tranh nội bộ ny, mặc d⠹ xuất pht từ sự tranh chấp quyền hnh cai trị vương quốc Champa giữa hai dᠲng tộc, đ gy rạng nứt x㢣 hội rất nghim trọng giữa dn tộc Champa ở miền nam vốn tꢴn thờ giai cấp lnh đạo dng c㲢y Cu v d⠢n tộc Champa ở miền bắc, trung thnh với cấp lnh đạo quốc gia thuộc dࣲng cy Dừa. May thay, cuộc xung đột ny chỉ k⠩o di trong một thời gian ngắn ngủi, bởi v cଡc giới lnh đạo quốc gia giữa hai miền, cũng v 㬽 thức đến tầm quan trọng của sự xung đột ny, đ t࣬m cch giải quyết vấn đề một cch nhanh chᡳng. ể chấm dứt biến cố nРy, vua Panduranga chấp nhận sự thất bại của chiến tranh do mnh tạo ra v sẳn s젠ng ra lệnh, thể theo lời yu cầu của vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất, để bắt mỗi người dn Panduranga phải mang vꢠi cục đ đem nộp cho đền thp mỗi khi cᡳ cơ hội đi ngang qua khu vực ny. Truyền thống ny vẫn c࠲n lưu truyền cho đến hm nay, nhất l cho những ai thường đi ngang đ䠨o Cậu, trn đường đi từ Phanrang ln Dalat.Nguyꪪn nhn sự xung đột giữa nam v bắc ChampaSự th⠠nh cng của cuộc ha giải d䲢n tộc vo năm 1050 vẫn l điều đࠡng ch , nhưng vấn đề xung đột x꽣 hội vẫn l một hiện tượng lịch sử c một tೡc động tm l s⽢u đậm trong quần chng. V chỉ cần c꠳ một yếu tố nhỏ nhoi, biến cố ny cũng c thể trở lại tr೪n bn cờ chnh trị.T୬nh hnh 1145-1160Năm 1145, vua Kampuchea l Suryavarman gởi một đo젠n qun hng mạnh sang thủ đ⹴ Vijaya v giết được vua Champa l Jaya Indravarman đệ tam (1139-1145) trࠪn chiến trường. ể thay thế vua nРy, một hong tử xuất thn từ một gia đࢬnh hong gia khc, tự tࡴn mnh l vua Champa, l젪n ngi ở Vijaya lấy tn l䪠 Rudravarman đệ tứ. V thủ đ Vijaya bị qu촢n Kampuchea chiếm đng hay l v㠬 sự vng dậy của nhn d颢n Champa ở miền Vijaya chống lại chnh quyền cướp ngi n�y, vua Rudravarman đệ tứ phải chạy sang ẩn nu ở tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vo năm 1147, cᠹng với đứa con trai của mnh, tức l ho젠ng tử Sivanandana. Trước tnh thế ny, tiểu vương quốc Panduranga rất 젢n cần với gia đnh hong gia từ miền bắc đến xin tị nạn trong l젣nh thổ của mnh. Một vi th젡ng sau, Rudravarman thoi vị v xin hậu thuẫn của tiểu vương quốc Panduranga để tᠴn hong tử trẻ tuổi Sivanandana hiện c mặt tạm thời tr೪n lnh thổ của mnh l㬪n lm vua Champa vo năm 1147, lấy tࠪn l Jaya Harivarman đệ nhất. Khi đ l࣪n ngi, mặc d c乲n ở trong lnh thổ miền nam, Jaya Harivarman đệ nhất đ c㣳 danh chnh ngn thuận để đᴲi hỏi qun xm lược Kampuchea phải rời khỏi thủ đ⢴ Vijaya của Champa.Khi nghe tin ny, vua Kampuchea Suryavarman v cഹng phẫn nộ v quyết định gởi một đon quࠢn sang tn ph vࡹng Phan Rang vo năm 1148. Sẳn dịp thắng trận, vua Kampuchea đưa em rể của mnh lଠ Harideva ln lm vua Champa ở Vijaya, bất chấp phản ứng của người dꠢn Champa.Năm 1148 đnh dấu sự chia đi đầu tiᴪn của vương quốc ny: Miền bắc Champa đặt dưới quyền cai trị của một ng hoഠng tử gốc Kampuchea. Miền nam, đ l ch㠭nh quyền của vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất, gốc người Vijaya.Một năm sau, tức l 1149, vua Jaya Harivarman đệ nhất, với sự hổ trợ của đon quࠢn hng mạnh Panduranga, sang đnh Vijaya, giết được ho顠ng tử Harideva của Kampuchea. Sau khi thắng trận, ng tự tn m䴬nh l vua của vua Champa (Raja diraja Campa) trn toઠn lnh thổ của vương quốc ny. Tiếc rằng, đối với nh㠢n dn miền bắc Champa, Jaya Harivarman đệ nhất chỉ l một c⠴ng cụ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam. V khng chấp nhận ch촭nh sch của vua Jaya Harivarman đệ nhất nhằm dng vũ lực để chiếm đoạt ngṴi bu Champa, nhn dᢢn Champa ở miền bắc v dn tộc Tࢢy nguyn l Rad꠪ v Mada (Bahnar?) vng dậy k๪u gọi một hong tử khc, gốc hoࡠng gia Champa ở Vijaya, đ l Vangsaraja, em vợ của vua Harivarman đệ tứ (1114-1129) đứng ra l㠠m lnh tụ của phong tro kh㠡ng chiến ny. Năm 1150, Jaya Harivarman đệ nhất cho lệnh tấn cng hഠng ngũ cch mạng của hong tử Vangsaraja, nhất lᠠ nhm Rad v㪠 Mada ở Ty nguyn. Bị thất bại, ho⪠ng tử Vangsaraja chạy sang ại Việt để xin viện trợ quТn sự nhằm chiếm ngi lại, nhưng khng th䴠nh.Năm 1151, nhn dn v⢹ng Amaravati cũng vng dậy đứng sau lưng hong tử Vangsaraja để phản đối lại sự chiếm ng頴i của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Bốn năm sau, tức l vo năm 1155, tiểu vương quốc Panduranga, kh࠴ng biết v l do g콬, cũng đứng ra để truất phế vua ny. Thế l chiến tranh giữa nam vࠠ bắc bng nổ trong suốt năm năm trường. Phải chờ cho đến năm 1160, vua Jaya Harivarman đệ nhất mới c thời cơ để dẹp tan sự xung đột qu鳢n sự với Panduranga.Chiến tranh vo năm 1150 giữa vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất v nh࠳m Ty Nguyn trung th⪠nh với Vangsaraja, một hong tử m người Radࠪ v Mada coi như l d࠲ng chnh thống c quyền l�n ngi Champa của họ, đ bị th䣪u dệt một cch phi khoa học bởi một số nh sử học nước ngoᠠi v Việt Nam như một chiến tranh của người Chăm nhằm đ hộ cao nguyപn. Nếu Champa khng dnh d䭡ng g với họ, tại sao dn tộc Rad좪 v Mada lại tnh nguyện đem quଢn gip hong tử Vangsaraja để chống lại vua Jaya Harivarman đệ nhất từ Panduranga đến cai trị miền bắc.Sự thꠠnh cng trong việc chiếm ngi ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất đ䴣 từng tị nạn ở Panduranga khng phải l sự th䠠nh cng của c nh䡢n ngi, nhưng l sự thࠠnh cng của ton d䠢n tộc cy Cau Champa ở miền nam trong cng cuộc chiếm đoạt quyền cai trị ở miền bắc. Ngược lại, dⴲng cy Dừa cũng c l⳽ do ring để phản đối sự hiện diện ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Nguyn nhꪢn chnh đ l� Jaya Harivarman đệ nhất, con của vua Rudravarman đệ tứ, khng phải l d䠲ng hong gia Champa, chạy sang Panduranga ở miền nam nhằm cầu cứu sự hỗ trợ chnh trị vୠ qun sự để chinh phục ngi vua.T⴬nh hnh 1190-1220Sau cuộc nội chiến 1145-1160, tnh h쬬nh nội bộ Champa trở lại bnh thường, nhưng vấn đề cch biệt giữa d졢n tộc ở pha nam v bắc Champa vẫn c�n l một hiện tượng đng lo ngại. Bằng chứng rằng, sau 30 năm kể từ ngࡠy cướp ngi của vua Jaya Harivarman đệ nhất (1147-1160), vương quốc Champa đ l䣢m vo cuộc xung đột x hội vࣴ cng bi đt chưa bao giờ c顳 trong lịch sử Champa. Biến cố ny pht xuất từ sự tranh chấp quyền lực giữa những hoࡠng tử ở miền bắc Champa, nhằm tạo cho mnh một tư thế với bất cứ gi n졠o để được ton quyền lm vua trࠪn đất nước ny. Nếu một số hong tử Champa ở miền bắc d࠹ng chnh sch k�u gọi nhn dn miền bắc v⢹ng dậy để yểm trợ cho phe phi mnh, cũng cᬳ một số hong tử kg ngần ngại mời gọi qun ngoại lai nhằm giải quyết việc nội bộ trong vương quốc nࢠy.Vo năm 1182, tức l bốn mươi năm sau ngࠠy dẹp tan qun Khmer ở Vijaya, một hong tử Champa kh⠡c tn l Sri Vidyanandana, gốc người Vijaya, chạy sang Kampuchea để t꠬m hậu thuẫn của vua Jayavarman đệ thất. Trong những năm lưu vong ở đy, ng ta xin vua Khmer phong tước cho m⴬nh l hong tử nối ng࠴i (Yuvaraja) của vương quốc Champa, bất chấp cả qui luật tổ chức chnh trị trong vương quốc ny. V� rằng, chỉ c hội đồng hong gia c㠳 quyền phong chức hong tử nối ngi của Champa.Với hậu thuẫn của một đoഠn qun Khmer hng mạnh, ho⹠ng tử Vidyanandana sang tấn cng thủ đ Vijaya v䴠o năm 1190, bắt được vua Jaya Indravarman đệ tứ (1167-1190) để đem giao nạp cho vương quốc Kampuchea.Cũng nhờ hậu thuẫn chnh trị v qu�n sự của vua Khmer l Jayavarman đệ thất m hoࠠng tử Champa Sri Vidyanandana đ lm chủ t㠬nh hnh chiến tranh ở miền bắc. ể tạ ơn vua Kampuchea hay l쐠 khng đủ quyền lực chống lại sự thống trị của vương quốc lng giềng n䡠y, hong tử Champa Sri Vidyanandana, một khi đ thắng trận, xin đề nghị (hay l࣠ bị buộc phải đề nghị) em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất ln lm vua Champa ở Viajaya lấy t꠪n l Suryajayavarman. Sau đ, ೴ng ta tự xưng vua của tiểu vương quốc Panduranga, lấy tn l Suryavarman.Sự cầu cứu quꠢn sự ngoại lai để giải quyết nội bộ Champa đ phn chia vương quốc n㢠y thnh hai khu vực r rệt: Miền bắc đặt dưới sự cai trị của một ൴ng vua ngoại lai từ Khmer sang. Miền nam lại lọt vo trong tay của một ng hoഠng tử Champa khng phải gốc Panduranga, nhưng l gốc người miền bắc.Vấn đề tự xưng vương ở Panduranga của vua Suryavarman, gốc Vijaya đ䠣 biến tnh hnh x쬣 hội miền nam thnh một ung nhọt khng chữa trị được. ഐy l lần đầu ti⠪n trong lịch sử, nhn dn Champa miền nam cảm thấy m⢬nh khng cn l䲠m chủ trn lnh thổ của m꣬nh nữa. Trước biến cố chnh trị ny, nh�n dn Panduranga tm c⬡ch vng dậy, vo năm 1190 kh頴ng phải để chống xm lược ngoại lai, nhưng chống lại hong tử Champa gốc miền bắc, mặc d⠹ khng thnh c䠴ng. Trong khi đ, dn tộc Champa miền bắc cũng v㢹ng dậy vo năm 1191 dưới quyền chỉ đạo của hong tử Rasupati để đࠡnh đuổi ng vua ngoại lai ở thủ đ Vijaya.Khi đ䴣 thắng trận, hong tử Rasupati ln ng઴i lấy tn l Jaya Indravarman đệ ngũ.Trước t꠬nh thế ny, vua Khmer khng ngần ngại vuốt ve Jaya Indravarman đệ tứ, một ഴng vua Champa bị bắt giam ở Khmer vo năm 1190. г cũng l một chiến thuật mới: dng người Champa để chống lại với vương quốc Champa. Nhưng đối với vua Champa l๠ Jaya Indravarman đệ tứ đang t đy ở Khmer, đ頢y cũng l một dịp may mắn để chiếm lại ngi vഠng của mnh.Cũng vo năm 1191, vua Jaya Indravarman đệ tứ, đem qu젢n từ Khemer sang hợp tc với vua Panduranga l Suryavarman để tiến đᠡnh Vijaya. Mặc d mang danh l người đứng ra để gi頺p đỡ Jaya Indravarman đệ tứ để chống lại chnh quyền Vijaya, vua Suryavarman của tiểu vương quốc Panduranga, khi đ thắng trận, tự xưng m�nh l vua trn toઠn vẹn lnh thổ Champa. Cảm thấy mnh bị lừa bịp trong chiến tranh n㬠y, Jaya Indravarman đệ tứ quyết định tập trung lực lượng của mnh từ Khmer sang để tấn cng vua Suryavarman, một nh촢n vật cướp ngi, nhưng khng th䴠nh.Nghe tin ny, vua Kampuchea Jayavarman đệ thất tức tốc gởi qun sang để trừng trị Suryavarman ở Vijaya vࢠo văm 1193. Thế l chiến tranh giữa Kampuchea v Champa bắt đầu b࠹ng nổ, một chiến tranh v cng khủng khiếp l习m đảo lộn hon ton bao c࠴ng trnh kinh tế v cơ cấu x젣 hội.Trong suốt 10 năm chiến tranh, vua Khmer, v khng thể n촠o chống lại vua Champa, chỉ cn cch l⡠ nhờ Ong Dhanapati Grama, l cậu ruột của vua Suryavarman, tm cଡch c lập vua Champa ny. Thế l䠠 vo năm 1203 chnh quyền vua Suryavarma bị lật đổ bởi cậu ruột của m୬nh l Ong Dhanapati Grama, dưới sự yểm trợ của đon quࠢn campuchia.Sau trận chiến ny, Champa đ trở th࣠nh một thuộc địa của campachia trong suốt 17 năm, tức l từ năm 1203-1220.ứng trЪn phương diện lịch sử m ni, vೠo những năm 1190-1220, x hội Champa đ trở th㣠nh hai bi chiến trường m d㠢n tộc Champa l nạn nhn chࢭnh của chiến cuộc ny. Một bn lઠ chiến trường tranh chấp quyền hnh giữa cc hoࡠng tử Champa ở miền bắc để lm b chủ vương quốc Champa, cࡲn chiến trường thứ hai dnh cho sự tranh chấp uy quyền giữa hai nước lng giềng Champa vࡠ campuchia.Từ năm 1182 đến năm 1220, nhn dn Champa đang chứng kiến một vở bi kịch lịch sử với bao nhi⢪u nhn vật chnh trị tranh gi⭠nh quyền lm Po Tanah Raya:- Hong tử Sri Vidyananda chạy sang lࠡnh nạn ở Khmer vo năm 1182, rồi sau trở thnh vua tiểu vương quốc Panduranga, lấy tࠪn l Suryavarman.- Vua Indavarman ở Vijaya bị qun campuchia bắt đࢠy sang Kampuchea vo năm 1190.- Em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất tự xưng vương ở Vijaya Champa lấy tn lઠ Suryajayavarman.Chiến tranh với Mng cổ 1283-1285Su mươi ba năm về sau, tức l䡠 năm 1283, tiểu vương quốc Champa Vijaya lại bị qun Mng Cổ chiếm cứ li⴪n tục trong hai năm liền. Vua Champa Indravarman đệ ngũ, v khng thể đứng ra để đối chọi với đo촠n qun hng mạnh M⹴ng Cổ trong khu vực đồng bằng, dng chiến thuật ịnh kh頴ng đồng trốngỂ để khng chiến, quyết định rt toẠn bộ qun sự của mnh về ph⬲ng thủ ở Ty Nguyn. Biến cố n⪠y đ chứng minh r rệt rằng T㵢y Nguyn l một lꠣnh thổ của Champa. Cũng nhờ sự yểm trợ của dn tộc Champa ở Ty Nguy⢪n m vua Champa Indravarman đ th࣠nh cng trong cng tr䴬nh chống lại qun Mng Cổ. Trong suốt hai năm chờ đợi để giao chiến, quⴢn Mng Cổ, v kh䬴ng cn lương thực để tiếp tục chiến tranh, quyết định bỏ hẳn chiến trường Champa để trở về Trung Quốc, vo năm 1285.Trong cuộc chiến n⠠y, tiểu vương Panduranga khng ln tiếng phản đối v䪠 cũng khng đứng ln h䪴 ho gip anh em Champa ở miền bắc chống lại quຢn xm lược Mng Cổ. Thⴡi độ tiu cực ny phải chăng lꠠ một bằng chứng để giải thch rằng vương quốc miền nam Panduranga, mặc d c�ng chung sống trong một lin bang Champa, vẫn coi Vijaya l một tiểu vương quốc ri꠪ng biệt, c nền tự trị ring. 㪐 nhiều lần bị kết tội l muốn cai trị miền bắc, phải chăng Panduranga muốn tỏ b㠠y thi độ d dặt hơn trước biến cố chᨭnh trị ny. Sự d dặt đਲ਼ cũng đ chứng minh rằng, mấy thế kỷ vừa qua, sự xung đột x hội giữa nam v㣠 bắc Champa vẫn l một vấn đề chủ yếu trong tiến trnh lịch sử của quốc gia nଠy Vai tr Vua Tr Hoa bồ Đề trong ch⠭nh sch ha đồng dᲢn tộc v ngoại giao: 1342-.1360 Vua Tr Hoa Bồ Đࠪ (1342-1360)( ng lԠ Hậu duệ Vua Chế Mn,Con rể Vua Chế A Nan).ng thuộc vương triều thứ 12,Triều đại thứ 9,đ┳ng đ ở thnh Vijaya(Đồ b䠠n,bnh định).ng chủ trương h씲a đồng xung đột dn tộc, xy dựng kinh tế, h⢲a hon với đại việt v khmer.Vương quốc 㠴ng trị v trải di từ d젣y hong lin sơn phભa bắc ,nam gip đến Đồng nai ngy nay.Đᠴng gip biển cham pa(biển đng), tᴢy gip ty lᢠo.Kinh tế pht triển dựa vo nguồn đᠡnh bắt thủy sản ngoc trai, đồi mồi,trầm hương,ng voi,nền nng nghiệp trồng lഺa nước nổi tiếng đng nam ,sản suất gốm sứ,đi䡪u khắc,cng nghiệp sx đồng, đồng thau pht triển rực rỡ,đội t䡠u thuyền hng mạnh,quản l một v魹ng biển chăm pa(biển đng)rộng lớn 3.500.000km2, cung cấp hng h䠳a cho một vng rng lớn Đ鴴ng ,ty ᢡ.Đội tượng binh hằng ngn voi trận thiện chiến đnh lui cࡡc cuộc xm lược của khmer v đại việt x⠢m lấn bờ ci.Tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho chế bồng ngasau n堠y Vai tr Chế Bồng Nga trong chnh s⭡ch ha đồng dn tộc: 1360-1390Hơn nửa thế kỷ sau cuộc tấn c⢴ng của qun Mng cổ vⴠo năm 1283, tnh hnh x쬣 hội Champa giữa hai miền nam bắc tạm coi như l lắng dịu, nhưng đồ chia cཡch giữa hai miền vẫn cn thể hiện trong tm tư của d⢢n tộc ny.Năm 1360, Chế Bồng Nga xuất hiện trn bઠn cờ chnh trị 퐴ng Dương. Cũng nn nhắc rằng, Chế Bồng Nga l một vị vua của li꠪n bang Champa, đặt thủ đ của mnh ở Vijaya (B䬬nh ịnh). Chế Bồng Nga khдng dnh dng g� với ng vua Po Binthuor (hay Cei Sak Bingu trong bin ni䪪n sử Panduranga), như nhiều nh nghin cứu thường hiểu lầm. Vબ rằng; Po Binthuor l một vị vua thứ 10 của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam ln ng઴i từ 1316 đến 1361 hay từ 1328 đến1373, ty theo bin ni骪n sử của tiểu vương quốc ny, đặt thủ đ của mബnh tại Bal Anguai (trong khu vực Phanrang).Sự hiện diện của Chế Bồng Nga, một nh qun sự đại tࢠi nhưng cũng l một nh ch࠭nh trị sng suốt, đ đem lại cho lịch sử của vương quốc nᣠy những ngy vng son nhất. Nhằm thực thi ch࠭nh sch đưa Champa đến một tư thế vững mạnh vừa chnh trị v᭠ qun sự trong khu vực ␴ng Nam n`y, Chế Bồng Nga cần sự yểm trợ ton diện của dn tộc Champa ở hai miền nam vࢠ bắc. Chnh thế, trong suốt 30 năm cai trị quốc gia ny, Chế Bồng Nga vẫn đặt vấn đề x� hội ln hng đầu. Xꠣ hội l một lực lượng lun luഴn giữ một vai tr trọng yếu trong mọi biến cố chnh trị v⭠ qun sự. Cng tr⴬nh to tt của ngi lᠠ vận dụng mọi nỗ lực để ha đồng dn tộc giữa nam v⢠ bắc, nng cao thức hệ quốc gia nhằm yểm trợ ch⽭nh sch thu hồi lại vng đất của Champa đṣ bị mất ở pha bắc của ngi v� để xc định lại uy quyền Champa trn b᪠n cờ chnh trị 퐴ng Dương.Chưa đầy 30 năm an bnh giữa nam v bắc, ung nhọt x젣 hội trong vương quốc Champa lại ti sinh. Ci ung nhọt nᡠy khng pht xuất từ những phong tr䡠o nhn dn chống lại ch⢭nh quyền Champa của Chế Bồng Nga, nhưng pht xuất từ một số nh lᠣnh đạo Champa v thức, v佬 quyền lợi v danh vọng ring tư của mબnh, họ khng ngần ngại lm mật vụ cung cấp tin tức mật của quốc gia cho ngoại x䠢m. Cũng v mưu đồ của một số nh l젣nh đạo Champa lm tay sai cho địch, vua Chế Bồng Nga đ bị ngࣣ gục trong chiến trường ở hải phận ại Việt vРo năm 1390.Năm 1390 đnh dấu một vở bi kịch mới trong lịch sử Champa. Nếu sự sụp đổ của x hội Champa phᣡt xuất một phần no từ chnh sୡch của một số nh lnh đạo Champa thường hay k࣪u cứu ngoại lai để củng cố địa vị chnh trị của mnh trong vương quốc n�y, th kể từ năm 1390, x hội Champa lại bắt đầu đối ph죳 với một hiện tượng mới lạ m hậu quả cn nguy hiểm hơn chಭnh sch cầu cứu ngoại lai, đ l᳠ những mưu đồ của một số tập thể lnh đạo lm tay sai cho địch.Ch㠭nh v thế, ci chết của vua Chế Bồng Nga v졠o năm 1390 đ cho chng ta thấy sự ph㺡t hiện của một chứng bệnh mới gọi l “mưu đồ lm tay sai cho địch” đang diễn tiến trong cơ cấu tổ chức xࠣ hội của Champa thời đ; một chứng bệnh c một t㳡c động v cng nguy hiểm trong mọi chiến lược qu乢n sự v chnh trị của vong quốc nୠy:chỉ v một giy ph좺t sơ hở, nền an ninh quốc gia gặp nguy biến. Sự phn chia nam bắc Champa: 1360-1471Mưu đồ lm tay sai cho địch nhằm ⠡m hại vua Chế Bồng Nga, một hiện tượng duy nhất trong lịch sử Champa, phải chăng l một tiếng chung bഡo hiệu cho sự suy tn của vương quốc ny. Bởi rằng, hơn một nữa thế kỷ t࠭nh từ ngy tử trận của Chế Bồng Nga, x hội Champa đang nằm tr࣪n bờ vực thẳm: tranh chấp quyền hnh giữa cc nhࡠ lnh đạo đ trở th㣠nh tấn bi kịch xảy ra hng ngy. Kể từ năm 1360, vương quốc Champa ngࠠy cng đi đến con đường suy yếu. Sự suy yếu ny phࠡt xuất từ hai nguyn nhn chꢭnh: một phần, phải đối đầu chống lại sự xm lăng của lng giềng miền bắc, c⡲n phần khc phải đối ph với bao nhiᳪu chiến tranh nội bộ của mnh. Chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy 30 năm, 5 vị vua Champa tiếp nối nhau để ln ng쪴i ở thủ đ Vijaya (Bnh 䬐ịnh).Sự hiện diện của 5 vị vua trn ngai vng Champa cũng đꠣ chứng minh rằng trong suốt 30 năm ny, Champa c 5 ch೭nh sch ring biệt v᪠ 5 lực lượng ring biệt. Mỗi lực lượng v sự sống cꬲn của mnh cần đi tm hậu thuẫn trong quần ch쬺ng nhn dn. Hay n⢳i một cch khc, trong suốt 30 năm nᡠy, x hội Champa chia ra lm 5 phe nh㠳m để phục vụ cho 5 vị vua Champa.Sự xung đột khng lối thot trong x䡣 hội Champa kể từ năm 1360, xuất pht từ gia đnh trị vᬠ địa phương trị của một số nh lnh đạo Champa thời đࣳ, cũng l nguyn nhઢn đưa đến sự diệt vong của Vijaya, tiểu vương quốc Champa ở miền bắc vo năm 1471. Khi đ diệt vong, vấn đề xung đột giữa nam v࣠ bắc cũng tự biến mất trong x hội Champa. Cũng cần nhấn mạnh rằng, nếu vấn đề nam bắc khng c㴲n nữa kể từ hm nay, khng phải l䴠 nhờ chnh sch h�a đồng dn tộc do cc nh⡠ lnh đạo đ đưa ra, nhưng l㣠 v lnh thổ Champa ở miền bắc đ죣 lọt vo tay của ại Việt, vР dn tộc Champa miền bắc đ trở th⣠nh một cng dn Việt ho䢠n ton, kể từ năm 1471.2. X hội Champa từ 1471 đến 1832Th࣠nh ồ BРn (Vijaya) rơi vo tay ại Việt vРo năm 1471 đnh dấu sự diệt vong của dng tộc cᲢy Dừa ở miền bắc. Kể từ đ, Champa tự thu hẹp lại trong lnh thổ của tiểu vương quốc Panduranga, nơi tập trung của d㣲ng tộc cy Cu.Hết đối ph⢳ với ại Việt, Champa lại gặp phải mối đe dọa mới vд cng nguy hiểm đ từng l飠m rung chuyển bn cờ chnh trị ୐ng Dương, đ l䳠 chnh sch “Nam Tiến” của nh� Nguyễn từ thế kỷ thứ 16.Mặc dầu chấp nhận chịu đựng để đương đầu với chnh sch “Nam Tiến” n�y trong suốt hai thế kỷ đầu, vương quốc Champa cũng rất tự ho với chnh sୡch x hội của mnh. Nhưng sự an b㬬nh v thịnh vượng x hội đࣳ đ trở thnh một vấn đề kh㠺c mắc một khi nh Nguyễn quyết định xm chiếm Champa vࢠo năm 1692 v đặt vương quốc ny dưới quyền cai trị của quࠢn viễn chinh nh Nguyễn với sự yểm trợ của hong tử Po Saktiraydaputih một nhࠢn vật chỉ đng vai tr b㲹 nhn cho triều đnh Huế để được nhận được chức v쬴 cng tầm thường, đ l鳠 “Khm L” thay vὬ “Chim Thnh Vương”. Trước thꠡi độ nhu nhược của hong tử ny, toࠠn bộ dn tộc Champa tự vng dậy v⹠o năm 1693 để giải phng qu hương của họ.㪐y l một cuộc khởi nghĩa nh⠢n dn đầu tin xuất hiện trong lịch sử Champa. Ngo⪠i mục tiu đnh đuổi quꡢn nh Nguyễn ra khỏi vương quốc ny, mật trận khࠡng chiến nhằm giải phng Champa cn v㲹ng dậy để qut sạch những người Champa lm tay sai cho ho頠ng tử Po Saktiraydaputih v những nhn vật Champa khࢡc v tnh hay cố 䬽 hợp tc với qun xᢢm lược nh Nguyễn. Chiến tranh ny kࠩo di lin tục hai năm liền lઠ một th dụ điển hnh minh chứng cho sự xung đột lớn lao trong x� hội Champa thời đ. Nhưng sự xung đột x hội n㣠y khng pht xuất từ sự tranh gi䡠nh quyền lợi ring tư giữa hai tập thể dn tộc Champa, nhưng lꢠ sự dị biệt trong thức hệ đấu tranh cho quyền lợi thing li�ng của Champa. Nếu đa số dn tộc Champa cương quyết, với bất cứ gi n⡠o, đấu tranh đnh đuổi qun xᢢm lược nh Nguyễn ra khỏi đất đai Champa, một số nh lࠣnh đạo Champa khc thch chọn con đường l᭠m b nhn cho nh鬠 Nguyễn để cũng cố địa vị hay danh vọng của mnh. May mắn rằng, đon qu젢n khng chiến đ đᣡnh bại lực lượng xm lược nh Nguyễn v⠠o năm 1694, tập trung mọi nổ lực nhằm hn gắn lại vết thương x hội do chiến tranh g࣢y ra trong suốt hai năm liền.Kể từ những năm cuối cng của thế kỷ thứ 17, ngoi hiện tượng l頠m tay sai cho địch đ từng xảy ra dưới thời Chế Bồng Nga vo năm 1390, vương quốc Champa bắt đầu đối ph㠳 với một hiện tượng mới nữa, đ l một số nh㠠 lnh đạo chỉ biết dựa vo uy quyền nh㠠 Nguyễn để cai trị quốc gia. Chnh thế mới c cuộc v�ng dậy của dn tộc Champa vo năm 1693 để n⠳i ln sự quyết tm đoꢠn kết của dn tộc Champa. Chỉ cần đon kết,d⠢n tộc Champa đ dập tan q.đội hng mạnh của nh㹠 Nguyễn.Hơn thế kỷ sau, Champa trở thnh một nạn nhn của cuộc tranh chấp chࢭnh trị giữa người Việt Nam, hay ni một cch kh㡡c, nạn nhn của chiến tranh giữa lực lượng Ty Sơn v⢠ Nguyễn nh kể từ năm 1771. Muốn đập pha tổng hnh dinh Nguyễn nh ở Saigon, Tby Sơn tập trung mọi nổ lực nhằm chiếm đng Champa trước để lm nhịp cầu tiến qu㠢n trong chiến lược qun sự. Khi đ chiếm đ⣳ng Champa, Ty Sơn tm c⬡ch đưa những nhn vật Champa thn cận m⢬nh ln nắm chnh quyền. Nhưng Tꭢy Sơn chỉ lm chủ tnh hବnh Champa trong khoảng một hay hai năm. Bởi rằng Nguyễn nh cũng tlm cch chinh phục Champa để đặt tổng hnh dinh nhằm tiến quᠢn đnh Khnh Hᡲa, một địa đầu qun sự của Ty Sơn. Khi đ⢣ thnh cng, Nguyễn ഁnh cũng truất phế những nh lnh đạo Champa phục vụ cho T࣢y Sơn v đưa những nh lࠣnh đạo Champa khc, thn cận với m᢬nh, ln nắm chnh quyền trong vương quốc nꭠy. Biến cố ny đ chứng minh rằng tại sao cࣳ sự thnh hnh của mấy chục chଭnh phủ Champa trong một thời gian chưa đầy 30 năm.Trở thnh một nạn nhn của chiến tranh giữa nhࢠ lnh đạo Việt Nam, x hội Champa đ㣣 đi vo một khc quanh lịch sử. Ngoຠi chiến tranh tn ph kinh tế, tࡠn ph cơ cấu tổ chức lng xᠣ v gia đnh, xଣ hội Champa thời đ đương đứng trước lề vực thẳm. Với sức p qu㩢n sự của ngoại lại, d Nguyễn nh hay T遢y Sơn, dn tộc Champa tự khai trừ lẫn nhau để lm h⠠i lng cho qun x⢢m lược. Gần 30 năm chiến tranh giữa nh lnh đạo Việt Nam đࣣ đưa x hội Champa vo hố thẳm tăm tối chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử. V㠬 quyền lợi ring tư của mnh, của gia đꬬnh mnh, một số người Champa khng ngần ngại tố c촡o anh em Champa ruột thịt trước chnh quyền Ty Sơn hay Nguyễn �nh, v cũng khng ngần ngại loại trừ bất cứ ai khഴng đồng quan điểm với mnh. X hội Champa trong suốt thời gian tranh chấp giữa T죢y Sơn v Nguyễn nh đc trở thnh một x hội thối n࣡t, khng cn nhận diện được 䲽 thức hệ đon kết thing liપng để khng cự chống lại những tập thể xm lược ngoại lai.Trước biến cố bi đᢡt ny, vua Cei Brei (chứ khng phải Po Saong Nhung Ceng như người ta thường hiểu lầm) - dലng Po Rom, gốc dn tộc Cru đ颣 từng nắm chnh quyền Champa từ năm 1627 - cng h�ng vạn qun Champa v gia đ⠬nh của mnh, quyết định rời bỏ qu hương để sang ẩn n쪡u ở Kampuchea vo năm 1795. Sự ra đi của vua Cei Brei đ chứng minh rằng vương quốc Champa khࣴng cn chnh quyền cai trị nữa. Cũng trong thời gian n⭠y, Po Saong Nhung Ceng, một tướng ti trong triều đnh của vua Cei Brei, gốc dଢn tộc Chăm (tức l tổ tin của bઠ Thềm ở Phan R hm nay), chạy theo Nguyễn �nh ở Saigon thnh lập một chnh phủ lୢm thời. Thế l kể từ năm 1795, Champa c hai ch೭nh phủ: một chnh phủ lưu vong Champa ở Kampuchea gốc người Cru v một ch�nh phủ lm thời ở Sigon gốc người Chăm. Sự hiện diện hai ch⠭nh phủ ny l động cơ ch࠭nh yếu đ đưa hai dn tộc Cru v㢠 Chăm đến sự xung đột khng lối thot. Th䡪m vo đ, hai ch೭nh phủ ny đều đặt tổng hnh dinh trࠪn lnh thổ lng giềng. Mỗi ch㡭nh phủ lưu vong đều tm cch gởi c졡n bộ của mnh về nước để chinh phục lng d첢n. Thế l, một tập thể x hội Champa khࣴng tổ chức v khng nhഠ lnh đạo đ trở th㣠nh một tập thể tự chia ba xẻ bảy nhằm phục vụ hoặc cho chnh phủ lưu vong ở Kampuchea hoặc cho chnh phủ lưu vong ở S�igon. Một khi đ dấn thn v㢠o cuộc đấu tranh qun sự để chiếm đoạt ngi bⴡu, hai chnh phủ lưu vong ny kh�ng cn quan tm cho lắm đến hậu quả của chiến tranh, h⢴ ho cho phe phi của m࡬nh ở địa phương tuyn chiến với nhau để nu cao chꪭnh nghĩa của nhm mnh. Ngo㬠i hai nhm theo chnh phủ lưu vong, tập thể Champa c㭲n lại cũng bị chia ba xẻ bảy để tụ tập thnh nhm, hoặc ủng hộ cho ch೭nh sch Nguyễn nh ở miền nam hay cho chၭnh sch Ty Sơn ở miền bắc. Sự chia ba xẻ bảy nᢠy đ biến tập thể dn tộc n㢠y thnh những kẻ th nghịch, để rồi sự sống c๲n của họ ty thuộc hon to頠n vo kết quả của chiến tranh giữa Ty Sơn vࢠ Nguyễn nh, chứ khtng phải ty thuộc vo 頽 thức hệ đon kết dn tộc của họ như đࢣ từng xảy ra vo năm 1693.Năm 1802, Nguyễn nh dẹp tan phong tr`o Ty Sơn v l⠪n ngi ở Huế, lấy nin hiệu l䪠 Gia Long. ể cСm ơn Po Saong Nhung Ceng trong cng trnh đấu tranh chống T䬢y Sơn, Gia Long trao trả lại cho Champa quyền độc lập v đưa Po Saong Nhung Ceng về lm vua Champa ở Panduranga. Gia Long cũng t࠴n cử L Văn Duyệt, một bạn thn của Champa, lꢠm Tổng Trấn Gia ịnh ThРnh ở Saigon. Mặc d Champa độc lập trong bin chế ch骭nh trị Việt Nam, nhưng quyền quản trị Champa vẫn cn tuỳ thuộc vo trong tay của L⠪ Văn Duyệt hơn l vo uy quyền của triều đࠬnh Huế.Kể từ ngy Po Saong Nhung Ceng ln nắm chભnh quyền vo năm 1802, vết thương của x hội Champa bất đầu h࣠n gắn lại. Nhưng sự hn gắn x hội n࣠y chỉ l một vấn đề tạm bợ, bởi rằng cộng đồngdn tộc Cru, con chࢡu dng Po Rom, vẫn chưa phục t⩹ng chnh quyền Champa của Po Saong Nhung Ceng, một ng tướng đại t�i, khng xuất thn từ gia đ䢬nh hong gia Champa.Mười tm năm sau, Champa lại trở thࡠnh nạn nhn lần thứ hai của cuộc tranh chấp chnh trị giữa người Việt Nam như thời T⭢y Sơn v Nguyễn nh. Năm 1820, khi Gia Long từ trần, ho`ng đế Minh Mệnh ln nối ngi vua cha. V괬 muốn tập trung ton quyền cai trị Việt Nam trong tay mnh, Minh Mệnh tବm cch gạt bỏ Tổng Trấn Gia ịnh Thᐠnh l L Văn Duyệt ra khỏi quyền kiểm soડt chnh sch Việt Nam ở Champa, nhưng kh�ng thnh. Mặc d đ๣ bao lần nhận lời khiển trch từ triều đnh Huế, chᬭnh quyền Champa bất tun chỉ thị của Minh Mệnh v tiếp tục phục t⠹ng uy quyền L Văn Duyệt ở Saigon. Chnh v꭬ thế, Minh Mệnh khng ngần ngại tm kiếm những nh䬠 lnh đạo Champa thn cận với m㢬nh để lật đổ chnh quyền Champa thn L� Văn Duyệt. Thế l x hội Champa bị rạng nứt ra l࣠m hai phe phi: một tập thể theo L Văn Duyệt v᪠ một tập thể khc phục tng triều đṬnh Huế. Hai tập thể cng chung sống trong một vương quốc Champa ny tiếp tục xung khắc v頠 m thầm chống bng nhau. V⡬ quyền lợi ring tư, một số nh lꠣnh đạo Champa khng ngần ngại chạy ra ngoi Huế để mua chức tước, t䠬m cch phỉ bng những lᡣnh tụ Champa phục vụ cho L Văn Duyệt ở Saigon.Kể từ năm 1820, người dn Champa sống trong một khꢴng kh v c�ng nặng nề, chỉ cần một tiếng ni sơ hở đối với Minh Mệnh hay L Văn Du
0 Rating 885 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 2, 2013
Chó hú bu?i tr?a Tác gi?: qu?ng ??i gi?i Lúc nh? tôi thích ?i câu cá l?m ch? nh?t nào c?ng ?i .hôm ???c ngh? tôi xin ba ?i câu cá, ba tôi h?i :”mày ?i câu ? ?âu ?“ d? g?n nhà ông t? lát ák ba. “?! G?n ?ó thôi ??ng qua g?n cây mít” ,sao v?y ba? ”ng??i ta nói ?n c?p mít thì mày tính làm sao nh? ?ó c?m” con bi?t r?i! Lulu ?i thôi .su?t m?t bu?i sáng lèo phèo tr? ???c con cá nào.?ang b?c mình tr?t nh? ra m?y ??a b?n nói qua ch? cây mít có nhi?u con cá to l?m? , Th? là l?i c?i ??n ch? ?ó . cây mít kà lulu ch? ?ó câu mát ?ó ?i thui! ,tôi t? ngh? ...tr?i cây mít to th? này mà tr? có trái nào ,ch?c không có ai nói mình ?n c?p ?au nh? !,ng?i xu?ng câu,câu su?t c? bu?i tr?a mà tr? ???c con nào b?c,v?a câu v?a ch?i m?y th?ng b?n,” m?y th?ng này ch?i mình ?ây mà” ,m?t lát sau ??t nhiên lulu hú lên nó c? hú và nhìn lên cây mít ,?ang lúc b?c tôi héc lên mày im ?i lulu” nh? ai ?ó ?ang ti?n l?i g?n” ,nó lùi l?i g?n tôi và c? hú nh? v?y ,tôi c? nhìn v? phía tr??c tr? th?y gì c?,b?t ch?t có cái gì ?ó thoáng qua m?t l?n...l?n n?a, hình nh? là bóng c?a m?t ng??i ?àn bà ?ang bé ??a con thì ph?i? Bi?n m?t trong choát lát , tôi t? an ?i mình ch?c là ?o giác thui! ,lát sau nghe vân v?n ?âu ?ây ti?ng m?t ??a tr? khóc....?m ?m...! ,tôi ngh?:tr?i !tr?a n?ng th? này mà ai b?m con ?i bi?t n?a? bà m? c?t ti?ng ru con “con ?i ! m? không s? gì h?t m? ch? s? c?c chì ,v?i roi mây” . nghe xong tim tôi nh? mu?n r?t ra , b?ng d?ng gió th?i ngày càng m?nh ,làm cho tôi xù lông gà tôi b?t ??u th?y s? ,tôi l?y c?n câu ??nh v? nhà ,tr?i ?! c?n câu ?ang run ..run.. tôi nghi! là con cá nào ?ó dính zùi,tôi c? gi?t th?t m?nh nh?ng không ???c,càng gi?t m?nh thì nó c? kéo vào.....anh...h?..!,cái con nh? này ,mày làm gi?t mình tao mày...!,qua ?ây làm chi? ba kêu anh ?i ?n c?m kà...tao bi?t zùi! . nh? em h?i:” su?t bu?i tr?a ,mà không có con cá nào h?! i tr?i anh nhìn kìa móc câu dính vào cành cây kìa! N?y gi? ?ang kéo cái này ák h?n? v? thui anh ba ?ang ch? ?ó”,? thì v?, tr?i ngh? quê ghê .v? nhà không dám k? v?i ba , th? là ?n c?m xong tôi ch?y sang nhà ông ngo?i ch?i ,tôi ngh?: s?n ti?n k? luôn chuy?n bu?i tr?a nay, vì ông ngo?i là th?y cúng nên bi?t nhi?u chuy?n trong làng l?m ,nh?t là ba cái chuy?n l? h?i tr?a nay ,tôi k? cho ông nghe ,ông nói :”cháu g?p ma zùi ?ó” tr?i thi?t không ngo?i?” ?? ông k? cháu nghe cách ?ây m?y n?m thì nhà ông t? lát có ??a con gái, c? mà không m?t thì gi? g?n 33 tu?i r?i,tu?i tr? l? d?i mang b?u, b? ng??i yêu b? ,c? ngh? qu?n ,cây mít là n?i c? t? t? n?m n?m ?y ,t?t c? nh?ng gì cháu nghe và th?y là c? ??y.” nghe xong x?ng tóc gá ,ngh? ??n là rùn ...mình,à! Ngo?i ?i! cháu không hi?u sao lulu nó hú v?y? nó c?ng th?y h? ngo?i? ,lulu không nh?ng th?y mà còn th?y rõ h?n cháu n?a .cháu bi?t không loài chó là c?n v? trung thành nh?t c?a loài ng??i ,nó xua ?i nh?ng r?i ro,không may c?a loài ng??i, ??c bi?t loài chó th?y ng??i th? gi?i c?i âm thì nó báo cho loài ng??i ??ng th?i còn b?o v? ?? tránh ?i ?i?u không may ?ó .cháu bi?t không khi l?y máu con chó bôi lên m?t , t?i bu?i ?ám tan ng??i ch?m thì s? nhìn th?y m?i ho?t ??ng c?a th? gi?i c?i âm và truy?n này ngo?i ch? k? cháu nghe thôi ??ng b?t tr??c gì c?, vì ngo?i ?ã th?y nhi?u tr??ng h?p nh?ng ng??i mà làm nh? th? này không có k?t qu? t?t ??p gì c?:”không ch?t thì c?ng b? ?iên n?ng” v?y h? ngo?i? “?”. Thôi mây cho cháu ?êu s?i dây bùa không thì b? ‘c? b?t ?i bé con cho c? luôn r?i...haha...”ngo?i này z?n hoài ! Ch?ng ngày hôm sau ông ngo?i ?i cúng t?i cây mít ?? siu h?n ng??i ?àn bà ?ó . The end
0 Rating 881 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On November 30, 2017
    Nhi?u ng??i Vi?t Nam th??ng ngh? r?ng, ??t n??c này là n?n nhân c?a nh?ng cu?c xâm l?ng, nh?ng th?c t? l?i không hoàn toàn nh? v?y. Nhi?u ng??i ngh? s?ng c?nh Trung Qu?c khó, nh?ng s?ng c?nh ng??i Vi?t m?i th?c s? là n?i b?t h?nh ??i v?i b?t k? m?t s?c dân nào, dù v?n minh, hay còn ? tr?ng thái bán khai . Nh?ng ng? nh?n! ??i Vi?t ngày Th? k? X - XI và các qu?c gia, vùng lãnh th? láng gi?ng Ng? nh?n th? nh?t: Ch?ng xâm l?ng, qu?t c??ng ?ánh tr? ngo?i xâm ?úng nh?ng thi?u m?t v?: ng??i Vi?t ?i xâm l?ng nhi?u h?n ch?ng xâm l?ng. T? khi l?p qu?c (938) t?i nay, ng??i Vi?t g?p ph?i m?y ??i th? l?n nh? Trung Qu?c, Pháp, và c? Hoa K? và c?ng ch? có ba ?? qu?c này t?ng ?óng chân t?i Vi?t Nam trong nh?ng quãng th?i gian nh?t ??nh. Trong khi ?ó danh sách n?n nhân c?a ??i Vi?t thì dài d?ng d?c. 1.   1. Ng?u H?ng – m?t qu?c gia là t?p h?p c?a các b?n m??ng ng??i Thái t?i Tây B?c, ??n th? k? XV danh x?ng Ng?u H?ng bi?n m?t trong các b? s? Vi?t. T? hàng ch? h?u vào c?ng lãnh th? Ng?u H?ng tr? thành c??ng th? ??i Vi?t, tàn d? còn r?i r?t l?i là Khu t? tr? Tây B?c b? xóa s? n?m 1975.        2. ??i Nguyên L?ch; vùng lãnh th? ??c l?p n?m ? khu v?c Cao B?ng, b? Lý tri?u xóa s? vào n?m 1022. 3.    3. ??i Lý: Sau tr?n chi?n 1014, ??i Vi?t ?ánh b?t th? l?c ??i Lý kh?i khu v?c sông H?ng – Sông Lô, hoàn toàn qu?n tr? ???c khu v?c Tuyên Quang và sáp nh?p Hà Giang vào b?n ??. 4   4. Khu v?c ?ông B?c là lãnh ??a t? tr? c?a các t?c Tày Nùng b? khu?t ph?c hoàn toàn vào n?m 1041, sau khi cha con Nùng T?n Phúc – Trí Cao th?t b?i trong vi?c gây d?ng n?n ??c l?p.  5.    5. Chiêm Thành: Sau m?t ngàn n?m t?n công, ??i Vi?t xóa s? hoàn toàn liên bang này. 6.    6. Ngay c? T?ng (t?c Tàu, t?c Trung Qu?c) c?ng là n?n nhân c?a ??i Vi?t. Cu?c vi?n chinh n?m 1075 c?a Lý Th??ng Ki?t b?t gi?t 10 v?n ng??i T?ng; riêng Ung Châu có 58 nghìn ng??i, quân Lý gi?t s?ch, ch? ch?a m?ng nào. 7.   7. B?n Man nay là Xiêng Kho?ng c?a Lào, Lang Xa, Lão Qua ??u tr? thành n?n nhân c?a cu?c chinh ph?t n?m 1478 d??i tri?u Lê Thánh Tông. 8.    8. Chân L?p hay Kh? Me. ?àng Trong ?ã b?ng m?i ph??ng cách c? quy?n l?c m?m, l?n v? l?c quân s? chi?m ???c khu v?c ?ông – Tây Nam B?. Sang ??n th?i Nguy?n – Minh M?nh, trên lãnh th? Kh? Me, thành Tr?n Tây ???c l?p v?i toan tính 50 n?m bi?n ng??i Kh? Me thành ng??i Vi?t. 9.    9. Th?y Xá Qu?c – H?a Xá Qu?c – m?t thành t? - ho?c m?t b? ph?n trong liên bang Ch?m, b? bu?c ph?i th?n ph?c ??i Nam, sau này ng??i Pháp ?em khu v?c Tây Nguyên sáp nh?p vô b?n ?? An Nam, Th?y Xá – H?a Xá không còn. 1   10. Siam. ??i Nam và Siam tranh ch?p ?nh h??ng khu v?c Cao Miên (Kh? Me) và Ai Lao (Lào). ??i Nam dành th?ng l?i quân s?, sáp nh?p ??i b? ph?n lãnh th? Cao Miên vào b?n ?? g?i là tr?n Tây Thành. Cu?c vi?n chinh g?n ?ây nh?t c?a ng??i Vi?t k?t thúc ch?a ??y 30 n?m v? tr??c, ân nhi?u oán c?u c?ng l?m. Trong 1000 n?m có t?i m??i m?y qu?c gia, vùng lãnh th? là n?n nhân các cu?c chinh ph?t, lãnh th? Vi?t Nam hình ch? S r?ng ch?ng 336.363km2 (g?p kho?ng g?n 10 – 15 l?n th?i l?p qu?c) là do chinh ph?c, t?m máu lân bang mà có ???c. Ng? nh?n th? 2. T? th?a mang g??m ?i m? cõi S?ng c?nh ng??i Vi?t Nam khó kh?n ??n d??ng bao! Hàng xóm b? ta ?ánh ??n t?t nguy?n là còn may, r?i thì ch?t m?t xác, không còn chút t?m tích nào. L??i g??m m? cõi c?ng là l??i g??m xâm l?ng, chu?c bi ai cho láng gi?ng. Xem s? ta, s? tây, s? tàu coi khi Tàu, Tây xâm l?ng có v? nào h? b?t nào 5 v?n ng??i Vi?t ?em v? n??c? Có v? th?m sát nào nh? ta gi?t B?n Man? Có hành ??ng s? nh?c nào nh? vi?c Lý Thái Tông mu?n hi?p M? Ê, Quân chúa Nguy?n nh?t r? vua Po Romé? Có dã man nào nh? lính nhà Nguy?n gi?t ng??i Ch?m vào m?i bu?i sáng ?? l?y ti?n? + Th?m sát B?n Man: n?m 1478, d??i tri?u Lê Thánh Tông, ??i Vi?t ti?n ?ánh B?n Man, k?t thúc chi?n tranh, v??ng qu?c này t? 9 v?n h? còn .... 2000 ng??i. N?u th?ng kê này chính xác thì h?n 99% dân s? B?n Man b? quân ??i ??i Vi?t gi?t, ch?t ?ói, ch?t vì b?nh t?t, ho?c ch?y t? tán tìm ???ng s?ng. + Vua Po Romé c?a Panduranga Champa (ti?u v??ng qu?c Champa cu?i cùng). Tr? vì t? 1627 - 1651, ông b? quân chúa Nguy?n b?t, nh?t vào c?i s?t ?em v? Phú Xuân. Quá ph?n u?t, nhà vua ?ã tìm ??n cái ch?t. Tàu, Tây dù xâm l?ng h? v?n ?em l?i cho ng??i Vi?t l?i ích ch?ng h?n nh? h?c thu?t, ph??ng cách tr? n??c làm nên n?n v?n hi?n ngàn n?m, hay ch? qu?c ng?, ?ô th?, th??ng c?ng ki?u ph??ng tây, ???ng s?t r?i ki?n trúc, ?iêu kh?c, v?n h?c... Còn ta khi xâm l?ng thì ch? chém gi?t, ??y ti?ng oán h?n; th?m chí có dân t?c ch? còn m?ng nào mà nuôi d??ng s? oán h?n ?y. Ng? nh?n th? 3: Tàu ?áng s? vì luôn l?m le thôn tính ta Th?c t? quan h? Vi?t – Tàu trong ngàn n?m khá là ?n, hai bên ?ánh nhau c? th?y 8 l?n (k? c? Mông – Nguyên ?ánh Vi?t 3 l?n), bình quân c? 120 n?m m?i ph?i ??ng ??n binh ?ao m?t l?n (chi?n s? th??ng kéo dài 6 tháng). Sau chi?n tranh c? hai bên ??u l?y hòa bình, phát tri?n buôn bán (v?i nhau) làm tr?ng. Vi?t c?ng tàu, thì Tàu c?ng tr? l? v?i giá tr? t??ng ???ng, th?m chí nhi?u h?n. Hài h??c nh?t là Tàu không ?áng s? b?ng Tây. Pháp ?ánh Vi?t Nam n?m 1858 sau 30 n?m thì ??i Nam ??u hàng, n?m 1956, Pháp rút quân hoàn toàn kh?i Vi?t Nam, t?ng th?i gian quãng tr?m n?m; th?i gian cai tr? tr?c ti?p g?n 70 n?m. Nh?ng Tàu ch? có th? ?ô h? Vi?t Nam trong 20 n?m (1407 – 1427), ?VSKTT chép k? thu?c Minh ch? có 3 n?m (1414 - 1417), t? 1407 ??n 1414 thu?c v? nhà H?u Tr?n; 1417 tr? ?i chép vào K? nhà Lê. Ng? nh?n th? 4, dân t?c anh hùng nh?ng l?i yêu chu?ng hòa bình. Th?c t?, n?u không ph?i ch?ng xâm l?ng thì ng??i Vi?t s? ?i xâm l?ng, tàn phá lân bang; nhàn, không ?ánh nhau v?i ai thì anh em trong nhà chém nhau cho ... ?? khát. Riêng Lê – M?c ?ánh nhau 66 n?m (1527 – 1592); Tr?nh – Nguy?n giao tranh 7 l?n su?t th?i gian t? (1627 – 1672) có khi l?y ??i l?y, tr?ng tr?n h?a mai sáng r?c tr?i ?êm ròng rã ??n 5 n?m tr?i; Tây S?n kh?i lo?n 30 n?m (1771 – 1802), Chi?n tranh Vi?t C?ng – Qu?c Gia 20 n?m (1955 – 1975). T?ng c?ng th?i gian n?i chi?n ??c 160 n?m ??y là ch?a k? lo?n 12 s? quân, lo?n cu?i Lý, cu?i Tr?n, cu?i Lê s?, Tàn d? nhà M?c cát c? Cao B?ng – Tuyên Quang (60 n?m); chúa Tr?nh d?p nông dân kh?i lo?n th? k? XIIX, N?a cu?i th? k? XIX, nông dân làm lo?n kh?p n??c, th?m chí câu k?t v?i ngo?i xâm ?? m?u cát c?, chia c?t ??t qu?c gia nh? cu?c phi?n lo?n (1861 – 1856) c?a Lê V?n Ph?ng. Tính t?ng c?ng l?i th?i gian n?i chi?n ??c b?ng 1/4 t?ng th?i gian t? ngày l?p qu?c ??n nay, con s? này là g?n g?p ?ôi th?i gian ch?ng xâm l?ng và b? ngo?i bang ?ô h?. N?i chi?n thì chém gi?t còn ??m máu h?n c? ch?ng xâm l?ng; ??n t?n ngày nay, ng??i Vi?t v?n ch?a h?c ???c cách ch?p nh?n nhau và s?ng hòa bình v?i ... chính ng??i Vi?t. M?i ng??i m?t góc nhìn, ?úng sai tùy ý b?n, nh?ng s? th?t v?n là s? th?t.   Theo Hantimesblog.blogspot.com
0 Rating 881 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
http://www.rfa.org/vietnamese/international/ChamNationalFederationCambodia_Truc-20060721.html?searchterm:utf8:ustring=champa Con số người Việt sắc tộc Chàm, còn gọi là người Chăm, sang Campuchia từ năm 1975 tính đến giờ khoảng 50.000. Họ sống lẫn lộn trong cộng đồng Chăm bản xứ, nói tiếng Campuchia thành thạo hơn ngôn ngữ Việt hoặc ngôn ngữ Chăm của tổ tiên họ bên Việt Nam. Trong bài phỏng vấn do Thanh Trúc thực hiện từ Phnom Penh, tiến sĩ Thành Thanh Dải, người Việt gốc Chàm ở Phan Rang từng qua Ukraina du học, hiện là chủ tịch Liên Đòan Dân Tộc Chăm Campuchia, nói về nổ lực của ông trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa cũng như ngôn ngữ Champa trong cộng đồng thiểu số Việt gốc Chàm ở Xứ Chùa Tháp. Trước hết, tiến sĩ Thành Thanh Dải trình bày nguồn gốc và lịch sử di dân của người Chăm từ Việt Nam sang Campuchia. “Người Chăm tại Campuchia là một cộng đồng dân tộc thiểu số. Quá trình lịch sử di cư từ Việt Nam sang Campuchia đã trải qua một thời gian rất dài và rất lâu theo từng nhóm người, từng giai đoạn. Nhưng mà cộng đồng người Chăm, theo tôi được biết và nghiên cứu, thì ho xuất thân từ Việt Nam sang chứ không phải nguồn gốc là Campuchia. Còn họ sang Campuchia thế nào thì nó rất nhiều yếu tố. Giai đoạn đầu tiên thì vào thế kỷ 16, 17 lận. Quá trình di cư lập nghiệp. Với lại người Chăm ở Việt Nam, có một số người theo đạo Hồi, họ sang Campuchia để có điều kiện tiếp tục đến Malaysia để tiếp xúc với đạo Hồi. Cho nên quá trình di cư của người Chăm nói chung là do yếu tố lịch sử, xã hội và chính trị nữa. Trước năm 1975, họ được chính sách rất ưu đãi trong kinh tế, xã hội, và giáo dục v.v.. Sau năm 75, chính sách dân tộc thiểu số của đảng CSVN cũng như chính phủ Việt Nam nói chung không quan tâm đến dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Chăm. Chính sách về tôn giáo chưa được quan tâm lắm. Vấn đề xã hội của họ cũng gặp khó khăn nữa, cho nên họ chạy sang Campuchia.” (Xin theo dõi toàn bộ cuộc phỏng vấn trong phần âm thanh bên trên) © 2006 Radio Free Asia
0 Rating 875 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2014
" Katê - lễ hội bản địa truyền thống Champa: Sự tiếp nối của văn minh Sa Huỳnh"  ( CHAU DONG KIEU-pleirem)  Nguồn: https://www.facebook.com/groups/LichsuChampa/ Gần đây xuất hiện một chùm ý kiến trái chiều với dòng chảy tự nhiên của truyền thống Kate. Một nhà nghiên cứu hàng đầu người Cham đã có cách tiếp cận, nhìn nhận và đánh giá lễ hội Kate đang thực hiện ở hải ngoại theo một cách khác thường và “phát minh” ra hai định nghĩa khác nhau về Kate mà sự thật, Kate chỉ có một ý nghĩa duy nhất vốn có được các thế hệ người Chăm tiếp nối nhau lưu giử. Tên gọi Kate có thể khác, hình thức tổ chức có thể khác nhau theo thời gian, không gian nhưng “định nghĩa”, nội dung và ý nghĩa Kate thì chỉ có duy nhất một. Kate từng có nhiều tên gọi khác nhau như là lễ hội truyền thống, lễ hội tin ngưỡng bản địa, và là lễ hội dân gian đó là theo GS-TS Trần Ngọc Thêm, TS Phan Quốc Anh. Trong tài liệu nghiên cứu của mình ThS Trương Văn Món, Ngô Văn Doanh và ThS Đàng Năng Hòa cho Kate là lễ hội truyền thống dân gian đặc sắc nhất. Đặc biệt theo nghiên cứu của TS Phan Quốc Anh, ThS Đàng Năng Hòa và tư liệu trong Đại Nam Nhất thống Chí cho rằng Kate là lễ hội dân gian có qui mô lớn như tết nguyên đán. Dân gian là yếu tố bản địa trung tính không phụ thuộc tôn giáo. Theo đa số các nhà Champa học, Kate là lễ hội bản địa dân gian truyền thống. Trong nghiên cứu của Harak Champaka 40, 41 và PGS-TS Po Dharma, Kate chỉ là lễ tục Ahier, lại còn có phát hiện ra định nghĩa khác tại hai hội đoàn Champa ở Hoa Kỳ mâu thuẩn với Kate ở quê nhà. Qua bài viết ngắn này, chúng tôi không có tham vọng nói hết về Kate, vẫn còn nhiều điều bí ẩn cần nhiều nghiên cứu thêm mới giải mã được, chỉ muốn nhấn mạnh ở hai điểm mà độc giả có thể tự mình kết luận được là: 1/. Kate có một định nghĩa duy nhầt hay có thể có hai định nghĩa như Harak Champaka đã tìm thấy ở hai hội đoàn khác nhau tại Mỹ và khác với ý nghĩa Kate bên nhà hay không? 2/. Kate là lễ tục Ahier hay là lễ hội truyền thống dân gian? Do phát hiện mới này, khiến tất cả các bài nghiên cứu liên quan đến Kate, tất cả các DVD, you tube về Kate phải được duyệt lạI, để thấy, và mừng là Kate luôn hoành tráng và sinh động, nhất là Kate 2009 được xem là Kate lớn nhất từ trước đến nay. A/. Kate, có duy nhất một định nghĩa hay nhiều định nghĩa?: PGS-TS Po Dharma định nghĩa Kate, trong trang 15 và 16, Harak CPK 41, cho là theo ý nghĩa Ahier (tàn dư Balamon) Kate là lễ tế Yang Po amư là duy nhất nam thần Shiva; Theo ý nghĩa tín ngưỡng địa phương là lễ tạ ơn ba vị thần linh Po Klaung Garai, Po Rame, Po Ana Nagar, cũng là biểu trưng của thần Shiva và Bhargavati. “..lễ tục Kate truyền thống, một khi đến xứ Hoa Kỳ, đã trở thành hai lễ hội và mang hai ý nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của từng hội đoàn.” Còn Kate bên nhà: Theo báo Du Lịch Việt Nam, Kate: “như là ngày tết, là lễ hội thiêng liêng để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, tổ tiên ông bà, tạ ơn các thần linh đã giúp mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.” Trong báo Bình Thuận: “ nhằm tưởng nhớ đến những người đã khuất, anh hùng dân tộc, các vị Vua (được người Cham tôn vinh làm thần), tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên.” Theo Sakaya ThS Trương Văn Món: “Đây là lễ hội của người Chăm nhằm tưởng nhớ các vị Nam thần như Pô Klong Garai, Pô Rôme (vua)… Và tưởng nhớ ông bà tổ tiên, trời đất đã phù hộ độ trì cho con người.” Quê hương online cho rằng: “ Kate là tết Cham nhằm tưởng nhớ anh hùng liệt sĩ, tổ tiên ông bà, tạ ơn thần linh”. Theo TS Phan Quốc Anh, đây là lễ trọng như ngày tết nguyên đán, cúng tế thần- vua, cầu cúng thần linh, ông bà tổ tiên phù hộ độ trì, chúc tụng nhau may mắn, phát đạt. Nhiều nhà Champa học đã dẫn ở trên và các báo đài đều ý chung như nhau. Tóm lại Kate có duy nhất một định nghĩa: LÀ LỄ TƯỞNG NIỆM VÀ TẠ ƠN THẦN- VUA, ANH HÙNG, TIỀN NHÂN, ÔNG BÀ, TỔ TIÊN, CẦU MONG AN BÌNH, HẠNH PHÚC CHO CON CHÁU CHAMPA. Căn cứ trên hiện thực nêu trên và thực tế đại lễ Katê tại Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa và Hội Truyền Thống Champa Hoa Kỳ các năm qua, chúng tôi thấy hoàn toàn đúng như Kate bên nhà, cần thiết phải ghi công họ vì đã tổ chức liên tục các Lễ hội Kate mẫu mực để đời cho ngàn năm con cháu mai sau tự hào. B/. Kate là Lễ tục Chăm Ahier hay là lễ hội dân gian?: Theo PGS-TS Po Dharma trang 18, Harak CPK 41: “Trong hệ thống tín ngưỡng người Chăm, cũng như tín ngưỡng của nhiều dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo trong khu vực Đông Nam Á, dân tộc Chăm Ahier và Awal chỉ có lễ tục (culte, cérémonie) chứ không bao giờ có lễ hội (fête, festival)”. Ông ta nhìn thấy Kate chỉ là lễ tục Ahier thờ thần Shiva và Bhargavati. Trên lý thuyết và thực tiển trong sinh hoạt tâm linh của người Ahier không có tên Shiva và Bhargavati, như GS-TS Trần Ngọc Thêm trong phần “Balamon và văn hóa Việt Nam” có đề cập: “đối với số đông người dân Chăm, thần Siva, tượng Linga,v.v.. chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung.” Hơn thế nữa, ý nghĩa Kate hôm nay ít hoặc không liên quan đến Shiva, Brahma, Vishnu, hay Bhargavati thuộc văn minh Balamon vì các lẽ sau: 1/. Truyền thống thờ mẫu và văn hóa mẫu hệ không bị phai nhạt, dù trải qua thời kỳ đầu lập quốc Lâm Áp, ảnh hưởng Trung Hoa văn hóa trọng nam, (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) sau đó tiếp thu văn minh Ấn độ trong nhiều thế kỷ, cũng phụ hệ, đến thế kỷ thứ X, nhận thêm văn minh Hồi giáo là phụ hệ, trọng nam. Ngày nay người Cham vẫn nguyên vẹn tôn vinh Po Ana Nagar, là Nữ Thần Mẹ Xứ Sở, được người Việt tiếp thu và lưu giử truyền thống thờ mẫu, với những tên gọi khác như: Thiên Y Ana, Bà Chúa Sứ, Chuà Thiên Mụ, Muk Juk. Đất nước Chămpa lúc cực thịnh là một vương quốc giào có kháp nơi đền đài, dinh thự, vàng bặc châu báo và lễ hội múa hát quanh năm (theo Wikipedia và Đại Việt Sử Ký toàn thư). Một trong các lễ lớn đó chắc chắn là dấu vết của Kate, vì Kate chỉ có duy nhất ở Champa, có sẵn, không là yếu tố ngoại nhập (theo Huỳnh Ngọc Trảng). Phải Chăng đó là lễ hội Po Ana Nagara? Hoặc dể hiểu nhất là tại khởi nguồn Vương quốc Champa, chưa có vua, thì lời tụng của On Kadhar lúc bấy giờ chắc chắn chỉ có một Po Ana Nagar. 2/. Từ thế kỹ 15, Champa là quốc gia hồi gíao: Kể từ thời Po Kabrah (1448-1482/ 1460-1494) các vua ở Pangduranga đều theo Hồi Giáo Bàni, nhưng vẫn còn giử những nghi lễ truyền thống của hoàng gia. Khi đó nếu có Kate thờ Thần- Vua, liệu người Cham có còn chấp nhận Vua là thần Shiva nữa hay không Hay là Vua chính là thiên sứ của Allwah, vẫn mô hình Thần- là Vua trị vì vương quốc Champa?!! Trong triều đình Po Rame, đa số theo đạo Hồi giáo. Quyền lực trong tay nhưng yếu tố bản địa và tàn dư Balamon vẫn được tôn trọng trong các sinh hoạt tâm linh theo phương châm “hoà hợp hòa đồng tôn giáo”. Đó là sự tiếp tục tham dự của Ahier và “Gru urang” trong lễ lớn Kate của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên trong lời tụng ca công đức các ngài của On Kadhar có đề cập đến các thần Islam: Po Allwah, Po Li, Po Phuatimâh, Po Biruw, Po Hanim Pan, Nai Mâh Ghang Tang Nagar, v.v. (trong Po Dharma, HCK 41, T.17). 3/. Tháp Cham là của chung Champa, đền thờ Ahier là thang Banrach: Trong lời tụng ca của tất cả các On Kadhar hiện nay trong cung thỉnh, ca ngợi công đức các ngài, và cung tiển, vào dịp lễ Kate, không bao giờ thấy xuất hiện từ Shiva, Vishnu, Brahma, hay Bhargavati. Luôn có tên của các vị vua Champa, là của chung của mọi người Cham, không thể của riêng Ahier. Các tháp Chàm là những tượng đài, lăng tẩm tưởng niệm các vì vua không thể hiểu nhầm là nhà thờ Balamon hay Ahier. Nhà thờ Balamon, hay Ahier là Thang Banrach trụ trì bởi các Po Dhia (theo Mai Tường & Bá Đại Long). 4/. Người Bani có dự Kate Cham không?: Theo lời kể của một cụ già làng Phước Nhơn dịp Kate 1993 trên tháp Po Rame: “Trước 75, dòng tộc Po Rame tại Phước Nhơn dến lễ ngài thường xuyên hằng năm bằng lễ vật và tiền mặt. Chúng tôi tập trung ở thang Po Yang giửa làng Phước Nhơn rồi cùng nhau đến thẳng Danauk Po Rame và lên tháp làm lễ ngài. Nay khó khăn nên thưa thớt hơn.” Theo lời kễ của các nhân sĩ trí thức Cham gốc Islam như mik Yasin Ba, Thanh Ngoc Co, Dohamide và một số bạn trẻ từng là vũ công trong đoàn văn nghệ: “ Kate ở Mỹ từng là ngày hội rất lớn và vui, người Cham Islam đông nên đảm trách hầu hết các khâu chuẩn bị lễ hội Kate…” Được Qasim Từ khẳng định: ““gần 13 năm, kể từ năm 1982 đến năm 1995, Katê trở thành một lễ hội Champa tại hải ngoại (ở Pháp, ở Danmark, ở Hoa Kỳ) do hội CSC-Champa và IOC-Champa tổ chức mà đa số thành viên của hội này là bà con Chăm Bani và Chăm Islam. Và trong ngày đại hội Katê này lúc nào cũng có sự hiện diện của nhiều sắc tộc Champa khác như Jarai, Bahnar, Stieng ở hải ngoại và hai nghệ sĩ Chế Linh (Chăm Ahiér) và Từ Công Phụng (Chăm Islam)” PGS-TS Po Dharma cũng khẳng định trong trang 19 Harak Champaka 41: “…số lượng người Chăm Awal tham gia trong ngày lễ hội Kate tại quê nhà hôm nay rất đông đảo. Sự hiện diện của họ đã chứng minh rằng dù Kate là lễ tục của Chăm Ahier nhưng đã trở thành di sản văn hóa chung của vương quốc Champa mà mỗi người Chăm phải có bổn phận bảo tồn và phát triển.” Năm 2000 và 2004, Lễ hội Kate tại Ninh Thuận co sự tham gia của tất cả các địa phương có người Cham cư trú, có cả Cham Islam Nam Bộ. Gần đây cộng đồng Cham Bani Bình Thuận đã lên làm lễ Katê năm 2009 tại Bimong Po Sah Inư, theo nhiều nguồn tin, báo Binh Thuận, Xalo tin tức và Doanh Nhân Sài Gòn. 5/. Vai trò quan trọng của người Raglai- Lễ rước hoàng bào ngày trước Kate: Đáng chú ý là hoàng bào của Vua từ các đền tháp ở Ninh Thuận và Bình Thuận đều được người Raglai, gia đình Ja Angui, đồng loạt cất giử: ngày cuối tháng 6 (Cham lịch) tất cả các đền tháp đều cử người làm lễ rước hoàng bào từ nhà Ja Angui đến Danauk để ngày Kate đón lên các đền tháp làm lễ. Nghi lễ này hiện nay còn thực hiện tại tháp Po Klaung Garai, Po Rame, Po Sah Inư, Đền Po Inư Nưgar, Đền Po Binthor, Po Dam, Po Klaung Mưnai, nhà thờ hoàng tộc Cham tại Bình Thuận. Vậy thì Kate là lễ hội dân gian chung của dân tộc Cham không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng. C/. Kate là lễ tục hay hễ hội?: Theo PGS-TS Po Dharma trong Harak CPK 41, trang 19: “..lễ tục Kate truyền thống, một khi đến xứ Hoa Kỳ, đã trở thành hai lễ hội và mang hai ý nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của từng hội đoàn.” “…biến lễ tục cổ truyền Kate sang mô hình hiện đại của ngày kỷ niệm bậc tiền nhân Champa cũng như sự dân chủ hóa lễ hội này thành ngày quốc lễ Champa… quyết định ngày quốc lễ và mô hình kỷ niệm anh hùng liệt sĩ Champa.” Và ông ta tự mình trả lời: “Nếu Kate tại Việt Nam hôm nay đã trở thành một ngày lễ rất trang nghiêm trong phần lễ tục và rất linh đình và nhộn nhịp qua phần lễ hội, là vì Kate được tổ chức trong biên giới cổ truyền của nó, từ ý nghĩa của lễ tục cho đến nội dung của lễ hội, không mang nội dung chính trị, không trang điểm màu sắc văn chương đấu tranh, không bài diễn văn và cũng không có lời cảm tưởng, cảm tạ, cám ơn, v.v. chỉ làm phiền hà quần chúng đang chờ xem lễ hội.” Tuy với chung một ý nghĩa, tưởng niệm- tạ ơn tiền nhân, nhưng hình thức thể hiện lại phong phú vô cùng. Ví dụ: năm 2000 tại tháp Po Klaung Garai, phó chủ tịch tỉnh Ninh thuận đọc bài diễn văn khá dài và khá tai tiếng: “…Kate của người Cham Balamon…” để nhận được góp ý ngay từ các nhà nghiên cứu đến tham dự như: Ngô Văn Doanh, TS Nguyễn Chí Bền và nhân sĩ trí thức Cham. Kate làng tổ chức tại văn phòng của Hợp tác xã, thường có một phút mật niệm. Kate tại mỗi gia đình thì sự đa dạng và phong phú đến bất ngờ, tùy điều kiện và cảm nhận của gia chủ. Đây là sự thật vì nhiều người quan niệm rằng có lợi cho con cháu hơn là cho tiền nhân, giúp giáo dục con cháu luôn nhớ về cội nguồn không bị mất bản sắc khi đi xa quê, xa gia đình, nơi chốn thị thành nhiều cám dỗ. Quả vậy, chỉ cần đọc lại các bài mô tả và xem các DVD về Kate, ta có thể cảm nhận được không khí linh thánh của lễ hội, sự sôi động, nhộn nhịp, hoành tráng lạ thường, như không phải do con người tạo nên, chói lòa, bừng vở, lan tỏa khắp nơi từ đền tháp-xã hội- cá nhân, cộng đồng, địa phương, đất nước, vùng người Cham cư trú rất tự nhiên. Vậy thì Kate luôn là lễ hội truyền thống dân gian Champa hoành tráng, đặc sắc và độc đáo nhất Đông Nam Á, vẫn luôn hoành tráng, nhân bản, làm ngây ngất lòng người dù là Cham hay Việt hay người nước ngoài, theo như sự khẳng định của nhà Champa học, TS Phan Quốc Anh: “… lễ hội luôn diễn ra trong một không gian lớn từ các đền tháp đến làng, dòng họ và cuối cùng là gia đình. Katê cũng là dịp để người Chăm từ mọi miền đất nước trở về quê cha đất tổ để cùng đoàn tụ cùng gia đình bạn bè, dòng họ. Lễ hội Katê là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm, là tấm gương phản chiếu sinh hoạt cộng đồng; nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc. Do đó, lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính – nơi hội tụ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật của nền văn hóa Chăm mà còn gắn với những yếu tố khác của văn hóa như: đồ cúng tế, ẩm thực, y phục…Đặc biệt, đến với lễ hội Katê quí khách sẽ thưởng thức một nền âm nhạc độc đáo, với những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nước. Lễ hội còn những phần biểu diễn trước công chúng một nền ca – múa - nhạc dân gian với một phong cách riêng, độc đáo.” D/. Chúng ta cần làm gì? Đến đây thì chúng ta thấy rõ ngày lễ hội Kate là ngày giổ tiền nhân, quốc tổ, và gia tiên Champa, là di sản quý báo, lưu truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Người Cham tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ cần đoàn kết và bản sắc trên con đường phát triển và hội nhập, rất nên phát huy những gì cộng đồng mình đã đạt được. Cái khác biệt nếu có trong chúng ta là “cách nhìn nhận về Kate” mà mọi người đều có trách nhiệm. Hãy ngồi lại với nhau, tôn trọng nhau, mọi khác biệt, nếu có, sẽ tiêu tan, để cùng nhìn về một hướng. Giá như những “lễ hội Kate đó”, trong 13 năm (từ 1982 đến1995) tổ chức chung (theo Qasim), được liên tục thì cộng đồng Cham ở Hoa Kỳ có lẽ đã tiến một bước dài, có thể chúng ta đã có một đại diện Dân biểu trong chính quyền tiểu bang, và thấy nhiều đám cưới của con em Cham mình với nhau trên đất Hoa Kỳ này. Dù là Aval, Ahier, Islam, Tin Lành hay Thiên Chúa, chúng ta vẫn còn điểm chung Kate Cham, Champa. Hãy ngồi lại với nhau trước khi quá muộn, lúc chúng ta không còn gì chung để nói chuyện và cải vã nhau. Hãy vì con cháu mà cảm thông tha thứ cho nhau, điều lành sẽ đến với con cháu Champa. p\S CHAU DONG KIEU-pleirem.
0 Rating 873 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On November 25, 2014
Chào các bạn. Trong những nỗ lực phát triển website http://NguoiCham.com ( http://UrangCham.com ) để mang đến cho độc giả gần xa Cham những thông tin bổ ích, thời sự, những hoạt động của người Cham ở khắp mọi miền trên thế giới hầu để chúng ta có thể xích lại gần nhau hơn. Thì sự tương tác giữa các thành viên của website http://NguoiCham.com (NC) được quan tâm đến nhất cùng với số phận trôi nổi của tiếng Cham - một thời từng là tiếng phổ thông của Vương quốc Champa mươi mấy thế kỷ (từ năm 192 đến 1832). Như các bạn cũng biết, tiếng Cham ngày nay trong giao tiếp cơ bản giữa người Cham với nhau thường xuyên bị lai căng tiếng Việt, tiếng Anh... rất nhiều, đến độ theo cuộc khảo sát và đánh giá (không chính thức) của chúng tôi thì, khoảng chừng hơn 50 năm nữa thôi khi đến đời con cháu chúng ta, chúng nó sẽ nói chuyện với nhau bằng một thứ ngôn ngữ nào đó khác mà không phải là tiếng Cham. Lúc đó thì mặc dù người Cham vẫn còn nhưng có thể xem như đã chết. Chúng ta là những Urang Cham. Chúng ta muốn và phải làm một điều gì đó...   Mỗi mùa đi qua là mỗi sự thay đổi nhộn nhịp. Và hôm nay, NC muốn giới thiệu đến các bạn một Cuộc thi "HÁT TIẾNG CHAM" do NC tổ chức bằng hình thức online với thể lệ như sau: 1. Đối tượng tham gia: + Là người Cham khắp mọi miền  + Không giới hạn tuổi tác và giới tính. + Phải là thành viên của website http://NguoiCham.com   (Nếu bạn nào chưa đăng ký làm thành viên của NC thì hãy đăng ký ngay nhé!) 2. Loại hình nghệ thuật:  + Hát ca khúc tiếng Cham. Có thể hát dân ca, tân nhạc, nhạc ngoại lời Cham hoặc một sáng tác mới bằng tiếng Cham. 3. Cách thức dự thi: + Quay một video clip do chính bạn tự hát. Có thể quay bằng điện thoại di động, máy tính hoặc bất kỳ phương tiện nào bạn có. + Có thể song ca hoặc hát nhóm. + Video clip phải rõ mặt, nghe rõ giọng hát. + Có thể hát trên nền nhạc karaoke. Hoặc tự đàn hát. Hoặc hát chay... + Upload video clip lên YouTube rồi share link trong mục Video --> "Thi Giọng Hát" or link http://www.nguoicham.com/video/category/33/ (Vào ĐÂY để xem cách upload video vào trong NC) + Để tạo công bằng cho mọi thành viên, chất lượng âm thanh trong video clip không được qua xử lý bằng phần mềm chuyên dụng. Và không chấp nhận âm thanh được thu âm trong Phòng Thu âm chuyên nghiệp. + Mỗi thành viên NC có thể gửi nhiều video clip để tham dự cuộc thi. *** Một số nhạc karaoke các bạn có thể tải về từ đây: + mp3:  http://www.nguoicham.com/musicsharing/listen/album_115 + Videos: http://www.nguoicham.com/videochannel/category/34/ 4. Thời hạn của chương trình: Vì lý do kỹ thuật cũng như số lượng clip của thành viên tham gia quá ít, cho nên BTC quyết định lùi lại thời hạn của chương trình như ở dưới đây và mong các bạn thông cảm sự bất tiện này. + Bắt đầu từ khi có bài post này cho đến hết ngày 18/02/2015 (theo GMT +7), tức trùng vào đêm giao thừa tết Âm lịch Việt Nam. + Ngày 19/02/2015, BTC sẽ công bố kết quả trên website http://NguoiCham.com và sẽ trao giải ngay vào ngày 01/03/2015.   5. Cách thức chấm giải: + Video clip sẽ được các thành viên trong NC chấm điểm bằng cách bấm chọn ngôi sao từ 1-5 ở dưới mỗi video. + Mỗi thành viên NC chỉ được phép chấm số sao (rate) 1 lần cho 1 video clip. + Video clip nào nhận được nhiều số sao nhất sẽ giành chiến thắng cuối cùng. + Trong trường hợp có hai hoặc nhiều clip có điểm tương đương nhau thì BTC sẽ giới hạn thêm thời gian là 24h (nghĩa là cuộc thi sẽ kéo dài đến 0:00 AM ngày 02/03/2015 GMT +0). Nếu sau thời gian đó mà các video clip trên vẫn còn tương đương nhau về điểm vote thì giải thưởng sẽ bị chia đôi hoặc ba cho những bạn nhận giải. Cho nên chúng ta hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi vote cho một video clip nhé. *** Cách tính: Số điểm (số sao) = tổng số sao được rate : số lần rate. ví dụ: 1 video nhận được 3 lần rate lần lượt là 3, 4 và 5 sao thì: Số điểm = (3+4+5):3 = 4.   6. Giải thưởng: 5 giải + 1 giải nhất: 1.000.000 VND + 1 giải nhì: 500.000 VND + 1 giải ba: 350.000 VND + 1 giải sáng tạo dành cho một sáng tác mới ấn tượng: 500.000 VND (phần này do BTC chấm) + 1 giải phong cách dành cho bạn nào có giọng hát tốt và phong cách trình bày ấn tượng: 200.000 VND (phần này do BTC chấm)   +++ Chú ý: Các bạn giành giải nhất, nhì hoặc ba vẫn có thể nhận thêm giải sáng tạo hoặc phong cách, nhưng không thể nhận quá hơn 2 giải thưởng cho một người. ___________________________________ Chương trình được thực hiện nhờ sự giúp đỡ tận tình của UrangCham và cei Thạch Ngọc Xuân. Chân thành cảm ơn hai vị và xin chúc hai vị sức khỏe, an bình và sự thành đạt trong cuộc sống. Hãy chia sẻ thông tin này đến với nhiều bạn Cham của chúng ta được biết nhé!  Chúc các bạn tham gia Cuộc thi "HÁT TIẾNG CHAM" vui vẻ cùng NC! Thân, UrangCham Team   Phần tài trợ cho chương trình này: 1. Thạch Ngọc Xuân 2. UrangCham Team 3. Bá Trung Thiệu (fb: Inrachahya) NC rất mong các doanh nhân, thưong mại, hay cá nhân ủng hộ cho chương trình Thi Online liên quan đến nhiều đề tài về văn hoá, ngôn ngữ, sáng tác âm nhạc, mặc trang phục Cham trong tương lai.  Cảm ơn.     
0 Rating 842 views 3 likes 0 Comments
Read more
Mưu: Tnh ton sắp đặt, kế hoạch, mưu kế.Sự: việc.Tại: ở.Nh�n: người.Thin: Trời.Mưu sự tại nhn, thꢠnh sự tại Thin l mưu t꠭nh sắp đặt cng việc l ở nơi người, th䠠nh cng hay khng l䴠 ở nơi Trời.Gia Ct Lượng đời Tam Quốc viết:Mưu sự tại nhn, thᢠnh sự tại Thin.Nhn nguyện như thử như thử ....Thiꢪn l vị nhin vị nhi�n ....Nghĩa l:Mưu việc ở người, nࠪn việc ở Trời. người như thế như thế ....Lẽ Trời chưa vậy chưa vậy ....*Truyện xưa :Gia Cݡt Lượng tm thấy hang Hồ L,hang h촬nh giống như quả bầu, bn trong c thể chứa hơn một ngh곬n người. Đi su vo thấy hai b⠪n ni p hẹp lại, rồi lại phꩬnh ra , thm một hang nữa bn trong, cꪳ thể chứa bốn , năm trăm người. Trong cng th hai b鬪n ni p hẹp lại gần sꩡt nhau, chỉ hở một kẽ, đi lọt một người một ngựa. . .GCL ngầm sai M Đại dựng trại gỗ trong hang Hồ L. B㴪n trong trại, đo rnh s࣢u, chứa rất nhiều củi kh v thuốc ph䠡o. Chung quanh, bn trn nꪺi th giả đo nh젠 hầm, lấy củi nỏ cỏ kh chứa bn trong, trong ngo䪠i đều chn địa liGCL dặn M䴣 Đại : ‘‘Hy đem đất đ lấp kẽ n㡺i sau hang. Nếu TMY đuổi đến, cứ để cho n vo hang, rồi truyền qu㠢n nổi lửa đốthết nỏ cỏ kh, cho địa li b䴹ng ln’’GCL lm cho TMY tưởng rằng Hồ L꠴ (Thượng Phương) l nơi qun Thục chứa lương, rồi sai Ngụy Diࢪn khiu chiến cốt dụ TMY vo hang Hồ L꠴.Quả nhin , TMY ‘‘trng kế’’, sai c꺡c tướng đi đnh trại lớn Kỳ Sơn của GCL, cn mᲬnh th cng với hai con đến Hồ L카 để đốt lương qun Thục, sai Trương Hổ Nhạc Lm , mỗi tướng đem 5000 qu⢢n theo sau hỗ trợ. TMY đến gần hang th gặp Ngụy Din. Ngụy Di쪪n rước đnh , TMY cũng vung gio đᡡnh Ngụy Din, Din giả thua bỏ chạy, rồi chạy tuốt vꪠo hang.TMY sai thm tử vo quan sᠡt trước, nghe bo khng cᴳ g khả nghi, ba cha con TMY cng qu칢n sĩ bn vo hang . Thế rồi :...Những b蠳 đuốc chy hừng hực, lao đến, đốt chặn tuyệt cửa hang. Qun Ngụy hết cả lối chạy. Rồi từ trᢪn ni chung quanh, v số t괪n lửa bắn xuống. Địa li nổ tung từng đm đất. C䡡c dy nh cỏ bốc ch㠡y.. . . bỗng trn trời nổi cuồng phong ầm ầm, my đen kꢩo đến tối tăm m mịt, rồi trời đổ cơn mưa như trt nước. C麡c đm lửa trong hang tắt ngấm một lọat Thuốc pho hết truyền, địa lᡴi ngừng nổ.TMY h qun gắng sức đ䢡nh ph vng vᲢy ở cửa hang. Bấy giờ vừa vặn c Trương Hổ Nhạc Lm đến tiếp ứng , hai mặt c㢹ng đnh, TMY thot được ra ngoᡠi. M Đại t qu㭢n, khng đuổi đnh. TMY chạy về đến trại lớn Vị Nam th䡬 qun Thục đ chiếm trại ! Qu⣡ch Hoi, Tn Lễ thബ đang chiến đấu , giữ cầu phao, TMY thc qun đến trợ chiến, quꢢn Thục bn lui. TMY chạy qua sng, rồi lập tức đốt cầu phao, giữ bờ ph购a BắcCn đại binh Ngụy đang đnh trại Thục ở Kỳ Sơn, nghe tin TMY đại bại, nhốn nh⡡o chạy, bị qun Thục rượt đnh : mười phần bị thương đến t⡡m chn ( !!!) , bị giết v số ( !!!). Ai sống s�t chạy qua bờ pha Băc . . .GCL đứng trn n�i, khi thấy trời đổ mưa cứu TMY , than một cu rất nổi tiếng : ‘‘Mưu sự tại nhn, th⢠nh sự tại thin !’’Sau đ, GCL đi về T곢y đến đng qun ở Ngũ Trượng Nguy㢪n*Tuy rằng thnh sự tại thin, song nếu kh઴ng mưu sự th ắt khng thể th촠nh sự được. Trước những sự việc, con người nn c kế hoạch chặt chẽ v고 c tầm nhn d㬠i hạn. Cn kết quả cn phụ thuộc vⲠo sự sắp đặt của trời. Nếu thnh cng thബ chớ nn khoe khoang rồi sinh tự kiu. Cꪲn nếu thất bại cũng khng nn tuyệt vọng , mất tr䪭 m nn lấy đળ lm kinh nghiệm để mưu sự sau n
0 Rating 840 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 5, 2015
Ts. Po Dharma Đại Hội Champa 2015 là diễn đàn dành cho thanh niên Chăm để định hướng lại thế nào là vai trò của họ đối với sự sống còn của dân tộc Chăm trong thế kỷ thứ 21. Trên diễn dàn có nhiều bài phát biểu, trong đó có bài phát biểu bằng tiếng Anh của Pgs. Ts. Po Dharma, một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử và nền văn minh Champa mà chúng tôi chuyễn ngữ sang tiếng Việt.     Những biến cố quan trọng trong lịch sử Champa   Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)   Champa là một vương quốc cổ chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, nằm ở miền Trung Việt Nam kể từ thế kỷ thứ 2. Vương quốc Champa theo thể chế liên bang, tập trung 5 tiểu vương quốc: Inrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Dân tộc Champa bao gồm dân tộc Chăm ở vùng đồng bằng và người Tây Nguyên sinh sống ở miền cao. Mỗi dân tộc thường đóng một vai trò riêng biệt trong hệ thống tổ chức chính trị và xã hội của quốc gia này.   Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, dân tộc Chăm Việt Nam có hơn 160 000 người và Chăm ở Campuchia, khoảng 200 000. Riêng về người Tây Nguyên, dân số ước tính khoảng hơn một triệu người.   Tổ chức chính trị và xã hội   Trong suốt chiều dài của lịch sử, vương quốc Champa chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh riêng biệt. Trước 1471, tức là năm đánh dấu ngày thất thủ thành Đồ Bàn (Vijaya) trước đoàn quân hùng mạnh của Việt Nam, Champa là vương quốc hoàn toàn theo nền văn minh Ấn Giáo, từ phong cách sinh hoạt xã hội, cách cấu trúc gia đình hoàng gia cho đến hệ thống tổ chức tín ngưỡng và ngôn ngữ Phạn. Sau 1471, Champa tìm cách xa lánh dần dần những yếu tố văn hóa và tôn giáo vây mượn từ Ấn Độ để tạo cho mình một nền văn minh mới dựa vào các yếu tố mang tính cách bản địa của tiểu vương quốc Panduranga, pha trộn với nền văn hóa Hồi Giáo do người Mã Lai mang đến kể từ thế kỷ XVI.   Lịch Sử   Trong suốt 800 năm tồn tại từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 10, Champa là một quốc gia hòa bình và thịnh vượng. Sự ra đời của trung tâm Ấn Giáo vô cùng đồ sộ ở Mỹ Sơn (thế kỷ thứ 4-13) được UNESCO công nhận vào năm 1999 là di sản văn hoá của nhân loại và công trình xây dựng nhiều cơ sở Phật Giáo ở Đồng Dương (thế kỷ thứ 8-9) cho thấy rằng Champa là vương quốc có nền văn minh cao độ.   Sự chuyển mình của Việt Nam trên bàn cờ chính trị ở Đông Dương sau ngày độc lập vào cuối thế kỷ thứ 10, là móc ngoặc mới cho tương lai của vương quốc Champa. Kể từ đó, lịch sử của Champa hoàn toàn bị chi phối bởi các cuộc chiến đẫm máu chống lại chính sách mở rộng đât đai về phía nam của dân tộc Việt.   Năm 1069 đánh dấu sự thất bại đầu tiên của Champa trước cuộc nam tiến của Việt Nam. Vào năm đó, Việt Nam đã thành công thôn tính lãnh thổ của Champa nằm ở hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị.   Trong suốt 237 năm đấu tranh để khôi phục lại lãnh thổ bị chiếm đóng vào năm 1069, vương quốc Champa không đạt đến mục tiêu, nhưng cũng không mất một tắt đất đai của mình. Tiếc rằng, vì lời hứa kết hôn với công chúa Huyền Trân, vua Jaya Simhavarman III chấp nhận giao nhượng cho Việt Nam vào năm 1306, một phần lãnh thổ của mình nằm trong khu vực Thừa Thiên-Huế.     Một thế kỷ rưỡi sau đó, tức là vào năm 1471, Việt Nam phát động một chiến dịch quân sự hùng mạnh nhằm tiêu huỷ thủ đô Vijaya (Bình Định), tức là trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo của vương quốc Champa và di dời biên giới phía nam của mình đến đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên).   Từ trái sang phải: Sary (Châu Đốc), Po Dharma, Farina So (Campuchia), Châu Văn Triển (Ninh Thuận), Từ Công Thu (Ninh Thuận), Gs. Coroline Valverde   Theo chúng tôi, sự thất thủ thành Đồ Bàn vào năm 1471 không đánh dấu cho sự suy vong của vương quốc Champa, mà là sự sụp đổ của nền văn minh Ấn Giáo đã từng thống trị đời sống chính trị và tâm linh của dân tộc Champa trong suốt 13 thế kỷ.   Và sau ngày thất thủ Vijaya vào năm 1471, cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt phải đối mặt với sự kháng cự vô cùng mãnh liệt của nhân dân Panduranga, một tiểu vương quốc nằm phía nam của Champa. Bởi vì Việt Nam phải mất hơn ba thế kỷ rưỡi để chiếm trọn lãnh thổ đất đai của tiểu vương quốc nhỏ bé này.             Năm 1611, Việt Nam xua quân xâm chiếm Phú Yên và tiến vào Nha Trang vào 1653. Ba năm sau, tức là năm 1658, Việt Nam chiếm đóng Saigon và đưa đẩy Champa vào một tình thế địa dư mới: Vương quốc Champa đã trở thành một vùng trái độn nằm ngay trong lãnh thổ của Việt Nam.   Năm 1692, Việt Nam mở thêm cuộc tấn công chống lại vương quốc này, thay đổi tên gọi Champa (Chiêm Thành) thành Trấn Thuận Thành và biến Champa thành quốc gia đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Huế.   140 năm sau, tức là năm 1832, hoàng đế Minh Mệnh quyết định xóa bỏ danh xưng Champa trên bản đồ Đông Dương và khởi động chiến dịch tiêu diệt dân tộc Champa vô cùng dã mang và tàn bạo về tội theo Lê Văn Duyệt để chống lại triều Huế.   Vào năm 1841, hoàng đế Thiệu Trị bãi bỏ chính sách của vua cha (Minh Mệnh) đối với người Chăm và ban cho dân tộc này một qui chế tự trị dưới lá cờ của Huyện Thổ Dân, tức là huyện dành riêng cho người Chăm bản địa.   Tình hình sau năm 1832   Vào cuối thế kỷ XIX, chính quyền Pháp ở Đông Dương đưa ra chính sách nhằm bảo vệ dân tộc Tây Nguyên và Chăm trước mối đe dọa của sự diệt chủng. Ngày 27-5-1946 chính quyền Pháp hình thành “ Quốc gia người Thượng ở miền nam Đông Dương” (Pays Montagnard du Sud Indochinois-PMSI), tức là lãnh thổ tự trị dành dành cho dân tộc Tây Nguyên, đặt dưới quyền kiểm soát của chính phủ Pháp thuộc.   Ngày 21-5-1951, “Quốc gia người Thượng ở miền nam Đông Dương” trở thành khu vực “Hoàng Triều Cương Thổ” của triều đình Huế, nhưng hưởng quyền tự trị đặt dưới quyền chỉ đạo của chính phủ Pháp.   Cũng vào thời điểm đó, dân tộc Chăm trở thành cộng đồng đặt dưới quyền cai trị của chính phủ Pháp ở Đông Dương, theo Hiệp ước Harmand đã ký vào ngày 25-8-1883 tại Huế. Theo hiệp ước này, người Chăm nộp thuế trực tiếp cho chính phủ Pháp và có một lãnh thổ tự trị do người Chăm quản lý.   Năm 1955, Ngô Đình Diệm lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam, đưa hàng trăm ngàn người Việt lên định cư ở vùng cao nguyên Champa. Biến cố này đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tồ chức xã hội và gia đình của người dân bản địa, kéo theo những cuộc xung đột hàng ngày giữa hai dân tộc: Việt và Tây Nguyên.   Trước sự hiện diện quá đông đảo của người Kinh trên cao nguyên, người Thượng và Chăm tìm cách vùng dậy để bảo vệ lợi ích kinh tế và quyền tự quyết của mình dưới ngọn cờ của phong trào Bajaraka ra đời vào năm 1955 và tổ chức vũ trang Fulro vào năm 1964.   Để giải quyết những yêu sách của Fulro, chính quyền Sài Gòn công nhận phong trào Fulro là một lực lượng đấu tranh chính trị có pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người dân bản địa. Ngày 16-12-1967, chính quyền Sài Gòn ký nghị định hình thành Bộ Phát Triển Sắc Tộc có trách nhiệm điều hành các chương trình có mối liên hệ với dân tộc Tây Nguyên và Chăm, và chấp nhận Bộ Trưởng của Bộ Phát Triển Sắc Tộc là người bản địa đã từng tham gia trong phong trào Fulro. Thông qua chính sách này, dân tộc Tây Nguyên và Chăm có cơ hội để làm chủ trên định mệnh của mình, tìm lại bản sắc chính trị, văn hóa và nhân phẩm của họ với tư cách là người dân bản địa.   Tình hình dưới chế độ cộng sản   Năm 1975, đoàn quân miền bắc chiếm đóng miền nam và xây dựng chế độ theo chủ nghĩa cộng sản. Biến cố này đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, đạo đức và tâm linh của dân tộc Tây Nguyên và Chăm.   Trước năm 1975, dân tộc Tây Nguyên và Chăm sống chủ yếu về ngành nông nghiệp và hưởng qui chế tự trị. Cũng nhờ qui chế đặc biệt này, dân tộc Tây Nguyên và Chăm làm chủ tuyệt đối trên nền kinh tế của mình và nắm sẳn trong tay bao quyền lực để phát triển các cấu trúc xã hội và gia đình của họ và sống một cuộc sống thanh bình và thịnh vượng.   Vừa nắm chính quyền vào năm 1975, chế độ cộng sản quyết định xoá bỏ quyền sở hữu của người Thượng và Chăm, tịch thu tất cả đất đai tư nhân và cộng đồng của dân tộc này nhưng không bồi thường một cách thỏa đáng những tài sản của họ bị tịch thu.   Đối với người Chăm và Tây Nguyên, quốc hữu hóa đất đai của dân tộc bản địa không phải là cuộc cải cách đất đai để xóa bỏ sự độc quyền về kinh tế, mà là hành động cướp đoạt tài sản của họ bằng vũ lực một cách trắng trợn.   Sống trong chế độ không công ăn việc làm và cũng không có quyền sở hữu đất đai, người Chăm và người Thượng trở thành tập thể đang lâm vào cảnh nghèo đói và bần cùng.Tình hình kinh tế thảm khốc này đã buộc các giới thanh niên bản địa rời khỏi thôn làng để tìm công ăn việc làm trong các thành phố lớn. Lợi dụng cơ hội này, các công ty Việt Nam không ngừng tìm cách biến giới thanh niên Chăm và Tây Nguyên trở thành tập thể nô lệ của thời đại mới: nộ dịch vô cùng vất vả với đồng lương vô cùng thấp, nhưng còn bị đối xử tồi tệ và không có bảo hiểm y tế một khi bệnh tật hay gặp tai nạn.   Người dân bản địa vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Để tìm miếng cơm sống qua ngày,người Chăm và Tây Nguyên phải tìm cách vây mượn tiền bạc người Kinh để phát triển kinh tế với số lãi vượt hơn 100% hàng năm. Vì không có phương tiện để trả nợ, người dân bản địa chỉ còn có cách là mang cả đất đai và tài sản của mình để nộp cho chủ nợ người Kinh.   Nghèo đói và bần cùng là hai yếu tố có tầm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và nền giáo dục của những người Thượng và Chăm. Đối với dân tộc này, mối quan tâm chính của họ không phải là vấn đề giáo dục đối với con em của họ, mà là làm thế nào để tìm được 15.00 đola mỗi tháng hầu nuôi gia đình.   Sống trong một đất nước mang danh nghĩa là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, người Chăm và Tây Nguyên không được hưởng qui chế bảo hiểm xã hội một khi lâm vào bệnh tật hoặc tai nạn. Để được có giấy phép vào bệnh viện, người Thượng và Chăm phải nộp trước tiên tiền lệ phí đăng ký, chi phí thuốc men và giường ngủ. Nếu không có phương tiện tài chính, người dân bản địa không có quyền hưởng sự chăm sóc thuốc men cần thiết, một khi lâm vào bệnh tật.   Trong lúc các cuộc cải cách ruộng đất đang tiến hành vào năm 1975, nhà nước Việt Nam tung ra hàng loạt bộ máy cải tạo nhằm biến người Tây Nguyên và Chăm thành tập thể vô sản, luôn luôn trung thành với chế độ cộng sản. Chính quyền Hà Nội còn ngân cấm những người dân bản địa phát triển di sản văn hóa và tôn giáo của họ mà Đảng Cộng sản xem đó là các tập tục mê tín dị đoan.   Việt Nam là quốc gia theo chế độ độc tài và đảng trị, ngân cấm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp. Những nhà bất đồng chính kiến luôn luôn bị sách nhiễu, hăm dọa, tra tấn và bỏ tù. Đối với chính quyền Hà Nội, dân tộc Chăm và Tây Nguyên chỉ là thành phần ủng hộ chế độ cũ Sài Gòn, là nhóm đánh thuê cho quân đội Mỹ và là những kẻ phản động theo tổ chức Fulro. Chính vì nguyên nhân đó mà hai dân tộc bản địa này đã trở thành nạn nhân đầu tiên của chế độ cộng sản.   Đàn áp tôn giáo, hạn chế tự do, hoàn cảnh nghèo đói và bần cùng đã trở thành yếu tố cơ bản giải thích cho những cuộc vùng dậy lớn của những người Tây Nguyên vào năm 2001 và 2004 nhằm chống lại chính sách của Hà Nội, kéo theo phong trào di dân lớn của người Thượng sang Campuchia.   Ts. Po Dharma đang ký tặng tác phẩm Lịch sử Champa     Kết Luận   Việt Nam là quốc gia đã ký vào Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về “Quyền của dân tộc bản địa”, được thông qua vào năm 2007. Kể từ khi ban hành Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Hà Nội chưa thực hiện một dự án gì để cải thiện tình hình của dân tộc Chăm và Tây Nguyên bản địa tại quốc gia này.   Hôm nay, Việt Nam vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại rằng người Chăm và Tây Nguyên hôm nay chỉ là thành phần dân tộc thiểu số, chứ không phải người dân bản địa, mặc dù hai dân tộc này đã có mặt ở miền Trung Việt Nam kể từ thế kỷ thứ hai. Thái độ này đã chứng minh rằng chữ ký của Việt Nam trên bản Tuyên Ngôn về "Quyền của dân tộc bản địa" chỉ là hiệp ước quốc tế không có giá trị gì.   Sau năm 1975, các cơ cấu tổ chức kinh tế, xã hội và gia đình của người Tây Nguyên và Chăm đang đối mặt với bao sự thay đổi, kể từ khi cộng sản lên nắm chính quyền. Thêm vào đó, chính quyền Hà Nội xoá bỏ quyền tự quyết dành cho người Tây Nguyên và Chăm được ban hành dưới thời Việt Nam Cộng Hoà. Việc bãi bỏ qui chế đặc biệt này không cho phép người dân bản địa có quyền tự do phát triển hệ thống kinh tế, xã hội, gia đình và văn hóa của họ nữa.   Vì quá đơn phương đối mặt với chính sách “Việt Nam hóa” của chế độ cộng sản, không ai có thể tiên đoán rằng liệu dân tộc Tây Nguyên và Chăm có thể tồn tại với tư cách là người dân bản địa tại Việt Nam trong những thập niên sắp tới của thế kỷ 21 này. theo Champaka.info
0 Rating 836 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 27, 2013
NHỚ VỀ ANH VIỆT DZŨNGĐang chuẩn bị đón mừng Giáng sinh. Nghe tin Nhạc sĩ Việt Dzũng vừa mới mất đã làm cho mọi nguời hụt hẩn bàng hoàng xúc động trên khắp các trang mạng xã hội facebook tin tức về anh đã làm chấn động khắp mọi nơi trên toàn cầu. Những tin tức dồn dập được SBTN đưa lên đã gây cú sốc lớn cho cộng đồng nguoi viet hải ngoại, về Người Ca nhạc sĩ tài hoa vừa mới ra đi . Khắp mọi nơi đang thương tiếc về anh một sự ra di mất mát quá lớn cho cộng đồng nguời Việt hải ngoại . Một nguời con đất Việt đa tài đa năng trong mọi lĩnh vực vừa bỏ chúng ta ra đi.MỘT KỶ NIỆM KHÓ QUÊN Ngoài việc phục vụ đóng góp cho cộng đồng Việt Nam , Việt Dzũng còn gắng bó với cộng đồng nguời Chăm Hải ngoại . 12 năm về trước một lần CHẾ LINH tổ chức Chương trình Văn nghệ " ĐÔNG DƯƠNG NHẠC HỘI" năm 2001 Tại thành phố San Jose .  Hai anh em chúng tôi quen biết nhau từ ngày gặp gở ấy . Tôi có tặng cho anh Việt Dzũng cái áo truyền thống của nguời chăm để anh làm MC  trong chương trình " ĐÔNG DƯƠNG NHẠC HỘI "  khi được nhận cái áo tôi tặng anh Việt Dzũng nói rằng  . Khi Anh khoát cái áo nguời chăm lên em phải gọi anh là "CHẾ DZŨNG " nhé . Ôi thật là thân thương . Tôi vui mừng vì có nguời cùng đồng cảm với Dân Tộc tôi . Thế là tôi gọi anh CHẾ DZŨNG từ dạo ấy mỗi lần khi gặp anh . Mỗi dịp Xuân về gia đinh chúng tôi cũng thường đến tham dự hội xuân tại San Jose , gặp anh CHẾ DZŨNG chúng tôi cùng vui mừng chào thăm hỏi thân mật như tình thân trong đại gia đình Việt  Nam .Thật là hãnh diện khi được quen biết anh và có những kỷ niệm nhỏ trong đời. Anh Việt Dzũng ra đi đã để lại sự tiếc thương trong lòng mọi nguời .  Bao nhiêu năm miệt mài xãy dựng . Di sản của anh thật là phong phú cũng để lại cho thế hệ nối tiếp chúng ta hãy cùng nhau vung đắp theo con đường và ước mơ của anh.Thay mặt cho Hội truyền thống văn hoá Champa tại thủ phủ Sacramento . Cùng hội Văn hoá nghệ thuật thế giới tại CANADA Của Chể Linh.Xin gữi lời phân ưu chia buồn cùng tang quyến . Chúng tôi bày tỏ nỗi đau mất mát cùng lòng tiểc thương trước sự ra đi đột ngột của anh . Xin chia buồn cùng trung tâm Asia và Đài truyền Hình SBTN và cộng đồng người Việt hải ngoại . Chúng tôi muôn vàn thương tiếc den anh  . Xin thành tâm cầu nguyện cho linh hồn và cầu chúc hương hồn anh sớm về nơi yên nghĩ trong vòng tay yêu thương của thiên chúa .Thành kính phân ưuThạch ngọc xuân
0 Rating 808 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 8, 2016
+Văn hoá Sa Huỳnh Khu vực ven biển miền Trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình Thuận và một phần Tây Nguyên từ lâu đã là địa bàn sinh tụ của các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo - Polynesien, trong đó người Chăm là đông nhất.   Phát hiện khảo cổ học về các khu cư trú và mộ táng của người cổ ở vùng này cho thấy có một trung tâm nông nghiệp trồng lúa thuộc thời đại kim khí phát triển từ tiền Sa Huỳnh tới Sa Huỳnh với các giai đoạn văn hóa Xóm Cồn (Khánh Hòa), văn hóa Long Thạnh, văn hóa Bình Châu và văn hóa Sa Huỳnh liên tục cách ngày nay khoảng 3.500 - 2.200 năm. Thời tiền Sa Hùynh, cư dân cổ tại đây sở hữu những đồ đất nung gồm chum, vò hình trứng có nắp đậy trang trí hoa văn thừng, khắc vạch… được tô màu, miết láng. Thời Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) cư dân đã có nhiều nghề cơ bản: đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, dệt vải, nấu thủy tinh, chế tạo đồ trang sức và buôn bán thương mại mà di vật còn lại là các loại khuôn đúc đồng, xỉ đồng, công cụ và vũ khí bằng sắt, đồ trang sức bằng đá quý, thủy tinh trong đó có vật đeo hai đầu thú, các loại khuyên tai đa dạng: loại khối tròn phía ngoài có 3 mấu hình tam giác, loại tròn phình quăn như con đỉa… làm bằng đất nung, đá quý hoặc thủy tinh, kim loại đồng… và đồ gốm với các hình dạng, hoa văn đặc trưng: bát chân cao có hai lỗ dưới chân trang trí văn chấm dải, nồi miệng loe có hai lỗ trên cổ… đặc biệt là tục chôn người chết trong các loại vò gốm [51, tr.11] với đủ loại đồ tùy táng như đồ trang sức, đồ gốm, vũ khí… được chế tác tinh xảo. Văn hóa Sa Huỳnh được xem là tiền đề của văn hóa Champa. Bát chân cao:  Bát được tạo hình như một chiếc đĩa bồng chân cao hơi loe nhưng đường kính chân chỉ nhỏ bằng nửa so với miệng bát. Vành miệng có thành hơi xiên. Bát được nặn bằng tay, nung nhẹ lửa, văn chấm dải. + Văn hoá Chămpa (TK II- TK XVII) Năm 179 tr. CN, mảnh đất miền Trung - Sa Huỳnh cùng chung số phận với Âu Lạc - Đông Sơn khi Triệu Đà xâm lược. Năm 111 tr. CN, miền đất này thuộc nhà Hán, được gọi là quận Nhật Nam. Nhưng cùng với nhân dân Giao Chỉ và Cửu Chân ở phía Bắc, nhân dân Nhật Nam nhiều lần khởi nghĩa đòi quyền độc lập và đã trở thành bộ phận đầu tiên giành được độc lập: Năm 192, Khu Liên (Srimara?) lãnh đạo nhân dân huyện Tượng Lâm thuộc Nhật Nam đuổi được quân Hán thành lập nước với tên gọi là Lâm Ấp có nghĩa là xứ rừng. Đến TK VII, Sambhuvarman (Phạm Chí) khẳng định tên nước là Champa mà thủ đô trước đó ở Sinhapura (Trà Kiệu). Tuy nhiên người Trung Quốc lại gọi Champa là nước Hoàn Vương (758 - 859) và sau đó gọi là nước Chiêm Thành. Lịch sử Champa hiện nay còn nhiều điểm chưa rõ ràng nhưng về đại thể có thể chia làm các giai đoạn như sau:  - Giai đoạn Sinhapura - Trà Kiệu (192 - 750): bước đầu thống nhất.  - Giai đoạn Virapura (750 - 850): khẳng định vị thế.  - Giai đoạn Indrapura - Đồng Dương (850 - 982): bắt đầu phát triển  - Giai đoạn Vijaya - Bình Định (982 - 1471): thịnh đạt và đi vào khủng hoảng.  - Từ năm 1471, khi bị vua Lê Thánh Tông chia làm 3 nước nhỏ, vương quốc Champa chấm dứt sự tồn tại. Sau đó, các chúa Nguyễn Đàng Trong dần kiểm soát đất đai còn lại của Champa, năm 1693, kiểm soát miền đất cuối cùng Phan Rang - Bình Thuận. Tuy nhiên người Chăm vẫn được chúa Nguyễn và nhà Nguyễn phong vương kéo dài đến năm 1822 khi vua Chăm cuối cùng là Po Chơn Chan bỏ sang Campuchia thì vương triều Champa thật sự chấm dứt.  Dân tộc Chăm cơ bản được hình thành từ hai thị tộc: Cau (Caramukar) ở phương Nam và Dừa (Narikelanamsa) ở phương Bắc. Về không gian sinh tồn, vương quốc Champa có 5 vùng: Amaravati tương ứng với Quảng Bình - Huế, Indrapura (Quảng Nam – Đà Nẵng), Vijaya (Quy Nhơn – Bình Định) với kinh đô là thành Chà Bàn (Đồ Bàn), Kauthara (Khánh Hòa), Pandurangar (Bình Thuận – Đồng Nai).  Qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Champa đã xây dựng nên một nền văn hóa độc đáo mang đậm tính bản địa và chịu ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ trong đó chủ yếu là Bà la môn giáo và Phật giáo. Trong đạo Bà la môn, người Chăm tôn thờ Shiva trong tam vị nhất thể, Vishnu và Brahma ít quan trọng hơn. Từ khoảng thế kỷ XI đạo Hồi xuất hiện trong cộng đồng Champa.  Champa đã để lại một khối lượng di tích và di vật rất lớn về kiến trúc, điêu khắc đá, các loại đồ đồng, đồ gốm, đồ thờ cúng bằng vàng, bạc, các loại đồ trang sức… các loại hiện vật này phản ánh những nét sinh hoạt trong xã hội Champa xưa, từ đời thường đến tôn giáo và cung đình, chúng có giá trị về nhiều mặt, nhất là về nghệ thuật. Đặc biệt có một quần thể kiến trúc đền tháp thuộc tôn giáo của Chămpa ở Mỹ Sơn (Quảng Nam) còn gọi là “thánh địa Mỹ Sơn” được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới vào tháng 12 năm 1999. Ngoài ra, người Chămpa còn để lại các di sản ca múa nhạc thể hiện một phần trên điêu khắc đá: các tượng vũ công hoặc người chơi nhạc cụ.  - Kiến trúc Champa chủ yếu là các loại đền tháp (kalan) bằng gạch được xây dựng theo một kỹ thuật đặc biệt với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo trên gạch. Trong quá trình tồn tại, người Champa đã xây dựng hàng trăm đền tháp nhằm thờ cúng thần và các vị vua, tuy nhiên khi người Champa suy yếu các tháp đã bị bỏ hoang và bị phá hoại nghiêm trọng, hiện nay còn lại khoảng 70 tháp, rải rác ở Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Đaklak... tập trung nhiều ở Quảng Nam, nhất là Mỹ Sơn nơi được coi là vùng đất thánh dùng xây đền tháp thờ các vị vua đã qua đời mà mỗi vị vua được xây dựng một cụm kiến trúc gồm 4 tháp (tháp cổng, tháp nước, tháp lửa và tháp thờ). Tháp Chăm thường có mặt bằng vuông, dùng gạch làm vật liệu xây dựng chính, chỉ có một ít bộ phận bằng đá như mi cửa, trụ cửa, bậc cửa. Mỗi tháp có ba tầng, nhỏ dần khi lên cao theo dạng núi Meru - nơi trú ngụ cùa các thần Bà la môn, tháp chỉ mở một cửa chính hướng về phía Đông, 3 cửa còn lại đóng kín. Theo quan niệm của người Chăm thì hướng Đông là hướng của thần linh, Bắc là hướng của ma quỷ, Tây Nam là hướng của dân chúng nên nhà cửa của người Chăm thường mở cửa về hướng Tây Nam.  - Điêu khắc đá Champa là một bộ môn nổi tiếng được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX. Các nhà nghiên cứu đã định ra được các phong cách tạo hình của Champa từ giai đoạn trước TK VII (chịu ảnh hưởng nghệ thuật Amaravati của Ấn Độ) cho tới giai đoạn nửa sau TK VII trở đi, đã tạo ra được những nét riêng của điêu khắc đá Champa qua 8 loại phong cách: Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chánh Lộ, Tháp Mắm, Yang Mun, Pô Rô Mê. Hiện nay sưu tập điêu khắc Champa tập trung ở các Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, Bảo tàng Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Tổng hợp Huế, Bảo tàng Bình Định và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –Tp. HCM. Nghệ thuật điêu khắc Champa rất phong phú với nhiều tác phẩm phù điêu, tượng tròn gắn với sinh hoạt tôn giáo Bà la môn, trên những tác phẩm này thường bắt gặp nét chủng tộc, y phục, trang sức Chăm hòa trộn với hình ảnh các vị thần Bà la môn, hoặc những nét tả thực cũng như cách điệu thể hiện trong hình ảnh con người, loài vật… hết sức sinh động. - Nữ thần Devi: Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt mở to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên một cảm giác thánh thiện. Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija kula hara Devi, là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương, triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ, nên sau khi mất bà được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng tháp thờ.    - Thần Shiva: Shiva là thần Bà la môn giáo được người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao. Khoảng TK IV, sự tôn thờ Shiva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi vua Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Shiva gọi là Shiva giáo mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Shiva vừa mang tính hủy diệt vừa mang tính sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn loài vừa là phúc thần bảo vệ đời sống của cư dân Champa. Shiva thường thể hiện dưới dạng một nam nhân có ba con mắt với mắt thứ ba ở giữa trán, ba mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, ngọn lửa thế gian, và có thể nhìn thấy hết quá khứ, hiện tại, tương lai. Tay Shiva có khi cầm đinh ba biểu tượng cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu biểu hiện cho sự tuyệt đối hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một tay ban phúc lành. Shiva cũng là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó, khác nào như biển là nơi qui tụ tất cả mọi dòng nước trong, nước đục.  Biểu tượng của Shiva là Linga. Linga cũng là biểu hiện của tam vị nhất thể với chỏm đầu hình cầu tròn là Shiva, phần giữa là Vishnu có tám cạnh và phần cuối là Brahma có bốn cạnh. Chiếc Linga đầu tiên xuất hiện dưới triều vua Bhadravarman thế kỷ IV. Nhà vua cho xây tại thánh địa Mỹ Sơn một đền thờ thần Shiva Bradravarman, mà biểu tượng là một Linga. - Thần Ganesha: Là con của Shiva và Parvati, được thể hiện dạng đầu voi mình người với cái bụng to ăn quá no bị vỡ phải quấn con rắn Naduki bó lại. Theo thần thoại Ấn Độ, thần Ganesha có đầu voi là vì do trong một cơn nóng giận, Shiva lỡ chặt mất đầu Ganesha. Ngay sau đó Shiva sửa chữa sai lầm bằng cách lập lời nguyền sẽ lấy đầu kẻ nào gặp trước tiên để gắn vào thân hình Ganesha cho Ganesha sống lại, nhưng sinh vật mà Shiva gặp đầu tiên sau khi chém con mình lại là một chú voi nên Ganesha đành mang đầu voi mình người. Ganesha được coi là thần tài, thần hạnh phúc. Ở những quốc gia theo Ấn giáo, Ganesha rất được sùng kính. Ganesha Chăm được thể hiện như trong thần thoại với tư thế ngồi, đầu đội vương miện, có con mắt thứ ba giữa trán,bụng cuốn con rắn Naduki. Tượng bị mất cả 2 cánh tay.   - Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, TK X - XI) Sư tử, người Chăm gọi là “Rimon”, là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc biệt là ở kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử) - Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu. Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức.  - Đồ gốm: Nghề gốm ở Champa ít được biết đến. Khoảng nửa cuối TK XX mới có một số công trình đề cập về gốm Champa nhưng từ đó đến nay những hiểu biết về dòng gốm này vẫn còn ít ỏi so với lãnh vực kiến trúc và điêu khắc của vương quốc Chămpa. Tuy nhiên điều chắc chắn là đã từng tồn tại những lò gốm cổ trong địa bàn cư trú của người Chăm ở Bình Định như các lò Gò Sành, Gò Hời, Gò Trường Cửu, Gò Cây Me, Gò Ké… mà niên đại thuộc thời Vijaya. Điểm quan trọng khác là sản phẩm loại gốm này chủ yếu được phát hiện trong những công trình khảo cổ không những ở Hoa Lư, Thăng Long thuộc Đại Việt, Đại Làng, Đại Lào (Lâm Đồng) mà còn tìm thấy trên con tàu đắm ở Padanan (Philippine), ở cảng Altur thuộc bán đảo Sinai (Trung Cận Đông) [31, tr.236-242] … Điều đó cho thấy gốm Champa thực sự là một loại sản phẩm có chất lượng được tin tưởng sử dụng ở ngoài Champa. Đây có lẽ cũng là một dạng gốm xuất khẩu mà không sử dụng trong nội địa tương tự như gốm Chu Đậu Việt Nam thời Lê.   Sản phẩm gốm Champa rất đa dạng từ các loại gạch, ngói, vật trang trí phục vụ việc xây đền tháp, thành trì hoặc kiến trúc nhà ở cho đến các loại đồ đựng như bát đĩa hũ chóe, âu, bình, vò... Gốm đồ đựng Champa có nét riêng về dáng kiểu và đặc biệt là màu men với các loại men nâu ngả đen, da lươn, men ngọc, men sắt… mà bao giờ phần chân hiện vật cũng được để mộc. Gốm đồ đựng Champa được trang trí kiểu khuôn in, đắp nổi hoặc khắc vạch với những họa tiết hoa sen, dây lá, hình kỷ hà, sóng nước, mặt Kala… cho thấy đây là những thủ pháp trang trí đặc thù của các loại men độc sắc TK XIII - XIV trước khi xuất hiện gốm men xanh trắng. - Lokesvara (Thế tự tại Bồ tát) Người Champa xem Lokesvara là hình thức thể hiện sự kết hợp giữa Shiva (Bà la môn giáo) và Avalokitesvara (Phật giáo) với hình tượng nam nhân, được thờ phổ biến nhất tại vùng Indrapura (Đồng Dương - Quảng Nam), nơi đây tìm thấy nhiều tượng Lokesvara bằng kim loại (đồng, vàng, mạ vàng hoặc bạc) đa số được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM và Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Lokesvara được thể hiện trong tư thế đứng hoặc ngồi, ngực nở eo thon, mang nhiều trang sức ở tai, cổ, bắp tay, cổ tay, cổ chân… khuôn mặt đầy đặn. Đôi mắt mở, tóc búi cao có miện chạm Avalokitesvara. Tượng thường có hai tay, cầm hoa sen, chuỗi hạt hoặc bình nước cam lồ. Nghệ nhân Champa đã thể hiện Lokesvara với ý nghĩa thuần túy bằng trực giác, những biểu trưng của Phật giáo phù hợp với ước vọng và niềm tin của xã hội Champa xưa.   - Tượng Phật Đồng Dương - TK IV Người Chăm gọi Đức Phật là “phịh”. Tượng Đồng Dương mặc áo choàng hở vai trong tư thế đứng trên tòa sen, tóc hình bụt ốc, tai dài gần đến vai, đôi mắt mở, khuôn mặt thon và đầy đặn.  Tượng Phật được thể hiện khá vạm vỡ, mang đậm phong cách Ấn Độ đến nỗi có nhà nghiên cứu cho rằng tượng được mang từ Ấn Độ sang. Trong các công trình nghiên cứu về Champa, nghề đúc đồng ít được quan tâm nhưng có một điều đáng lưu ý là trong các di vật Champa hầu như không có tượng Phật bằng đá và ngược lại không thấy các loại tượng Bà la môn được đúc bằng đồng. Ảnh hưởng của Phật giáo với Champa thể hiện mạnh nhất vào thời kỳ Indrapura. Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn   Theo baotanglichsuvn.com  
0 Rating 802 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On February 18, 2015
Ngoài những bãi biển hoang sơ như Ninh Chữ, Cà Ná và Bình Tiên, tỉnh Ninh Thuận còn nổi tiếng với nền văn hóa đậm chất Chăm từ kiến trúc, lễ hội cho đến làng nghề truyền thống mang vẻ đẹp độc đáo. Thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Ninh Thuận là tỉnh có đông người Chăm sinh sống nhất cả nước. Bởi vậy khi đến đây, du khách như bước vào một thế giới mới lạ, đầy hấp dẫn với những công trình kiến trúc của Vương quốc Chăm Pa xưa kia, nổi bật nhất là 3 cụm tháp Hoà Lai, Po Klong Garai và Po Rome. Cụm tháp Pôklông Garai được coi là trung tâm rực rỡ nhất của văn minh Chăm.Ảnh: dulichninhthuan. Tháp Chăm Tháp Pôklông Garai là tên gọi chung cho một cụm tháp Chăm hùng vĩ và đẹp nhất còn lại ở Việt Nam, thuộc kinh đô Panduranga của Vương quốc Chăm cổ, nay là thành phố Phan Rang. Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nằm trên đỉnh Đồi Trầu, phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố 9 km về phía Tây Bắc. Từ xa, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh tháp Pôklông Garai với màu đỏ gạch đặc trưng, nổi bật giữa nền trời xanh biếc. Bước vào tháp, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi những hoa văn điêu khắc tinh xảo trên vòm cửa, trụ ốp, diềm mái được lưu giữ nguyên vẹn sau bao thăng trầm của thời gian và tàn phá khắc nghiệt của khí hậu. Vẻ đẹp bí ẩn pha chút rêu phong, hoài cổ của mỗi ngôi tháp luôn để lại những dấu ấn khó phai trong lòng du khách Nếu có thời gian, bạn nên đến tháp Hòa Lai, huyện Ninh Hải, cách Phan Rang 14 km về phía Bắc và tháp Po Rome, huyện Ninh Phước, cách Phan Rang 25 km về phía Tây Nam để hiểu thêm về nghệ thuật và tôn giáo của người Chăm cũng như một phần văn hóa của người dân tộc nơi đây. Làng nghề truyền thống Ngoài các công trình kiến trúc độc đáo, các làng nghề truyền thống cũng là điểm đến thu hút du khách trong hành trình khám phá Chăm Pa. Làng gốm Bầu Trúc là một trong số đó. Nằm ven quốc lộ 1A, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, Bầu Trúc được xem là một trong những làng gốm cổ xưa nhất của Đông Nam Á. Vẻ đẹp mộc mạc và kỹ thuật chế tác thô sơ của gốm Bàu Trúc thu hút sự khám phá của nhiều du khách. Ảnh: Báo Ninh Thuận. Điểm ấn tượng nhất với du khách khi thăm làng nghề là cách thổi hồn vào gốm của những người phụ nữ Chăm, thông qua đôi bàn tay khéo léo thay vì sử dụng bàn xoay. Bởi vậy mà bất cứ ai đến Ninh Thuận cũng muốn một lần tận mắt chứng kiến công đoạn làm gốm độc đáo này, để rồi yêu thêm vẻ đẹp bình dị nhưng vô cùng sắc nét của các sản vật gốm nơi đây. Ngay bên cạnh làng Bàu Trúc, làng Mỹ Nghiệp cũng là một điểm đến thú vị với nghề dệt thổ cẩm truyền thống, giúp bạn hình dung bức tranh toàn cảnh về đời sống và con người Chăm Pa. Lễ hội Bên cạnh các giá trị vật thể, văn hóa phi vật thể của người Chăm ở Ninh Thuận cũng phong phú với hơn 100 lễ hội diễn ra quanh năm, trong đó tiêu biểu phải kể đến là lễ hội Ka-tê tổ chức ở tháp Chăm vào tháng 7 lịch Chăm hàng năm. Đây là lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hoá của người Chăm, phản ánh sinh hoạt của cộng đồng người địa phương. Ka-tê là lễ hội văn hóa lớn nhất của người Chăm. Ảnh Báo Ninh Thuận. Du khách không chỉ được thưởng thức một nền nghệ thuật ca - múa - nhạc dân gian với phong cách độc đáo tại lễ hội này mà còn được say sưa trong tiếng trống Gi năng, kèn Saranai và hoà mình cùng điệu múa của các thiếu nữ người Chăm. Bên cạnh đó là vô vàn các lễ hội hấp dẫn khác đang chờ bạn khám phá như lễ cầu đảo, lễ hội Chabun, lễ hội Lamuwan, lễ hội cầu ngư... Du khách đến Ninh Thuận từ TP HCM có thể bắt xe khách hoặc tàu hỏa lên thành phố Phan Rang. Nếu đi từ Hà Nội, bạn có thể bay thẳng đến sân bay Cam Ranh rồi đi ô tô thêm 60 km. Ninh Thuận nổi tiếng là vùng đất của nắng và gió với tiết trời khô nóng, vì vậy bạn nên luôn mang theo nước bên người. Ngoài ra, tránh đi vào mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11. Đến Ninh Thuận, bạn cũng đừng quên nếm thử các món ngon chế biến từ thịt dê – một phần không thể thiếu trong ẩm thực Chăm như dê nướng, dê hấp, gỏi dê, cari dê, lẩu dê, dê nấu mẻ, dê tái chanh... Kim Anh theo vnexpress.net
0 Rating 799 views 0 likes 0 Comments
Read more