Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On January 10, 2015
Pieh Khik Phun Pajaih CampaThanh Phu Ba       Anâk Cam drei thei thei jang caong khik phun pajaih Campa deng rai di ngaok dunya ni.       Nagar Campa lihik liwik biak jeh, min muk kei Cam hu caik wek ralo drap ar siam hatuah saong hadom anâk tacaow daok ka-ndaong, calah caluen grep gilaong. Manâng drei nduec nao aia lingiw pa-ndap daok yaong, manâng drei daok wek dalam aia khik peng paga ala sang.       Mâng kal dahlau, hu patao bia pakreng nagar, buel Cam dah danuh pajieng hu ralo drap ar caik rai.      Tel harei ni, buel Cam wer glai, mblung rakak ka palei nagar oh hu urang kaya pan akaok; adat ca-mbat mada harei mada hao karang, po halau janâng o khin ba jalan tuei tapak; akhar tapuk thruw duw ngap ka bhap bini ruw ri, calah tung tian.        Anâk Cam pok mata maong gep, thuak yawa, ké sanâng duah baoh kadha khik phun pajaih. Mayah Cam thau anit bengsa, marat hatai khik phun pajaih Campa nan hu macai jalan pieh ngap. Likau biai sa jalan biak asit min ba marai ligaih makrâ biak praong : Yau panuec bhian ndem "Sap Cam daok, pajaih Cam daok" Sap ndem anâk mânuis drei mai dahlau di hu akhar tapuk. Nyu pagem saong rup ita mâng harei tabiak di awal amaik tel harei tagok suor riga. Tapa sap ndem, khaol ita thau gep, peng gep, ba tung tian anit ranam gep. Khik hu sap ndem Cam nan khik hu pajaih Cam ye. Panuec sinbiai :      1/ Dom mik wa praong thun ngap amaik amâ ba jalan ndem harat sap Cam dalam ma-ngawom drei. Harei harei pahader anâk tacaow ndem sap Cam. Pakep nyu ndem sap urang lingiw dalam sang. Liwik harei jieng tana siam lo.      2/ Kanâ dom mik wa glaong akhar tapuk Cam wak jieng tapuk asit asit  pataow ndem sap Cam mâng akhar latinh pieh ka anâk ranaih mbuen si bac, payua nao grep libik palei Cam tok khik anguei.      3/ Dalam gruk nyaom biai, ngap cheh chai tamia adaoh halar kieng ndem harat sap Cam ka ralo drei peng para-ndap.      Harung wek, pieh khik pajaih Campa deng rai di baoh tanâh ni, Anâk Cam abih drei mâng dalam tel lingiw aia hader ew gep, kaih gep, ba gep ndem sap Cam. Ngak hu yau nan, paran Cam hadah hadai harei hadei. ------------------------------------------------------------***------------------------------------------------------------   pY-H K[` PU# pEjH c.f\ anI` c. Rd] T] T] j) Oc= K[` PU# pEjH c.f\ d-) Er d{ Oq_` dU#y n{..,,ng^ c.f\ l[h[` l[w[` bY` j-H, m[# mU` k] c. hU Ec` w-` rOl Rd$ a^ sY. htWH Os= hOd. anI` tOc_* Od_` kOV=, clH clW-# Rg-$ g[Ol=, mnI~ Rd]VW-! On_ aY l[q[* pV$ Od_` Oy=, mnI~ Rd] Od_` w-` dl. aY K[` p-) pg al s) ,, m) k& dhL-U  hU pOt_ bY pRk-) ng^ ,, bW-& c. dH dnUH pjY-) hU rOl Rd$ a^ Ec` Er,,t-& hr] n{, bW-& c. w-^ EgL, vLU~ rk` k\ pl] ng^ oH hU ur) ky p# aOk_` ,, ad@ cv@ md hr] md Oh_ kr), Of- hl-U jnI~ o K[# b\ jl# tW] tp` ; aK^ tpU` RTU* dU* Q$ k\ B$ b[n{ rU* r{ clH tU~ tY#,,   anI` c. Op` mt Om_) g-$, TW` yw Ok- Sn) dWH Ob_H kD K[` PU# pEjH,,myH c. T-U an[@ b-) S\ mr@ hEt K[` PU# pEjH c.f\ N# hU mEc jl# pY-H Q$,, l[k-U EbY s jl# bY` aS[@ m[# b\ mEr l[EgH mRkI bY` ORp= : y-U pnW-! BY# OV. "S$ c. Od_`, pEjH c. Od_`" S$ OV. anI` mnW[( Rd] Em dhL-U d{ hU aK^ tpU`, zU pg< Os= rU$ i[t m) hr] tbY` d{ aw& aEm` t-& hr] tOg` OsW^ r[g ,,tp S$ OV. OK_& i[t T-U g-$, p-) g-$, b\ tU~ tY# an[@ rn. g-$,,K[` hU S$ V. c. N# K[` hU pEjH c. y|,, pnW-! S[# EbY :1: Od. m[` w ORp= TU# Q$ aEm` amI b\ jl# V. hr@ S$ c. dl. mQ\Ow. Rd], hr] hr] phd-^ anI` tOc_* OV. S$ c.,, pk-$ zU V. S$ ur) l[q[* dl. s), l[w[` hr] jY-) tn sY. Ol,,2: knI Od. m[` w OgL= aK^ tpU` c. w` jY-) tpU` aS[@ aS[@ pOt_* V. S$ c. mI) aK^ lt[# k\ anI` rEnH vW-# s{ b!, pyW On_ Rg-$ l[b[` pl] c. Ot` K[` aqW],,3: dl. RgU` Oz+ EbY, Q$ C-H EC tmY aOd_H hl^ kY-) V. hr@ S$ c. k\ rOl Rd] p-) k\ f\N$,, hrU~ w-`, pY-H K[` pEjH c.f\ d-) Er d{ Ob_H tnIH n{, anI` c. ab[H Rd] m) dl. t-& l[q[* aY hd-^ ew g-$, EkH g-$,  b\ g-$ V. S$ c.,, Q` hU y-U N# pr# c. hdH hEd hr] hd] ,,  
0 Rating 599 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On November 25, 2013
Thực ra chỉ liếc dòng kí tự trên Kì Phương đã biết ngay Paul muốn nói gì, và nó cũng chẳng có gì là bí mật cả. Các kí hiệu A1, A2,... B1, B2... do nhà nhà khảo cổ kiêm kiến trúc sư người Pháp Henri Parmentier phân loại và đặt tên cho các đền tháp khi ông nghiên cứu thánh địa Mỹ Sơn từ những năm đầu thế kỉ XX. Vì tính khoa học và đảm bảo sự nhất quán trong nghiên cứu nên các kí hiệu đó vẫn được tiếp tục sử dụng đến nay. Nó cũng phổ biến trong các bản đồ và tập san du lịch đến nỗi nhiều du khách cũng thuộc vanh vách. Kì Phương hiểu được ý Paul rằng ông ta đang có mặt tại một trong bốn ngôi tháp đó. Paul là người rất ưa dùng các kí hiệu khoa học vào đời thường. Có giai thoại kể rằng, khi công tác ở Mỹ sơn, ông không có nhà cửa, không phương tiện đi lại nên Paul đã căng lều ngay bên cạnh tháp cho tiện làm việc. Lúc in card để liên lạc, trên phần ‘’địa chỉ cơ quan’’ ông chỉ ghi độc một chữ ‘’A2’’ Đường sá về khuya vắng tanh vắng ngắt, sau một tiếng lao nhanh trên những con đường rừng quanh co họ đã đến gần khu di tích. Chiếc Ford tiếp tục phá tan giấc ngủ của rừng núi để tiến về thung lũng thiêng. -Tôi thật lấy làm lạ, - Kì Phươngcất giọng trách móc – đêm hôm thế này cha cô đến Mỹ Sơn mà không nói cho tôi một câu, dù sao đây cũng là thổ địa của tôi. Thi Nganãy giờ chết lặng vì lo lắng cho ba cô vừa sợ làm anh phân tán nên không dám hé môi. Khi anh nói, cô mới chịu lên tiếng. - Từ lúc thấy anh một mình ở sân bay tôi đã ...hơi ớn. - Bỗng cô bật ra một ý nghĩ làm Kì Phương lạnh người – Hay là ba tôi bị ai bắt cóc vào đây? Hôm nay Kì Phương đã chứng kiến tận mắt Paul được nhiều người săn đón không khác gì minh tinh màn bạc. Nhưng kẻ hâm mộ ông đến đến mức bắt cóc thần tượng lôi vào rừng đêm hôm thế này thi anh không dám tin. - Chắc không ai bắt cóc ông cả. Ba em còn viết thư, mà gã đeo nơ nói ông đi một mình mà – Kì Phương trấn an.- Mà biết đâu ông vào đây ngồi thiền thì sao. Sau bao nhiêu năm sống chốn đô thành, giờ đây nếu được lựa chọn giữa khách sạn năm sao và thảm cỏ trong rừng, tôi tin ông sẽ chọn thiên nhiên. Tuy lí do này không thực tế nhưng Thi Nga vin vào đây để tự trấn an mình. Từ thủa tấm bé, cô biết ba mình đã coi đây là quê hương thứ hai. Mỹ Sơn còn là nơi bắt nguồn tình yêu và hồi sinh cuộc đời của ba lẫn mẹ của cô. Nhưng đời cho ông cái gì thì cũng lấy đi cái đó, Mỹ Sơn lại là nơi chứng kiến cuộc chia lìa đầy tang thương và nước mắt của họ. Thi Nga hỏi: - Hình như ba em sáng nay đã thăm Mỹ Sơn rồi cơ mà? - Đúng, nhưng chắc là ba cô bỏ quên cái gì đó nên quay lại, chẳng phải tính ba cô dạo này lãng trí mà. Chiếc xe giảm tốc khi đường hẹp lại. Khi không thể chạy tiếp qua một con dốc cao, Kì Phương bảo cô xuống. - Cô leo núi được chứ? – Anh chỉ đôi giày cao gót. - Được, anh đi trước đi! Đáp xong cô chợt rùng mình khi nghĩ phải đi vào một khu rừng vắng với một người đàn ông mà cô chưa hiểu biết. Cô đã quên mất rằng thủa tấm bé trên chính con đường mòn này anh đã dẫn cô đi hái trái me dại mỗi khi chiều về. Cô dũng cảm tiến bước với ý nghĩ rằng cha cô đã chọn mặt gửi vàng, nên chắc anh ta không dám đi quá giới hạn tại một nơi linh thiên như thế này. - Tuy khó đi nhưng đường rất ngắn, - Anh nói- qua con dốc nhỏ này nữa là tới. Sau một hồi lâu luồn trong rặng cây chằng chịt tối om, một quang cảnh thần tiên bừng sáng dưới ánh trằng rằm hiện ra. - Nhìn kìa! – Kì Phương thốt lên. Hàng hà sa số những giọt sương li ti đang phủ trắng trên những ngọn tháp nâu mờ ảo. Khu đền run rẩy hiện lên đầy huyền diệu. Mặc dù đã ngắm khu tháp tới ngàn lần nhưng Kì Phương không khỏi thẫn thờ trước cảnh trăng đêm nay. - Tuyệt...! Thi Nga cũng thốt lên - không lẽ ba tôi một mình đến đây ngắm tháp sao? Kì Phương tỏ ra am hiểu Paul như hiểu về ba ruột của mình: - Ba em vẫn lãng mạn như hồi nào, dân kiến trúc mà. Sống lâu năm ở đây, ông ấy biết lúc nào là đẹp nhất. Có điều là cảnh đẹp thế này mà cha em ngắm một mình thì...hơi phí. Kì Phương cầm nhẹ tay cô rồi bước lên những bậc thềm rêu phong tiến về chân tháp gần nhất nhưng cô không sao nhấc chân nổi. Cô nao lòng ngước nhìn những ngọn tháp tuyệt mỹ của tổ tiên để lại nay chỉ còn là những hình hài cụt đầu đổ nát nằm giữa rừng hoang rồi một cảm giác nhói lên trong tim làm cô muốn khụy xuống. Nhũng thây ma tróc lở. Cô xót xa nhìn quanh những gì mà không hề giống như người ta bấy lâu nay ca tụng mà thay vào đó là quang cảnh quạnh hiu hoang tàn. Đúng như một nhà thơ Chăm đã viết mà ba cô thường ngâm nga mỗi khi chiều về: ‘’...Tháp hoang, như thình lình mọc lên từ đất... Lông lá... âm u... dọa nạt ... tháp hoang Nổi cộm giữa chiều trời ma quái Ung nhọt trên làn da mềm mại Thảm rừng già xanh...’’ Cô gắng kìm khỏi òa khóc. Mỹ Sơn đây ư. Thánh địa đây ư. Ai đã tàn phá Mỹ Sơn? Ai đã đánh cắp linh hồn của tôi? Vậy là sau hơn mươi năm chờ đợi dài đằng đẵng, cuối cùng cô đã được đặt chân trở lại xứ sở linh thiêng, nơi cốt nhục ngàn đời không thể nào quên. Lúc này cô chỉ muốn ôm lấy ba mình mà cùng khóc thương về người phụ nữ thiêng liêng nhất của đời họ. Mẹ ơi. Trong thoáng chốc, một linh cảm lạ lùng làm cô sực tỉnh. - Hãy tìm ba em ngay! Kì Phương soi đèn lên bảng sơ đồ bằng tôn mặc dù anh đã thuộc như lòng bàn tay. - Cô thấy các khu A, D, F chưa? - Anh lại chỉ về phía ngọn tháp gần nhất bên phải - trước mặt ta là khu B, C và D, nếu không tìm thấy ta qua suối để đến khu F và A. Ba cô chắc đang ở một trong bốn khu tháp kia. Tuy trong tờ giấy không có tháp C1 nhưng anh vẫn chắc ăn chui vào lia đèn một vòng rồi quay trở ra lắc đầu. - Không có, sang khu B ngay. Anh đảo một vòng cũng không phát hiện điều gì bèn chỉ tay về phía khu D nằm rải rác ngay phía sau. Khu này gồm nhiều phế tích rời rạc nên anh chỉ đứng ngoài chiếu đèn là có thể quan sát được cả cụm đó. Vẫn không thấy có người, anh định qua cầu nhưng khi soi đèn xuống dưới đất, anh nhận ra những dấu chân nhàu trên vạt cỏ đẫm sương. - Xem này.- anh khẽ gọi. Hai người lần theo dấu vết cho đến khi nó mất hẳn trên mấy bậc tam cấp cũ nát. Trước mặt họ là một ngôi tháp hiếm hoi trong khu B còn khá nguyên vẹn. Kì Phương nhìn lên ngôi tháp lù lù trước mắt như một quái thú khổng lồ đáng ngoác miệng trong bóng tối. Anh vỗ nhẹ vai Thi Nga nói khẽ: - Cô đứng đây, một mình tôi vào là đủ. – nói xong anh bước qua khe cửa hẹp sâu hun hút, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi tanh lợm xộc vào mũi. Trong lòng tháp lạnh đến rợn người, choán gần hết không gian chật hẹp là một bệ thờ chỉ còn mỗi yoni cao ngang thắt lưng. Nhưng cái thứ đang nằm trên đó mới làm anh giật mình lùi lại.Tay run run soi đèn lên bệ thờ và anh không tin nổi thứ chất lỏng đang đọng lại trên đó. Máu? Kì Phương lạnh buốt xương sống khi nghĩ một chuyện khủng khiếp vừa diễn ra nơi đây. Tiếng giày lộc cộc ập đến phía sau. - Gì thế anh? - Có lẽ do ...nước mưa! – anh lúng túng đáp. - Tháp này có nóc mà! – Cô sấn sát bệ đá rồi thốt lên. - không lẽ đây là ...máu? Thi Nga rút trong túi ra một mẩu giấy rồi chấm vào thứ chất lỏng đó lên xem. Nó có màu đỏ tươi. – Máu thật sao?... – Cô uôm người về phái trước và chỉ cách bệ đá vài centimets. - Máu thật, không lẽ...? – Giọng cô òa lên đầy sợ hãi. - Đứng lùi ra. – Kì Phương chộp lấy vai cô ghìm lại, tưởng chừng như nếu anh nắm hụt, cô nàng sẽ đổ nhào lên linh vật. - Máu? ba tôi bị làm sao rồi...ba ơi, ba ở đâu? – Không hẳn là khóc, cô òa lên. Kì Phương biết không sớm thì muộn cô cũng thốt ra điều hãi hùng đó. Điều mà anh đã nghĩ tới nhưng không dám nói trước. Có một mạng sống tươi rói nào đó vừa được hiến dâng cho thần linh. Một bữa tiệc sặc mùi tà giáo ghê tởm nào đó vừa diễn ra ngay trước mắt và ngay trên chiếc mâm đá có tên yoni kia. Mùi tanh nồng đang xông tỏa ngập ngụa gan ruột làm cô chạy vội ra ngoài tránh nôn tháo ra một cách bất nhã không thể tha thứ chốn linh nghiêm. Lau miệng xong, cô lấm lét bước vào. Không xông xáo như lúc nãy, trông mặt cô tái mét và bơ phờ như vừa trút hết sinh lực ra khỏi cơ thể. Kì Phương biết mọi thứ vẫn chưa bắt đầu. Điều khủng khiếp nhất vẫn đang chờ cô phía trước. Kì Phương tuy bình tĩnh hơn nhưng cũng không thể giấu sự bối rối. Anh không muốn tin đó là máu, nhưng mùi tanh, và màu đỏ tươi đã là câu trả lời. Vết máu trên các dụng cụ thờ cúng không phải là hiếm. Từ thời cổ đại, máu đã chảy thành suối trên các đài thờ Thần Mặt trời của người Maya, người Da đỏ và nhiều bộ tộc Châu phi gần đây vẫn còn giết gái trinh và trẻ em để lấy máu tưới lên các biểu tượng tôn giáo. Mà chẳng cần viện dẫn đâu xa, ngay trên thánh địa Mỹ Sơn này có nhiều tài liệu chép lại những nghi lễ hiến sinh cho thần Siva. Trên các bia kí có nói đến lễ hiến tế bằng máu ngựa trắng, dê trắng, trâu trắng bị cắt cổ để cúng thần trên các chùa tháp. Trên nhiều tấm bia kí còn kể công triều đình đã hiến đàn ông, đàn bà và cả tù binh và cho các vị thần. Kì Phương cố xua đuổi những ý nghĩ rợn người vừa ùa đến, và vẫn để trấn an Thi Nga là chính, anh nói: - Chắc không phải máu, mà nếu máu thì... chưa hẳn là ... máu người. Kì Phương đứng lên và thấy nhột lạnh ngón chân, anh nhìn xuống mũi giày vải và nhận ra vài giọt máu rỉ từ yoni đã thấm đẫm một vệt lớn. Rút bàn chân lại, máu đã đọng thành vũng dưới nền gạch cũ. Kì Phương thầm nghĩ, một người già yếu như Paul có sống nổi sau khi mất nhiều máu thế này không. Bỗng nhiên Thi Nga lảo đảo đổ rồi sụp xuống trước bệ đá như thể đó chính là ba cô đang trong cơn hấp hối. - Ba ơi!... Khoa học chưa thể chứng minh được hiện tượng thần giao cách cảm, nhưng họ không thể phủ nhận có một sợi dây thông tin sinh học kì diệu giữa con người cùng huyết thống. Kì Phươngloay hoay cố gắng tìm mọi cách để Thi Ngakhông suy sụp lúc này nhưng vô ích. Anh dìu cô ra ngoài rồi nói. - Cô đừng hoảng, chưa có cơ sở nào chỉ ra ba cô đã chết đâu. Kì Phương lại rút bút tích của Paul ra như một bảo bối, mặc dù anh biết nó đã hết thiêng. - Chúng ta phải sang bên khu A, biết đâu ông đang ở bên đó thì sao? – Kì Phương không tin lắm điều mình vừa nói, vấn đề là anh muốn kéo Thi Nga ra khỏi đây và nuôi dưỡng thêm niềm hi vọng đang thoi thóp của cô. Sự gợi mở làm cô gái kịp trấn tĩnh giây lát, niềm lạc quan như được đánh thức. Cô giằng lấy đèn pin trong tay Kì Phương và gạt nước mắt. - Cha tôi bỏ khách sạn rất đột ngột, nhất định ông không thể một mình đến đây đâu. - Cứ bình tĩnh! mội việc sẽ tốt đẹp thôi. Kì Phương không nghĩ là cô ta đã thay đổi suy nghĩ nhanh như vậy. Trong vài giây từ chỗ tin cha mình đã chết bỗng quay ngoắt tin cha cô đang sống. Bây giờ anh mới nhận ra niềm tin tích cực có sức mạnh như thế nào. Kì Phương thở phào vì đã thắp lên chút niềm tin nhỏ nhoi trong cô, tuy anh biết rằng nó có thể vụt tắt ngay bất cứ lúc nào. Kì Phương biết đang có nguy hiểm rình rập họ nhưng anh không muốn chạy khỏi sự thật là một ai đó có thể đang hấp hối quanh đây. Anh chỉ tay về phái bên kia con suối nói: - Chạy nhanh xem. Lần này không để anh dẫn lối, cô băng qua cây cầu nhỏ bắc qua con suối đang chảy ào ào. Mặt đất trơn và đôi giày cao gót đã buộc cô đôi ba lần phải vồ ếch, nhưng điều đó chỉ làm bước chân cô ngày một vững hơn. Qua suối có một ngã ba nhỏ trên triền dốc, cô dừng lại chờ anh. Kì Phương nói: - Bây giờ chia ra để tìm cho nhanh, cô đi về bên phải bên có khu F đang bảo tồn, - anh quay đầu chỉ ngược lại  còn tôi sẽ chạy phía bên A phải xem sao. Cô dám đi một mình không? - Tôi dám! Kì Phương đi về phái phải được chục mét thì đứng lại nghe ngóng. Hình như có tiếng động di chuyển về phía chân núi. Mắt anh không rời mục tiêu, chân rảo nhanh đuổi theo. Phía trước mặt anh lồ lộ dưới ánh trăng những hố đào và những đống gạch đá lởm chởm mà các chuyên gia Ý vừa quy tập chiều nay. Mặc dầu tối trời nhưng do quen thuộc địa hình nên anh đã chạy một quãng khá xa. Đang căng mắt nhìn lên, bỗng nhiên đất dưới bàn chân trơn nhẫy như được dội mỡ. Như một cái bẫy đặt trên đường, Kì Phương chỉ kịp kêu ‘’ối’’ lên một tiếng rồi té nhào xuống một hố sâu. Toàn thân đập mạnh xuống đáy hố. Chưa kịp định thần thì anh đã sởn da gà khi sờ trúng một dị vật cộm lên dưới mặt. Anh trương mắt ra nhìn. Dưới ánh trăng yếu ớt chiếu qua vòm lá, anh nhận ra dưới mặt mình là tột đỉnh của một bi kịch. Điều kiêng kị nhất cuối cùng vẫn đến. Khuôn mặt trắng bệch của Paul lộ ra dưới lớp đất.  Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 588 views 7 likes 0 Comments
Read more
By: On February 28, 2015
Cei Balaok La-u, m?t truy?n c? Ch?m Written by Abd. Karim  Cei Balaok La-u (Hoàng t? s? d?a) là chuy?n c? tích c?a dân t?c Ch?m vi?t b?ng Akhar Thrah do ông A. Landes s?u t?m, hi?n còn l?u tr? trong th? vi?n EFEO (Vi?n Vi?n ?ông Pháp), mang ký hi?u CAMPA 22, kh? 210 x 320 cm, dày 256 trang. Theo ông A. Landes, chuy?n c? tích này vi?t vào n?m 1885 t?i Sài Gòn b?i c?ng tác viên c?a ông E. Aymonier (t?c là thân ph? c?a ông B? Thu?n). Cei Balaok La-u (Hoàng t? s? d?a) dài 77 trang, chi?m t? trang 1 ??n trang 77 c?a chuy?n c? tích này. Phiên âm Ph??ng pháp phiên âm c?a tác ph?m này d?a vào h? th?ng phiên âm La Tinh qu?c t? c?a Vi?n Vi?n ?ông Pháp. ??c gi? nên l?u ý cách phát âm c?a m?t s? ph? âm và nguyên nh? sau : Nd = nduec (ch?y), ndom (nói) Mb = mbeng (?n), mboh (th?y) Nj = njep (ph?i), njuh (c?i) Â = t??ng ???ng v?i ? c?a ti?ng Vi?t, nh? hâ (nó), jiâ (thu?) O = t??ng ???ng v?i ô c?a ti?ng Vi?t, nh? oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = t??ng ???ng v?i o c?a ti?ng Vi?t, nh? pataow (ch? d?n), tanaow (??c) Chú thích Ch? n?m trong d?u ngo?c […] là t? mà ng??i Ch?m th??ng dùng hôm nay. S? n?m trong […] là s? trang c?a tác ph?m Akhar Thranh.  Trang ??u c?a Dalukal Cei Balaok La-u B?n phiên âm Ni dalukal ka Cei Balaok La-u mada tak di kal nan sa ong sa tacaow kathaot ra-mbah min, nan mang dua ong tacaow nan nao mak njuh ba lasei nan sa ciet aia nan sa kadaoh tra amra sa mbaik pajieng ngaok radaih, blaoh truak nao mak njuk [njuh] pak ngaok ralong, nao tel ngaok ralong ong tacaow huak mbeng blaoh nao mak njuh tel krâh paniak [pa-ndiak] mahu aia nan mang tacaow nan nao duah aia manyum nao mboh aia tamuh di krâh tali bak sa tali [2], baruw tacaow nan manyum blaoh nyu manei, nan mang nyu wek marai anyan [akhan] saong ong nan baruw mang ong nan panar [pa-ndar] tacaow nan ba nao pataow aia nan ka ong nan kieng manyum, nan mang tacaow nan ba pataow nao mboh aia di tali nan thu wek abih, baruw mang ong nan tangi tacaow nan lac habar lac blaoh mboh dom nam bathah di tali ni blaoh o mboh aia o, baruw mang tacaow nan lac wek lac mang karni dahlak mboh aia thraiy tali dahlak manyum thrup mahu blaoh dahlak manei bak drei bak jan habar kac arak ni blaoh aia thu abih caik, ong nan mahu aia di thau [3] labik kieng ngap habar o, nan mang ong nan panar [pa-ndar] tacaow nan rawak njuh marai pajieng blaoh truak radaih nao sang, baruw mang tacaow nan daok di sang yaom tajuh harei gan blaoh matian je, nan mang dom po ganuer lang saom praong anaih dalam palei mak ong saong muk nan, lac habar tacaow ong su muk nan tian blaoh o mboh pasang o, nan mang ong saong muk lac dahlak lakau nem [ndem] wek saong po ganuer lang saom halei tacaow dahlak mang anaih ne [nde] ni di hu thau nem [ndem] pakrâ klao saong thei o tacaow dahlak tak di kal nyu tuei ong nyu nao mak njuh pak ngaok [4] ralong blaoh tacaow dahlak mahu aia blaoh nyu nao [duah] aia manyum nyu nao mboh aia tamuk [tamuh] di krâh tali blaoh nyu manyum saong nyu manei blaoh nyu marai anyan [akhan] saong ong nyu blaoh ong nyu panar [pa-ndar] nyu ba ong nyu nao manyum, nan mang nyu ba nao manyum mboh aia di tali nan thu wek abih blaoh dua ong tacaow pajieng njuh wek marai sang je, mada tacaow dahlak matian kayua manyum aia di tali nan min, nan lang saom po ganuer urang di mak ong saong muk tra o, baruw mang tacaow nan matian dalapan balan nih [ndih] di apuei anâk lakei wil jieng [5] blaok la-u mada harei mada praong tel tijuh balan thau nem [ndem] bak taom thun thau nuec [nduec] ma-in rah takai glai bak klau thun thau gleng pabaiy, nan nyu mai mang gleng pabaiy nyu panar [pa-ndar] maik nyu pa-apah nyu di patao ka nyu kieng gleng kubaw patao nan mang maik nyu lac wek, lac hâ tangin takai o hu dom di galung nao galung mai yau nan, gleng pabaiy tok klau drei pabaiy min maik daok ka-uk huec na [nda] ka lahik min blaoh anâk panar [pa-ndar] maik pa-apah anâk di patao ka anâk kieng gleng kubaw patao habar kac kieng [6] klah di lahik, kabaw urang ralé [ralo] yau ndan [nan], maik nyu di pa-apah nyu o nyu di peng o sa dua nyu panar [pa-ndar] maik nyu nao puec saong patao bi hu ka nyu je, ndan [nan] mang maik nyu ciip nao puec saong patao ka nyu je, baruw mang maik nyu nao puec saong patao, maik nyu nao tel pabah mbeng jang patao blaoh athau graoh, ndan [nan] mang panraong iw panraong hanuk ew tangi, lac thei marai blaoh athau graoh, ndan [nan] mang maik Balaok La-u lac dahlak min, baruw pa-nraong iw pa-nraong hanuk tangi lac mai hatao bien ni, ndan [nan] mang maik Balaok La-u lac dahlak marai puec saong [7] po ganreh patrai mada anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak mai puec papah [pa-apah] nyu di po ganreh patrai ka nyu kieng gleng kubaw po ganreh patrai baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk tama nao pathau patao, lac kana dhul palak takai mah ganreh patrai mada panuec maik Balaok La-u marai puec kubaw po ganreh patrai ka anâk nyu gleng, ndan [nan] mang patao panar [pa-ndar] pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew Balaok La-u saong maik ja Balaok La-u marai, baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew maik Balaok La-u saong Balaok La-u marai [8] baruw mang maik Balaok La-u ja Balaok La-u marai, ndan [nan] mang tangi lac maik ja Balaok La-u ba ja Balaok La-u mai hatao, ndan [nan] meng maik Balaok La-u lac kana dhul palak takai mah po mada anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak marai pa-apah nyu ka nyu kieng gleng kubaw po ndan [nan] mang patao nan lac wek lac kubaw kau klau pluh urang baol blaoh gleng di kajap o di klah di lahik o, kubaw tel klau ratuh taman, blaoh ja Balaok La-u gleng habar kieng ka kajap, baruw mang patao ew ja balaok la-u marai tangi lac kubaw kau tel klau ratuh taman [9] hâ gleng di kajap o na [nda] nan mang ja Balaok La-u lac dahlak gleng kajap min, baruw mang patao lac wek saong maik ja Balaok La-u lac yah yau ndan [nan] je ja Balaok La-u luai ka nyu daok wek pak ni paguh mang page [pagé] ka nyu nao gleng kabaw, maik Balaok La-u wek nao sang baik, ndan [nan] mang maik Balaok La-u wek nao sang, ja Balaok La-u daok wek saong patao tel hadah mang page [pagé] dom baol patao peh kabaw ka ja Balaok La-u nao gleng peh kabaw tabiak di war blaoh urang pok ja Balaok La-u craong ngaok raong kabaw balaoh urang tiap kabaw paralao nao ka nyu gleng [10] pak ngaok ralong dom baol patao tiap kabaw palao [paralao] tel ngaok ralong ka ja Balaok La-u blaoh wek marai sang blaoh nyu nem [ndem] saong gep nyu rah jalan mai lac dom pa-naok drei blaoh tiap kabaw paralao nao ka Balaok La-u gleng ndan [nan] ngap yau drei tiap kabaw nao palahik thaoh dom urang ndan [nan] nyu daok nem [ndem] saong gep nyu lac ja Balaok La-u gleng kabaw ndan [nan] di klah di lahik o, ndan [nan] mang tel jala praong ka-ndai [kanai] Taluic anâk patao ba lasei nao ka Balaok La-u nao mboh dom kabaw daok mbeng gul gep blaoh di mboh Balaok La-u o. ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ew, lac [11] Balaok La-u nao hatao balaoh o mboh o ya [yau] ni laiy. ndan [nan] mang Blaok La-u lac po blaoh Balaok La-u galung mai taom ndai [nai] Taluic blaoh mak lasei nao huak ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek marai sang, tel bier harei Balaok La-u tiap kabaw marai sang blaoh Balaok La-u sait tagok daok ngaok raong kabaw blaoh tiap kabaw marai sang kabaw mboh abih di hu lahik sa drei halei o tal abih ndan [nan] mang patao nit [anit] dalam hatai sanang lac manuus [manuis] urang patao sa dapuel blaoh gleng kubaw ndan [nan] di kajap o blaoh arak ni ja Balaok La-u tangin o hu yah takai lijang o hu blaoh [12] nyu gleng kabaw ndan [nan] kajap caik mada dalam rup nyu habar e, ndan [nan] mang harei hadei panar [pa-ndar] ja Balaok La-u ba gam amra blaoh yah mboh haraik ndan [nan] ruuic [ruic] haraik blaoh gawang wak di dako [daké] kabaw ndan [nan] ba marai sang hai paga drei tayah paje ruic pataom sa harei sa dang jang hu sa harei 2 dang jang hu min mada harei mada drei ruic pataom patao kakei saong ja Balaok La-u yau ndan [nan], tel tuk halei urang peh kabaw ka Balaok La-u nao gleng ndan [nan] urang pok ja Balaok La-u craong ngaok raong kabaw saong mak amra craong ngaok raong kabaw saong Balaok La-u blaoh urang tiap kabaw [13] paralao nao ka Balaok La-u gleng je, ndan [nan] mang di harei ndan [nan] ndai [nai] Taluic ba lathei nao ka ja Balaok La-u blaoh ndai [nai] Taluic nao tel ca-maoh nyu gleng kabaw ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic krak kieng gleng bani [ba-ndi] baniai Balaok La-u ruuic [ruic] haraik habar nda tangin o hu takai o hu, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nao mboh Balaok La-u creng manuuis [manuis] urang baol bhap rabuw taman kuec ratuh hu madhir riya pabaiy pabuei manuk kanjaok athau graoh hamu saong sep rabap mari hagar cong [ceng] adaoh pamre ja Balaok La-u lakei kumei asit praong dam dara manâng nao duah ruic [14] haraik menang urang gleng kabaw, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic krak maong mboh bak mata bak adung, thau ka Balaok La-u ganreh blaoh ndai [nai] Taluic caik dalam tian di nem [ndem] tabiak ka urang thau o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ew ngap mengap duah nyu, ndai [nai] Taluic ew, lac mai mak lathei huak le ai Balaok La-u ley, ndan [nan] mang Balaok La-u panar [pa-ndar] dom manuus [manuis] urang baol bhap luak tama tanâh riya abih, ndan [nan] mang Balaok La-u galung mai taom ndai [nai] Taluic bloah mak lathei nao huak, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek marai sang blaoh patao tangi lac mu Taluic ba lathei sa mbeng ni habar blaoh jala lé [15] ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac dahlak nao war glai jalan min po, ndan [nan] ndai [nai] Taluic puec pagat patao min ndai [nai] Taluic daok jala lo ndan [nan] k ayua daok krak aiek bani [ba-ndi] baniai Balaok La-u min, nan mang tel bier harei Blaok La-u tiap kabaw marai sang Balaok La-u crang wek nyu ew dom baol bhap manuus [manuis] urang tagok mang ala tanâh riya marai malieng kana nyu manang nao gawang haraik blaoh wak di dako [daké] kabaw manang nao tiap kabaw marai pataom gep manang urang daok melieng kana nyu, nan mang dom baol [16] bhap gawang haraih [haraik] blaoh wak di dako [daké] kabaw wak di grep drei kabaw blaoh nyu tiap kabaw paralao Blaok La-u marai mang tâh jalan blaoh Balaok La-u panan [pa-ndar] dom manuus [manuis] urang luak tama tanâh riya wek abih, ndan [nan] mang Blaok La-u tiap kabaw marai tel sang ndan [nan] patao dom di daok mayaom saong abih sa nagar lakei ngan kamei dam ngan dara asit praong mayaom Blaok La-u, patao ew dom baol marai hadei wak haraik di dako [daké] kabaw ndan [nan] nang [ndang] tajuh palei baol ndan [nan] mang wak haraik [17] di dako [daké] kabaw blaoh abih, wak haraik di grep drei kabaw blaoh pataom nang [ndang] sa pluh radaih haraik, ndan [nan] mang tel harei hadei Blaok La-u nao gleng kubaw blaoh ndai [nai] Taluic ba lathei wek sa mbeng tra blaoh ndai [nai] Taluic krak wek, ndan [nan] mboh Blaok La-u creng wek sa mbeng tra, ndan [nan] ndai [nai] Taluic mboh manuis urang lakei kamei dam dara bak mblang bak katang rabuw rabuw taman taman, daok malieng kana Blaok La-u, abih athur biep di glai kruk rasa liman kaok rimaong caguw saong abih mata cim di glai tiaong bayen amrak cagur mbaic katruw caraw tawait di dan di [18] dan lok ni marai kaong Blaok La-u makrâ di thuw labik kieng pagap o, hamu saong sac [sap] rabap mari ceng hagar sara-ndai [saranai] adaoh pamre Blaok Li-u, manuk ka-njaok athuw graoh ngap yau palei nagar urang pak ndan [nan], ndai [nai] Taluic nik [ndik] ngaok kuyau blaoh ndai [nai] Taluic daok maong, ndai [nai] Taluic di hu brei rup ndai [nai] Taluic ka Blaok La-u mboh o, ndai [nai] Taluic jaoh hala kayau jam rup wek, ndai [nai] Taluic maong mboh Blaok La-u kieng gleng, mayah ndai [nai] Taluic o nik [ndik] kayau blaoh maong o nan ndai [nai] Taluic maong di mboh Blaok La-u kieng gleng o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nik [ndik] ngaok kayau blaoh ndai [nai] Taluic daok gleng mboh Blaok [19] La-u tabiak di harum la-u siam likei di thau labik kieng pagap o, ganuh Blaok La-u tanyrak hadah siam lakei yau purami sa klam blaoh dom baol bhap daok ataong hagar ataong ceng auak rabap ayuk mari adaoh pamre blaoh kaong Blaok La-u taom dar rup Blaok La-u, halei Blaok La-u ndan [nan] nyu daok tapak krâh, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic maong mboh yau ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic panyap [pakhap] dalam hatai di nem [ndem] tabiak o, ndan [nan] mang Blaok La-u hadar krung tuk bak jala bien ndan [nan] seng ndai [nai] Taluic ba lathei marai, ndai [nai] mang Blaok La-u panar [pa-ndar] dom baol bhap luak tama [20] tanâh riya wek abih Blaok La-u ndan [nan] di ka tama harum la-u wek o, ndan [nan] ndai [nai] Taluic maong mboh siam likei nei [ndei] ndai [nai] Taluic nyap [khap] di thau labik kieng ngap habar o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic mboh lé [lo] paje blaoh ndai [nai] Taluic trun mang ngaok kuyau marai blaoh ndai [nai] Taluic ngap mengap ew, ndai [nai] Taluic lac ai Blaok La-u ley mai mak lathei nao huak, ndan [nan] mang Blaok La-u pleng kadeng plang kadang luak tama blaok la-u wek ndan [nan] mang Blaok La-u lakau marai taom ndai [nai] Taluic blaoh mak lathei, ndan [nan] mang Blaok La-u nem [ndem] saong n ndai [nai] Taluic lac ndai [nai] juai ew dahlak blaoh ew ai juai ndai [nai] dahlak ndan [nan] [21] anâk baol anâk bhap, ndai [nai] ew dahlak yau mang dahlau baik ew ban ja Blaok La-u ndan [nan] baik, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek lac mang dahlau ndan [nan] dahlak di ka ranap [ra-ndap] saong ai Blaok La-u o hajiéng saong dahlak ew paja pa-ong ai, tel arak ni ai gleng kabaw ka dahlak tok sa drei ai blaoh sa dapuel kabaw dahlak blaoh ai ruic haraik ka dahlak, mang dahlau manuus [manuis] urang dahlak sa dapuel blaoh gleng kabaw blaoh di hu ruic haraik ba ka dahlak o tel arak ni sa drei ai blaoh gleng sa dapuel kabaw blaoh ai ruic gam haraik kac, dahlak mboh ai ciip ra-mbah ra-mbâp blaoh [22] gleng kabaw jua sa drei ai di ngaok ralong blaoh dahlak ba lathei mai ka ai sa drei dahlak, blaoh dahlak mai mboh ai Blaok La-u daok gleng kabaw jua sa drei ai di ngaok ralong, dahlak sanang pa-anit ai Blaok La-u hen di ai sa tian saong dahlak, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac wek lac dahlak di thau o yah ndai [nai] kieng ew ban jang dahlak o nyin [khin] lac habar mayah ndai [nai] kieng ew dahlak blaoh ndai [nai] ew ai lijang dahlak o nyin [khin] lac habar o rei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek marai sang dalam tian ndai [nai] Taluic nyap [khap] di ai Balaok La-u di thau labik kieng ngap habar o, ndan [nan] mang [23] ndai [nai] Taluic maro [marai] tel sang nan aia harei gleh mang tel sang, baruw mang patao tangi, lac ma Taluic ba lathei sa mbeng ni habar blaoh suai lé [lo] tel bier harei mang mai tel sang, lijang ndai [nai] Taluic puec pagat patao lac nao war glai jalan ndan [nan] rei, ndan [nan] mang patao ew ma Tâh Tabha saong ma Kacua marai panar [pa-ndar] lac harei hadei ndan [nan] ma Tâh Tabha saong ma Kacua dua urang hâo [hâ] ba lathei nao ka Balaok La-u, ndan [nan] mang ma Kacua saong ma Tâh Tabha dua urang nyu lac di ba lathei ka Balaok La-u o luai ka ma Taluic ba lathei ka Balaok La-u baik, ma Tâh Tabha saong ma Taluic [ma Kacua] dua urang nyu lac nyu limuk di Balaok La-u lé [lo], [24] tangin o hu takai o hu dom di galung nao galung mai tablaoh nyu ba lathei nao blaoh Balaok La-u galung mai mak lathei blaoh katuak dahlak blaoh dahlak bruh [nduec] haop [haok] lathei abih blaoh aek ja Balaok La-u je, njep saong rek [harek] ralo pak ngaok ralong njep saong ja Balaok La-u glung mai blaoh magei rek [harek] ndan [nan] tablaoh dahlak lac rimaong blaoh dahlak nuec [nduec] haok lathei abih je, luai ka ma Taluic ba lathei baik ma Taluic ndan [nan] nyu hu ranap [ra-ndap] saong ja Balaok La-u paje, ma Tâh Tabha saong ma Kacua nem [ndem] wek saong patao yau ndan [nan] mang patao nem [ndem] wek lac yah [25] yau ndan [nan] je blaoh luai ka ma Taluic ba lathei ka Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic aian [auen] tabuen dalam hatai lac hu ka nyu kieng ba lathei ka ai Balaok La-u wek, ndan [nan] mang ai Balaok La-u daok pak ngaok ralong creng baol bhap manuus [manuis] urang wek, blaoh tel bier harei hajan saong rabuk sup glai sup klaow, ndan [nan] mang ai Balaok La-u panar [pa-ndar] dom baol bhap manuus [manuis] urang nyu gawang haraik blaoh wak di dako [daké] kabaw blaoh tiap kabaw paralao ai Balaok La-u marai sang, paralao matâh adhua ka jaik kieng tel sang ndan [nan] ai Balaok La-u panar [pa-ndar] dom baol luak tama [26] tanâh riya wek abih, ndan [nan] mang ai Balaok La-u tiap kabaw marai sang tiap kabaw marai tel sang ndan [nan] ai Blaok La-u luai kabaw ndan [nan] daok deng di mblang ka urang wak haraik di dako [daké] kabaw ndan [nan] blaoh ai Balaok La-u nuec [nduec] tama ging maghang apuei ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua dua urang ndai [nai] ndan [nan] daok tanâk dalam ging, ndan [nan] mang ai Balaok La-u daok maghang apuei blaoh dua urang ndai [nai] ndan [nan] puec jhak ka ai Balaok La-u lac maghang apuei dé nan baik nao aiep [aiek] kabaw baik tok lanang ka kau kieng tuh aia bu, ndan [nan] mang Balaok La-u ngap mangap galung gaok baoh patih ndai [nai] [27] Kacua blaoh ndai [nai] Kacua puec jhak ndai [nai] Kacua lac ja Balaok La-u ni awak awar hareh tablaoh nyu galung mai gaok pha kau kac, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lakau nao blaoh ngap mengap mang di thau o gaok takai ndai [nai] Tâh Tabha blaoh ndai [nai] Tâh Tabha puec jhak, lac Balaok La-u ni nyu glung mai pajaik drei tok panao [pa-ndao] nyu min hagaik kai [kac], luai ka nyu maghang nyu baik ai Kacua yah tiap nyu lé [lo] kaow nyu nao, nyu di nao tra o paje kan, ndan [nan] mang dua urang ndai [nai] ndan [nan] luai ka ai Balaok La-u daok maghang apuei tak ndan [nan] je, ndai [nai] Taluic daok dalam sang blaoh mahit ndai [nai] Tâh Tabha [28] saong ndai [nai] Kacua puec jhak ka ai Balaok La-u ndan [nan] ndai [nai] Taluic dom di daok ganaong di ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha, ndan [nan] mang tel harei hadei ai Balaok La-u nao gleng kabaw wek ndan [nan] patao kakei saong ai Balaok La-u lac haraik ndan [nan] ralé [ralo] pajé arak ni luai ruic haraik ndan [nan] yah nao mboh paga tak paga baik tak pataom sa mbaik dua mbaik pa-mbuk tak ndan [nan] piaoh [piéh] ka patao panar [pa-ndar] urang nao pajieng, halei tian patao ndan [nan] thau ka ai Balaok La-u ganreh paje ndan [nan] mang harei hadei ai Balaok La-u nao gleng kabaw wek, ndan [nan] ndai [nai] Taluic ba lathei wek ndan [nan] ndai [nai] Taluic cih hala sa [29] tanyrak hala ba nao ka ai Blaok La-u ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ba lathei nao majaik kieng tel camaoh ai Balaok La-u gleng kabaw ndan [nan] blaoh mahit sap urang tak paga bak mang ngaok ralong sang mahit sap urang nem [ndem] pakrâ klao bak mang ngaok ralong, blaoh ndai [nai] Taluic nao tel camaoh ndan [nan] dhit sap urang tak paga saong dhit sap urang nem [ndem] mboh dom nam tak paga saong mboh paga urang pa-mbuk tak ndan [nan] je, saong mboh ai Balaok La-u daok gleng kabaw tak ndan [nan] je, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic brei ciet lathei saong brei tanyrak hala ka ai Balaok La-u, ndan [nan] mang ai Balaok La-u talaih tanyrak hala [30] ndan [nan] mboh hala cih ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac hala thei cih yau ni ndai [nai] ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac wek dahlak min cih ka ai mbeng yaom hala dahlak cih di tangin dahlak piaoh [pieh] hadei ai Balaok La-u nao kieng kamei pak halei ndan [nan] ai hadar dahlak hai mang ai juai anyan [akhan] saong urang juai lac dahlak cih hala ka ai juai, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac dahlak nua [ndua] aen ndai [nai] di abih o blaoh dahlak si nem [ndem] panuec ni tabiak wek, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tangi ai Balaok La-u lac ai tak paga habien kac blaoh ralé [ralo] lé [lo] ya [yau] ni, ndan [nan] mang ai Balaok La-u [31] lac dahlak tak mang pago [pagé], ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac ko [ké] ai Balaok La-u tak sa mbaik paga ka dahlak maong aiek, ndan [nan] mang ai Balaok La-u lac dahlak liman di drei lo di mboh prân kieng tak o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic klao blaoh ndai [nai] Taluic wek nao sang je, ndan [nan] mang ai Balaok La-u crang baol bhap wek dom baol ndan [nan] tak paga sa harei ndan [nan] nang [ndang] sa ratuh radaih ndan [nan] mang tel bier harei ai Balaok La-u tiap kubaw marai sang ndan [nan] mang ai Balaok La-u nem [ndem] saong patao lac paga dahlak tak blaoh paje po anyim radaih nao pajieng baik, ndan [nan] mang [32] patao lac radaih drei macai min tel hadah mang pago [pagé] patao panar [pa-ndar] manuus [manuis] urang truak radaih nao pajieng tok dua thruh radaih, ndan [nan] mang dom baol truak radaih nao tel camaoh ai Balaok La-u tak paga ndan [nan] blaoh mboh paga ai Balaok La-u tak blaoh pa-mbuk pak ndan [nan] nang [ndang] sa ratuh radaih, ndan [nan] mang dom baol ndan [nan] pajieng di abih o, ndan [nan] mang pajieng mai sang blaoh dom baol ndan [nan] nyan [akhan] saong patao lac paga ralé [ralo] lé [lo] adei sa-ai dahlak pajieng di abih o patao tangi lac daok hadom ndan [nan] mang dom baol nan lac daok nang [ndang] sa ratuh [33] radaih, ndan [nan] mang patao nuec [nduec] harak taka radaih di grep palei bi bak sa ratuh thruh radaih ba marai blaoh pajieng paga ndan [nan] mang abih, abih sa nagar asit praong lakei kumei dom di daok panâksa ka ai Balaok La-u lac tangin o hu takai o hu blaoh tak paga ruuc [ruic] haraik habar kac blaoh ginreh lé [lo] ya [yau] ndan [nan], urang daok panâksa lac ai Balaok La-u ganreh je baruw mang ruuc [ruic] haraik tak paga ralo ya [yau] ndan [nan], dom haraik saong paga urang pajiéng marai leh bak mblang bak katang thei nao gan mblang patao blaoh maong mboh pa[ga] saong haraik ndan [nan] dom di [34] ma-yaom ai Balaok La-u, ndan [nan] mang ai Balaok La-u daok gleng kubaw ka patao yaom sa matâh balan ndan [nan] mang ai Balaok La-u wek nao pak sang maik nyu blaoh nyu panar [pa-ndar] maik nyu marai puec ndai [nai] Taluic anâk patao ka nyu ndan [nan] mang maik nyu di khin nao puec o maik nyu nem [ndem] wek lac hâo [hâ] tangin jang o hu mayah takai lijang o hu mayah likei rup anâk lijang jhak lakei lé [lo], blaoh anâk panar [pa-ndar] maik nao puec ndai [nai] Taluic ka anâk, maik di nyin [khin] nao puec o, ndan [nan] mang ai Balaok La-u di peng o sa dua nyu panar [pa-ndar] maik nyu nao puec ndai [nai] Taluic bi hu ka nyu je, ndan [nan] mang maik [35] nyu di nyin [khin] nao puec o, ndan [nan] mang ai Balaok La-u nem [ndem] wek saong maik nyu lac maik nao puec saong patao baik di hu habar o, gaik [hagait] di dahlak ce [je], ndan [nan] mang maik nyu ciip nao puec ka nyu je, maik ai Balaok La-u nao tel pabah mbeng jang patao blaoh athau graoh ndan [nan] mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew tangi lac thei marai blaoh athau graoh, ndan [nan] mang maik ai Balaok La-u lac dahlak min, pa-nraong iw pa-nraong hanuk tangi maik ai Balaok La-u lac mai hatao bien ni, ndan [nan] mang maik ai Balaok La-u lac dahalk marai mada hu panuec min, ndan [nan] mang pa-nraong iw pa-nraong [36] hanuk tangi lac panuec hagaik maik ai Balaok La-u lac anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak mai puec ndai [nai] Taluic ka nyu blaoh dahlak di nyin [khin] marai puec o, nyu panar [pa-ndar] sa dua dahlak marai puec saong patao bi hu ka nyu je, dahlak ciip alah di nyu blaoh dahlak marai je, ndan [nan] mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk tama pathau patao ndan [nan] mang patao ew maik ai Balaok La-u nao tangi, ndan [nan] mang mai [amaik] ai Balaok La-u nem [ndem] wek lac mada panuec anâk dahlak ja Balaok La-u panar [pa-ndar] dahlak marai puec anâk po ka nyu blaoh dahlak di nyin [khin] marai puec o blaoh nyu di [37] peng o nyu panar [pa-ndar] sa dua dahlak marai puec bi hu ka nyu je, dahlak ciip di hu saong nyu o arak ni dahlak marai anyan [akhan] saong po je, ndan [nan] mang patao nem [ndem] wek lac panuec yau ndan [nan] arak ni drei anit min ja Balaok La-u ndan [nan] halei klau urang anâk ndan [nan] di thau labik ka magait halei anit Balaok La-u rei ya [yau] ni, ndan [nan] mang patao ew ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Taluic klau urang ndai [nai] ndan [nan] marai blaoh tangi lac arak ni klau urang hâ anit Balaok La-u rei, yah thei anit je blaoh raong ba Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nem [ndem] wek lac dahlak di kieng o kieng habar kac tangin o hu yah takai [38] lijang o hu kieng blaoh kieng ngap hagaik jiéng, ndan [nan] mang patao ew sa drei ndai [nai] Taluic tra marai tangi, lac ma Taluic kaow hâ raong ba Balaok La-u rei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek lac halei tian dahlak ndan [nan] dahlak anit min, arak ni po panar [pa-ndar] dahlak kieng ai Balaok La-u min, mayah po panar [pa-ndar] dahlak kieng Cru kieng Raglai jang dahlak kieng rei, ndan [nan] mang patao nem [ndem] wek saong maik ai Balaok La-u lac arak ni mu Taluic ciip raong ba Balaok La-u min, arak ni cang tuk siam harei ta-nyruah ligaih di but a-ndak [anak] ni blaoh panih [pa-ndih] padaok dua urang nyu, arak ni maik Balaok La-u wek nao [39] sang blaoh nem [ndem] wek saong muk nyu saong ong nyu baik, ndan [nan] mang maik ai Balaok La-u wek marai sang je, ndan [nan] mang patao pa-nuec [pa-nduec] harak nao di grep palei di grep nagar anyan [akhan] lac tel harei but ndan [nan] patao panih [pa-ndih] anâk matuw da-a marai manyum alak, ndan [nan] mang patao panar [pa-ndar] panraong jabaol nao amal patiap rasa njruah tapay amrak bithar mang athur biep di glai ba marai paoh [piéh] mbeng manyum ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u, ndan [nan] mang tel harei but ndan [nan] mang di grep palei di grep nagar marai cruh patao, ba dom athur biep di glai rasa ngan njruah tapay ngan amrak di rim mata ni ngan baoh kayau di glai dom baoh [40] urang mbeng hu ngan baoh urang pala di palei di rim rim mata ni urang ba marai cruh patao dom baol di grep palei di grep nagar marai daong patao, manuus [manuis] juak rek [harek] matai juak glai libuh rabuw rabuw taman taman likei kumei dam dara nem [ndem] puec pakrâ klao buai baiy di thau libik kieng pagap o, di hu thei tel o, mbeng manyum sa ratuh harei malam, ndan [nan] mang bak klau harei malam patao ew ndai [nai] Taluic nem [ndem] lac klau harei klau malam mani Balaok La-u nem [ndem] habar saong hâ hai lac bani [ba-ndi] baniai nyu habar saong hâ, hâ nao nem [ndem] wek saong maik hâ pa-abih nem [ndem] adar juai nem [ndem] nyang [khang] juai, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic wek nao nem [ndem] wek saong po [41] bia abih panuec kadha nem [ndem] lac cei Balaok La-u nem [ndem] puec nih [ndih] daok saong dahlak ngap yau abih urang min, ndan [nan] mang po bia ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac habar kac blaoh lac yau abih urang, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] lac cei Balaok La-u tabiak di harum la-u patih mbeng hen di dahlak caik, blaoh cuk gam karah mata mah blaoh siam likei hen di gaik [hagait], ndan [nan] mang po bia ndan [nan] anyan [akhan] wek saong patao. ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua ndai [nai] Tâh Tabha ndan [nan] daok krak peng mahit po bia ndan [nan] daok anyan [akhan] saong patao lac ndai [nai] Taluic nem [ndem] lac cei Balaok La-u tabiak di harum la-u siam lakei lé [lo], ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha dua urang nyu [42] di malam ndan [nan] ba gep nao krak aiek cei Balaok La-u saong ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua krah [krak] mboh cei Balaok La-u tabiak di harum la-u siam likei ganuuh [ganuh] tabiak di rup hadah yau puri [purami] sa klam tuah lap bhap gap krâ di thau labik kieng pagap o siam likei di hu thei tel o, baruw mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha khap di cei Balaok La-u di thau labik kieng ngap habar o, dua urang ndan [nan] dom di daok daman ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua biai gep lac arak ni ma Taluic kieng ka nyu paje blaoh dua urang drei ngap habar kac ya [yau] ni, dua urang nyu lac thau yaom ka cei Balaok La-u ganreh baik drei kieng ka drei ce ah, batuah ma Taluic hareh, [43] dalam tian ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha kieng ngap habar kieng ka hu cei Balaok La-u ka nyu khieng wek, ndan [nan] mbeng manyum bak sa ratuh harei malam ndan [nan] mang dom mik wa adei sa-ai urang lakau drei di patao blaoh wek nao sang, tel urang nao sang jua ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] saong cei Balaok La-u lac urang nao sang jua abih paje arak ni juai daok dalam harum la-u tra juai tabiak nao aiep kabaw thuei mblang ka urang mboh hai, ndan [nan] mang cei Balaok La-u di tabiak di harum o, cei Balaok La-u cang krâh malam jua urang ndan [nan] mang cei Balaok La-u tabiak di harum la-u, krâh malam cei Balaok La-u tabiak di harum la-u blaoh nih [ndih] saong ndai [nai] Taluic tel [44] hadah ndan [nan] mang cei Balaok La-u tama harum wek ralé [ralo] mbeng yau ndan [nan] lé [lo] ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic mak harum la-u ndan [nan] padep di cei Balaok La-u dhit, ndan [nan] mang cei Balaok La-u nih [ndih] tel hadah medeh marai nao tapak harum la-u blaoh di mboh harum la-u o, ndan [nan] mang cei Balaok La-u tama dalam ciew nih [ndih] blaoh tangi ndai [nai] Taluic lac ndai [nai] Taluic hu mak harum ndan [nan] padep rei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic lac thaoh min ndan [nan] mang cei Balaok La-u daok nih [ndih] dalam ciew nih [ndih] ndan [nan] je, cei Blaok La-u di nem [ndem] puec saong ndai [nai] Taluic o dom daok nih [ndih] blaoh kamraw je, cei Balaok La-u ranep [ra-ndep] daok dalam harum la-u tel di hu [45] harum la-u o ndan [nan] cei Balaok La-u la-an dom di daok kamraw, halei ndai [nai] Taluic dom di mak palidu saong sakalat blaoh pamatham cei Balaok La-u, tel lima ndam [nam] harei ndan [nan] mang cei Balaok La-u ranep [ra-ndep] ndan [nan] mang klah di la-an, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic anyan [akhan] tapak lac harum ndan [nan] ndai [nai] Taluic mak ba nao dar dhit paje ndan [nan] mang cei Balaok La-u klao paluic je, ndai [nai] Taluic lac daok dalam harum la-u ai Kacua saong ai Tâh Tabha nyang [khang] di klao lé [lo] lac ai tangin o hu takai o hu hajieng saong dahlak mak harum la-u ndan [nan] padep caik, ndan [nan] mang dua urang nyu klao saong gep nyu wek je ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua nao ma-in pak [46] aduk ndai [nai] Taluic blaoh mboh cei Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nyap [khap] di cei Balaok La-u thau labik kieng ngap habar o abih prân abih yawa dom di daok damân saong thuak yawa, dua urang ndan [nan] dol tian di daok puec klao saong cei Balaok La-u ndan [nan] je, ndan [nan] mang tel cei Balaok La-u tabiak nao aiek kabaw ndan [nan] mang gep gan mik wa pala palei urang mboh, abih drei mik wa urang aain [auen] tabuen ka ndai [nai] Taluic siam wak lé [lo] kieng gaok cei Balaok La-u, ndan [nan] mang urang mbot [mbait] mahit nao di grep palei di grep nagar lac cei Balaok La-u tabiak di harum la-u siam lakei lé [lo], ndan [nan] mang urang ngap ahar [47] marai rawang ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u di grep palei di grep nagar asit praong lakei kumei dam ngan dara marai rawang cei Balaok La-u blaoh kieng aiek cei Balaok La-u, ndan [nan] mang mik wa adei sa-ai urang marai mboh cei Balaok La-u, siam likei di thau labik kieng pagap tra o, ndan [nan] mang mik wa urang di grap nagar blaoh thau ka cei Balaok La-u ganreh, ndan [nan] mang cei Balaok La-u ba ndai [nai] Taluic nao raweng maik cei Balaok La-u ndan [nan] mang cei Balaok La-u nao tel sang maik Balaok La-u blaoh maik cei Balaok La-u di thau krân cei Balaok La-u tra o, tel cei Balaok La-u panar [pa-ndar] ndai [nai] Taluic peh ciet [48] ahar blaoh mak ahar buh di dalam lathuer blaoh pok nao ka maik cei Balaok La-u ndan [nan] mang maik cei Balaok La-u thau lac ka cei Balaok La-u ndan [nan] anâk Po Débata brei, ndan [nan] mang ong saong cek cei Balaok La-u marai apan di tangin cei Balaok La-u blaoh aain [auen] blaoh ong saong cek saong maik cei Balaok La-u anit cei Balaok La-u di thau labik kieng ngap habar o kayua cei Balaok La-u tabiak di harum la-u blaoh siam lakei lé [lo], maik cei Balaok La-u gam anit cei Balaok La-u blaoh gam huec di cei Balaok La-u wek, maduh yau ndan [nan] nan ka mang kal [49] cei Balaok La-u daok saong maik cei Balaok La-u ndan [nan] di hu tabiak di harum la-u o, blaoh di hu jieng manuus [manuis] o jieng balaok la-u min tel cei Balaok La-u marai daok gleng kabaw ka patao blaoh hu ganreh blaoh cei Balaok La-u tabiak di harum la-u blaoh siam lakei lé [lo] baruw mang maik cei Balaok La-u saong ong saong cek cei Balaok La-u war krân cei Balaok La-u caik ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u ba gep wek marai sang blaoh daok di sang pagap yaom sa matâh balan blaoh cei Blaok La-u kieng ramik ahaok blaoh nao kak, ndan [nan] mang ndai [nai] [50] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha lakau ndik ahaok nao kak saong cei Balaok La-u, nan mang tel di harei rami ramik kieng trun ahaok ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic mak karah mata mah di cei Balaok La-u blaoh cuk di tangin ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic jak ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha trun ahaok blaoh daok saong gep sa blah ciew sa drei cei Balaok La-u ndan [nan] daok karei, ndan [nan] mang ganuer ahaok ba abih drei dom baol trun ahaok ndan [nan] mang rami ramik ahaok blaoh tabiak nao, ndan [nan] mang ahaok nao matâh tasik, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic saong ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua klau urang ndai [nai] ndan [nan] daok nem [ndem] pakrâ klao saong gep, ndan [nan] mang ndai [nai] Tâh [51] Tabha saong ndai [nai] Kacua panar [pa-ndar] ndai [nai] Taluic thuak krah mata mah cei Balaok La-u di tangin ndai [nai] Taluic ka ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha aiek, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha aiek blaoh ngap mengap lé [lue] gep blaoh ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha ngap mengap tablait tangin blaoh laik tama dalam aia tasik mang dalam tian ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha ma-irat kieng palaik min, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha ngap mengap puec lac ana yaow blaoh je kau karah hâ laik tama tasik paje ma Taluic hey tablait tangin kau ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic talak mata gleng binang [bi-ndang] [52] mboh karah ndan [nan] hadah bhong dalam tasik ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic klak drei tama dalam aia tasik tuei klaon karah ndan [nan], hajieng saong ndai [nai] Taluic klak drei tama dalam aia tasik ndan [nan] ndai [nai] Taluic huec di cei Balaok La-u puec jhak ka ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua ndai [nai] Tâh Tabha daok pakrap di anyan [akhan] saong cei Balaok La-u o, tel nao matâh tathik ndan [nan] mang ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha anyan [akhan] saong cei Balaok La-u lac ndai [nai] Taluic laik tama dalam aia tasik paje, ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nem [ndem] pagat cei Balaok La-u lac ndai [nai] Taluic ngap laik karah tama dalam aia tasik [53] blaoh ndai [nai] Taluic huec kana [ka-nda] ka cei Balaok La-u puec jhak ka nyu baruw mang nyu subik drei nyu tama dalam aia tasik tuei klaon karah ndan [nan] paje, karah ndan [nan] ndan [nan] ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha palaik tama dalam aia tasik min blaoh ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha nem [ndem] saong cei Balaok La-u lac ndai [nai] Taluic min ngap laik karah ndan [nan], nan mang cei Balaok La-u marai ca-maoh ciew krung ndai [nai] Taluic daok ndan [nan], blaoh mboh wek sa blah aban krung ndai [nai] Taluic matham blaoh ndai [nai] Taluic luai wek daok di ngaok ciew ndan [nan] saong sa paok tanyrak hala tra blaoh di mboh ndai [nai] Taluic o ndan [nan] mang [54] cei Balaok La-u hia lathei o huak yah aia lijang o manyum dom di daok hia baruw mang cei Balaok La-u panar [pa-ndar] ganuer ahaok pagalac ahaok blaoh wek marai sang wek, halei ndai [nai] Kacua saong nai Tâh Tabha sa gah tian hia damân adei sa gah tian tra khap di cei Balaok La-u, ndan [nan] mang ahaok marai tel sang blaoh cei Balaok La-u marai akhan saong po bia ndan [nan] lac ndai [nai] Taluic ngap habar di thau o tablait tangin blaoh laik karah tama dalam aia tasik blaoh nyu huec ka-nda ka dahlak puec jhak ka nyu blaoh nyu subik drei nyu tama dalam tathik aia tathik mblung dhit paje, dahlak [55] lijang di hu mboh nyu subik drei nyu tama tathik o tok di ai Kacua saong ai Tâh Tabha anyan [akhan] wek min ndan [nan] mang po bia ndan [nan] anyan [akhan] saong patao blaoh patao ndan [nan] ew ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha saong cei Balaok La-u merai tangi, patao saong po bia tangi cei Balaok La-u nem [ndem] lac di hu mboh nyu klak drei nyu tama tasik o dahlak tok di ai Kacua saong ai Tâh Tabha nem [ndem] wek saong dahlak min, cei Balaok La-u sa gah nem [ndem] saong patao sa gah daok hia po bia saong patao ndan [nan] lijang sa gah tangi cei Balaok La-u blaoh sa gah tra daok hia ka ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang patao saong po bia ndan [nan] [56] tangi ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha, ndan [nan] mang dua urang ndai [nai] ndan [nan] sa gah hia ka ndai [nai] Taluic sa gah tian tra hia anit lac ka cei Balaok La-u daok jua sa drei sa jan sa gah tian tra saong khap di cei Balaok La-u sa gah hia sa gah nem [ndem] wek saong po bia saong patao ndan [nan], lac dua urang dahlak daok nem [ndem] pakrâ klao saong nyu blaoh dua urang dahlak panar [pa-ndar] nyu thuak karah mata mah ndan [nan] ka dua dahlak aiek blaoh dua urang dahlak brei ka nyu wek paje blaoh nyu ngap habar di thau o tablait tangin nyu blaoh laik karah tama dalam aia tasik blaoh nyu daok maong karah ndan [nan] ahaok daok krâh nuec [nduec] blaoh nyu maong mboh karah ndan [nan] [57] hadah bhong dalam aia tasik blaoh nyu daok maong dua urang dahlak di hu thau lac ka nyu kieng subik drei tama tasik o mayah dua urang dahlak blaoh thau lac ka nyu kieng subik drei tama tasik ndan [nan] dua urang dahlak thaow wek je, ndan [nan] mang nyu maong mboh karah ndan [nan] hadah bhong dalam aia tasik blaoh nyu subik drei nyu tama dalam tasik di hamu kieng mboh o ndan [nan] mang dua urang dahlak nuec [nduec] nao anyan [akhan] saong cei Balaok La-u nyu je, ndan [nan] mang po bia saong patao ndan [nan] nem [ndem] wek saong cei Balaok La-u lac arak ni anâk juai daok hia caok tra juai kahlaom wak anâk saong ma Taluic di tuah tra o arak ni [58] anâk daok wek ka po jiéng [pajiong] di anâk sa thun ni baik kahlaom wak ma Taluic yau ndan [nan] je piaoh [piéh] ka po maong mboh rup anâk lijang yau po mboh rup ma Taluic kac min, po bia saong patao nem [ndem] wek saong cei Balaok La-u yau ndan [nan] gam nem [ndem] gam hia, ndan [nan] mang cei Balaok La-u nem [ndem] wek saong po bia saong patao ndan [nan] lac habien thun halei balan halei abih ha-uh [su-uh] abih ha-ain [su-auen] dahlak ndan [nan] mang dahlak thau sa mbeng je halei arak ni dahlak daok saong po tak ni je, cei Balaok La-u gam nem [ndem] gam hia, cei Balaok La-u hadar krung mang kal ndai [nai] Taluic ba lithei ka cei Balaok La-u pak [59] ngaok ralong sa drei ndai [nai] Taluic gan glai gan klaow hadar krung mang kal gleng kabaw pak ngaok ralong sa drei cei Balaok La-u blaoh sa drei ndai [nai] Taluic ba lathei ra-mbah ra-mbâp saong gep cei Balaok La-u harei halei malam halei lijang hia pak dalam ciew nih [ndih] je hia di hu brei ka [thei] mboh o, gep gan mik wa urang sa baoh nagar thei lijang hia damân ndai [nai] Taluic, halei ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha dom di daok pasia nyap [khap] di cei Balaok La-u mayah pok salaw lathei nao ka cei Balaok La-u huak lijang nyim [khim] klao, mayah pok jaluk aia nao ka cei Balaok La-u manyum lijang nyim [khim] klao, malam halei lijang dua urang ndai [nai] ndan [nan] cih hala brei ka cei Balaok La-u mbeng je [60] saong daok nih [ndih] pa-meyok cei Balaok La-u saong ba cei Balaok La-u nem [ndem] pakrâ klao lijang o klah di cei Balaok La-u hia ha-ain [su-auen] ndai [nai] Taluic rei, halei ndai [nai] Taluic ndan [nan] tak di kal ndai [nai] Taluic klak drei tama aia tathik blaoh ndai [nai] Taluic nyuk mak hu karah mata mah ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic cuh [cuk] di tangin blaoh aia tasik mblung di hu tra o, maduh yau ndan [nan] karah mata mah ndan [nan] ganreh baruw mang ndai [nai] Taluic cuk karah ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic ganreh ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic yué drei jiéng anak kamar blaoh luak tama dalam abaw saralang blaoh ndai [nai] Taluic daok dalam ndan [nan] mang mada harei mada riyak paoh [61] abaw saralang ndan [nan] saong ndai [nai] Taluic tabiak riyak paoh abaw saralang ndan [nan] saong ndai [nai] Taluic taom thun ndan [nan] mang tel gah tathik, blaoh abaw saralang ndan [nan] thek marai jai di tapien krung urang mak krang amraow, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tabiak di abaw saralang ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic tagok ngaok kieng nao sang ndan [nan] mang di thau labik nagar palei daok pak halei o ndai [nai] Taluic dom di daok hia ha-ain [su-auen] cei Balaok La-u ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic luak tama daok dalam abaw saralang blaoh daok dalam abaw saralang wek, ndai [nai] Taluic ha-ain [su-auen] cei Balaok La-u blaoh dom di daok hia di dalam abaw [62] saralang nang [ndang] sa balan sa matâh ndan [nan] mang mboh sa urang ong sa urang muk marai mak krang amraow, ndan [nan] ndai [nai] Taluic luak tama daok dalam abaw saralang blaoh ndai [nai] Taluic hia yau ranaih kamar, ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] mahit blaoh ong saong muk ndan [nan] nduec nao aiek di mboh anâk kamar o mboh sa baoh abaw saralang ndé [nde] la-i blaoh mahit kamar daok hia dalam , baruw mang ong saong muk ndan [nan] di harei ndan [nan] di jieng mak krang o nua [ndua] abaw ndan [nan] nao sang nua [ndua] nao tel sang blaoh muk ndan [nan] ba abaw ndan [nan] nao caik di dalam cakak pak likuk sang, ong su muk ndan [nan] kathaot panap [pa-ndap] lé [lo] dom di nao duah mak krang pablei mbeng min saong mak [63] njuh pablei mbeng min, ndan [nan] mang ong ndan [nan] nao mak njuh muk ndan [nan] nao pablei krang luai sang daok jua, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tabiak di abaw saralang ndan [nan] marai crang lathei aia hala panang ahar manang di riim mata aia caik tuh pa-mbiah tak ndan [nan] blaoh caik di dalam sang muk ndan [nan] blaoh ndai [nai] Taluic luak tama daok dalam abaw ndan [nan] wek, tel ong su muk ndan [nan] wek marai sang mboh lathei buh di salaw hala cih buh di huep [hop] ahar menang di rim mata buh caik pak ndan [nan], ndan [nan] mang ong su muk ndan [nan] lapa tian blaoh kieng huak, baruw mang muk ndan [nan] ghak ong ndan [nan] wek huec na [nda] ka urang ngap i-niai di dalam lathei ndan [nan], baruw mang ong nan lipa tian lé [lo] ong ndan [nan] di peng o ong ndan [nan] [64] atak kal blaoh ong ndan [nan] huak ong ndan [nan] huak sa pabah blaoh ong ndan [nan] njak nyam aiek di mboh mbuw hagaik o, ndan [nan] mang ong huak abih dua pangin blaoh di mboh habar o baruw mang ong ndan [nan] jak muk ndan [nan] huak, dua ong muk ndan [nan] huak di mboh habar o, ndan [nan] mang dua ong muk ndan [nan] huak je, ndan [nan] mang dak harei dak ong su muk ndan [nan] nao truh ndan [nan] mang dak harei dak ndai [nai] Taluic ndan [nan] tabiak di abaw ndan [nan] marai crang lathei ndan [nan] rei ralé [ralo] mbeng yau ndan [nan] lé [lo] baruw mang ong su muk ndan [nan] krak aiek ndan [nan] mang mboh ndai [nai] Taluic tabiak di abaw saralang ndan [nan] blaoh daok buh lithei ndan [nan] baruw mang ong su muk paluai marai apan di tangin daok, ong su muk ndan [nan] ain [auen] tabuen pok caik ngaok pha blaoh tangi lac [65] caow hai thei buh lithei buh ahar cih hala buh di hep paniak [pa-ndiak] aia buh caiy tuh di patit blaoh caik di dalam sang ong mang doh [deh] tani mai, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek gam nem [ndem] gam hia nem [ndem] lac ong saong muk duén dahlak mai raong dahlak di hu bruk [gruk] hagaik blaoh kieng ngap ka ong saong muk nye taka o dahlak tanâk lathei ngap ahar paniak [pa-ndiak] aia cih hala piaoh [piéh] ka ong saong muk mai mang mak njuh blaoh ong saong muk huak, ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] mboh ndai [nai] Taluic ndan [nan] siam bi-ndai [binai] lé [lo] blaoh ndai [nai] Taluic ndan [nan] cuk di tangin sa baoh karah mata mah hadah siam lé [lo] saong wak anyuk mah anyuk pariak bak tangin bak takuoy [takuai] ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] sanâng lac mada po [66] aluah-tak-ala brei mai ka ong saong muk ndan [nan], baruw mang ong saong muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac caow ngap habar blaoh jieng lithei jieng ahar ralo ya [yau] ni, ndan [nan] ndai [nai] Taluic dom di daok hia baruw mang ong saong muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac habar kac blaoh caow hia lé [lo], ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nang [ndom] wek lac dahlak ha-ain [su-auen] lé [lo] , ndan [nan] mang ong su muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac caow ha-ain [su-auen] thei, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek lac dahlak ha-ain [su-auen] seh ha-ain [su-auen] chai, baruw mang ong saong muk ndan [nan] nem [ndem] wek lac yah yau ndan [nan] je luai ka ong ngap lithung chai ka dom dam dara urang marai chai brah blaoh urang nem [ndem] pakrâ klao ka caow jiéng, ndan [nan] mang ong ndan [nan] ngap lithung chai , baruw mang dam dara adaoh ayeng pakrâ [67] klao ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic dol tian di urang harei halei jua urang ndan [nan] ndai [nai] Taluic hia, hajiong [hajieng] saong ndai [nai] Taluic hia lé [lo] ndan [nan] kayua hadar maik hadar ama saong ha-ain [su-auen] pasang baruw mang ndai [nai] tangi ong saong muk ndan [nan] lac di nagar ni hu patao rei ong, ndan [nan] mang ong saong muk ndan [nan] lac hu , ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tangi lac patao ndan [nan] hu anâk rei, ong su muk ndan [nan] lac patao ndan [nan] hu klau urang anâk kumei sa urang anâk patao angan ndai [nai] Taluic ndan [nan] kieng cei Balaok La-u blaoh cei Balaok La-u ba nik [ndik] ahaok nao kak blaoh ndai [nai] Taluic tablait tangin laik karah mata mah cei Balaok La-u tama dalam aia tasik blaoh ndai [nai] Taluic ndan [nan] daman karah lé [lo] blaoh ndai [nai] Taluic klak drei tama [68] tasik aia tathik mblung matai dhit paje daok wek ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua min , ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic tangi lac cei Balaok La-u kaow daok tak ndan [nan] saong patao hai kieng kumei paje, ong saong muk ndan [nan] lac cei Balaok La-u dom di daok hia harei lei jang hia malam lei jang hia taom thun mangni dom di daok hia , leh pabah ong saong muk ndan [nan] nem [ndem] blaoh ndai [nai] Taluic hia haduk ne [nde] yak ne [nde] laik, baruw mang ong saong muk ndan [nan] tangi ndai [nai] Taluic lac habar kac ong nem [ndem] buw tel angan cei Balaok La-u blaoh caow hia, ndai [nai] Taluic lac ong nem [ndem] njep urang hia ha-ain [su-auen] hadiip ndan [nan] dahlak druai lé [lo] , ong saong muk ndan [nan] di thau lac tacaow ndan [nan] ndai [nai] Taluic hadiip cei Balaok La-u o, ong saong [69] muk dom di ain [auen] tabuen lac tacaow po Aluah-ta-ala brei ka ong saong muk ndan [nan], ong su muk ndan [nan] di thau tacaow ndan [nan] ndai [nai] Taluic anâk patao o, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] wek saong muk saong ong ndan [nan] panar [pa-ndar] muk ndan [nan] nao blei kabuak marai ka ndai [nai] Taluic ma-nyim sa saong dalah ka muk ndan [nan] nao pablei, ndan [nan] mang muk ndan [nan] nao blei kabuak marai ka ndai [nai] Taluic ma-nyim , baruw mang ndai [nai] Taluic manyim hu sa saong dalah nan blaoh ndai [nai] Taluic brei ka muk ndan [nan] nao pablei, blaoh ndai [nai] Taluic thuak karah mata mah di tangin ndai [nai] Taluic brei ka muk ndan [nan] cuk blaoh ndai [nai] Taluic kakei saong muk ndan [nan] panar [pa-ndar] muk ndan [nan] juai nao pablei pak halei juai nao tama dalam madhir patao [70] blaoh muk ew pablei baruw mang muk ndan [nan] peng kadha tacaow ndan [nan] blaoh muk ndan [nan] ba dalah ndan [nan] nao pablei pak madhir patao , baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew tangi lac thei ba hagaik pablei, ndan [nan] mang muk ndan [nan] lac dahlak ba dalah, baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk nao pathau saong patao ndan [nan] mang patao panar [pa-ndar] pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew muk ndan [nan] ba dalah marai ka patao blei baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk ew muk ndan [nan] marai, baruw mang patao panar [pa-ndar] muk ndan [nan] mak dalah ndan [nan] ka patao aiek, baruw mang muk ndan [nan] mak dalah ndan [nan] ka patao aiek , patao mboh dalah ndan [nan] pok banga dreh tangin ndai [nai] Taluic ma-nyim lé [lo] blaoh patao [71] haok aia mata blaoh patao ew po bia saong ndai [nai] Kacua ndai [nai] Tâh Tabha saong cei Balaok La-u marai aiek dalah muk nan, baruw mang abih drei dom urang ndan [nan] marai aiek blaoh mboh dalah ndan [nan] dreh tangin ndai [nai] Taluic ma-nyim lé [lo] bruw mang po bia hia saong cei Balaok La-u hia yah ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha lijang hia rei , baruw mang patao tangi muk ndan [nan] lac thei ma-nyim dalah ni, muk ndan [nan] nem [ndem] wek lac tacaow dahlak min, patao tangi lac tacaow taglaoh di phik hai lac tacaow habar, baruw mang muk ndan [nan] nem [ndem] wek lac di njep tacaow taglaoh di phik prân dahlak o tacaow dahlak duon min, tak di kal ndan [nan] dahlak saong pasang dahlak nao mak krang blaoh mahit sap kamar hia di dalam abaw [72] saralang baruw mang dua hadiip pasang dahlak mak abaw ndan [nan] ba marai sang baruw mang tacaow dahlak tabiak di dalam abaw saralang ndan [nan] marai daok saong hadiip pasang dahlak blaoh raong hadiip pasang dahlak , muk ndan [nan] nem [ndem] saong patao yau ndan [nan] blaoh panar [pa-ndar] muk ndan [nan] caik dalah pak madhir patao ka pa-nraong iw pa-nraong hanuk nyik [khik] blaoh patao panar [pa-ndar] muk ndan [nan] wek nao sang blaoh ba tacaow muk ndan [nan] marai ka patao aiek ka mang patao payaom dalah muk ndan [nan], baruw mang muk ndan [nan] kieng talabat patao blaoh muk ndan [nan] nao sang, ndan [nan] mang cei Balaok La-u maong mboh karah mata mah muk ndan [nan] cuk di tangin muk ndan [nan] baruw mang cei Balaok La-u panar [pa-ndar] muk ndan [nan] brei karah ndan [nan] [73] ka cei Balaok La-u aiek baruw mang cei Balaok La-u krân kurah mata mah ndan [nan] blaoh cei Balaok La-u ba karah ndan [nan] nao ka ndai [nai] Kacua saong ndai [nai] Tâh Tabha krân, baruw mang dua urang ndai [nai] krân lac biak karah cei Balaok La-u baruw mang cei Balaok La-u tuei klaon muk ndan [nan] nao pak sang muk nan, baruw mang muk ndan [nan] ba cei Balaok La-u nao mang jaik kieng tel sang muk ndan [nan] baruw mang ndai [nai] Taluic maong mboh cei Balaok La-u blaoh ndai [nai] Taluic tama dalam sang muk ndan [nan] blaoh daok dalam, ndan [nan] mang muk ndan [nan] marai tel sang blaoh muk ndan [nan] ew ndai [nai] Taluic lac caow ley tabiak mai ka cei aiek ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic ndan [nan] lac cei halei kieng aiek dahlak blaoh tama dalam sang mai aiek halei tabiak nan dahlak di tabiak o, ndan [nan] mang cei Balaok La-u krân sep ndai [nai] Taluic [74] baruw mang cei Balaok La-u lakau di muk nan panar [pa-ndar] muk ndan [nan] ba cei Balaok La-u tama sang nao aiek, baruw mang muk ndan [nan] ba cei Balaok La-u tama nao aiek cei Balaok La-u tama nao tel blaoh ndai [nai] Taluic klak drei di ngaok pha cei Balaok La-u blaoh ndai [nai] Taluic hia blaoh ndai [nai] Taluic anyan [akhan] wek saong cei Balaok La-u abih baoh panuec krung ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua ngap laik karah ndan [nan] tama tasik blaoh ndai [nai] Taluic huec di cei Balaok La-u puec jhak baruw mang ndai [nai] Taluic klak drei tama tasik tuei klaon karah ndan [nan] ndai [nai] Taluic nem [ndem] abih baoh panuec baruw mang cei Balaok La-u jang hia yah ndai [nai] Taluic jang hia, baruw mang muk ndan [nan] luai ka cei Balaok La-u saong ndai [nai] Taluic daok [75] hia saong gep nyu dalam sang ndan [nan] blaoh muk ndan [nan] tabiak mai daok pak lingiw blaoh muk ndan [nan] saong ong ndan [nan] daok sanâng saong daok peng ndai [nai] Taluic nem [ndem] saong cei Balaok La-u, ndan [nan] mang ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u hia caok nem [ndem] puec saong gep blaoh ndai [nai] Taluic saong cei Balaok La-u tabiak marai nem [ndem] saong dua ong muk ong ndan [nan] abih baoh panuec blaoh cei Balaok La-u ba ong saong muk ndan [nan] saong ndai [nai] Taluic marai sang cei Balaok La-u, ndan [nan] mang cei ndan [nan] ba ndai [nai] Taluic marai tel sang blaoh cei Balaok La-u tama madhir pathau saong patao, ndan [nan] mang patao saong po bia nuec [nduec] tabiak marai kuer di takuéy [takuai] ndai [nai] Taluic blaoh patao saong po bia ndan [nan] hia ne [nde] gaok ne [nde] glah, halei ndai [nai] Tâh Tabha saong ndai [nai] Kacua lijang hia mang gam hia gam huec di [76] ndai [nai] Taluic, ndan [nan] mang abih drei pa-nraong iw pa-nraong hanuk saong abih drei mik wa adei sa-ai urang marai ain [auen] di ndai [nai] Taluic di grep nagar marai ain [auen], baruw mang ndai [nai] Taluic nem [ndem] abih baoh panuec krung ru-mbah ri-mbâp di dalam aia tathik habar lijang ndai [nai] Taluic nem [ndem] abih , baruw mang pa-nraong iw pa-nraong hanuk mik wa adei sa-ai urang halei lijang haok ia mata ka ndai [nai] Taluic je, bruw mang patao kaoh sa bi-ndah [binah] palei brei ka ong saong muk ndan [nan] bayar aen ngai ong su muk ndan [nan], blaoh patao brei dalah krung ndai [nai] Taluic manyim ndan [nan] ka muk nan, blaoh patao brei ka ong saong muk ndan [nan] sa ratuh radaih padai saong sa ratuh jon [jién] blaoh tel patao luic rai cei Balaok La-u [77] tagok rai jieng patao mayah hadei cei Balaok La-u luic rai ndan [nan] anâk cei Balaok La-u tagok rai jieng patao wek ./. ——————————————- n{ dlUk& k c] bOl_` lu md t` d{ k& n# s o) s tOc_* kOT_@ rvH m[# , n# m) dW o) tOc_* n# On_ m` xUH b ls] n# s cY-@ aY n# s kOd_H Rt\ aRm s Ev` pjY-~ Oq_` rEdH , ObL_H RtW` On_ m` xU` [ xUH ] p` Oq_` rOl~ , On_ t-& Oq_` rOl~ o) tOc_* hW` v-) ObL_H On_ m` xUH t-& RkIH pnY` [ pVY` ] mhU aY n# m) tOc_* n# On_ dWH aY mz.U On_ OvH aY tmUH d{ RkIH tl[ b` s tl[  [ 2 ] , brU* tOc_* n# mz.U ObL_H zU mn] , n# m) zU w-` mEr az# [ aK# ] Os= o) n# brU* m) o) n# pn^ [ pV^ ] tOc_* n# b On_ pOt_* aY n# k o) n# kY-~ mz.U , n# m) tOc_* n# b pOt_* On_ OvH aY d{ tl[ n# TU w-` ab[H , brU* m) o) n# tq[ tOc_* n# l! hb^ l! ObL_H OvH Od. n. bTH d{ tl[ n{ ObL_H o OvH aY o , brU* m) tOc_* n# l! w-` l! m) k^n[ dhL` OvH aY ERT% tl[ dhL` mz.U RTU$ mhU ObL_H dhL` mn] b` Rd] b` j# hb^ k! ar` n{ ObL_H aY TU ab[H Ec` , o) n# mhU aY d{ T-U  [ 3 ] lb[` kY-~ q$ hb^ o , n# m) o) n# pn^ [ pV^ ] tOc_* n# rw` xUH mEr pjY-~ ObL_H RtW` rEdH On_ s) , brU* m) tOc_* n# Od_` d{ s) Oy+ tjUH hr] g# ObL_H mtY# j- , n# m) Od. Of- gnW-^ l) Os+ ORp= aEnH dl. pl] m` o) Os= mU` n# , l! hb^ tOc_* o) sU mU` n# tY# ObL_H o OvH ps) o , n# m) o) Os= mU` l! dhL` lk-U n< [ V< ] w-` Os= Of- gnW-^ l) Os+ hl] tOc_* dhL` m) aEnH n- [ V- ] n{ d{ hU T-U n< [ V< ] pRkI OkL_ Os= T] o tOc_* dhL` t` d{ k& zU tW] o) zU On_ m` xUH p` Oq_`  [ 4 ] rOl~ ObL_H tOc_* dhL` mhU aY ObL_H zU On_ [ dWH ] aY mz.U zU On_ OvH aY tmU` [ tmUH ] d{ RkIH tl[ ObL_H zU mz.U Os= zU mn] ObL_H zU mEr az# [ aK# ] Os= o) zU ObL_H o) zU pn^ [ pV^ ] zU b o) zU On_ mz.U , n# m) zU b On_ mz.U OvH aY d{ tl[ n# TU w-` ab[H ObL_H dW o) tOc_* pjY-~ xUH w-` mEr s) j- , md tOc_* dhL` mtY# kyW mz.U aY d{ tl[ n# m[# , n# l) Os+ Of- gnW-^ ur) d{ m` o) Os= mU` Rt\ o , brU* m) tOc_* n# mtY# dlp# bl# n[H [ V[H ] d{ apW] anI` lk] w[& jY-~  [ 5 ] ObL_` lu md hr] md ORp= t-& t[jUH bl# T-U n< [ V< ] b` Ot+ TU# T-U nW-! [ VW-! ] mi[# rH tEk EgL b` kL-U TU# T-U gL-) pEb% , n# zU Em m) gL-) pEb% zU pn^ [ pV^ ] Em` zU papH zU d{ pOt_ k zU kY-~ gL-) kUb* pOt_ n# m) Em` zU l! w-` , l! hI tq[# tEk o hU Od. d{ glU~ On_ glU~ Em y-U n# , gL-) pEb% Ot` kL-U Rd] pEb% m[# Em` Od_` ku` hW-! n [ V ] k lh[` m[# ObL_H anI` pn^ [ pV^ ] Em` papH anI` d{ pOt_ k anI` kY-~ gL-) kUb* pOt_ hb^ k! kY-~  [ 6 ] kLH d{ lh[` , kb* ur) rOl- [ rOl ] y-U V# [ n# ] , Em` zU d{ papH zU o zU d{ p-) o s dW zU pn^ [ pV^ ] Em` zU On_ pW-! Os= pOt_ b[ hU k zU j- , V# [ n# ] m) Em` zU cY[$ On_ pW-! Os= pOt_ k zU j- , brU* m) Em` zU On_ pW-! Os= pOt_ , Em` zU On_ t-& pbH v-) j) pOt_ ObL_H aT-U ORg_H , V# [ n# ] m) pORn= i* pORn= hnU` ew tq[ , l! T] mEr ObL_H aT-U ORg_H , V# [ n# ] m) Em` bOl_` lu l! dhL` m[# , brU* pORn= i* pORn= hnU` tq[ l! Em hOt_ bY-# n{ , V# [ n# ] m) Em` bOl_` lu l! dhL` mEr pW-! Os=  [ 7 ] Of- gRn-H pERt md anI` dhL` j bOl_` lu pn^ [ pV^ ] dhL` Em pW-! ppH [ papH ] zU d{ Of- gRn-H pERt k zU kY-~ gL-) kUb* Of- gRn-H pERt brU* m) pORn= i* pORn= hnU` tm On_ pT-U pOt_ , l! kn DU& pl` tEk mH gRn-H pERt md pnW-! Em` bOl_` lu mEr pW-! kUb* Of- gRn-H pERt k anI` zU gL-) , V# [ n# ] m) pOt_ pn^ [ pV^ ] pORn= i* pORn= hnU` ew bOl_` lu Os= Em` j bOl_` lu mEr , brU* m) pORn= i* pORn= hnU` ew Em` bOl_` lu Os= bOl_` lu mEr  [ 8 ] brU* m) Em` bOl_` lu j bOl_` lu mEr , V# [ n# ] m) tq[ l! Em` j bOl_` lu b j bOl_` lu Em hOt_ , V# [ n# ] m-) Em` bOl_` lu l! kn DU& pl` tEk mH Of- md anI` dhL` j bOl_` lu pn^ [ pV^ ] dhL` mEr papH zU k zU kY-~ gL-) kUb* Of- V# [ n# ] m) pOt_ n# l! w-` l! kUb* k-U kL-U pLUH ur) Ob_& ObL_H gL-) d{ kj$ o d{ kLH d{ lh[` o , kUb* t-& kL-U rtUH tm# , ObL_H j bOl_` lu gL-) hb^ kY-~ k kj$ , brU* m) pOt_ ew j bOl_` lu mEr tq[ l! kUb* k-U t-& kL-U rtUH tm#  [ 9 ] hI gL-) d{ kj$ o n [ V ] n# m) j bOl_` lu l! dhL` gL-) kj$ m[# , brU* m) pOt_ l! w-` Os= Em` j bOl_` lu l! yH y-U V# [ n# ] j- j bOl_` lu ElW k zU Od_` w-` p` n{ pgUH m) pg- [ pOg- ] k zU On_ gL-) kb* , Em` bOl_` lu w-` On_ s) Eb` , V# [ n# ] m) Em` bOl_` lu w-` On_ s) , j bOl_` lu Od_` w-` Os= pOt_ t-& hdH m) pg- [ pOg- ] Od. Ob_& pOt_ p-H kb* k j bOl_` lu On_ gL-) p-H kb* tbY` d{ w^ ObL_H ur) Op` j bOl_` lu ORc= Oq_` Or= kb* bOl_H ur) tY$ kb* prOl_ On_ k zU gL-)  [ 10 ] p` Oq_` rOl~ Od. Ob_& pOt_ tY$ kb* pOl_ [ prOl_ ] t-& Oq_` rOl~ k j bOl_` lu ObL_H w-` mEr s) ObL_H zU n< [ V< ] Os= g-$ zU rH jl# Em l! Od. pOn_` Rd] ObL_H tY$ kb* prOl_ On_ k bOl_` lu gL-) V# [ n# ] q$ y-U Rd] tY$ kb* On_ plh[` OT_H Od. ur) V# [ n# ] zU Od_` n< [ V< ] Os= g-$ zU l! j bOl_` lu gL-) kb* V# [ n# ] d{ kLH d{ lh[` o , V# [ n# ] m) t-& jl ORp= kEV [ kEn ] tlW[! anI` pOt_ b ls] On_ k bOl_` lu On_ OvH Od. kb* Od_` v-) gU& g-$ ObL_H d{ OvH bOl_` lu o ; V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! ew , l!  [ 11 ] bOl_` lu On_ hOt_ bOl_H o OvH o y [ y-U ] n{ El% ; V# [ n# ] m) ObL_` lu l! Of- ObL_H bOl_` lu glU~ Em Ot+ EV [ En ] tlW[! ObL_H m` ls] On_ hW` V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! w-` mEr s) , t-& bY-^ hr] bOl_` lu tY$ kb* mEr s) ObL_H bOl_` lu Es@ tOg` Od_` Oq_` Or= kb* ObL_H tY$ kb* mEr s) kb* OvH ab[H d{ hU lh[` s Rd] hl] o t& ab[H V# [ n# ] m) pOt_ n[@ [ an[@ ] dl. hEt sn) l! manuus [ mnW[( ] ur) pOt_ s dpW-& ObL_H gL-) kUb* V# [ n# ] d{ kj$ o ObL_H ar` n{ j bOl_` lu tq[# o hU yH tEk l[j) o hU ObL_H  [ 12 ] zU gL-) kb* V# [ n# ] kj$ Ec` md dl. rU$ zU hb^ e , V# [ n# ] m) hr] hd] pn^ [ pV^ ] j bOl_` lu b g. aRm ObL_H yH OvH hEr` V# [ n# ] ruuic [ rW[! ] hEr` ObL_H gw) w\` d{ dOk [ dOk- ] kb* V# [ n# ] b mEr s) Eh pg Rd] tyH pj- rW[! pOt+ s hr] s d) j) hU s hr] 2 d) j) hU m[# md hr] md Rd] rW[! pOt+ pOt_ kk] Os= j bOl_` lu y-U V# [ n# ] , t-& tU\` hl] ur) p-H kb* k bOl_` lu On_ gL-) V# [ n# ] ur) Op` j bOl_` lu ORc= Oq_` Or= kb* Os= m` aRm ORc= Oq_` Or= kb* Os= bOl_` lu ObL_H ur) tY$ kb*  [ 13 ] prOl_ On_ k bOl_` lu gL-) j- , V# [ n# ] m) d{ hr] V# [ n# ] EV [ En ] tlW[! b lT] On_ k j bOl_` lu ObL_H EV [ En ] tlW[! On_ t-& cOm_H zU gL-) kb* V# [ n# ] ObL_H EV [ En ] tlW[! Rk` kY-~ gL-) bn[ [ bV[ ] baniai bOl_` lu ruuic [ rW[! ] hEr` hb^ V tq[# o hU tEk o hU , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! On_ OvH bOl_` lu Rc-) manuuis [ mnW[( ] ur) Ob_& B$ rbU* tm# kW-! rtUH hU mD[^ r[y pEb% pbW] mnU` kOx_` aT-U ORg_H hmU Os= s-$ rb$ mr{ hg^ Oc~ [ c-) ] aOd_H pRm- j bOl_` lu lk] kUm] as[@ ORp= d. dr mnI~ On_ dWH rW[!  [ 14 ] hEr` m-n) ur) gL-) kb* , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! Rk` Om= OvH b` mt b` adU~ , T-U k bOl_` lu gRn-H ObL_H EV [ En ] tlW[! Ec` dl. tY# d{ n< [ V< ] tbY` k ur) T-U o , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! ew q$ m-q$ dWH zU , EV [ En ] tlW[! ew , l! Em m` lT] hW` l- A bOl_` lu l-% , V# [ n# ] m) bOl_` lu pn^ [ pV^ ] Od. manuus [ mnW[( ] ur) Ob_& B$ lW` tm tnIH r[y ab[H , V# [ n# ] m) bOl_` lu glU~ Em Ot+ EV [ En ] tlW[! ObLaH m` lT] On_ hW` , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! w-` mEr s) ObL_H pOt_ tq[ l! mU tlW[! b lT] s v-) n{ hb^ ObL_H jl Ol-  [ 15 ] V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! l! dhL` On_ w^ EgL jl# m[# Of- , V# [ n# ] EV [ En ] tlW[! pW-! pg@ pOt_ m[# EV [ En ] tlW[! Od_` jl Ol V# [ n# ] k ayW Od_` Rk` aY-` bn[ [ bV[ ] baniai bOl_` lu m[# , n# m) t-& bY-^ hr] ObL_` lu tY$ kb* mEr s) bOl_` lu Rc) w-` zU ew Od. Ob_& B$ manuus [ mnW[( ] ur) tOg` m) al tnIH r[y mEr mlY-~ kn zU mn) On_ gw) hEr` ObL_H w\` d{ dOk [ dOk- ] kb* mn) On_ tY$ kb* mEr pOt+ g-$ mn) ur) Od_` m-lY-~ kn zU , n# m) Od. Ob_&  [ 16 ] B$ gw) hErH [ hEr` ] ObL_H w\` d{ dOk [ dOk- ] kb* w\` d{ Rg-$ Rd] kb* ObL_H zU tY$ kb* prOl_ ObL_` lu mEr m) tIH jl# ObL_H bOl_` lu pn# [ pV^ ] Od. manuus [ mnW[( ] ur) lW` tm tnIH r[y w-` ab[H , V# [ n# ] m) ObL_` lu tY$ kb* mEr t-& s) V# [ n# ] pOt_ Od. d{ Od_` mOy+ Os= ab[H s ng^ lk] q# km] d. q# dr as[@ ORp= mOy+ ObL_` lu , pOt_ ew Od. Ob_& mEr hd] w\` hEr` d{ dOk [ dOk- ] kb* V# [ n# ] n) [ V) ] tjUH pl] Ob_& V# [ n# ] m) w\` hEr`  [ 17 ] d{ dOk [ dOk- ] kb* ObL_H ab[H , w\` hEr` d{ Rg-$ Rd] kb* ObL_H pOt+ n) [ V) ] s pLUH rEdH hEr` , V# [ n# ] m) t-& hr] hd] ObL_` lu On_ gL-) kUb* ObL_H EV [ En ] tlW[! b lT] w-` s v-) Rt\ ObL_H EV [ En ] tlW[! Rk` w-` , V# [ n# ] OvH ObL_` lu Rc-) w-` s v-) Rt\ , V# [ n# ] EV [ En ] tlW[! OvH mnW[( ur) lk] km] d. dr b` vL) b` kt) rbU* rbU* tm# tm# , Od_` mlY-~ kn ObL_` lu , ab[H aTU^ bY-$ d{ EgL RkU` rs\ l[m# Ok_` r[Om= cgU* Os= ab[H mt c} d{ EgL tYo) by-# aRm` cgU^ Ev! kRtU* cr* tEw@ d{ d# d{  [ 18 ] d# Ol` n{ mEr Ok= ObL_` lu mRkI d{ TU* lb[` kY-~ pg$ o , hmU Os= s! [ s$ ] rb$ mr{ c-) hg^ srEV [ srEn ] aOd_H pRm- ObL_` l[u , mnU` kOx_` aTU* ORg_H q$ y-U pl] ng^ ur) p` V# [ n# ] , EV [ En ] tlW[! n[` [ V[` ] Oq_` kUy-U ObL_H EV [ En ] tlW[! Od_` Om= , EV [ En ] tlW[! d{ hU Rb] rU$ EV [ En ] tlW[! k ObL_` lu OvH o , EV [ En ] tlW[! Oj_H hl ky-U j. rU$ w-` , EV [ En ] tlW[! Om= OvH ObL_` lu kY-~ gL-) , myH EV [ En ] tlW[! o n[` [ V[` ] ky-U ObL_H Om= o n# EV [ En ] tlW[! Om= d{ OvH ObL_` lu kY-~ gL-) o , V# [ n# ] m) EV [ En ] tlW[! n[` [ V[` ] Oq_` ky-U ObL_H EV [ En ] tlW[! Od_` gL-) OvH ObL_`  [ 19 ] lu tbY` d{ hr.U lu sY. l[k] d{ T-U lb[` kY-~ pg$ o , gnUH ObL_` lu tRz` hdH sY. lk] y-U pUrm[ s kL. ObL_H Od. Ob_& B$ Od_` aOt= hg^ aOt= c-) auak rb$ ayU` mr{ aOd_H pRm- ObL_H Ok= ObL_` lu Ot+ d^ rU$ ObL_` lu , hl] ObL_`
0 Rating 586 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 24, 2012
inrasaraNguyên tác Akhar thrah – Chuy?n t? La tinh B?n d?ch Vi?t ng? - Index- T?ng lu?n- 3 Akayet Ch?m+ Akayet Dewa M?no+ Akayet  Inra Patra+ Akayet  Um M?rup T?NG QUAN AKAYET – S? THI CH?M   1. Khái quátNgay t? th?i ti?n s?, ?n ?? ?ã có nh?ng giao l?u quan tr?ng v?i ?ông Nam Á. T? nhu c?u phát tri?n kinh t? ??n nh?ng b?t an, xáo ??ng c?a th?i cu?c, t? cu?c thiên di kh?ng l? vào th? k? th? III, nhân cu?c chinh ph?c ?? máu ??t Kalinga th?i Açoka Nhà Maurya ??n các th?i kì chuy?n di c?a các giáo phái Ph?t giáo sau khi b? ?ánh b?t kh?i ??t ?n, ph?i tìm ???ng bành tr??ng ra ph??ng ?ông… T?t c? nh?ng s? ki?n trên ?an b?n v?i nhau, kéo theo sau chúng dòng v?n hóa ?n và v?n ch??ng Ph?n ng? nh?p ??a ?ông Nam Á.Tuy nhiên, s? giao l?u không h?n ch? x?y ra m?t chi?u t? Tây sang ?ông. Dân Indonesia, thông th?o ngh? bi?n, có th? ?ã ??n ?n ?? khá ?ông nh? ng??i ?n ?? ??n ?ông Nam Á. Và sau m?t th?i gian dài trao ??i qua l?i, ?ông Nam Á tr?i qua m?t bi?n ??ng l?n lao ?? r?i ??u th? k? th? II sau Công nguyên, ?nh h??ng c?a ?n ?? b?t ??u tràn lan ? ?ông Nam Á.Nh? th?, V??ng qu?c Champa, c? ng? d?c mi?n duyên h?i Bi?n ?ông c?a Vi?t Nam ngày nay, c?ng ?ã nh?n ???c nh?ng ?nh h??ng quan tr?ng t? phía ?n ??. Nhà s? h?c Henri Maspéro xác ??nh r?ng, kho?ng n?m 380, Bhadravarman, v? vua Champa có tên kh?c trên bia ?á ? Qu?ng Nam, ?ã d?ng ??n th? th?n Shiva Bhadresvara ? M? S?n. S? ki?n ch?ng t? là Bà-la-môn giáo tr??c ?ó ?ã ?âm r? sâu vào m?nh ??t này. Ph?t giáo Nguyên th?y ch? ??n vài th? k? sau nh?ng r?i l?i m?t ?nh h??ng ít lâu sau ?ó tr??c s?c ép quá l?n c?a giáo phái Brahma.Dù là Ph?t giáo hay Bà-la-môn giáo, trong su?t quá trình sinh thành và phát tri?n c?a chúng, th? ngôn ng? chuyên ch? giáo lí này – Sanskrit và Pâli – v?n ?ã ?? l?i m?t d?u ?n r?t ??m nét trong ngôn ng? c?a ng??i b?n ??a.Nh?n xét sau ?ây c?a s? gia G.D.Hall cho chúng ta m?t am hi?u khái quát:“?n giáo là tôn giáo c?a giai c?p quý t?c, nên không thu ???c l?p bình dân ??i chúng. T?p quán b?n x? v?n ti?p t?c phát tri?n song song v?i t?p quán ?n. Mãi ??n m?y th? k? sau, khi Ph?t giáo Nguyên th?y Theravada và H?i giáo nh?p ??a và ???c truy?n bá nh? m?t tôn giáo bình dân, nh?ng ?nh h??ng ngo?i lai này m?i th?t s? va ch?m v?i n?p s?ng ng??i dân quê. ??n khi ?y, c? hai tôn giáo m?i hòa mình vào n?n v?n hóa b?n x? r?i bi?n th? sâu ??m (…). Và khi mà th? ng? không ?? hi?u l?c ?? di?n t? nh?ng í t??ng m?i này, thu?t ng? ?n có ???ng ti?n th?” [1].   Tr??c tiên, ngôn ng? và v?n minh ?n ch? ?nh h??ng ??n ??i s?ng sinh ho?t ? th??ng t?ng c? c?u c?a t? ch?c xã h?i mà Bà-la-môn giáo là ??i di?n ??c quy?n. Gi?i th??ng l?u Ch?m suy t? và vi?t b?ng ti?ng Ph?n. Nên có th? nói bên c?nh các bi kí b?ng ch? b?n ??a ít ???c l?u ý, g?n nh? toàn b? v?n bia kí Ch?m t? th? k? XVI tr? v? tr??c ???c vi?t b?ng ch? Ph?n, và ?nh h??ng b?i Ph?n ng?.Nh?ng sau khi ?? qu?c ?n ?? (t? th? k? XI, và nh?t là vào th? k? XV) ki?t qu? b?i s? ?ánh phá và chi?m ?óng c?a quân ??i H?i giáo thì ?nh h??ng c?a v?n hóa ?n c?ng suy d?n ? kh?p vùng ?ông Nam Á. V??ng qu?c Champa, trong quãng th?i gian ?ó, ch? quan h? giao l?u v?i các n??c trong khu v?c ? phía Nam mà các s? ki?n l?n ???c ghi nh?n là vào cu?i th? k? XIII và ??u th? k? XIV, Jaya Simhavarman III (t?c Ch? Mân) c??i công chúa Nhà Tr?n là Huy?n Trân và công chúa Java là Tapasi. Vào th?i ?i?m này, v??ng qu?c Champa c?ng ?ã k?t h?p v?i ??i Vi?t và Java t?o thành m?t liên minh quân s? ch?ng ?? qu?c Mông – Nguyên. Vi?c Ppo Kabrah (1460-1494) c??i m?t công chúa Mã Lai, s? m?ng quân s? và tôn giáo c?a hai hoàng t? Mã Lai ? ??t Champa vào cu?i th? k? XVI, hay s? ki?n Ppo Rome (1627-1651) sang Kelantan tìm hi?u giáo lí H?i giáo Mã Lai và công d?ng c?a nó… [2] nói lên m?i quan h? m?t thi?t c?a v??ng qu?c Champa v?i các n??c trong khu v?c.??y là nh?ng ?i?u ki?n thu?n l?i cho h?t gi?ng v?n hóa t? t??ng H?i giáo n?y m?m và phát tri?n trong m?t ??t n??c ?ang suy y?u này. ?? không lâu sau ?ó, kho?ng cu?i th? k? XVI ??u th? k? XVII [3], v?n hóa H?i giáo ?ã gi? vai trò quan tr?ng trong V??ng qu?c Champa. Và vì H?i giáo là tôn giáo mang tính ??i chúng nên t? t??ng c?a nó ?ã có nh?ng ?nh h??ng sâu ??m ??n nhi?u t?ng l?p c?a xã h?i.Có th? nói v?n h?c Ch?m, sau th?i kì suy tàn c?a v?n bia kí, ít nhi?u c?ng mang d?u ?n c?a tôn giáo Islam. Nguy?n T?n ??c nh?n ??nh ??i ý là, c? vùng ?ông Nam Á, b? ph?n v?n h?c b?ng ti?ng vay m??n chi?m ?u th? nh?ng sau ?ó nh??ng l?i cho v?n h?c b?ng ti?ng dân t?c [4]. V?n h?c Ch?m c?ng không ?i ra ngoài thông l? ?y. Cho nên, ch? ??n th? k? XVII, v?i s? xu?t hi?n c?a S? thi Dewa M?no và các thi ph?m ti?p theo sau ?ó, v?n h?c dân t?c m?i th?t s? có c? h?i ?? nói lên ti?ng nói c?a mình.M?c dù hai trong ba akayet n?i ti?ng ???c vay m??n t? ngoài, vay m??n t? c?t truy?n ??n tên nhân v?t, ??a danh… nh?ng v?i ch? vi?t (akhar thrah) và ngôn ng? c?a mình, các thi s? Ch?m ?ã k?p th?i hoán c?i chúng cho phù h?p v?i ??c tr?ng v?n hóa dân t?c.Do ?ó, xét v? m?t hình th?c, dù các akayet Ch?m không có ???c cái t?m vóc ?? s? c?a s? thi ?n ?? hay các tác ph?m cùng th? lo?i c?a các n??c trong khu v?c, nh?ng chúng luôn ??t t?i m?t b? c?c g?y g?n và cô ?úc. ?i?u c?t y?u là chúng ?ã nêu b?t ???c hành ??ng và tính cách anh hùng c?a nhân v?t b?ng các tr?n giao chi?n v?i k? thù, các chi?n công l?y l?ng, í chí v??t tr? ng?i ?? ?i ??n tiêu ?ích m?t cách anh d?ng. C? ba s? thi ??u l??c b? m?i sinh ho?t ??i th??ng, các l? nghi phong t?c t?p quán r??m rà và c? quang c?nh hùng v? c?ng ???c ti?t ch? m?t cách ?áng k?. T?t chi ti?t ??u n?m trong màn k?ch và ch? ph?c v? cho t?n k?ch.M?t khía c?nh khá ??c ?áo n?i b?t lên ? các akayet này là, bên c?nh hai khuôn m?t ??i di?n cho s?c m?nh c?a th? l?c c? là Dewa M?no và Inra Patra, xu?t hi?n m?t khuôn m?t hoàn toàn m?i: Um M?rup. Có l? chính vì th? mà trong khi Dewa M?no và Inra Patra, sau khi v??t qua m?i hi?m nguy, tr? v? quê h??ng trong khúc ca kh?i hoàn thì, Um M?rup l?i kiêu d?ng g?c ch?t n?i chi?n tr??ng. Nh?ng cái ch?t c?a tráng s? này báo hi?u m?t l?c l??ng m?i ?ang ?i t?i, r?m r? và không gì c?n n?i, h??ng v? v??ng qu?c Champa. ?? r?i sau ?ó, Champa, tr??c nguy c? tan rã, ?ã ph?i m? vòng tay ?ón nh?n m?t lu?ng ?nh h??ng m?i khác t? bên ngoài: v?n hóa H?i giáo. 2. S? thi Ch?m2.a. Dân t?c Ch?m ? Vi?t Nam Hi?n nay, ng??i Ch?m g?m h?n m?t tri?u ng??i s?ng r?i rác trên kh?p th? gi?i. Riêng ? Vi?t Nam, có s? m?i nh?t ???c ghi nh?n là: 130.000 ng??i [5]. H? s?ng thành c?ng ??ng phân b? không ??u ? m??i t?nh thành khác nhau. Trên bình di?n v?n hóa - ??a lí, có th? phân chia làm ba nhóm nh? sau:? hai t?nh Bình ??nh và Phú Yên, ng??i Ch?m Hroi có kho?ng 21.000 ng??i. Ng??i Ch?m khu v?c này v?n còn l?u truy?n phong t?c t?p quán b?n ??a có ph?n pha tr?n v?i t?p t?c dân t?c Bana, c? ngôn ng? hàng ngày h? c?ng dùng pha l?n ti?ng Bana. Không còn l?u gi? ch? Ch?m truy?n th?ng akhar thrah nh? ng??i Ch?m ? hai t?nh Ninh Thu?n và Bình Thu?n, các tr??ng ca và s? thi ch? ???c k? truy?n mi?ng nh? m?t th? lo?i v?n h?c dân gian [6].? khu v?c phía Nam bao g?m các t?nh An Giang, Tây Ninh, Thành ph? H? Chí Minh, ??ng Nai, Bình Ph??c,… dân s? Ch?m có kho?ng 24.000 ng??i. T?i khu v?c này, ??i b? ph?n ng??i Ch?m theo tôn giáo Islam (quen g?i là H?i giáo m?i), sinh ho?t phong t?c t?p quán hoàn toàn theo H?i giáo. Bà con c?ng bi?t ??n ch? Ch?m truy?n th?ng và v?n b?n c? c?a t? tiên, nh?ng các tác ph?m n?i ti?ng nh? Kabbon Muk Thruh Palei ch? còn ???c k? nh? là truy?n c?; ch? có r?t ít ng??i thu?c th? h? c? còn thu?c và ??c cho con cháu nghe. Khu v?c t?p trung ng??i Ch?m ?ông h?n c? là ? hai t?nh Ninh Thu?n và Bình Thu?n, g?m kho?ng 87.000 ng??i. ??i ?a s? ng??i Ch?m c? trú t?i khu v?c này theo ??o Bà-la-môn (g?i là Cam Ahier) và H?i giáo c? (H?i giáo b?n ??a hóa g?i là Cam Awal), m?t s? ít còn l?i theo ??o Islam. Có th? nói, ?ây là khu v?c v?n hóa - ??a lí c?ng ??ng Ch?m còn l?u gi? ???c nhi?u nét phong t?c t?p quán và v?n hóa c? x?a h?n c?. Trong ?ó n?i b?t là ch? Ch?m truy?n th?ng akhar thrah và akayet (s? thi). Ba m??i n?m qua, ch? truy?n th?ng v?n còn ???c d?y trong các tr??ng Ti?u h?c (song ng?) có con em dân t?c Ch?m h?c. S? thi ???c l?u truy?n qua akhar thrah ???c các gia ?ình Ch?m c?t gi? trong ciet sách r?t trang tr?ng. Và ???c h? xem nh? nh?ng báu v?t linh thiêng. Chính t? các ciet sách này, các v?n b?n s? thi Ch?m ???c s?u t?m, và ?n hành trong giai ?o?n qua [7].2. b. Quá trình s?u t?m, nghiên c?u s? thi Ch?m:S?u t?m, biên d?ch và xu?t b?n:4 s? thi Akayet Deva M?no, Akayet Inra Patra, Akayet Um M?rup và Akayet Pram Dit Pram Lak dù r?t n?i ti?ng trong c?ng ??ng Ch?m, nh?ng chúng ch? t?n t?i d??i d?ng v?n b?n chép tay ho?c truy?n kh?u b?ng k? (akhan), ngâm (hari) hay ??c (pw?c). Tên s? thi Akayet Deva M?no và Akayet Inra Patra l?n ??u tiên ???c nh?c ??n vào n?m 1931 b?i nhà nghiên c?u ng??i Pháp: Paul Mus [8].   N?m 1970, b?ng tên g?i Rw?h Dwah (s?u t?m) - Kh?o l?c nguyên c?o Chàm, b?n in s? thi Akayet Inra Patra m?i xu?t hi?n l?n ??u do Trung tâm v?n hóa Chàm - Phan Rang ?n hành, v?i s? ch? trì c?a G. Moussay cùng nhóm trí th?c Ch?m c?ng tác g?m N?i Thành Bô, ?àng N?ng Ph??ng, L?u Ng?c Hi?n, Thiên Sanh C?nh, Lâm Gia T?nh và Tr??ng T?n. N?m 1971, s? thi Akayet Deva M?no c?ng ???c in và phát hành d??i d?ng này, ?? 3 n?m sau ?ó, 1974, tác ph?m ???c “tái b?n” v?i ch? vi?t chân ph??ng và ít sai sót h?n [9]. Giai ?o?n này, song hành v?i ho?t ??ng s?u t?m c?a Trung tâm v?n hóa Chàm, Thiên Sanh C?nh qua vai trò ch? bút t?p san Panrang – Ti?ng nói c?a c?ng ??ng s?c t?c Ninh Thu?n, ?ã cho ra m?t các v?n b?n c? Ch?m, trong ?ó có  Akayet Deva M?no. Nh?ng ngoài vi?c ??a ra v?n b?n Ch?m nh? ch? tr??ng c?a G. Moussay, Thiên Sanh C?nh còn chuy?n d?ch s? thi ra ti?ng Vi?t, bên c?nh chú thích t? v?ng, t?o ti?n ?? quan tr?ng cho các nhà nghiên c?u sau này [10].  ? t?t c? các ?n ph?m trên, v?n b?n ch? Ch?m akhar thrah ch? có m?t d??i d?ng vi?t tay. N?m sau, 1976, Nara Vija có m?t lu?n v?n v? Akayet Inra Patra v?i v?n b?n s? thi ???c chuy?n d?ch ra ti?ng Pháp [11].N?m 1982, Tùng Lâm và Qu?ng ??i C??ng ??a ra hai b?n ti?ng Vi?t c?a s? thi Ch?m Akayet Deva M?no và Akayet Um M?rup v?i tên g?i Hòa Nô và Hoàng T? Um M?rup và cô gái ch?n dê trong cu?n Truy?n th? Chàm [12]. ?áng ti?c là b?n d?ch không có ph?n ??i chi?u v?i nguyên tác, và ng??i d?ch không cho bi?t ?ã d?a vào b?n chép tay nào. Có l? nh? th? ch?ng mà b?n d?ch có s? sai l?ch quá l?n so v?i các b?n v?n c?a thi ph?m Ch?m ???c tìm th?y. M??i n?m sau, “b?n d?ch” trên ???c ??ng Nghiêm V?n cho in l?i trong m?t tuy?n t?p v? v?n h?c dân t?c thi?u s? [13]. N?m 1989, m?t công trình nghiên c?u v? akayet vi?t b?ng hai th? ti?ng Pháp và Mã Lai ???c in ? Kuala Lumpur [14]. Tác ph?m g?m n?m ph?n chính. Riêng ph?n chuy?n t? Latinh v?n b?n Ch?m, có l? vì ??c không k? tác ph?m Ch?m b?ng akhar thrah, nên ng??i làm công tác sao chép ?ã ph?m nhi?u l?i v? t? v?ng - ng? ngh?a.V? hai “s? thi” b?ng ti?ng Vi?t c?a Tùng Lâm - Qu?ng ??i C??ng và P. Dharma, G. Moussay và Inrasara ??u có bài vi?t trao ??i nghiêm xác [15]. Ti?p nh?n s? phê bình c?a Inrasara, P. Dharma ?ã s?a ch?a và in l?i Akayet Dewa M?no do C? quan s?u t?p th? b?n Champa Koleksi Manuscrip Melayu Campa th?c hi?n, r?t ?áng tin c?y. M?t ?n ph?m khác v? Akayet Inra Patra c?ng ???c xu?t b?n b?i C? quan trên vào n?m 1997. T? ?ây các v?n b?n akhar thrah ??u tiên xu?t hi?n d??i d?ng ch? Ch?m trên vi tính [16]. Tr??c ?ó hai n?m, Inrasara c?ng ?ã cho in hai s? thi Akayet Dewa M?no và Akayet Um M?rup trong b? ba V?n h?c Ch?m, Khái lu?n - v?n tuy?n, g?m v?n b?n ti?ng Ch?m, b?n Vi?t ng?, thích ngh?a t? c? và b??c ??u ??i chi?u d? b?n [17]. Nh? v?y sau “truy?n th?” Hoàng T? Um M?rup và cô gái ch?n dê ???c cho ra m?t vào n?m 1982, ?ây là l?n ??u tiên Akayet Um M?rup ???c trình bày m?t cách nguyên v?n.Nghiên c?uVi?c nghiên c?u s? thi Ch?m ???c ti?n hành v?i nhi?u khó kh?n, b?t tr?c và không liên t?c. Ban ??u, s? sai l?m v? vi?c trình bày v?n b?n ?ã d?n ??n sai l?c trong c?ng vi?c nghiên c?u. ?ình Hy và Tr??ng S? Hùng ?ã ph?m ph?i l?i này khi vi?t bài nghiên c?u v? s? thi Ch?m mà ch? d?a trên v?n b?n ch?a ???c ki?m ch?ng [18]. Trong khi tr??c ?ó, ?ã có nhi?u công trình giá tr? ra ??i.Công trình nghiên c?u ??u tiên v? s? thi Ch?m - Akayet Dewa M?no - thu?c v? G. Moussay qua lu?n án EPHE c?a ông ???c b?o v? vào n?m 1975 [19]; m?t n?m sau ?ó ông có bài nghiên c?u v? Pram Dit Pram Lak [20]. ?? mãi 15 n?m sau ông m?i có bài vi?t chuyên sâu khác v? Akayet Inra Patra [21]. ? trong n??c, n?m 1994, Inrasara trong t?p th? nh?t c?a b? ba V?n h?c Ch?m, Khái lu?n - v?n tuy?n ?ã dành nguyên m?t ch??ng bàn v? s? thi Ch?m [22]. Sau ?ó r?i rác có các bài vi?t c?a Inrasara, Phan ??ng Nh?t, Nguy?n Ph?m Hùng v? th? lo?i v?n h?c này c?a Ch?m, v?a chuyên sâu th? lo?i v?a ??t akayet trong t?ng th? v?n h?c Ch?m và có khi c? n?n v?n h?c c? Vi?t Nam [23]. S? thi Ch?m v?i 4 tác ph?m Akayet Deva M?no, Akayet Inra Patra, Akayet Um M?rup và Akayet Pram Dit Pram Lak c?ng ???c ?? c?p nhi?u l?n v?i nhi?u d?ng th?c và m?c ?? khác nhau qua tác ph?m ti?u lu?n - nghiên c?u - phê bình dày d?n c?a Inrasara: V?n hóa - xã h?i Ch?m, nghiên c?u & ??i tho?i [24].2. c. AKAYET CH?M2. c.1. AKAYET DEWA M?NOTrong các s? thi Ch?m (Akayet Dewa M?no, Akayet Inra Patra, Akayet Um M?rup), Akayet Dewa M?no (S? thi Dewa M?no) chi?m v? trí quan tr?ng nh?t. Quan tr?ng không nh?ng ? quy mô và ?? dài c?a nó mà còn ? ch? nó là m?t tác ph?m b?ng th? có l? c? nh?t, có giá tr? v?n ch??ng cao, ??ng th?i có tính nhân b?n sâu s?c.Akayet Dewa M?no ???c truy?n bá r?ng rãi trong qu?n chúng. Ng??i Ch?m hãnh di?n vì nó, xem nó nh? là Truy?n Ki?u c?a dân t?c Ch?m. Và c?ng nh? ng??i KInh v?i Truy?n Ki?u, ng??i Ch?m say Dewa M?no, nói Dewa M?no, ??c Dewa M?no, phân tích Dewa M?no và ngâm Dewa M?no v?i m?t gi?ng ngâm ??c ch?t Dewa M?no. ?ây không ph?i là sáng tác c?a ng??i tr?n m?t th?t mà là m?t t?ng ph?m c?a th?n thánh ban cho, ông bà Ch?m ngh? th?.Akayet Dewa M?no [25] g?m 471 câu l?c bát [c?p 6/ 8] c? ?i?n Ch?m. C?ng nh? các tác ph?m khác trong n?n v?n h?c c? ?i?n Ch?m, Dewa M?no không có tác gi?. Ng??i ta c?ng không xác ??nh ???c n?m sáng tác và ngay c? th? k? ra ??i c?a nó. C?n c? vào tính ch?t c? c?a ?a s? ngôn t? ???c s? d?ng trong tác ph?m (xem b?ng kê):B?ng kê m?t s? t? c? ???c dùng trong Dewa M?no:take: kh?i hành, ?i              P?p: g?pbinix: ch?t, hi sinh       praittarabi: m?t ??tbican: nói, nh?n ??nh   sunit ginr?h: th?n thôngn?m?x sukal: l?y t?   ditbiya: v??ng qu?c, hoàng t?ckuram?: cây chà là   ?wan laik: cam ?oannorapat: vua                bharriya: v?, ch?ngrabiy?ng: n? tì                kapaklima: t? t??ngm?ligai: ngai                kupiah: m? (c?a ng??i H?i giáo)nix pabha: ch?t                kathieng: thiên th?ch; tuy?t.tathik kuradong: bi?n kh?i   jallidi: ??i d??ng…Bên c?nh s? có m?t c?a m?t s? y?u t? Mã Lai trong akayet, chúng ta có th? nói r?ng Akayet Dewa M?no ?ã du nh?p vào Champa qua con ???ng Islam vào kho?ng cu?i th? k? XVI ??u th? k? XVII [26].Trong bài kh?o lu?n c?a mình, G. Moussay xác nh?n r?ng Akayet Dewa M?no c?a Ch?m ???c vay m??n t? Hikayat Dewa Mandu c?a Mã lai. Ông c?ng s? b? ??i chi?u tên ??a danh và tên nhân v?t gi?a hai tác ph?m này:Mã Lai                        Ch?mDewa Mandu           Deva ManoAnggeran Dewa           Akar DewaDewa Arkas Peri             Arakas KaphwariLangka dura           Birung LangdaraBerhamana           Brah mannaCendera                 CandraDewa Raksa Malik           Deva SamalaikGangsa Indera           Gan Sri InraNaga Samandam           Ina MadongKarama Raja           Kurama RajaLang Kawi Rama           Langgiri CahyaPalinggem Cahya           Palingan CahyaLila Ratna Cahya           Ratna Cahya Sri BiyangZenggi                        SanggiDuri Patem Dewi           Sapatan DiviSaribu Cahya           Sri Ramut Cahya [27]Nh?ng khi vay m??n tác ph?m Mã Lai, Akayet Dewa M?no ?ã có nhi?u thay ??i quan tr?ng v? nh?ng tình ti?t c?a c?t truy?n l?n tâm lí nhân v?t. Chúng ta hãy theo dõi câu chuy?n:Vua Kurama Raja x? Gan Xrik Inra v? ??i ???c vua các n??c ch? h?u xung quanh th?n ph?c, h?ng n?m mang l? v?t ??n tri?u c?ng. V??ng qu?c hùng m?nh, nhân dân yên ?n làm ?n. B?ng d?ng, m?t ngày kia, con voi quý trong v??n nhà vua khóc r?ng th?m thi?t. M?t ?i?m g? ???c báo tr??c. Vua cho v?i ngay quan ??i th?n và nhà chiêm tinh Lakxamana ??n h?i s? tình. Nguyên nhân ???c t? bày: nhà vua không có con trai n?i ngôi cha tr? vì ??t n??c. Nhà chiêm tinh nói thêm: vua cha có th? c?i m?nh b?ng cách t? hi sinh thân mình. Y l?i v? chiêm tinh, nhà vua ban ân ph??c cho th?n dân, r?i sau khi tr?ng tr?i v?i hoàng h?u Runna Runga Cahya, vua hóa thân v? tr?i ?? tròn m?t n?m sau hoàng h?u h? sinh m?t ??a con trai kháu kh?nh: hoàng t? Dewa M?no. Dewa M?no k?t ngh?a anh em v?i ?ngkar Dewa là con trai c?a quan ??i th?n Binara. Khi hai anh em tr??ng thành, h? ??u không th?y cha ?âu, h?i ra m?i bi?t c? s?. Và h? quy?t ?i tìm cha, b?t k? bao l?i can ng?n, mong ???c nhìn th?y m?t cha m?t l?n thôi ?? th?a lòng khao khát.Cùng th?i, bên x? Birung L?ngdara có m?t nàng công chúa n?t na thùy m? v?i s?c ??p chim sa cá l?n tên là Ratna Xribiy?ng ???c Rija Dewa Xam?laik – m?t hoàng t? tài ba có ?? phép th?n thông m?i n?i ngôi vua cha v?a b?ng hà ? x? bên c?nh – ?? ý và xin ??n làm r?, nh?ng công chúa Ratna không thu?n. Cùng lúc, vua Intan ? x? Sumut Didin Didan v??t ??i d??ng mang vàng b?c châu báu ??n h?i c??i công chúa. Hai bên ?ng thu?n trao ??i l? v?t. Dewa Xam?laik c?m th?y b? s? nh?c, ngay t?c kh?c hóa phép bi?n công chúa Ratna thành con voi tr?ng, g?m lên m?t ti?ng th?t thanh r?i ch?y bi?n vào r?ng. Vua Intan, t?n m?t nhìn th?y phép th?n thông c?a Dewa Xam?laik, s? nguy ??n tính m?ng, t?p h?p ?oàn tùy tùng, v?i vã lên tàu v? n??c.Trong khi ?ó, trên cu?c hành trình ?i tìm cha, tình c? hai anh em Dewa M?no g?p con voi tr?ng ?ang ??ng r? bu?n d??i g?c cây l?n. Chàng ??n bên h?i và nàng k? l? s? tình. ??ng lòng tr??c c?nh trái ngang, Dewa M?no hóa phép bi?n con voi tr?ng thành nàng công chúa, xinh ??p l?i càng xinh ??p h?n x?a. Nh?ng ?ây là V??ng qu?c c?a Dewa Xam?laik. Rak ?ang bay ??n hái trái kuram? cho chúa mình. Nhìn th?y M?no, Rak lên ti?ng khiêu khích. Nh? ??n tâm ??a nh? nhen c?a Xam?laik ??i v?i công chúa Ratna khi x?a, và khi nghe m?y l?i khiêu khích c?a Rak, Dewa M?no n?i gi?n chém Rak tr?ng th??ng r?i dùng m?i tên th?n b?n Rak bay ?i v?i l?i nh?n g?i ??n Xam?laik: công chúa Ratna ?ã là v? c?a Dewa M?no.Rak bay ?i r?t ngay tr??c m?t Xam?laik, tr?ng tr?i r?i ch?t. Xam?laik ?ùng ?ùng n?i gi?n. Th? là các cu?c chi?n b?t ??u n?i ?uôi nhau ti?p di?n. Ngay trong cu?c giao chi?n ??u tiên, Dewa M?no gi?t ch?t vua Rak r?i ???ng hoàng ??a công chúa Ratna tr? v? quê h??ng nàng. ? ?ây, hôn nhân gi?a Dewa M?no và công chúa Ratna ???c chính th?c công nh?n. Bên c?nh ?ó, ?? th??ng công chàng, vua Lang Dara còn g? cháu gái c?a mình là Cahya cho Dewa M?no.V? ph?n Xam?laik, u?t ?c vì b? m?t m?t tr??c Dewa M?no, chàng cùng chú là Arakix Kaphwari b? x? s? lên núi tu luy?n trong b?y n?m. Hai chú cháu cùng ??n g?p các tù tr??ng th? dân yêu c?u giúp s?c. Nh?ng c? các tù tr??ng này c?ng b? ?ngkar Dewa ?ánh b?i trong m?t cu?c giao tranh. Trên ???ng kéo quân tr? v?, anh em Dewa M?no b? Xam?laik b?n lén. M?i tên vàng c?a Xam?laik mang hai anh em bay r?t vào gi?a lòng ??i d??ng, l?u l?c b?y ngày ?êm m?i g?p l?i m?t nhau trong m?t dòng n??c xoáy. Nh? l?i bùa thiêng c?a X?nggi khi x?a, ?ngkar Dewa nh?c tên và Jin X?nggi –  ng??i x?a kia ???c ?ngkar Dewa c?u s?ng – xu?t hi?n v?t hai anh em Dewa M?no ch? v? x? s? c?a m?t v? vua. ? x? này, ?ngkar Dewa l?y công chúa Tw?n Ramai và Dewa M?no l?y công chúa Lima Girakxa.Sau m?t n?m chung s?ng v?i công chúa Lima và có ???c m?t c?u con trai, Dewa M?no ???c tin báo Xam?laik ?ang bao vây x? L?ngdara và ?òi l?y cho b?ng ???c công chúa Ratna m?c dù nàng c??ng quy?t t? ch?i. Chàng cùng em t?c t?c lên ???ng. T??ng r?ng cu?c chi?n m?i s? x?y ra ác li?t h?n. Nh?ng không, m?t c?m b?y khác ?ã ???c gi?ng ra, và hai anh em Dewa M?no th?t thà ?ã b? trúng thu?c ??c. Xam?laik sai các binh lính h?u c?n mang g??m t?i, quy?t b?m nát xác hai anh em Dewa M?no. Th? nh?ng nh?ng nhát g??m b? xu?ng ?ã không làm h? h?n gì hai thi th? ?ã b?t ??ng này. Tin xác hai anh em Dewa M?no ?ang ???c quân Rak canh gi? c?n m?t ??n lan sang x? s? bên c?nh, công chúa Jotna x? Hàm R?ng cho ng??i tìm cách mang xác h? v?, làm phép gi?i ??c cho Dewa M?no ??ng th?i y?m bùa cho chàng quên quê h??ng cùng v? con ?? chung s?ng v?i mình. May m?n cho Dewa M?no, ?ngkar Dewa khi t?nh ng? ?ã g?i Jin X?nggi t?i c?u c? ba ng??i thoát kh?i x? Hàm R?ng bí hi?m kia.Trong khi ?ó, ? v??ng qu?c Il?ng X?ngkata, Xam?laik sau m?t tháng ròng ch? ??i (th?i gian mà Xapatan – em gái út chàng, lúc này c?ng là v? c?a Dewa M?no – ?? ngh? v?i anh cho các công chúa ???c ?? tang ch?ng), ?ã v?i vã lên ???ng mong ???c h?i ng? v?i công chúa Ratna. Không ng?, khi t?i n?i, nhìn th?y Dewa M?no ???ng hoàng ng? trên ngai vàng, chàng vô cùng gi?n d?. Cu?c chi?n tái di?n, kh?c li?t h?n bao gi?, vì hai bên ??a ra toàn b? l?c l??ng quy?t m?t tr?n s?ng mái. Quân Rak và Jio Wanna b? Jin X?nggi ?ánh b?i và Arakix c?ng b? ?ngkar Dewa h? m?t cách nhanh chóng. Xam?laik dàn quân và Dewa M?no ?i ?ng chi?n, bay ?i cùng v?i sáu nàng công chúa m?t lòng cùng s?ng ch?t v?i ch?ng, quy?t không ?? b? Xam?laik b?t n?a. Hai bên chi?n ??u liên t?c trong nhi?u ngày ?êm, ?i qua nhi?u hành tinh xa l?, ?ánh nhau gi?a không trung, trong bi?n c?, trên ??t li?n không ng?ng ngh?. ??n th?i ?i?m quy?t ??nh, Xam?laik b?n m?i tên vàng c?a chàng. M?i tên b? Dewa M?no b? g?y. Ngay l?p t?c Dewa M?no ph?n công, s? d?ng ??n ngón tuy?t chiêu: g??m kuraba k?t li?u m?ng s?ng c?a Xam?laik.Cu?c chi?n d??i tr?n gian vang ??ng ??n Nhà Tr?i. Th??ng tình cho anh chàng Xam?laik si tình t?i nghi?p, ??ng th?i ?? c?u vãn danh d? cho chàng, ??ng Th??ng ?? chí tôn phái thiên s? xu?ng m? n?m m? và ban h?n cho chàng s?ng d?y. Hai bên l?i ti?p t?c chi?n ??u. Khi cu?c chi?n kéo dài quá lâu v?n b?t phân th?ng b?i, lúc ?ó, Ngài m?i giáng th? gi?i hòa cho hai ng??i kh?ng l? ngang s?c ngang tài, chính th?c tuyên b? công chúa Ratna là v? c?a Dewa M?no và cho Xam?laik c??i bóng c?a nàng (ôi! Cái khôn khéo c?a ??ng Chí tôn Chí ??i) Dewa M?no, ?ngkar Dewa, Jin X?nggi và sáu công chúa kh?i hoàn, tr? v? quê h??ng trong s? ?ón ti?p t?ng b?ng c?a th?n dân cùng vua các n??c ch? h?u. Dewa M?no ???c tôn ngôi v??ng, ?ngkar Dewa làm quan ??i th?n. X?nggi t? giã m?i ng??i tr? v? c? quân.B? c?c ch?t ch?, c?t truy?n ??y k?ch tính c?ng v?i l?i k? truy?n lôi cu?n ?ã t?o cho Akayet Dewa M?no m?t s?c h?p d?n ??c bi?t. M?c dù thi ph?m ?ã ph?i khoác lên mình chi?c áo huy?n tho?i, nh? các lo?i v? khí ???c s? d?ng trong cu?c chi?n (tr?mpaik: m?t lo?i d?a bay, ir?x kuraxi: m?t th? gh? bay th?n kì, padak lakkuraba: m?t lo?i g??m th?n) hay tên trái cây, tên x? s?, tên nhân v?t ??u là nh?ng tên xa l? v?i ngôn ng? dân gian, nh?ng chính là bi?u hi?n tâm lí ng??i, r?t ng??i c?a nhân v?t ?ã ?? l?i d?u ?n ??m nét trong lòng ng??i ??c. S? c?m gi?n c?a Jin X?nggi, cái hèn nhát c?a vua Intan, tính th?p hèn c?a Xam?laik, lòng ghen tuông, nh?ng ni?m vui, n?i bu?n, nh?ng n? c??i và nh?ng gi?t n??c m?t… ??u n?m trong s? ?? chung c?a tâm lí con ng??i phàm tr?n.??c gi? không th? nào quên ???c c?n gi?n d? c?a Jin X?nggi khi nhìn th?y n??c m?t l?n dài trên má Dewa M?no lúc chàng tr? v? sau c?n ho?n n?n, ch?t b?t g?p công chúa Cahya tay ?ang n?m ch?t con dao toan t? v?n vì ngh? ?ây là Xam?laik ??n hãm h?i nàng. C?n gi?n d? c?a Jin r?t ? con ng??i: h?n nhìn th?y t?n m?t th?n t??ng h?n v?a s?p ?? v?i nh?ng gi?t n??c m?t y?u ?u?i! Và càng con ng??i h?n n?a: nh?ng gi?t l? này c?a Dewa M?no th?n thánh. Chi?u sâu tâm lí c?a con ng??i ???c khai phá m?t cách kì tuy?t!Dòng th? c?a b?n s? thi nh? mu?n bay cao bay xa nh?ng bao gi? c?ng r?i tr? l?i m?t ??t. M?t ??t luôn là tâm ?i?m cho các nhân v?t x? s? và tung hoành.Th?t th?, Dewa M?no là m?t thi ph?m mang ??m tình ng??i. ?ó là tình ph? t? c?a vua Karama Raja ?ã ch?u ch?t ?i cho con ???c có m?t trên tr?n gian; là lòng chí hi?u c?a Dewa M?no ?ã không qu?n hi?m nguy gian kh?, lên ???ng ?i tìm cha, b? l?i sau l?ng ngai vàng cùng s? giàu sang phú quý; ?ó là lòng trung thành c?a Jin X?nggi, ?ã bao l?n ra tay c?u anh em Dewa M?no thoát kh?i c?nh nguy kh?n; là ??c chung th?y c?a công chúa Xapatan m?t m?c yêu th??ng ch?ng dù b? ch?ng hi?u l?m và ru?ng b?, c?a công chúa Ratna ?ã ?ánh l?a Xam?laik ?? ???c th? ti?t v?i ch?ng khi ch?ng b? n?n, và trong tr?n quy?t ??u ?ã sát cánh bên ch?ng ?? ???c cùng s?ng ch?t. Và nh?t là tình máu m? c?a công chúa Xapatan ??i v?i ng??i anh là Xam?laik. Khi ng??i anh ru?t b? sát h?i b?i chính bàn tay ch?ng mình trong tr?n chi?n cu?i cùng, nàng ?ã khóc. Nhà th? vi?t nên m?t ?o?n th? r?t ??p:Dom nan Xapatan DiwiCauk x?p nhu hari gr?p n?gar jang pax?ngIa di kraung ?w?c m?ng ngauk mai t?lCamauh patri cauk nan ia dawing ?w?c o truhTh? r?i công chúa Xapatan khócTi?ng khóc th?m thi?t, c? x? s? ??ng lòngVà dòng sôngT? trên cao ch?y l?iN??c cu?n xoáy mãi không n? trôi ?iAkayet Dewa M?no còn là bài th? ng?i ca lòng cao th??ng hào hi?p c?a con ng??i. Dewa M?no r?t cao th??ng, cao th??ng khi chàng t? ch?i ?ánh Xam?laik ?? r?i ph?i m?c n?n b? k? thù b?n lén sau l?ng, cao th??ng khi chàng cho phép v? khóc cho ng??i anh ru?t c?a nàng v?a là k? t? thù c?a mình, khi chàng không cho ng??i em k?t ngh?a ?ngkar Dewa gi?t quân lính k? ??ch trong khi chi?n ??u ch?ng Xam?laik. Và ngay c? Xam?laik, m?t nhân v?t ph?n di?n, c?ng ?ã làm ???c m?t c? ch? cao th??ng: chàng ?ã không ??ng ch?m ??n công chúa Ratna khi ???c nàng yêu c?u ?? tang cho ch?ng (vì t??ng ch?ng ?ã ch?t). C? ??n ??ng Th??ng ?? Chí Tôn c?ng ?ã th? hi?n ???c m?t c? ch? nhân t? cao c?: không ?? cho Xam?laik, m?t con ng??i có tài n?ng l?n ph?i ch?u m?t m?t tr??c ng??i yêu, khu?t nh?c tr??c k? thù; vì khi b? ??y ??n b??c ???ng cùng, con ng??i d? ?i ??n nh?ng hành ??ng thi?u chín ch?n, m?i thù kéo dài dây d?a, và con dân Ngài d??i tr?n mãi ch?u c?c kh?; nên Ngài ?ã ngh? ra h??ng ?? g? danh d? cho Xam?laik b?ng cách cho chàng m?t l?n n?a ???c chi?n ??u v?i Dewa M?no, và cu?i cùng ???c c??i bóng công chúa Ratna. Th?t không th? tìm ???c gi?i pháp nào tài tình h?n!Và cu?i cùng, Akayet Dewa M?no v? ??i ? n?i nó ?ã th?a mãn ???c nh?ng khát khao muôn thu? c?a con ng??i. Con ng??i bao gi? v?n th?, dù h? c? ng? trong b?t kì không gian th?i gian nào, nhu c?u ???c truy?n gi?ng (Vua Kurama Raja ph?i t? hi sinh ?? có ???c ??a con n?i dõi), nhu c?u ???c yêu th??ng ?ùm b?c (Xapatan c?n ???c bàn tay Dewa M?no ôm ?p), ???c s?ng ?m no trong m?t ??t n??c an lành (t?t c? qu?n chúng nhân dân trong m?i x? s?) v?n là nh?ng nhu c?u b?c thi?t nh?t.? Akayet Dewa M?no, con ng??i ?ã bi?t quên ?i b?n thân mình và bi?t hi sinh cho ng??i khác, cha hi sinh cho con, em bi?t quên mình vì anh, b?n bè dám l?n x? vào khói l?a ?? c?u nhau, ch?ng bi?t tha th? cho v?… nh?ng ??c tính này c?a con ng??i khi k?t h?p l?i, có th? t?o nên nh?ng kì tích mà n?u thi?u nh?ng kì tích này thì cu?c s?ng s? tr? nên vô v? và con ng??i muôn ??i mãi không th? ??t t?i nhân b?n tính ?ích th?c.Th? nh?ng, các ??c tính cao c? này c?a nhân v?t s? nh?t nh?o bi?t bao n?u nó không ??t trong c?nh ng?, tình hu?ng t??ng ?ng, và n?u nó không ???c k? l?i b?ng m?t ngh? thu?t th? chín ch?n nh? ? Akayet Dewa M?no. Qu? th?t, l?i k? chuy?n c?a Akayet Dewa M?no ?ã ??t ??n m?c tinh x?o.Không gi?ng nh? các tác ph?m khác thu?c dòng v?n h?c c? ?i?n Ch?m, r?t ít chi ti?t ???c l?p l?i trong Akayet Dewa M?no. T?t c? ??u ???c phóng ??i, và phóng ??i ??n m?c d? th??ng, cái d? th??ng này l?i luôn luôn có th? ch?p nh?n ???c. Có th? nói, chính cái d? th??ng này ?ã góp ph?n t?o nên s?c h?p d?n riêng c?a tác ph?m. Chúng ta c?ng c?n l??t qua m?t s? ?o?n:– Dewa M?no ?ang chu?n b? xu?t quân:Tanrak ginuh glaung m?t?h ad?rhaApan padak lakkuraba ?ik asaih kauk p?rHào quang r?c sáng l?ng ch?ng tr?iTay c?m g??m th?n, c??i ng?a tr?ng bay   – C?n gi?n d? c?a Xam?laik:Nhu ginaung tatr?m takai d?ng m?kaikDom kathieng jruh laik, c?k car jang jal?hN?i c?n th?nh n?, h?n gi?m chânThiên th?ch r?ng r?i, núi non nghiêng ??– Di?n t? c?nh cung ?i?n c?a công chúa Ratna thì: "?? xây cung ?i?n cho công chúa Ratna, nhà vua cho v?i nh?ng th? luy?n kim b?c th?y. Ba l?p hàng rào bao b?c l?y cung ?i?n bao la: vòng ngoài c?ng ???c rào b?ng s?t, vòng gi?a b?ng ??ng và vòng trong ???c s?n son th?p b?c. C?ng thành ???c ng?n b?ng ba l?p c?a có kh?c hình các con r?ng bay l??n. B?n góc khuôn viên cung ?i?n ??u có b?n cái gi?ng xây kh?ng l? mà m?t sân toàn cát vàng. Hai bên ???ng t? c?ng d?n vào cung ?i?n chính tr?ng ?? lo?i hoa quý ???c mang v? t? kh?p n?i trên th? gi?i mà h??ng th?m t?a bay kh?p m?i mi?n ??t n??c. D??i m?i cây hoa ??u có m?t lo?i chim quý hi?m su?t ngày ?êm múa hát. Trong thành, m?t ng?n núi cao ng?t ???c d?ng nên. Ng?n núi này ch? ???c tr?ng ??c nh?t cây chà là th?n tr?u n?ng trái chà là vàng, và trong thân cây luôn âm vang ngàn ?i?u nh?c mê li. Xung quanh ng?n núi là m?t vùng bi?n c? v? sóng êm ngân hòa cùng ?i?u nh?c trong thân cây chà là. M?t chi?c c?u b?ng vàng ròng ???c l?c t? ??i d??ng b?c qua bi?n n?i li?n ng?n núi v?i bi?t th?. Bi?t th? v? ??i cao l?ng ch?ng tr?i ???c l?p b?ng nh?ng t?m kim c??ng, trên cùng là mái làm toàn b?ng vàng ròng. ? b?n góc c?a bi?t th?, b?n con r?ng th?n nâng b?n bóng ?èn kh?ng l? ngày ?êm soi sáng toàn v??ng qu?c".??y là m?t c?nh t??ng siêu nhiên ch? ???c th?y trong óc t??ng t??ng hay trong nh?ng tr? x? c?a các v? b? tát trong kinh Hoa nghiêm c?a ??o Ph?t. Và ?ây là bãi chi?n tr??ng trong tr?n giao tranh cu?i cùng gi?a Dewa M?no và Dewa Xam?laik:"Trên m?t ??t, nh?ng ng?n lao c?a h? ch?m nhau n? bùng nh?ng ?ám l?a thiêng cháy tr?i núi non. H? l?i kéo nhau ra ??i d??ng, hóa thân thành loài r?ng bi?n, ti?p t?c chi?n ??u trong b?y ngày ?êm làm ??i d??ng n?i sóng, bão t? mù tr?i ??t. Th?y ch?ng ?n thua gì, h? l?i l?n sâu vào lòng ??t (lúc này h? ?ã hóa thân thành r?ng ??t) ti?p t?c thí võ. Cu?c chi?n l?i di?n ra trên không trung làm s?m sét n? tung, ch?n ??ng m?t n?a v? tr?".C? th? ti?p t?c. C? th?, Dewa M?no và Xam?laik tung hoành, tung hoành cùng v?i óc t??ng t??ng bay b?ng c?a thi s?, cùng v?i v?n th? hoa m? và ngôn t? bay b??m kì tuy?t.Th? nh?ng, tài n?ng c?a thi s? không ch? ng?ng l?i ? t??ng t??ng và phóng ??i. Ng??i ta ngh? r?ng có gì khó ?âu! C? t??ng t??ng nh?ng ?i?u kì qu?c nh?t r?i th?i ph?ng nó lên. Làm nh? ai c?ng có th? làm ???c chuy?n ?y! Picasso, khi ?? cây c? c?a mình tung hoành v?i nh?ng tác ph?m hi?n ??i, tr??c ?ó ông ?ã có các h?a ph?m c? ?i?n giá tr?. Và thi s? Tô Thùy Yên có nói ??i í r?ng không th? ?em Tháp Chàm v?i Angkor c?a Campuchia ra mà so sánh. B?i vì n?u c?n, nhà th? chúng ta c?ng có th? di?n t? tài tình nh?ng khía c?nh vi t? nh?t c?a tâm lí con ng??i.Chúng ta hãy th? phân tích m?t tình ti?t trong akayet: Dewa M?no v?i vã v? quê h??ng sau khi ???c công chúa Jotna gi?i ??c và ???c Jin X?nggi c?u thoát. Lúc ?y, Ratna và Cahya b? giam l?ng, ?ang th? s?n con dao ?? k?p t? v?n khi qua th?i h?n ???c Xam?laik cho phép ?? tang ch?ng. Lòng th?p th?m, chàng nh? nhàng ??y c?a b??c vào.Patri tangi thei jwak dr?h takaiPathang kuw bhian nau mai, Dewa M?no nan nhu hiaNàng h?i ai ?i t?a ti?ng b??c chânCh?ng ta ?i l?i nh?ng ngày th??ngVà Dewa M?no b?t khóc.Dewa M?no, ng??i anh hùng cái th? này ?ã b?t khóc. Chàng khóc vì chàng hi?u r?ng ch? có nh?ng ng??i th?t s? yêu nhau, th?c lòng nh? mong nhau m?i có ???c cái tinh t? ?y c?a thính giác. Các chi ti?t v?t vãnh nh?t và t??ng nh? d? b? khu?t l?p b?i bao lo âu th??ng nh?t, nh?ng v?i n?i nh? mong, b?ng s? ch? ??i trong câm l?ng và qua m?t th?i gian dài h?i t??ng, chúng t? t? l?n d?y và l?n mãi trong kí ?c sâu th?m mà ta h?u nh? không hay bi?t cho ??n khi, b?i m?t c? duyên nào ?ó, nó v? ra và l? nguyên hình. Các nhà tâm lí h?c ??t cho nó cái tên: vô th?c. Nh? ti?ng gi? áo sau khi có ti?ng m? t?, thói quen chà hai chân vào nhau khi lên gi??ng, hay nh? ? ?ây – ti?ng b??c chân ?i l?i.Tr? l?i v?i câu chuy?n. Lúc ?y, Dewa M?no nhanh tay gi?t l?y con dao n?i tay công chúa, b?ng b? nàng kháng c? l?i. Vô th?c nàng tin r?ng ?ó là ti?ng b??c chân c?a chàng - là chàng, ng??i ch?ng yêu d?u c?a mình nh?ng í th?c nàng li?n ph?n bác: chàng ?ã ch?t.Trong m?t c?nh ng? r?t th?c, v?i m?t ngh? thu?t phân tích tâm lí sâu s?c, thi s? ?ã th?i ???c vào ?o?n th? s?c s?ng kì l?. ??y là ?i?m son khác c?a Akayet Dewa M?no.Và m?t ?i?u n?a c?n nói ? ?ây là k?t thúc có h?u c?a tác ph?m (chính ngh?a th?ng hung tàn, Dewa M?no ca khúc kh?i hoàn, tr? v? quê h??ng ?oàn t? v?i gia ?ình) ?ã làm cho ??c gi? hoàn toàn mãn nguy?n khi ??t cu?n sách xu?ng.Ít ra, trong “m?t vài tr?ng canh”, Akayet Dewa M?no c?ng ?ã m?t l?n ??a bao th? h? con ng??i ch?t phác, thoát ???c nh?ng c? c?c c?a ??i th??ng, nh?ng b?t công c?a ch? ?? phong ki?n, ???c th? h?n bay theo v?n th? ?? cùng v?i Dewa M?no ?i qua m?y t?ng tr?i bao la, vi?ng th?m các cung ?i?n nguy nga tráng l?, chiêm ng??ng dung nhan các nàng công chúa xinh ??p tuy?t tr?n; cùng bay theo Dewa M?no trong cu?c tr??ng chinh ch?ng l?i cái x?u ác, chi?n th?ng cái x?u ác ?? an toàn cùng hoàng t? tr? v? quê h??ng - n?i mà ng?n lúa t? do tr? bông, cây r?ng t? do l?n d?y, dân làng an tâm làm ?n sinh s?ng (gr?p baul thuk hatai).(gr?p baul thuk hatai).______________________________(5) Chi ti?t này d? khi?n chúng ta liên t??ng ??n ti?ng b??c chân trong m?t ?o?n th? c?a Paul Valéry c?ng vang lên cùng âm h??ng:      Tes pas, enfants de mon silence      Saintement, lentement placés      Vers le lit de ma vigilance      Procedent muets et glacés  
0 Rating 576 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 11, 2015
Ariya Hatai Paran Hadas Ka Lok   Thanh Phu Ba Panuec akhan:          Liwik, liwik puec wek ariya Cam, mboh padrut padruai dalam hatai. Sanâng tel ra taha mâng kal déh biak glaong illimo, gleng mboh dahlau ka dom gruk ga-ndi kadha tamuh tagok sa bla di grep bhum palei Cam harei ni. Blaoh di nan panâh jieng Ariya tuer tabiak ka bhap bini thau pieh khik ramik. Hu ralo ariya ndom ka Campa lihik aia, blaoh anâk Cam laik tamâ janâk kho ra-mbah. Ong kei jang oh wer adan yah saong anak tacaow juai ac hatai, marat khik hai drep ar, nâm mâk muk kei.  Dalam kadha ni dahlak likau nâh ba tabiak sa pet (paragraph) ariya “Hatai Paran Hadas Ka Lok” pieh ka mikwa puec yaom blaoh tabur sanâng.  Ariya :              Panâh mâleng di dalam ariya,  Panuec mâng ra taha, Po gru tuek tabiak  Nâm mâk po nabi patrun sarak,  Payua wek khik ngap, adat ca-mbat po nabi.  Dalam tapuk sak karay, sak kawi  Adat ca-mbat Cam Bani, Ahier Awal.  Khik kahria ngap bingun ngan klem,  Juai luai pamâjrem, khik hai ka paran.  Basaih adhia nan gah bimong yang,  Imâm katip gru acar nan gah sang magik.  Po nabi parabha mâng liwik,  Adat ca-mbat mâtuaw mânrik ka dua gru khik anguei.  Juai klak padanan wan juai,  Tadhiai bibiak di ca-mbuai, tana rakun mâng liwik. Pajai Mâli Kraong Panrang ngan Parik, Bani sa baoh sang magik, Cam sa baoh mânraong mânrac. Basaih adhia, Imâm katip gru lac, Agal tapuk khik bac, juai luai pamâjua. Mâng kal dahlau, Cam hu patao bia, Krâh anuec Norapa (king), plek likuk klak paran. Adat ca-mbat mâda thun mâda karang, Cam Bani lihik paran, dom di ndua janâk ra-mbah. Nde phun kayau riya, libuh talah, Taklok agha blaoh libuah, lihik abih jeh angan. O thau ka rai halei wek tabem, Tamuh wek jieng phun, lah than pamâkei   (Daok Wek) ---------***------------ ar[y hEt pr# hd( k Ol` Thanh Phu Ba  l[w[` , l[w[` pW-! w-` ar[y c. , OvH pRdU@ pERdW dl. hEt ; snI~ t-& r th mI~ k& Od-H bY` OgL= ilL[Om , gL-) OvH dhL-U k Od. RgU` gV[ kD tmUH tOg` s bLd{ Rg-$ B.U pl] c. hr] n{ ; ObL_H d{ n# pnIH jY-~ ar[y tW-^ tbY` k B$ b[n{ T-U pY-H K[` rm[` ; hU rOl ar[y OV. k c.p l[h[` aY , ObL_H anI` c. El` tmI jnI` OK rvH ; o) k] j) oH w-^ ad# yH Os= an` tOc_* EjW a! hEt , mr@ K[` Eh Rd-$ a^ , n.I mI` mU` k] ; dl. kD n{ dhL` l[k-U nIH b tbY` s p-@ (paragraph) ar[y “hatai pr# hd( k lok” pY-H k m[`w pW-! Oy+ ObL_H tbU^ snI~ ; ar[y :  pnIH mIl-) d{ dl. ar[y , pnW-! mI~ r th , Op RgU tW-` tbY`  n.I mI` Of- nb{ pRtU# sr` , pyW w-` K[` q$ , ad@ cv@ Of- nb{ ; dl. tpU` s` kr% , s` kw[  ad@ cv@ c. bn[ , ahY-^ aw& ; K[` kRhY q$ b[qU# q# kL< , EjW ElW pmIRj< , K[` Eh k pr# ; bEsH aDY n# gH b[Om~ y) , im.I kt[$ RgU ac^ n# gH s) mg[` ; Op nb{ prB mI~ l[w[` , ad@ cv@ mItW* mIRn[` k dW RgU K[` aqW] ; EjW kL` pdn# w# EjW , tadhiai b[bY` d{ cEvW , tn rkU# mI~ l[w[` ; pEj mIl{ ORk= pRn) q# pr[` , bn[ s Ob_H s) mg[` , c. s Ob_H  mIORn= mIRn! ; bEsH aDY , im.I kt[$ RgU l! , ag& tpU` K[` b! , EjW ElW pmIjW ; mI~ k& dhL-U , c. hU pOt_ bY , RkIH anW-! Onrp ( k{~ ) , pL-` l[kU` kL` pr# ; ad@ cv@ mId TU# mId kr) , c. bn[ l[h[` pr# , Od. d{ VW jnI` rvH ; V- PU# ky-U r[y , l[bUH tlH , tOkL` aG ObL_H l[bWH , l[h[` ab[H j-H aq# ; o T-U k Er hl] w-` tb< , tmUH w-` jY-~ PU# , lH T# pmIk]  ( Od_` w-` )
0 Rating 561 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On December 13, 2016
  Ở Quảng Nam, có một làng gần như 100% là người gốc Chăm. Đó là làng Đồng Dương nằm trên địa bàn xã Bình Định, huyện Thăng Bình. Từ thời xa xưa, trong cộng đồng người Chăm Đồng Dương đã lưu truyền truyền thuyết khá hấp dẫn và lý thú về nguồn gốc của làng Chăm độc nhất ở Quảng Nam này! Những di tích còn sót lại của người Chăm ở xứ Quảng. Truyền thuyết thuật lại rằng thời xa xưa, không biết vì lý do gì giữa hai nước Chiêm và Việt nổ ra chiến tranh. Vua Việt tiến đánh quân Chiêm ở tận Đồng Dương. Ở vào thế chống đỡ, không còn cách nào khác, tướng Chiêm mới huy động cả thảy tám mươi con ngựa chiến. Đuôi ngựa được cột thêm vào một tàu lá cau. Bốn chân cột thêm bốn cái lục lạc. Khi hai bên lâm trận, mùa tháng Sáu, trời nắng chang chang nên khói bụi bay mù trời. Rồi lục lạc cũng huyên náo. Sau ba ngày ba đêm, thấy khó có thể cầm cự, quân Chiêm phải kéo cờ trắng đầu hàng. Đặc biệt, trong đám hàng binh, vua Việt phát hiện có một nàng công chúa xinh đẹp. Ngài bèn bắt về để làm vợ cho một vị hoàng tử. Nhưng, ngài hoàn toàn không biết nàng công chúa này đã có thai. Tương truyền rằng vì thế cho nên mới có dòng họ Trà nối nghiệp ở Đồng Dương bây giờ. Người ta kể rằng, sau đó, công chúa về Nghệ An làm vợ hoàng tử và sinh ra một đứa con trai. Tất nhiên, đó là một người Chiêm. "Chim có tổ người có tông", lớn lên, có lẽ do mẹ là công chúa Chiêm cho biết nguồn gốc nên người con mới lần vào Điện Bàn, coi như tìm về quê cha đất tổ. Đầu tiên, ông đến làng La Huân, nay thuộc xã Điện Thọ. Nghề nghiệp chính của ông là làm thầy... phù thuỷ. Tức pháp sư. Tên nôm na của pháp sư là ông Hai Lánh. Đã là pháp sư, dĩ nhiên, theo truyền thuyết ông rất giỏi pháp thuật, có thể kêu mây gọi gió. Làng La Huân bấy giờ nghèo lắm. Dân nghèo nên không có tiền đóng góp. Tất nhiên, đình làng chỉ là đình tranh. Mỗi năm có chuyện họp hội, làm lễ ở đình làng, người dân thường kêu ca về sự nghèo khó, khốn khổ của mình, rằng "Khổ quá, coi cái làng La Qua bên cạnh, họ giàu, đình là đình ngói. Còn mình chỉ đình tranh. Trời mưa gặp cúng lễ thì biết tránh mô cho khỏi ướt". Cứ mỗi lần có chuyện cúng, ông Hai Lánh thường nghe bà con than thở. Thấy vậy, ông mới buột miệng nói "Muốn có đình ngói thì ta đổi đình ngói". Tưởng nói chơi, hoá ra ông lại làm thật. Tối hôm ấy, ông lấy đậu xanh ngâm cho ra mộng. Mộng từ hạt nứt ra, nên còn gọi là cựa. Đến tối, ông đứng trước bàn thờ, khói hương nghi ngút, mới lầm rầm trong miệng làm phép. Tức thì, bao nhiêu hạt đậu đều biến thành âm binh. Ông bèn sai âm binh đi khiêng đình tranh La Huân sang làng La Qua để đổi đình ngói La Qua. Mọi việc diễn ra gần như hoàn hảo. Sáng ra, dân hai làng thức dậy, nghe bảo có chuyện lạ ở đình, kéo nhau rần rần đi coi. "Quái, răng lại thế ni?". Ở La Huân, đình tranh trở thành đình ngói còn ở La Qua đình ngói lại biến thành đình tranh. Lý trưởng và các vị chức sắc trong làng tức lắm, mới nhìn kỹ và phát hiện đình tranh có một dây bầu. "Đình ni đích thị là đình của làng La Huân rồi". Họ bèn đi kiện lên trên. Với chứng cứ rành rành, ông Hai Lánh bị vua bắt giam vào ngục. Các nghệ nhân dân gian người Chăm. Ảnh tư liệu. Không biết ông bị giam bao lâu thì đến ngày lễ quốc khánh năm nọ, triều đình cần làm "phường môn", tức cổng ngõ, sao cho đẹp. Biết ông là thầy phù thuỷ có tài, vua bèn sai quân lính lôi ông từ ngục ra, bảo "Nghe nói nhà ngươi có tài, ngươi phải trổ tài để trẫm xem thử". Ông thưa vua xin thắt hai con rồng gọi là "lưỡng long tranh nguyệt". Vua sai người đem lụa để ông thắt. Thoáng chốc, ông đã thắt xong một con rồng rất đẹp. Ông bảo rồng này chưa làm mắt, làm mũi. Vua thấy ông tài quá, bèn cho ông tự do đi lại, không phải giam vào ngục. Nhưng ngay tối hôm đó, ông lẻn ngồi lên lưng con rồng vừa thắt xong, hô biến. Tức thì con rồng biến thành con rồng thật. Rồng bay lên, đưa ông về đất Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đến Bình Trung, ông thả chiếc giày bên trái để báo tin. Rồi ông vào Đồng Dương. Cũng từ đây, ông Hai Lánh bắt đầu cuộc đời lang bạt để trốn tránh sự truy lùng của triều đình. Đặc biệt, khi đến Đồng Dương, ông lấy vợ và sinh ra hai người con đặt tên là Trà Huyền An và Trà Huyền Chơn, tên tục gọi là ông Chóng và ông Đụn. Sau đó, ông tiếp tục đến khu vực Hòn Tàu, nay thuộc địa phận huyện Quế Sơn để gầy dựng sự nghiệp. Không ngờ, ông gặp một con cọp dữ. Thế là ông đánh nhau với cọp. Điều trớ trêu là sức người sức cọp gần như ngang bằng với nhau nên hai bên cứ giằng co. Cọp thua thế hơn, chạy lên Trà Linh. Ông đuổi theo. Lần này, ông đánh đến ba ngày ba đêm. Cọp ra máu nhiều, đâm khát nước, mới mò ra bờ suối để uống một hơi dài rồi chết ngay tại chỗ. Ông Hai Lánh bấy giờ cũng sức cùng lực cạn và chết theo. Dân làng Trà Linh tiếc thương, mới chôn thi thể ông. Từ sự tích này mà hiện nay ở Trà Linh còn hai mả, mả ông Hai Lánh và mả... cọp. Tương truyền, mả ông rất thiêng. Đàn bà, con gái không dám đi ngang. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là họ Trà dù chiếm hơn 90% dân số toàn thôn, tức trên 130 hộ nhưng trong văn tế cùng tiền hiền làng hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những ông này lại đứng sau hai người Kinh có công lập làng. Nguyên văn văn cúng, theo trí nhớ của ông Trà Díu là "... Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh/ Tiền tổ, hậu tổ/ Tiền năng sư bách nhãn, hậu năng sư bách nhãn/ Tiền quế công chi vị, hậu quế công chi vị/ Châu Văn Tuý, Trịnh Khắc Thiệt, Trà tộc, ông Chóng, ông Đụn, Trà Huyền An, Trà Huyền Chơn, các chư tộc phái...". Trong đó, Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt là hai người đứng đầu đơn lập làng. Càng đặc biệt hơn khi hai ông tiền hiền làng là Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt đều không có con cháu nối nghiệp. Có thể nói, truyền thuyết nói trên là một trong những truyền thuyết suy nguyên (mythologie étiologique) nhằm suy đoán, giải thích nguồn gốc họ Trà ở làng Đồng Dương hiện nay. Ngay cái tên nhân vật Hai Lánh, thiển nghĩ, đó cũng chỉ là một cách gọi đầy ngụ ý, thể hiện rõ cuộc đời lang bạt của một người có lai lịch đầy bí hiểm mà thôi! Theo news.zing.vn  
0 Rating 534 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 6, 2015
  >> vào link để nghe nhạc phẩm Đồ bàn by Chế Mỹ Lan >> trang blog Đại Nhạc Hội Champa Đến với ngày Đại Nhạc Hội, bao nhiêu ký ức đẹp cách đây đã gần 20 năm lại thi nhau ùa về. Bà con Chăm đến với nhau lần ấy vào năm 1998 nhân dịp thành lập Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa. Tất cả các nhân sĩ trí thức Chăm khắp mọi nơi cùng về hội ngộ. Tay bắt mặt mừng trong niềm hân hoan vô bờ bến. Lần đầu tiên cũng tổ chức tại San Jose này, lúc ấy tôi hát bài Hận Đồ Bàn của Xuân Tiên được sự dàn dựng công phu của anh Kiều Đại Vinh với những lời ngâm Ariya thống khiết của ông Châu Văn Cẫm và những dàn diễn viên phụ họa rất sầu nảo làm cho khán giả đã rơi nước mắt. Mãi đến 17 năm sau tôi mới thấy lại hình ảnh này. Cuộc đời mình sống được bao nhiêu mà mãi đến gần 20 năm xa cách mới gặp lại nhau? Có cần phải đợi đến 17 năm không nhĩ! Cám ơn Ban Tổ Chức đã tạo cơ hội cho chúng ta đến gần với nhau sau bao nhiêu năm xa cách. ĐNH đã vẽ lên một bức tranh đầy màu sắc đẹp cả nội dung lẫn hình thức. Từ xa xa, các thanh niên thiếu nữ gọi nhau í ới, tiếng chào hỏi thân quen. những nụ cười rất gần gủi tay trong tay hân hoan dìu nhau bước chân vào hội trường. Những trang phục truyền thống đủ màu sắc trong ánh nắng lung linh của một ngày đẹp trời Cali càng tô điểm rạng ngời những đóa hoa Champa rực thắm. Trên nét mặt của mọi người ai ai cũng toát lên một niềm phấn khởi tràn đầy sức sống.    Các bậc trí thức Cham hội tụ từ nhiều Tiểu Bang khác nhau. Đầu tiên là bước vào phòng chụp ảnh lưu niệm, tấm thảm đỏ được đặc ngay ngắn đưa những bước chân đến những ngọn Tháp như xa lạ như thân quen vẫy chào những đứa con Chăm về với cội nguồn. Tháp đứng sừng sững trong kiêu ngạo và huyền bí làm sao. Ai ai cũng tranh thủ chụp vài tấm hình để lưu lại kỷ niệm đẹp trong đời. Tôi lấy làm vui mừng khi các Bác, các Cô Chú của tất cả các Hội Đoàn vai kề vai cùng chụp ảnh lưu niệm . Rời khỏi phòng chụp ảnh để bước vào phòng ăn uống, không khí lại càng vui nhộn bội phần. Trong căn phòng đầy ấp những tiếng cười giòn giã. Mọi người cùng nhau ngồi thưởng thức những món ăn cổ truyền dân tộc. Ăn uống xong, tất cả cùng dìu nhau vào bên trong sân khấu. MC Từ Công Ánh, MC, Hoa Hậu Ngọc Minh xinh đẹp duyên dáng của Champa chúng ta cùng hai MC đẹp trai phong độ Bá Trung Thiệu, Lưu Quang Sáng mở đầu chương trình rất độc đáo ngoạn mục khai mạc chương trình. Tấm rèm sân khấu từ từ mở hé ra, dàn nhạc vang lên sôi động tưng bừng rộn rã. Tiếng trống Paranưng, tiếng kèn Saranai như vỡ òa trong ngất ngây hạnh phúc. Âm thanh có lúc réo rắc du dương, có khi lại cháy bừng nhộn nhịp. Những bàn tay của những nhạc cụ Chăm thả hồn vào những điệu nhạc say sưa ru hồn người về một thời xa xưa. Ánh sáng nhuộm hoàng hôn tím buồn vời vợi, tím cả thời gian và không gian. Màu tím buồn trên sân khấu khỏa lấp cả khung trời và những mãnh đời cô đơn của những đứa con Champa tha hương lạc loài tìm đến với nhau . Không gian huyền ảo từ phía xa, Tháp đứng ngẩn ngơ sâu lắng tạo nên một bức tranh hoàn hảo rất thơ mộng. Đây có lẽ là bức tranh đẹp nhất từ xưa tới nay. Tiết mục hợp ca Bangsa Champa Khaol Ita cua Cei Juk qua phần hoà âm phối nhạc của nghệ sĩ Miêu Văn Tuấn đã vang lên hùng hồn. Bangsa ilimo khoal ita, Champa muk kei pajiak pajieng, Cam bani sa pajama, pajieng mal, Ahier Awal tajuh halau klau bimong, Champa angan bingo tanâh aia….Nghe xúc động bùi ngùi làm sao ấy. Rồi lần lược những bài ca bất hữu của cố nhạc sĩ Đàng Năng Qụa, nhạc sĩ Châu Văn Kênh, nhạc sĩ Amưnhân... nghe nức nỡ lòng người. Các tiết mục múa đặc sắc và điêu luyện của các cô thiếu nữ trong những bộ trang phục truyền thống uyển chuyển tha thướt đê mê ngây dại đến hoang đường.  MC Ngọc Minh - Trung Thiệu Đại Nhạc Hội lần này gợi nhớ lại bản sắc văn hóa dân tộc qua những bài hát mang giai điệu dân gian Chăm phản ánh đời sống văn hóa xã hội Chăm, nhắc nhở con cháu về lịch sử mất mát đau thương của dân tộc. Phổ biến văn hóa lịch sử âm nhạc dân tộc đến với các cộng đồng khác nhầm xóa bỏ sự nhận định phiến diện về nghệ thuật âm nhạc Chăm. Thể hiện qua trang phục độc đáo, sự uyển chuyển nhịp nhàng của các cô thiếu nữ xinh đẹp trong những điệu múa Chăm ngây ngất đến lạ thường. Đưa khán giả từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Tôi ngồi gần MC Hạ Vân, được cô chia sẽ: “rằng cô rất khâm phục một dân tộc có nền văn hóa đầy màu sắc. Đây là lần đầu tiên cô đã có dịp chiêm ngưỡng những bông hoa xinh đẹp Champa mà từ bấy lâu nay cô chưa hề biết. Cô rất vui khi được chứng kiến tận mắt những thiếu nữ Chăm  đẹp và duyên dáng. Ai ai cũng rất thân thiện và dể mến. Cô nói rằng; cô sẽ về và chia sẽ với đài phát thanh mà cô đang làm.” ĐNH cũng là những tiếng chuông cảnh tỉnh  đến những đứa con Chăm lưu lạc khắp mọi nơi trên thế giới quay về với cội nguồn. Kế tiếp, Nhạc sĩ Từ Công Phụng đã lên góp vui cho đêm ĐNH hai bài hát do ông sáng tác. Tôi hơi thất vọng vì tưởng rằng ông sẽ nhìn khác hơn những gì tôi mong đợi. Tôi hình dung một Từ Công Phụng phong độ trong bộ trang phục cổ truyền dân tộc, nói tiếng mẹ đẻ trên sân khấu dù chỉ vỏn vẹn một câu cũng được, hoặc hát một vài câu bằng tiếng Chăm nếu có thể . Có lẽ tôi hy vọng ở nơi nhạc sĩ Chăm này nhiều hơn thế nữa, nhưng dù gì đi nữa, ông đã đến với cộng đồng của mình trong phần cuối của cuộc đời còn lại, đến để gần gũi nhau hơn đã là tốt lắm rồi. Cũng có thể nói đây là một bước khởi đầu rất đáng khích lệ. Hy vọng trong tương lai, tôi và các bạn sẽ thấy một hình ảnh Từ Công Phụng khác hơn và gần gũi hơn và Chăm hơn.  Cám ơn các cô bác anh chị em tại San Jose về sự rất nhiệt tình phục vụ quên mình. Hy sinh tất cả gia đình con cái, tập dợt nấu ăn và còn phục vụ khách phương xa. Dù rất mệt nhưng các anh chị lúc nào cũng rất vui vẻ. Ở Mỹ ai cũng rất bận rộn, các anh chị em bỏ công sức tập dợt mỗi ngày sau giờ làm việc mệt nhọc. Hy sinh đến mức đó là cùng!. Mặc dù số lượng rất ít ỏi nhưng các cô bác anh chị cùng các anh chị em Sacramento làm nên một đêm Đại Nhạc Hội như thế này là một điều tôi không thể nào ngờ được. Tôi khâm phục ban tổ chức làm việc rất nghiêm túc và kỹ luật. Một sự thành công ngoài sức tưởng tượng của tôi. Xét về hình thức lẫn nội dung đều rất chuyên nghiệp và dĩ nhiên các anh chị đã không nói suông bằng lời mà đã hy sinh rất nhiều thời gian qúi báo của mình để có được một đêm ĐNH ý nghĩa này. G. CLÉMENCEAU nói không sai. “không phải chỉ nói suông mà có thể thay đổi được một tình trạng, chính phải biết hy sinh.” Về đến nhà đã mấy ngày rồi nhưng đầu óc vẫn còn nghe dư âm Đêm nhạc hội. Vẫn còn nhớ như in những hình ảnh các anh chị chạy tới chạy lui chuẩn bị cho tiết mục kế tiếp, sửa soạn trang phục cho nhau trước khi lên sân khấu, khích lệ nhau hãy trình diễn hết mình, những cái nhìn yêu thương trìu mến dành cho nhau lúc tập dợt. Lúc nhẹ nhàng lúc căng thẳng. Lúc lại vang lên những tiếng cười giòn giã. những tiếng chào nhau tay bắt mặt mừng, những vòng tay ấm áp làm mà khó quên đến thế. Tôi đã mang về cả tình cảm anh chị dành cho tôi, đem về hơi ấm tình tự dân tộc, những nỗi niềm yêu thương da diết. Một dư âm thật khó diển tả bằng lời.  Ca nhạc sĩ Từ Công Phụng,  MC Hạ Vân - Sáng LưuThiết nghĩ, trong cuộc sống có đôi khi chúng ta chìm sâu trong sự im lặng qúa lâu. Chìm đấm đến gần như quên đi cảm giác gần gủi thân mật. Đôi khi nhìn lại chẵng có gì trầm trọng cả, chỉ là những cái không đáng kể. Đôi khi chúng ta chưa thật sự hiểu nhau hay chúng ta hiểu lầm nhau bởi không cùng hiểu một nghĩa. Georges DUHAMEL (la possession du monde) có nói: “Những danh từ là những ý tưởng… Con người thường xâu xé lẫn nhau chỉ vì những danh từ mà họ không cùng hiểu một nghĩa. Nếu họ hiểu nhau hơn, họ sẽ ngả vào lòng nhau.” Đại Nhạc Hội Champa chính là cơ hội để đưa chúng ta đến gần với nhau và hiểu nhau hơn. Đêm ĐNH đã nói lên được rằng tinh thần Champa vẫn cháy bỗng. Những đứa con Chăm đã vượt qua biên giới Đạo Giáo, Chủ nghĩa cá nhân, vượt qua Vị trí Địa Lý để đến với nhau. Hơn bao giờ hết, những đứa con Champa trên khắp mọi nơi vẫn còn đau xót cho dân tộc mình, họ vẫn còn hướng về quê hương đổ nát, cùng nhau xây dựng mái nhà Champa yêu dấu. Tất cả đã hòa quyện vào nhau trong vòng tay ấm áp. Ai có đến với ngày Đại Nhạc Hội mới chứng kiến được những cảnh các Chú các Bác cùng nắm chặt tay nhau, cùng nhau làm việc mới cảm nhận được tinh thần đoàn kết của Champa vẫn còn sâu đậm lắm. Ai cũng hăng say góp một bàn tay, chẵng phân biệt tuổi tác hay địa vị. Có lẽ đây là một bài toán mà đã bấy lâu nay chúng ta chưa giải đáp được. Bài toán chứng minh tinh thần đoàn kết dân tộc Champa của chúng ta. Chúng ta sống trên đất khách quê người , ít có cơ hội gặp mặt nhau. Chúng ta hãy biết tạo cơ hội để đến với nhau nối vòng tay lớn. Cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc. Cùng cầm tay nhau hàn gắn tình đoàn kết, xóa đi những ngộ nhận đáng tiếc trong cộng đồng. Đồng thời hâm nóng lại bản sắc dân tộc. Gợi nhớ hoài cổ, hướng về cố quốc. Kết tụ dân tộc, tình yêu tốt đẹp cần thiết phát triển mọi mặt trong tương lai. Hy vọng một ngày gần trong tương lai.   Anh em diễn viên đang reo hò, vui mừng sau chương trình ĐNH kết thúc. Hãy đến gần với nhau hơn nữa, bởi lẽ, một khi chúng ta đã gần gũi nhau thì những mâu thuẫn sẽ tan biến và nhường chổ cho sự đồng cảm yêu thương, sẵn sàng bỏ qua những bất đồng về quan điểm, sẵn sàng tha thứ cho nhau. Một khi chúng ta đã yêu thương nhau rồi thì mọi thứ khác đã không còn gì đáng kể. Chúng ta hãy biết nắm lấy cơ hội để sích lại gần nhau, đừng để đợi đến một phần tư của cuộc đời mới gặp lại. Hãy đến, cùng nắm chặt tay nhau để cùng nhau làm tốt hơn nữa. Hơn bao giờ hết, hãy gạt bỏ những tư tưởng sai về nhau để cùng nhau đắm chìm trong hạnh phúc như thế này. Hãy cùng nhau gìn giữ bản sắc dân tộc để con cháu sau này còn hãnh diện về dân tộc mình. Ban tổ chức hãy cố gắng duy trì sân chơi bổ ích này để chúng ta giao lưu với nhau. Hãy duy trì một phong cách làm việc vượt lên trên bất cứ sự khác biệt của nhau như thế này nhé. Đây chính là chìa khóa đưa đến sự thành công trong lần ĐNH này. Nếu trong thâm tâm của mỗi cá nhân trong ban tổ chức vẫn còn có tư tưởng phân biệt em Bàlamôn, tôi Bàni, anh thì Islam thì dù có tổ chức bao nhiêu lần ĐNH vẫn quay lại vị trí cũ , không đi về đâu cả. Hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau sớm hơn, không phải đợi đến 17 năm nữa, lúc đó Chế Mỹ Lan già rồi không còn hát được nữa đâu. Các bạn có muốn chúng ta gặp nhau một ngày rất gần không? Chúc các Bác các cô Chú và các anh chị về đến nhà vui vẽ bình an, cùng nhau quay quần bên gia đình và người thân. Cùng nhau chia sẽ và ôn lại kỷ niệm đẹp khó quên trong đêm ĐNH và truyền ngọn lửa yêu thương tỏa khắp nơi trong cộng động Champa của chúng ta. Chúc một mùa Giáng Sinh an lành.        
0 Rating 529 views 0 likes 0 Comments
Read more
Đn ng phഡt hiện ra ngn ngữ, họ nghĩ đến ni chuyện. Phụ nữ ph䳡t hiện ra cch ni chuyện, họ nghĩ đến "bu᳴n dưa l". .Đn ꠴ng pht hiện ra vũ kh, họ nghĩ đến đi săn. Phụ nữ ph᭡t hiện ra nghề đi săn, họ nghĩ đến o lng thᴺ. .Đn ng phഡt hiện ra mu sắc, họ nghĩ đến hội hoạ. Phụ nữ pht hiện ra hội hoạ, họ nghĩ đến trang điểm. .Đࡠn ng pht hiện ra nghề n䡴ng, họ nghĩ đến thức ăn. Phụ nữ pht hiện ra thức ăn, họ nghĩ đến ăn king. .Đ᪠n ng pht hiện ra t䡬nh bạn, họ nghĩ đến tnh yu. Phụ nữ ph쪡t hiện ra tnh yu, họ nghĩ đến h쪴n nhn. .Đn ⠴ng ph thiện ra cch buᡴn bn, họ nghĩ đến tiền. Phụ nữ pht hiện ra tiền, vᡠ đn ng gặp tai hoạ từ đള !.
0 Rating 527 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 28, 2015
Khik Sap Ndom Saong Wak Akhar Thrah Cam Jasakavi Urang taha hu lac “Panuec ndom Cam daok yau tanâh aia Cam daok”. Haber panuec urang taha ndom yau nan? Sap puec panuec ndom ngap yau suan thep bengsa Campa. Sap amaik manâk drei nao tel halei drei lijang seng anâk Cam nan rei. Mayah hu sa urang lingiw ngap yau Yuen, Laow tanyi drei lac “sa-ai thau ndom thau wak akhar Cam halei? Drei lac haber ni! Apakar ni ngap ka dahlak sanâng biak drut druai di hatai baoh kayua anâk Cam lihik aia hadom ratuh thun tapa ngap ka anak Cam wer akhar tapuk. Urak ni anâk Cam drei di hu hagait tra o. Sap ndom jaik si lihik abih. Hadom anâk Cam harei ni ndom tablak ralo panuec Yuen saong sap ndom urang lingiw. Karei di nan wek takik lo anâk Cam drei thau wak akhar Cam. Gruk ni hadom urang Cam hu bac da-a thau akhar tapuk njep sanâng kahria nyaom gep biai wek. Marat hatai ngap sa jalan mâng kal marai. Ong akaok muk kei drei ndom saong wak akhar tapuk yau halei, anâk tacaow hadei ni ngap tuei yau krung nao baik. Hu yau nan ka anâk Cam drei njep gep, pan tangin gep, blaoh ba gep nao sa jalan tapak ka hadom anâk Cam daok dalam aia jang ngap yau pak aia lingiw. -----------***------------ Jasakavi K[` S$ OV. Os= w` aK^ RTH c  ur) th\ h\U l! “pnW-! OV, c, Od_` yU- tnIH aY\ c, Od_`”;; hb-^ pnW-! ur) th\ OV, yU- N#;; S$ pW-! pnW-! OV, Q$ yU- SW-# T-$ b-) S\ c,f\;; S$ aEm` mnI` Rd] On_ t-& hl] Rd] l[j) S-) an` c, N# r];; myH h\U s\ ur) l[q[* Q$ yU- yW-#; Ol_* tz{ Rd] l! “SEA TU- w` aK^ c, hl]” Rd] l! hb-^ n{;; a\pkr n{ Q$ k\ dhL` SnI) bY` RdU@ ERdW d{ hEt Ob_H ky\W anI` c, l[h[` aY\ hOd, rtUH TU# tp\ Q$ k\ an` c, w-& aK^ tpU`;; ur` n{ anI` c, Rd] d{ h\U hEg@ Rt\ o;; S$ OV, Ej` s{ l[h[` ab[H;; hOd, an` c, hr] n{ OV, tbL` rOl\ pnW-! yW-# Os= S$ OV, ur) l[q[*;; kr] d{ N# w-` tk[` Ol\ anI` c, Rd] TU- w` aK^ c,;; RgU` n{ hOd, ur) c, h\U b! da\ TU- aK^ tpU` x-$ SnI) kRhY\ Oz+ g-$ EbY w-`;; mr@ hEt Q$ s\ jl# m) k& mEr;; o) aOk_` mU` k] Rd] OV, Os= w` aK^ tpU` yU- hl]; an` tOc_* hd] n{ Q$ yU- RkU~ On_ Eb`;; hU\ yU- N# k\ an` c, Rd] x-$ g-$; p# tq[# g-$; ObL_H b\ g-$ On_ s\ jl# tp` k\ hOd+ an` c, Od_` dl, aY\ j) Q$ yU- p` aY\ l[q[*;;    
0 Rating 482 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 12, 2017
  Hoa Kỳ là một nước lớn nhưng có những giai đoạn trong lịch sử vì hai chính đảng, Dân Chủ và Cộng Hoà, không chịu nhượng bộ nhau nên đã xảy ra những cuộc khủng hoảng chính trị gây tổn hại không ít cho quốc gia. Do đó vào thập niên cuối của thế kỷ 20 họ muốn đi tìm một nền tảng chính trị ổn định hơn, bằng cách theo thể chế trung dung. Nghĩa là tìm kiếm một chính trị gia ôn hoà không quá thiên về phía cực nào, bên tả cũng như hữu. Nên trong một bài xã luận trên tuần báo Business Week, khi nói về cuộc bầu cử tổng thống, một tác giả đã nhấn mạnh là trong năm 1996 cử tri muốn lãnh đạo của họ phải theo hướng ôn hoà. Năm 1992, Bill Clinton đã đánh bại George Herbert Walker Bush chỉ sau một nhiệm kỳ làm tổng thống, bằng cách mô tả mình là một chính trị gia mới của đảng Dân Chủ, một người ôn hoà, một ứng cử viên đến từ ngoài Washington không bị những phê phái chính trị ở thủ đô ảnh hưởng. Lúc ấy ông đang là thống đốc của tiểu bang Arkansas và hứa là sẽ làm giảm nhẹ đi những chính sách cồng kềnh quá tốn kém của quốc gia. Nhưng khi nắm được chính quyền trong tay, thì ông lại rơi vào thế chẳng khác gì các chính trị gia tiền nhiệm của mình gặp, ấy là bị các nhóm lợi ích ảnh hưởng lôi kéo đi theo chủ nghĩa tự do quá trớn của bên tả. Kết quả là đã đem đến sự thảm hoạ lớn lao cho đảng Dân Chủ. Do đó mà chỉ hai năm sau nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng thống Bill Clinton, đảng Cộng Hoà đã thắng lớn trong kỳ bầu cử vào năm 1994. Đây là lần đầu tiên trong bốn mươi năm đảng Cộng Hoà nắm quyền kiểm soát cả hai viện của Quốc Hội. Chủ tịch Hạ Viện Newt Gingrich thuộc đảng Cộng Hoà, một người trực tính đòi xoá bỏ chính sách welfare của nhà nước, nghĩa là xoá bỏ chương trình phúc lợi xã hội quá lớn lao của đảng Dân Chủ. Tuy nhiên, không bao lâu sau đảng Cộng Hoà cũng sớm nhận thức về sự ngạo mạn quá cực đoan của mình, nó cũng là mồ chôn của chính họ. Sự bất đồng của hai chính đảng đã dẫn đến việc đóng cửa các cơ quan nhà nước liên bang hai lần, từ ngày 14 đến 19 tháng 11 năm 1995 và từ 16 tháng 12 năm 1995 đến ngày 6 tháng 1 năm 1996. Trong 26 ngày ấy đã làm tốn mất ngân sách quốc gia hết 1 tỉ 4 đô-la Mỹ, chưa kể đến những mất mát khác. Trong cơn khủng hoảng, Tổng thống Bill Clinton đã làm một việc ngay cả đảng Cộng Hoà phải ngạc nhiên, ấy là ông chuyển hướng từ phía cực tả về thế trung dung. Ngay trong bài diễn văn “State of the Union” của năm ấy, ông đã kết nạp chương trình cải cách phúc lợi xã hội và cân bằng ngân sách quốc gia của Cộng Hoà vào trong chính sách. Cuộc đấu đá giữa hai đảng Dân Chủ nắm quyền kiểm soát Cơ Quan Hành Pháp và Cộng Hoà nắm quyền kiểm soát Cơ Quan Lập Pháp vào những năm từ 1994 đến đầu năm 1996 là cao điểm. Cuộc khủng hoảng trên một phần do chính sách của hai chính đảng khác xa nhau và một phần là do hai vị lãnh đạo của hai đảng thời ấy quá cực đoan. Sau cuộc khủng hoảng lịch sử này, Tổng thống Bill Clinton của Dân Chủ và Chủ tịch Quốc Hội Newt Gingrich của Cộng Hoà đã chịu nhân nhượng nhau, làm việc hướng về quyền lợi đích thực của quốc gia. Nhờ vậy họ đã cùng tìm ra những giải pháp tốt đẹp, để đem lại những phúc lợi lớn lao cho toàn dân. Đây là bài học mà chúng ta nên học, bài học này có thể áp dụng cho tất cả mọi tầng lớp từ chính quyền lớn như Mỹ đến cộng đồng nhỏ như người Chăm chúng ta. Ấy là hợp tác với nhau để cùng đem lại quyền lợi thiết thực chung cho cộng đồng và dân tộc chúng ta. Dĩ nhiên là khi làm việc chúng ta không tránh khỏi những bất đồng, nhưng mỗi khi sự bất đồng đến chúng ta hãy ngồi lại để tìm ra phương cách tốt đẹp. Hầu tránh bớt đi những căng thẳng, giảm thiểu đi những bất đồng. Những dị biệt về chính kiến, quan điểm và ngay cả phương pháp làm việc có thể san bằng được nếu chúng ta chịu ngồi lại bàn bạc và làm việc chung với nhau. Ao ước lớn lao của hầu hết người Chăm là làm sao người mình có thể làm việc chung với nhau, hầu giải toả những bất hoà. Sau cuộc khủng hoảng đó Tổng thống Bill Clinton và Chủ tịch Quốc Hội Newt Gingrich đã cùng làm việc chung với nhau, nhờ đó họ đã cùng nhau với bao thế hệ kế tiếp thừa hưởng cái phương pháp làm việc tốt đẹp, giúp đưa đất nước Hoa Kỳ đến vị thế siêu cường quốc như bây giờ. Cuộc khủng hoảng sau kỳ hội thảo về “Lịch Sử Ngôn Ngữ và Chữ Viết Chăm” diễn ra trong hai ngày là 21 và 22 tháng 9 năm 2006 tại Kuala Lumpur Malaysia đến nay đã hơn 10 năm mà những nhà trí thức Chăm chưa tìm ra giải pháp. Hơn 10 năm nay với biết bao bài viết bình luận và tranh luận với nhau trên nhiều diễn đàn, nhất là trên mạng xã hội. Nhưng kết cuộc thì cũng chỉ là những cuộc tranh luận kéo dài, dường như không có hồi kết. Làm cho nhiều người cứ mãi băn khoăn, là với ngần ấy thời giờ, công sức và trí tuệ thì tại sao mình không nghĩ đến cách ít tốn kém hơn, bớt ồn ào hơn. Ấy là đến gặp nhau để tay bắt mặt mừng, bốn mắt nhìn nhau nói lên cái trăn trở, cái ưu tư và ngay cả cái bất đồng của mình cho nhau nghe một cách trực tiếp và rõ ràng. Để từ đó mà mình với nhau cùng tìm ra giải pháp, nếu như một lần không xong thì cứ tiếp tục thêm lần khác nữa. Tại Hoa Kỳ, trong toà nhà Quốc Hội, nơi mà tôi đã có những lần đặt chân đến, người Mỹ họ vì đại cuộc mà những chính trị gia có khi tranh luận với nhau một cách hăng say. Nhưng dù sao đi nữa, những ngôn từ mà họ dùng để tranh luận với nhau có chừng mực và đầy sự thuyết phục. Nếu chúng ta học được nơi người để áp dụng cho chính mình, thì những trao đổi giữa mình với nhau dù là thuộc đề tài nóng hổi chăng nữa cũng ít gay gắt hơn. Vì cuối cùng chúng ta cũng phải làm việc với nhau, nếu như ai đó thực sự có còn quan tâm đến số phận chung của người Chăm, để có thể cùng giải quyết những vấn đề còn nổi cổm khác trong xã hội chúng ta. Đồng bào Chăm của chúng ta trải dài qua bao thế kỷ, đã sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh thật là đau thương và thiếu thốn mọi bề. Chúng ta thật không có gì nhiều để ban cho hoặc giúp đỡ, nhưng điều chúng ta có thể làm được là hãy yêu thương nhau hòng hàn gắn lại những thương đau. Nếu như vấn đề Ngôn Ngữ và Chữ Viết Chăm đã được giải quyết ổn thoả, thì hãy gát qua một bên để làm công việc khác. Còn không, thì hãy cứ tiếp tục trao đổi với nhau, nhưng theo phương cách ít ồn ào và ôn hoà nhất. Hầu đem lại phần nào sự đoàn kết và yên vui cho mọi người Chăm. Dù sống ở đâu, trên chính quê hương xưa cũ hay nơi xứ lạ quê người.   CHÂN THÀNH     tác giả gởi bài qua info@nguoicham.com    
0 Rating 465 views 0 likes 0 Comments
Read more
“Chia Sẻ” Điều Kiện Để Thành Công.   Trong tiếng Anh, ‘Companion’ có nghĩa là bạn, bầu bạn, làm bạn. ‘Companion’ có nguồn gốc từ chữ Latin: ‘Com’ và ‘Panis’ với nghĩa là chia bánh mỳ cho người khác. Từ này là từ gốc của ‘Company’ (Công ty), và sự ‘chia sẻ’       cũng có thể được hiểu như là sự ‘kết bạn’ bầu bạn với nhau, đồng cảm và đồng hành….. Thực tế cho thấy trong đời sống, ở đâu có sự ‘sẻ chia’ ở đó có sự ‘trao đổi chất’ trong ‘môi trường’. Đó là sự tương hỗ qua lại giữa người với người, kiến thức với kiến thức, tình cảm với tình cảm, là miếng ăn hay việc làm…..vv… Chúng ta không thể cho đi cả một cái bánh  mỳ, vì mỗi người cũng cần nó cho sự sống của bản thân, nhưng chúng ta có thể ăn ít hơn nguyên cả khẩu phần khi ta bẻ chiếc bánh mỳ ra cho người khác, người không có và đang cần nó. ‘Thành công’ là một khái niệm mà thước đo giá trị của nó phải được đánh giá dựa trên kết quả ‘so sánh’ với một ‘cộng đồng’. Không ai có thành công mà lại chỉ có một mình cả. Vì thế sự phát triển ‘cộng đồng’ là cần thiết cho một thành công. Lấy một ví dụ trong ngành kinh doanh trực tuyến, bạn không thể thành công nếu cứ khư khư chỉ có riêng bạn. Chúng ta không dám để cho những người khác chia sẻ ‘địa chỉ’ của họ trong ‘nhà ‘ mình vì sợ rằng như thế ‘khách’ đến nhà mình sẽ ‘thông cửa’ mà đến nhà khác mất. Đó là một sai lầm lớn, không dễ gì thay đổi tư tưởng với tư duy ‘cho đi sẽ nhận lại’ (một trong những ví dụ thành công lớn nhất trong việc chia sẻ đó là chính sách ‘mở cửa’ giao thương với bên  ngoài của các quốc gia, trong đó có Việt  Nam). Vấn đề không phải là ‘cấm cửa’ mà là phải tìm ra giải pháp để ‘có đi có lại’ người ta đến với mình, không có nghĩa chỉ đến với mình mà thôi bởi nếu như thế thì đó là ngõ cụt. Những mạch huyết giao thông tiện lợi và có khoa học luôn có sự thông suốt và luôn có đường dẫn đến ‘nhà mình’.   Từ tiếng Pháp ‘ Compagnon designates’ được truyền bá khắp châu Âu từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14 và thậm chí tồn tại cho đến ngày nay trong một số hệ thống quản lý. Một người trở thành bạn đồng hành với người khác khi họ đi chung trên một con đường  và chia cho nhau mẩu bánh mỳ. Bài viết có sử dụng trích dẫn từ cuốn sách: “Chiếm Lĩnh Thế Giới Kinh Doanh Mới”
0 Rating 457 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 25, 2013
(lược trích)   Mọi người giải tán sau một buổi sáng tồi tệ. Riêng đối với tiến sĩ Tài, đây là một thất bại của ngành khảo cổ, nhưng đối với cá nhân anh ta thì có nhiều thứ phải cảm ơn cái chết của paul. Một ý tưởng mới đã ngoi từ huyệt mộ của nhà khảo cổ Pháp. Khi mọi người đã khuất bóng, giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi Kì Phương. - Đêm qua, paulcó liên lạc với anh không? - Có ạ, em đang ở công trường thì nhận được điện của ông ấy ra Đà Nẵng. - Để làm gì? - Lên sân bay đón con gái ông ta! - Chạy 70 km để làm một việc mà bất cứ chiếu taxi nào cũng có thể làm? - Ông ta không biết em ở xa vậy, khi em nói đang ở Mỹ Sơn ông ấy vội thoái lui nhưng em nói cũng đang định về Đà Nẵng nên tiện thể đón luôn. - Nếu ông ta nhờ anh đi đón một mẹ xề nào đó, chắc anh đã không có ý định ‘’tiện thể’’ đúng không? Kì Phương cười gượng, mà đúng thế thật. Lúc ấy anh không cảm thấy bị sai vặt mà rất hãnh diện như được trao một món quà đắt giá. Do mải nghĩ đến món quà ‘’bằng xương bằng thịt’’ này nên khi phóng xe qua ngã ba Nam Phước anh suýt lao chiếc xe cà tàng của mình vào chiếc contairner chạy ngược chiều. Thật hú vía. - Thế rồi sau đó thì sao? - Sau đó em đưa cô ta về khách sạn chỗ cha cô ta, chờ mãi không thấy nên đoán ông ta đi Mỹ Sơn, vậy là chúng em vào đây luôn. Vị giáo sư thở dài, không giấu vẻ buồn bã. - Còn bây giờ, chắc cô ta đã khóc hết nước mắt rồi chứ? Kì Phương biết mình sắp phải giải thích một việc khó tin hệt như sáng nay với viên cảnh sát. - Em nhìn thấy xác paul trước và không muốn cái chết thảm thương đó đập vào mắt cô ta, vì lí do ấy mà em đã che thi thể cha cô ta lại. Cho đến giây phút này, cô ta cũng chưa biết ba mình đã chết. - Chưa biết? – ông ngạc nhiên - Nhưng thầy thấy có dấu chân giày nữ bên xác chết! Kì Phương không ngờ thầy mình có năng khiếu làm thám tử đến vậy nhưng vội nhớ ra các nhà khảo cổ có thoi quen luôn nhìn xuống đất, nghe đồn rằng họ có biệt tài nhìn các nếp nhăn trên cơ thể phụ nữ mà đoán trúng ‘’niên đại’’ nữa. -Vâng, đúng là cô ta đứng bên xác chết mà không thấy. - Anh đè lên xác chết để ...che mắt cô ta? -Vâng! giáo sư Huỳnh Lẫm nhìn anh như một sinh vật mọi rợ. - Bây giờ thì cô ta đi đâu rồi?  - Bởi chưa biết cha mình chết, nên cô ta đã đi tìm. - Nếu cô ta không thấy xác, thì số máu lênh láng kia không làm cô ta thắc mắc hay sao? -Vâng, con gái hay tin một cách ẫu trí mà. Cô ta kiên quyết đi tìm. Gshl biết kẻ ấu trí ở đây là ai, còn cô gái quái đản kia đi đâu và làm gì sau khi bỏ chạy khỏi hiện trường mới làm ông quan tâm. - Sao không ngăn cô ta lại, anh thật tàn nhẫn! nếu anh không dám nói thì tôi sẽ nói. Số máy cô ta bao nhiêu? Kì Phương không ngờ ông lại phản ứng gay gắt đến vậy. - Thưa thầy, cô ta từ nước ngoài về nên chưa có số. Em sẽ đi tìm cô ấy ngay bây giờ! - Anh biết gì về cô ta? Hai người thân nhau đến mức nào? Kì Phương nhận ra sự quan tâm của ông đã đi hơi xa, nhưng trước một người thầy luôn tận tụy với học trò, anh coi đây là điều đáng trân trọng. - Thưa thầy, con biết cô ta hồi bé, hơn 12 năm nay chưa hề gặp lại... - Một con người mà đứng bên xác cha mình mà không biết chỉ có mất hết giác quan hoặc là giả vờ. Anh tin cô ta là người tốt sao! Lúc nằm trên xác chết và dưới cái nhìn da diết đến tội nghiệp của cô ta đã làm anh không thể nghĩ được gì nữa. Sau lời nói khó nghe của thầy anh mới bắt đầu hoài nghi về cô. Dù sao, trước cái nhìn đầy soi mói của thầy, anh bắt đầu tự ái. - vâng, em tin cô ấy, cha cô ấy là người tốt. -À, cha tốt thì con tốt! Kì Phương định đáp lại nhưng nhận ra ông ta đã tự trả lời, một sự khẳng định đầy mỉa mai. - Ta hiểu con, bây giờ anh mau mau đi tìm cô ta đi, tìm thấy hãy gọi ngay cho tôi. Kì Phương định quay mặt đi thì ông bất ngờ kéo tay lại hỏi. - Anh có biết vì sao Paul chết không? Kì Phương sầm mặt, giờ là lúc còn quá sớm và quá khó để nói về nguyên nhân hay hung thủ. Giao sư lại hỏi. - Anh có thấy điều gì đó bất ổn ở cô gái vừa bỏ trốn kia không? - Thầy nói sao? Con gái ông ta không thể liên quan đến cái chết...của ba cô. - Tôi không biết cô ta là loại người gì, nhưng chưa chắc Paul là người duy nhất sẽ phải chết. - Thầy nói gì? - Kì Phương giật mình. - Hãy nói cho cô ta biết sự thật và điều quan trọng nhất là đưa cô ta trốn đi đâu đó thật nhanh. Kì Phương chột dạ, giáo sư Huỳnh Lẫm đã cảnh báo một điều mà lẽ ra anh phải biết trước. Trong khi nguyên nhân cái chết của Paul đang trong bí ẩn thì giáo sư Huỳnh Lẫm có lí do để lo lắng cho đứa con nạn nhân. Thi Nga là người ruột thịt duy nhất nên ba cô chắc chắn đã chia sẻ nhiều thông tin bí mật. Nếu chúng giết Paul vì những bí mật đó thì không lí do gì chúng không làm điều tương tự với con gái ông ta. Kì Phương vội vã đi nhanh ra xe. Hình như vừa sực nghĩ ra điều gì, giáo sư Huỳnh Lẫm đuổi theo rồi chặn ngang trước mặt anh: - Tôi sẽ đi cùng anh! - Việc này một mình em là đủ - Nhìn khuôn mặt khốn khổ của thầy, Kì Phương không nghĩ ông lại đánh giá sự việc trầm trọng đến vậy. Anh nói vội.– Thầy cứ yên tâm, cảnh sát đang giăng lưới khắp nơi, nếu có kẻ nào đó muốn hại cô ta cũng không dại gì manh động lúc này.- Kì Phương né sang đi tiếp nhưng giáo sư Huỳnh Lẫm không để anh vượt lên. - Anh định tìm cô ta ở đâu? Kì Phương biết rằng ông muốn đi tìm Thi Nga, nghĩ đến viễn cảnh ông ta gặp Thi Nga để nói cái chết của Paul sẽ làm anh khó xử, việc này để anh chủ động nói lại với cô thì hơn. Hơn nữa, có thêm một ông lão già nua bên cạnh cũng không làm cô an toàn hơn. Anh đành nói qua quýt. - Em cũng không dám chắc cô ta ở đâu, có lẽ ở chỗ người quen thôi. - Nghe tôi nói đây, - ông đẩy anh lùi nửa bước rồi nói.- nếu tìm thấy cô ta, hai người nên tạm náu mình đâu đó một hai hôm cho tình hình lắng xuống cái đã. - Thấy nghĩ có kẻ sẽ giết cô ta sao? – Kì Phương phát hoảng. - Qua những gì ta đã chứng kiến sáng nay, chúng ta chưa rõ kẻ giết paul vì động cơ gì, hung thủ là ai và có bao nhiêu tên nhưng chắc chắn đây không phải là hành vi đơn lẻ bột phát. Từ sáng qua tới nay anh với paul như hình với bóng, sự gần gũi và ân cần thái quá của anh và con gái ông ta đang vô tình phát một thông điệp cho kẻ xấu rằng: anh với họ cùng bè cùng đảng. Họ phải chết thfi anh cũng khó sống sót. Kì Phương nghe xong suýt bật cười, anh cho rằng tên sát thủ đã cao chạy xa bay cùng với cổ vật. Khả năng chúng sẽ hãm hại nốt Thi Nga và anh gần như không có. Tuy nhiên chuyến thám hiểm thánh địa naga nào đó có khi lại là nguyên chúng săn lùng cha con cô. ‘’Cẩn tắc bất áy náy’’ rõ ràng giáo sư Huỳnh Lẫm tĩnh tâm hơn anh tưởng và ông có cái nhìn sâu sắc hơn. - Nếu trốn đi lúc này – anh đắn đo - có làm cho cảnh sát nghĩ sai về mình không. - Đó là những con người không làm việc theo cảm tính, nếu anh và cô ta không phạm pháp thì không ai bắt được tội được cả. - Thầy nói đúng, con sẽ đưa cô ta vào náu ngay tại đồn cảnh sát luôn. giáo sư Huỳnh Lẫm vội vã xua tay. - Tìm đến họ lúc này không phải là cách làm thông minh nhất. - Tại sao thưa thầy? - Đương nhiên hai người không có tội, nhưng những gì anh và cô ta làm ở hiện trường đã lọt vào tầm ngăm,s của cảnh sát. Lẽ ra cô ta nên ở lại trình báo và hợp tác với cảnh sát để tìm hung thủ thì lại trốn biệt tăm biệt tích. Ai dám chắc cô ta không móc nối với với hung thủ hay đang tẩu tán cổ vật thì sao? Họ thừa lí do để tạm giam hai người để điều tra, anh hiểu chứ? Điều này thì không cần giáo sư Huỳnh Lẫm răn dạy anh cũng hiểu, sáng nay chính viên chỉ huy cảnh sát đã nói thẳng với anh rằng lẽ ra anh phải bị giữ lại như một nhân chứn gddawcj biệt nhưng ông ta đã linh động bỏ qua nhưng hieue ý là sẽ bị triệu tập bất cứ lúc nào. Kp nhìn rõ một nỗi ác cảm về Thi Nga đang gợn lên trong đôi mắt tinh tường của ông. - Vậy theo ý thầy, ta vẫn phải tìm một nơi nào đó...để tránh nạn? - Tôi nghĩ ra rồi, anh hãy đưa cô ta về Hội An ở tạm ngôi nhà bỏ không của nhóm chuyên gia khảo cổ Nhật. Chìa khóa tôi đang giữ đây. Dù sao thì bảo vệ và chăm sóc con gái paul là trách nhiệm của tôi và anh lúc này. Ai dám chắc kẻ giết pie sẽ không thanh toán nốt cô ta. Không được rời cô ta nửa bước. Phải bí mật và tạm thời cắt hết mọi liên lạc với bên ngoài. Tôi sẽ cử người đến bảo vệ hai người. Kì Phương biết ngôi biệt thự hai tầng đầy đủ tiện nghi trong một con hẻm vắng bên sông Thu Bồn đó, đúng là một nơi lí tưởng để ẩn nấp. Kì Phương nhận chùm chìa khóa rồi lên xe lao đi. Kì Phương lo lắng đêm hôm lạ nước lạ cái thế này không biết Thi Nga có về đến Đà Nẵng an toàn hay không. Nếu không bị sát hại dọc đường thì giờ này cô nàng đang thu xếp hành lí để rời Việt Nam theo dấu chân mịt mù vô vọng của cha cô sang Pnompenh. Thật điên rồ. Lúc này Kì Phương bỗng rùng mình về sự dại dột và vô trách nhiệm đến khó tha thứ của mình. Đã thế, mặc dù biết rõ hành tung của cô nhưng anh vẫn giấu tịt điều này với viên thiếu tá lẫn thầy mình chỉ vì anh không muốn họ tìm thấy cô để ném một cái tin đau xé lòng vào mặt cô ấy. Trong chuyện này anh phải đích thân gặp lại Thi Nga để nói hết sự thật kèm theo xin lỗi. Đêm qua anh đã chạy xe với một tốc độ kinh hoàng lên tận sân bay để mong nhận một nụ cười của cô, giờ đây anh cũng phi như điên dại tìm nàng mặc dù biết trước một cái tát nảy lửa đang chờ anh. Đúng như anh hi vọng, chiếc Ford sét rỉ mà Thi Nga đang đùng đang đỗ xệch xẹo ngoài cổng khách sạn. Chàng nhân viên đeo nơ thấy anh đi vào nên tỏ ra là người tinh tế. - Cô ta đang chờ anh ở trên phòng 302 đấy!  - Cảm ơn!- Kì Phương thấy rõ ánh mắt ganh tị của gã. Đến trước cửa phòng 302 anh nén lặng mình một lúc rồi ấn chuông. Cánh cửa vội mở ra.  
0 Rating 449 views 8 likes 0 Comments
Read more
Mỗi người sinh ra c lẽ ai cũng từng vi lần rơi nước mắt. Kh㠳c xuất hiện khi chng ta buồn, thất vọng. Nhưng mnh xin đưa ra một số lꬭ do khuyn mọi người khng n괪n khc1. Khc sẽ kh㳴ng thể giải quyết được vấn đề g. Nếu khc v쳬 cảm thấy cuộc sống mnh khốn khổ th đừng n쬪n khc v cuộc sống đ㬣 l vậy, khc cೳ thay đổi được thực tại đu.Khc mⳠ cuộc đời được sung sướng th ti cũng muốn kh촳c thật nhiều. Nhưng điều đ l never2. Kh㠳c v tnh y쬪u th lại cng kh젴ng nn. Nếu chia tay người yu mꪠ khc th m㬬nh đng l một đứa ngốc nghếch vꠠ khờ khạo. Nếu người yu chia tay m kh꠳c th mnh đ쬺ng l dở hơi, người ta khng yപu mnh nữa th m쬬nh cần g phải luyến tiếc. Nếu người yu gặp chuyện kh쪳 khăn, khng may m kh䠳c th mnh đ쬺ng l đứa v dụng chỉ biết khളc hoi m chẳng biết lࠠm g để gip người y캪u.3. V gia đnh m쬠 khc th chả c㬳 ch g, nếu c� tnh cảm yu thương gia đ쪬nh th hy l죠m g đ cho gia đ쳬nh, khng ai trong gia đnh cần v䬠 muốn giọt nước mắt đ của mnh đ㬢u.4. Khc để người khc thương cảm: Đ㡢y l ci khࡳc xấu xa nhất trong cuộc đời. Giọt nước mắt ny chỉ để người ta khinh thường bạn nhiều hơn.5. Khc v೬ bị xỉ nhục, bị người khc xc phạm: KhẴng nn khc trong trường hợp n고y. Hy thể hiện c t㡭nh v ch཭ của mnh. c g쳬 th bốp thẳng vo mặt, giải quyết trực tiếp chứ kh젴ng cần phải khc. Hơn nữa, người khc kh㡴ng tn trọng mnh th䬬 mnh cần g phải rơi nước mắt bởi họ.6. Kh쬳c v tnh cảm bạn b쬨 khng được tốt đẹp. Hy n䣪n nhớ bạn b l gốc dễ của cuộc sống giống như gia đ蠬nh vậy. Bởi vậy, giữ gn tnh bạn tốt đẹp l쬠 điều v cng quan trọng. Nhưng kh乴ng nn rơi nước mắt khi tnh bạn gặp vấn đề. Hꬣy suy nghĩ v hnh động để giải quyết mọi vụ việc. Nếu cࠣi nhau th nn h쪲a giải, nn tha thứ; nếu lừa gạt nhau th nꬪn bỏ lun v họ kh䬴ng c nơi chốn no chứa người dối tr㠡. Nếu khng hiểu nhau th suy nghĩ xem c䬳 nn tiếp tục tnh bạn nꬠy khng.Khc v䳬 mất đi một thứ g đ đ쳡ng trn trọng. Đừng nn kh⪳c m hy nhớ rằng cuộc sống l࣠ vậy lun c sự gặp gỡ v䳠 c sự chia tay. V d㬹 sao nếu chng ta khng chia tay họ th괬 cũng c một ngy n㠠o đ họ chia tay chng ta. Đ㺢y l số mệnh.Khc v೬ bệnh tật lm mnh đau đớn. Đଢy l điều chủ động lm con người phải kh࠳c, nhưng bị bệnh, đau th phải đến bc sĩ, đi kh졡m, chữa trị. Chứ đau m cứ khc th೬ lại cng đau hơn. Hy nhớ, nếu khࣳc m hết bệnh, hết đau th ai cũng muốn khଳc.9. Khc sẽ lm m㠬nh xấu đi. Cng khc nhiều th೬ mặt cng kh vഠ nếp nhăm cng nhiều10. Khc lೠm mnh mau gi hơn độ tuổi.Đ젢y l điều đ được l࣭ giải.Khc sẽ khng giải quyết được vấn đề g㴬. Bởi vậy, hy bằng hnh động, bản lĩnh v㠠 ch của m�nh để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Đừng ỷ nại vo con mắt, nước mắt khc nhiều sẽ cạn, vೠ lc đ cạn cũng l꣠ lc mnh khꬴng cn sự sống. Hy cố gắng sống thật tốt c⣡c bạn nh. Chc may mắn.
0 Rating 444 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 30, 2017
  Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Ðông Pháp) Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử duy nhất viết bằng tiếng Akhar Thrah Chăm liên quan đến lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga, chứ không phải là biên niên sử của vua chúa liêng bang Champa đóng đô ở Vijaya. Tiếc rằng, những yếu tố cơ bản lịch sử trong tư liệu có giá trị này đã bị hiểu lầm và sửa đổi theo nhãn quan riêng tư của một số nhà nghiên cứu hay nhà viết lách trong nhiều bài viết đăng tải trên tập san và báo chí viết bằng tiếng Việt ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại gần 40 năm qua. Chỉ cần nhìn lai các bài viết sai lầm về Po Klaong Garai, Po Binnasuar và Po Saong Nhung Ceng, ba nhân vật được ghi trong biên niên sử này, chúng ta đã thấy rằng Sakkarai Dak Rai Patao đã bị thêu dệt tùy theo quan điểm của mỗi tác giả để rồi trở thành nạn nhân của làn sóng nghiên cứu về văn hóa Chăm hôm nay. Một số tác giả cho rằng Po Klaong Garai là vị vua thật sự trị vì vào năm (1151-1295). Họ còn cho rằng Po Klaong Garai là Jaya Indravarman IV vua của liên bang Champa (1147-1160), nhưng họ không bao giờ cho biết tại sao. Tiếc rằng, trong tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao, Po Klaong Garai chỉ là vua huyền sử, một vị thần linh tự sinh ra (éngkat) và được xếp vào triều đại thứ 5 trong danh sách các vua huyền sử này. Sau mấy năm trì vị ở trần gian, Po Klaong Garai trở về trời (nao mâng rup). Po Binnasuar (hay Po Binthuer) cũng là nhân vật được phô trương trong nhiều bài viết. Một số người tự phỏng đoán rằng Po Binnasuar (1316-1361 hay 1328-1373) là quốc vương Chế Bồng Nga (1360-1390). Tiếc rằng, Po Binnasuar và Chế Bồng Nga là hai vị vua khác nhau. Po Binnasuar là vua của tiểu vương quốc Panduranga, gốc làng Bính Nghĩa, Phan Rang lên ngôi năm 1316 hay 1328. Ðền của ngài vẫn còn thờ phượng ở gần làng Bính Nghĩa này. Ngược lại, Chế Bồng Nga là quốc vương của liên bang Champa đóng đô ở Vijaya (Ðồ Bàn), lên ngôi năm 1360. Cuối cùng, Po Saong Nhung Ceng (1799-1822) là quốc vương Panduranga đã chết tại Phan Rí vì bệnh già yếu vào năm 1822 mà cả thư tịch cổ Việt Nam cũng đã chứng minh biến cố này. Ngược lại, một số nhà viết lách cứ cho rằng ngài chạy sang Cao Miên lánh nạn vào năm 1822.  Nguyên nhân của sự sai lầm  Ðiều mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây đó là những sai lầm này chỉ xuất hiện trên mặt sách báo viết bằng tiếng Việt và nó bắt nguồn từ ngày ra đời tác phẩm Dân Tộc Chàm Lịch Sử của Dorohiem và Dohamide xuất bản vào năm 1965. Thế thì đâu là nguyên nhân chính đã đưa các nhà nghiên cứu hay người viết lách bằng tiếng Việt vấp phải lỗi lầm vô cùng tai hại cho lịch sử Champa nói chung và lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga nói riêng. Ðể trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin trình bày sơ lược xuất xứ của các bài nghiên cứu về Sakkarai Dak Rai Patao kể từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến hôm nay. Người nghiên cứu đầu tiên về Sakkarai Dak Rai Patao là E. Aymonier (1890: 145-206). Trong bài nghiên cứu này, E. Aymonier tự đặt bao câu hỏi có chăng Sakkarai Dak Rai Patao chỉ là cốt truyện huyền sử, hoang đường nếu cho rằng tác phẩm này là biên niên sử của vương quốc Champa? Vì rằng danh sách vua chúa ghi trong Sakkarai Dak Rai Patao không có gì liên hệ đến vua chúa Champa đóng đô ở Viyaja, từ niên đại lên ngôi, tên tuổi, thủ đô, v.v. Trong bài viết của mình, E. Aymonier chỉ nêu ra câu hỏi, đặt lại vấn đề liên quan đến xuất xứ của tư liệu này, nhưng ông không tìm ra một câu để giải đáp. Mười lăm năm sau, nhà nghiên cứu Pháp là E. Durand (1905: 377-382) trở lại nghiên cứu tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao. Trong phần kết luận, E. Durand cho rằng đây không phải là cốt truyện huyền sử và hoang đường, mà cũng không phải là biên niên sử của liên bang Champa như E. Aymonier đã nêu ra, mà là biên niên sử của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam, chỉ có thế thôi. Bài nghiên cứu của E. Durand vào năm 1905 đã trở thành một yếu tố lịch sử mà các chuyên gia ở phương Tây đều công nhận cho đến hôm nay. Theo quan điểm của E. Durand, Panduranga không phải là một đơn vị hành chánh tương đương với “Tỉnh” ở Việt Nam, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Chính vì thế, tiểu vương quốc này cũng có một cơ cấu hành chánh riêng, chính trị và quân sự  riêng, kể cả biên niên sử riêng, đó là Sakkarai Dak Rai Patao. Năm 1978, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao trở thành bài luận án phó tiến sĩ của tôi ở đại học Sorbonne, Paris. Trong bài luận án này, tôi cũng chứng minh rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của Panduranga, một tiểu vương quốc của liên bang Champa. Không đọc đến bài nghiên cứu của E. Durand viết vào năm 1905 và những bài bài viết khác đăng tải trong các sách báo khoa học ở phương Tây, và cũng không cần nghiên cứu sâu đậm nội dung của biên niên sử viết bằng tiếng Chăm akhar thrah này, Dorohiem và Dohamide (Dân Tộc Chăm Lược Sử, 1965) chỉ dựa vào bài nghiên cứu bằng tiếng Pháp của E. Aymonier xuất bản vào năm 1980 để phát họa nội dung Sakkarai Dak Rai Patao theo cảm hứng riêng tư của mình. Trong tác phẩm này, Dorohiem và Dohamide, vì vô tình hay là cố ý, đã sửa đổi hoàn toàn quan điểm của E. Aymonier để thay vào đó một quan điểm mới lạ nhưng rất là phi lịch sử, cho rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của vương quốc Champa, nhưng Dorohiem và Dohamide không đưa ra một dữ kiện lịch sử nào để minh chứng nội dung bài viết của mình. Ðúng ra, phong cách “sửa đổi yếu tố lịch sử” này chỉ thường xuất hiện trong các bài viết của người viết lách hơn là của nhà khoa học dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày ra đời tác phẩm Dorohiem và Dohamide vào năm 1965, một số nhà nghiên cứu hay một vài người viết lách chỉ dựa vào tác phẩm bằng tiếng Việt mang tựa đề là Dân Tộc Chàm Lược Sử,  để rồi lặp đi lặp lại bao sự sai lầm lịch sử trong bài viết của Dorohiem và Dohamide. Thế là, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao Cham, kể từ năm 1965, đã trở thành nạn nhân của quan điểm sai lầm do Dorohiem và Dohamide đưa ra, chứ không phải là nạn nhân của các nhà viết lách nữa. Ðể làm sáng tỏ lại vấn đề liên quan đến nội dung của tác phẩm lịch sử có giá trị này, chúng tôi muốn đặt lại vấn đề ở đây có chăng Sakkarai Dak Rai Patao là một tác phẩm huyền thoại như E. Aymonier đã đề nghị vào năm 1890 hay là biên niên sử của vương quốc Champa như Dorohiem và Dohamide đã phỏng đoán vào năm 1965 hay là biên niên sử thật sự của tiểu vương quốc Panduranga như E. Durand đã đưa ra vào năm 1905?  Sơ lược lịch sử Panduranga  Cũng nhờ các bia ký Champa, tư liệu cổ Việt Nam và Trung Hoa, các nhà nghiên cứu phương Tây đã phác họa lịch sử vương quốc Champa một cách tổng thể từ thế thế kỷ thứ 2 đến năm 1471, cũng là năm đánh dấu cho sự thất thủ Vijaya, tức là thành Ðồ Bàn (G. Maspero: 1928); G. Coedes: 1964; Po Dharma: 1978, 1987). Sau năm 1471, các bia ký Champa không còn xuất hiện nữa. Dựa vào sự biến mất của bia ký, các nhà nghiên cứu không còn quan tâm đến lịch sử cận đại của Champa sau thế kỷ thứ 15. Tiếc rằng, người ta đã quên rằng dân tộc Chăm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí vẫn còn lưu trữ rất nhiều văn bản cổ viết bằng tiếng Chăm liên quan đến lịch sử và nền văn minh Champa sau năm 1471 (Po Dharma: 1987; P-B. Lafont: 1980). Trong kho tàng văn chương lịch sử này, Sak Karay Dak Rai Patao là văn bản duy nhất nói về biên niên sử của vua chúa Panduranga. Ai cũng biết, kể từ đầu thế kỷ thứ 20, các nhà nghiên cứu phương Tây (L. Finot: 1903; G. Coedes: 1964; P-B. Lafont: 1980; Po Dharma: 1987; B. Gay: 1988)  đã phân tích một cách khoa học và có hệ thống những nền tảng tổ chức chính trị và hành chánh Champa để rồi đưa ra một kết  luận chung đó là Champa không phải là một quốc gia tập quyền, thống nhất như thể chế chính trị ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, mà là một vương quốc liên bang (fédération) và đôi lúc cũng là một liên hiệp quốc gia (confédération), rất gần gũi với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay. Liên bang Champa tập trung 5 tiểu vương quốc trong đó có Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Ðứng đầu của quốc gia liên bang Champa là quốc vương mang tôn hiệu Rajadiraja (tức là vua của vua), chứ không phải là Patao như Dohamide và Dorohiêm (2004, tr. 263) đưa ra. Quốc vương này còn mang một tôn hiệu khác đó là Po Tana Raya (lãnh chúa toàn diện đất đai) để cai trị quốc gia với «cây lộng duy nhất››, biểu hiện cho uy quyền hoàng gia Champa. Thủ đô liên bang lúc ban đầu đặt tại Indrapura (Quảng Nam) sau đó dời về Vijaya (Bình định) kể từ năm 1000. Nằm ở cực nam của lãnh thổ liên bang Champa, Panduranga là một tiểu vương quốc có một thể chế hành chánh, chính trị và quân sự riêng biệt. Sự hình thành tiểu vương quốc này đã có từ lâu đời. Vì rằng vào năm 1050, bia ký đã nói đến cuộc vùng dậy của nhân dân Panduranga chống lai chính quyền trung ương Champa ở miền bắc. Ðể trả lời cho thái độ bất qui phục này, quốc vương Champa là Jaya Paramesvaravarman I đứng ra chỉ trích kịch liệt thái độ ương ngạnh của nhân dân Panduranga mà ngài gọi họ là «dân tộc phóng đãng (vicieux), ác tâm (malfsaisant), khinh bạc (frivole), luôn luôn phản động chống lai triều đình trung ương» (Maspero, 1928: 37 ; Po Dharma, 1987 : 57). Nhằm phá tan yêu sách đòi tự trị ở miền nam và đưa dân tộc Panduranga phải tôn trọng uy quyền triều đình trung ương, quốc vương liên bang Champa thường biến tiểu vương quốc Pandurang thành một lãnh thổ đặc hữu (apanage) đặt dưới quyền cai trị của một thái tử (yuvaraja) do quốc vương liên bang Champa chỉ định (Finot, 1909: 205-209, Maspero, 1928: 137). Sự hiện diện của thái tử này cũng không ngăn cấm nổi Panduranga trở lại con đường cũ : thua keo này bày keo khác. Vì rằng, Panduranga vẫn là nơi phát sinh một số biến cố chính trị lớn vào thế kỷ thứ 11. Biến cố thứ nhất đó là một nhân vật quan trọng trong triều đình của Panduranga đứng ra kêu gọi nhân dân tách rời ra khỏi liên bang Champa, rồi tự phong mình làm vua ở miền nam, dù rằng vương triều này chỉ kéo dài trong vòng 13 năm. Hết tìm cách xây dựng một quốc gia tự trị, Panduranga còn là nơi trú ẩn dành cho một số nhân vật chính trị từ trung ương ở Vijaya chạy sang lánh nạn (Finot, 1909: 205-209; Maspero, 1928: 137). Với bản chất cương quyết của nhân dân Panduranga đấu tranh cho bằng được quy chế tự trị ở miền nam, một số quốc vương liên bang Champa không còn cách nào khác là công nhận nền tự trị của Panduranga ở miền nam. Ðiển hình nhất là vào thế kỷ thứ 10, tư liệu Trung Hoa cho rằng mặc dù Panduranga vẫn là lãnh thổ trực thuộc liên bang Champa, nhưng tiểu vương quốc này vừa triều cống vua liêng bang Champa ở miền bắc, vừa gởi triều cống đến Trung Hoa như một quốc gia độc lập (Pelliot, 1903: 649). Ngoài yêu sách tự trị, vua chúa Panduranga cũng thường xác nhận họ có một thị tộc riêng biệt. Ðiển hình là vào cuối thế kỷ thứ 11, quốc vương liên bang Champa là Sri Harivarman IV (1074-1081) tự cho mình là người xuất thân từ thị tộc cây câu (Narikela) của dòng thân mẫu ở Panduranga, một thị tộc tinh khiết của chủng tộc Champa. Thân phụ của ngài thuộc thị tộc cây dừa (Kramula) ở Vijaya. Hai thị tộc này thường dùng đến bạo lực để chinh phục uy quyền ở liên bang Champa trong nhiều thế kỷ (Maspero, 1928: 43). Hết sự khác biệt về thị tộc, Panduranga thường đeo đuổi tư thế độc lập của mình về phương diện chính trị đối với miền bắc. Chính vì thế, Panduranga thường không hỗ trợ quân sự cho Vijaya, một khi tiểu vương quốc phía bắc này bị ngoai bang xâm chiếm. Vào năm 1145, vua Cao Miên xua quân xâm chiếm Vijaya và giết chết vua liên bang Champa là Indravarman III. Trước sự tấn công của ngoại bang, Panduranga không hề gởi quân để giúp đỡ quốc vương Champa ở phương bắc. Thêm vào đó, Panduranga còn đón nhận hoàng tử của tiểu vương quốc Vijaya là Rudravarman IV cùng với đứa con trai là Srivanandana chạy sang lánh nạn trên lãnh thổ của mình một khi quân Cao Miên phá hủy thủ đô Vijaya vào năm 1145. Ngoài sự tiếp đón nồng hậu này, dân chúng Pandurang còn tôn vinh hoàng tử Srivanandana lên làm vua Champa ở miền nam lấy vương hiệu là Jaya Harivarman I (Maspero, 1928: 156-157). Thế là vương quốc Champa bị chia đôi thành hai miền rõ rệt. Vijaya đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Cao Miên và Panduranga thì có Jaya Harivarman I. Với sự hỗ trợ của quân đội Panduranga, vua Jaya Harivarman I xuất quân ra bắc vào năm 1149 tấn công Vijaya và giết được tổng tư lệnh quân viễn chinh Cao Miên là hoàng tử Harideva, tức là em rể của vua nước này (Maspero, 1928: 156). Năm 1190, vua Cao Miên là Jayavarman VII giao quyền cho hoàng tử Champa là Sri Vidryanandana sang lánh nạn ở Cao Miên từ năm 1182, đem quân tấn công Vijaya lần thứ hai, bắt được vua Champa là Jaya Indravarman IV đưa về Cao Miên. Một khi thắng trận, vua Cao Miên phong cho em rể của mình lên làm quốc vương Vijaya (Nagara Vijaya) với vương hiệu là Suryajayavarman. Riêng về hoàng tử Sri Vidryanandana, ngài trở lại Panduranga, tự phong cho mình là quốc vương của tiểu vương quốc này với vương hiệu là Sri Suryavarmadeva, đặt thủ đô tại Rajapura (Phan Rang). Thế là vương quốc Champa lai bị chia đôi một lần nữa. Miền bắc do quân Cao Miên trấn giữ. Tiểu vương quốc Panduranga do hoàng tử Sri Suryavarman lãnh đao (Maspero, 1928: 166). Vì không chấp nhận tiểu vương quốc Vijaya bị cai trị bởi ngoại bang, hoàng tử Champa tên là Rasupati vùng dậy vào năm 1191 đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên sau đó lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Indravarman V. Ðể trả thù cho cuộc vùng dậy này, vua Cao Miên chấp nhận trả tự do cho cựu quốc vương Jaya Indravarman IV bị bắt giam tại vương quốc này vào năm 1190. Từ vương quốc Cao Miên, cựu quốc vương Jaya Indravarman IV ghé sang Panduranga cầu cứu quân sự hầu chiếm lại ngai vàng ở phương bắc. Một khi đã nhận lời giúp đỡ, vua Panduranga là Sri Suryavarman xua quân sang miền bắc, đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya. Lợi dụng sự chiến thắng này, vua Panduranga phế truất cựu vương quốc Jaya Indravarman IV ra khỏi ngai vàng, tự phong mình làm quốc vương liên bang Champa kiêm cả chức vua của tiểu vương quốc Panduranga kể từ năm 1192 (Maspero, 1928:165-166). Một năm sau, tức là vào năm 1193, vua Cao Miên Jayavarman VII xuất quân sang chinh phạt Sri Suryavarman ở Vijaya. Bị thất trận vào năm 1203, Sri Suryavarman chạy sang Ðại Việt lánh nạn. Nắm chủ tình hình, vua Cao Miên chiếm lại thủ đô Vijaya và đặt nền cai trị ở miền bắc Champa trong xuốt 17 năm, từ 1203 đến 1220 (Maspero, 1928: 167) Sự đô hộ của Cao Miên ở Champa vào những năm 1203 và 1220 đã đánh dấu một biến cố quan trọng trong văn chương lịch sử ở Champa. Chính trong thời điểm này mà tác phẩm Sakkaray Dak Ray Patao đã ra đời với vị vua đầu tiên là Sri Agarang trị vì vào năm 1193 hay 1205 tùy theo dị bản. Tiếc rằng, không tư liệu nào có thể giúp chúng tôi để nhận diện rằng sự ra đời của Sakkaray Dak Ray Patao ở Panduranga có liên hệ gì với chính sách đô hộ Cao Miên ở Vijaya, miền bắc của Champa? Ðây chỉ là một vấn đề đặt ra nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi này (Po Dharma, 1978). Một khi đã thoát thân ra khỏi nền đô hộ của Cao Miên vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 13, vương quốc Champa lại vướng vào một tai họa khác đó là chính sách Nam Tiến của Ðại Việt. Sau khi thôn tính dần dần một số đất đai ở phía bắc của Champa, Ðại Việt quyết định nuốt trọn thủ đô Vijaya vào năm 1471 và dời biên giới của mình đến đèo Cù Mông, phía bắc Phú Yên. Sự thất thủ thành Ðồ Bàn đã đưa bản đồ dân cư Champa vào một khúc quanh mới. Vì rằng, kể từ năm 1471, Champa bị thu hẹp lại trong lãnh thổ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam mà thôi (Po Dharma, 1987, I, tr. 61-62). Sau khi Vijaya bị thất thủ, tướng Bố Trì Trì sang lánh nạn ở Panduranga, chiếm giữ một phần năm đất đai của tiểu vương quốc này để thành lập một quốc gia riêng biệt. Ngài cũng xin vua Lê Thánh Tông công nhận sự tấn phong của mình và biên niên sử Minh Chê của Trung Hoa vẫn còn nói đến sự liên hệ với Champa của Bố Trì Trì giữa năm 1478 và 1543 (Maspero, 1928: 240). Từ ngày thất thủ thành Ðồ Bàn vào năm 1471 đến năm 1611, tức là gần 140 năm, người ta cứ tuởng rằng chiến tranh không còn tái diễn nữa giữa hai nước láng giềng thù địch, đó là Champa và Ðại Việt. Tiếc rằng sự hòa bình này chỉ là một giấc mơ huyền ảo. Năm 1611, nhà Nguyễn bắt đầu phất cờ Nam Tiến, mà Phú Yên là nạn nhân đầu tiên của chính sách xâm lược này. Năm 1653 quân nhà Nguyễn chiếm đóng Kauthara (Nha Trang) và năm 1658 tràn sang khu vực Sài Gòn tức là đất đai của Cao Miên thời đó (Po Dharma (1987, I: 64-66). Ba mươi chín năm sau ngày thất thủ Kauthara (1653), nhà Nguyễn quyết định nút trọn lãnh thổ Champa còn lại vào năm 1692, thay đổi danh xưng Chiêm Thành thành Trấn Thuận Thành và thành lập phủ người Việt đầu tiên mang tên là phủ Bình Thuận trong biên giới của tiểu vương quốc Panduranga. Ðể trả lời cho chính sách xâm lược này, nhân dân Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm luợc nhà Nguyễn vào năm 1693. Vì không kháng cự nổi, nhà Nguyễn chấp nhận trao trả lại nền độc lập cho Champa vào năm 1694 với điều kiện là Panduranga phải công nhân sự hiện diện của phủ Bình Thuận ở tiểu vương quốc này nhằm quản lý các cư dân Việt sống ở Champa thời đó (Po Dharma, 1987, I: 67-71). Phủ Bình Thuận là đơn vị hành chánh trực thuộc nhà Nguyễn tập trung các làng xã người Việt nằm rải rác trong lãnh thổ Champa. Sự ra đời của phủ Bình Thuận đã thay đổi hoàn toàn địa bàn dân cư Panduranga thời đó. Vì lãnh thổ này không dành riêng cho dân tộc Champa nữa mà là cả cư dân Việt. Mô hình dân cư quá phức tạp này đã đưa hai cộng đồng Chăm và cư dân Việt đến sự xung đột thường xuyên trong những năm kế tiếp (Po Dharma, 1987, I: 70-71). Vào thập niên của cuối thế kỷ thứ 18, Panduranga lại trở thành một bãi chiến trường đẫm máu giữa hai thế lực thù địch người Việt, đó là chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thế thì sự sống còn của Panduranga hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của chiến tranh này. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Ðể đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nhung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này (Po Dharma (1987, I: 83-99). Và Po Saong Nhung Ceng cũng là vị vua cuối cùng nằm trong danh sách của Sakkaray Dak Rai Patao. Những biến cố mà chúng tôi đã nêu ra đã cho độc giả thấy rằng Panduranga có một quy chế chính trị và quân sự rất là đặc biệt trong quá trình lịch sử của Champa. Dù rằng đã mấy lần vùng dậy chống triều đình trung ương để đòi nền tự trị ở miền nam, xuất quân đánh đuổi kẻ xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya ở miền bắc, gởi cả phái đoàn ngoại giao sang triều cống Trung Hoa như một quốc gia độc lập, có vua chúa và quân đội riêng, Panduranga vẫn là một đơn vị hành chánh của Champa. Nhưng đơn vị hành chánh này không thể hiểu là một “Tỉnh” của Champa như một số người thường hiểu lầm từ ngày ra đời tác phẩm của Dorohiêm và Dohamide vào năm 1965, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Dựa vào yếu tố chính trị và hành chánh này, các nhà khoa học thường định nghĩa rằng Champa không phải là một quốc gia thống nhất và tập quyền như thể chế Việt Nam, mà một vương quốc liên bang. Ðây là một thể chế thông dụng mà người ta còn thấy ở liên bang Mã Lai hôm nay tập trung 9 tiểu vương quốc (Dupuis, 1972) hay liên bang Lào trong thời phong kiến tập trung 4 tiểu vương quốc như Luang Prabang, Vientian, Xieng Khoang và Champasak (Saveng Phinith, 1987: 6). Kể từ năm 1905, thể chế liên bang Champa đã trở thành một yếu tố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ ba nhà nghiên cứu duy nhất trên thế giới đó là Lương Ninh, Dohamide và Dorohiêm. Trong bài viết của Lương Ninh xuất bản vào năm 2004, tác giả cho rằng «nếu đem lý thuyết Mandala (liên bang) áp dụng ở Champa, thì tác giả chỉ đồng ý một nữa›› mà thôi. Ðây là lối lý luận khập khiễng. Ngược lại, Dohamide và Dorohiêm thì phủ nhận hoàn toàn thể chế liên bang Champa trong tác phẩm Bangsa Champa xuất bản vào năm 2004. Không cần đưa ra một nguồn tư liệu nào để minh chứng cho quan điểm của mình, Dohamide và Dorohiêm tự phỏng đoán rằng vương quốc Champa hợp thành một cơ cấu quốc gia thống nhất. Chúng tôi khỏi bàn quan điểm này, vì đây chỉ là lối suy diễn dựa vào cảm hứng riêng tư và lý luận phi khoa học của Dohamide và Dorohiem mà thôi. Một khi đã công nhận Panduranga không phải là một “Tỉnh” của Champa như Dohamide và Dorohiem đã hiểu lầm từ năm 1965, mà là một tiểu vương quốc trong liên bang Champa, thế thì Panduranga cũng có quyền hưởng được quy chế pháp lý để có một biên niên sử riêng của mình, đó Sakkarai Dak Rai Patao.  Nội dung của biên niên sử  Trong thư viện của Pháp hiện còn lưu trữ 12 dị bản khác nhau của tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao. Trong tổng số này, có 10 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Việt Nam và 2 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Cao Miên. Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Cao Miên cho rằng đây là biên niên sử của Nagar Panang-Panik, tức là biên niên sử của tiểu vương quốc nằm trong khu vực Phan Rang và Phan Rí, hay là  Panduranga. Ngược lai, Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Việt Nam chỉ ghi rằng đây là biên niên sử Patao Chăm (vua chúa Chăm), nhưng không cho biết rõ Patao Chăm này thuộc về Panduranga hay vua chúa Champa đóng đô ở Vijaya. Nếu nói rằng Sakkaray Dak Rai Patao là biên niên sử của liên bang Champa thì không thể chấp nhận được. Vì rằng, hầu hết các lai lịch, “nghĩa trang” thuộc dòng thân mẫu (Kút) và đền tháp của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều nằm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí hôm nay. Ðiều đáng chú ý nữa đó là các thủ đô như Bal Sri Banây, Bal Hanguw, Bal Anguai, Bal Batsinâng, Bal Pangdarang đều nằm trong lãnh thổ của Panduranga. Các danh xưng của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều khởi đầu bằng cụm từ «Po», như Po Romé, Po Klaong Haluw, v.v. chứ không phải khởi đầu bằng cụm từ «Jaya, Sri›› như Jaya Indravarman, Sri Sinhavarman, v.v. được sử dụng bởi các vua chúa liên bang Champa đóng đô ở Vijaya. Thêm vào đó, người ta chưa bao giờ tìm thấy một bản văn nào viết bằng Akhar Thrah Chăm phát xuất từ khu vực Panduranga lại nhắc đến một số kỷ niệm xa xưa ở khu vực Champa miền bắc (từ Bình Định cho đến Quảng Bình), ngoại trừ vài danh từ địa phương như Huê (tức là Huế), Mbin Ngai (tức là Quảng Ngãi), v. v., vì rằng các địa danh này chỉ xuất hiện trong văn chương Chăm vào thời Nguyễn mà thôi. Chính vì thế, một số người Chăm cho rằng Harek Kah Harek Dhei dùng trong bản văn Chăm nằm ở Quảng Bình là hoàn toàn phi khoa học, vì địa danh này chỉ nằm ở khu vực Aia Ru (tỉnh Phú Yên) tức là địa đầu của tiểu vương quốc Panduranga. Càng không thể được nếu cho rằng công chúa Bia Mih Ai trong tác  phẩm Nai Mai Mang Makah là công chúa Mị E, vợ của Jaya Sinhavarman II,  tức là Sạ Ðẩu (1044-), v.v., vì tác phẩm Nai Mai Mang Makah chỉ viết vào thế kỷ thứ XVIII (Po Dharma, 2000). Tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao có tổng số 38 vị vua và được chia làm hai phần rõ rệt.  Thời kỳ tiền sử
0 Rating 433 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 5, 2016
Đến nay, những dòng chữ cổ được khắc trên vách đá, ghềnh thác ở thượng nguồn dòng A Vương, sát biên giới Việt - Lào, thuộc xã Lăng, huyện Tây Giang, Quảng Nam (ảnh) vẫn còn là “ẩn ngữ” đối với giới chuyên môn. Minh văn này từng được lính Pháp phát hiện, ghi chép từ năm 1938 và được chính quyền Tây Giang “phát hiện lại” từ 2010. Nhưng rất tiếc, chưa có công trình nghiên cứu, bảo vệ. Di chỉ độc đáo này đang đứng trước nguy cơ biến mất... Ẩn ngữ ở vùng biên “Nương” theo lời giới thiệu đầy vẻ thần bí của ông Bh’riu Liếc - Bí thư Huyện ủy Tây Giang, về những dòng chữ lạ, khắc trên ghềnh đá, vách núi giữa rừng núi Trường Sơn, chúng tôi ngược dòng A Vương để đến làng Achia, xã Lăng, “sờ” vào huyền thoại. Mưa chiều biên giới như trút nước, lũ dòng sông Len (chảy qua xã Lăng), chi lưu nguồn A Vương dâng đột ngột, bùn đất đục ngầu, nên phải chờ đến ngày hôm sau chúng tôi mới đến được. Cây rựa trên tay Bh’riu Clói liên tục chém bụi rậm tìm lối. Người dẫn đường vừa đi, vừa kể: “Tôi nghe ông nội kể lại, quan Pháp ở đồn Samo, sát biên giới với Lào, khi phát hiện những dòng chữ cổ này đã nhờ ông và dân làng chặt cây rừng, làm thang, bè gỗ, trèo lên vách đá, bôi đá vôi lên chữ để chụp lại ảnh. Họ ở lại Achia nhiều ngày, nhưng dân làng không biết tiếng, chỉ làm theo hướng dẫn, kể cả khi giúp họ thức ăn”. Vách đá có chữ cổ, lạ mà ông Bh’riu Clói kể phải bắc thang, giờ chỉ ngang đầu gối, bởi đất đá đã bồi lấp cả trăm năm rồi. Dòng chữ trên ghềnh đã nằm sâu trong lòng suối. Trên vách đá vôi sát bìa rừng giờ chỉ còn thấy được 3 - 5 dòng chữ, mờ nhạt bởi thời gian. Với thực trạng sa bồi đang diễn ra, di chỉ này sẽ mất tích trong vài năm tới. Trưởng phòng VHTTDL huyện Tây Giang - Nguyễn Chí Toàn, cho biết, từ 2010, chính quyền huyện “phát hiện lại” di chỉ này. Từ đó, đã mời nhiều nhà nghiên cứu, bảo tàng, nhà dân tộc học... đến khảo sát, in mẫu chữ nhờ diễn dịch, nhưng đến nay chưa giải mã được. Cũng giống như việc phát hiện trống đồng cổ ở đây, minh văn trên đá ở Achia vẫn còn là mật ngữ của cổ nhân, chưa có lý giải nào.   Cần bảo vệ trước khi quá muộn! Nhà nghiên cứu Nguyễn Thượng Hỷ - nguyên cán bộ Trung tâm Bảo tồn di tích, di sản Quảng Nam, người từng lặn lội đến đây, dùng giấy dó, mực xạ để rập phiên bản cổ ngữ này cho biết: Có 3 bản khắc trên đá tự nhiên, dạng chữ Chăm, nhưng chúng tôi không diễn dịch được nên in phiên bản về để tiếp tục nghiên cứu. Tôi đã gửi đến Bảo tàng Chăm, nhờ chuyên gia về cổ ngữ nước ngoài giúp. Tình cờ phát hiện Tiến sĩ Daoruang Wittayarait (Trường thực hành cao cấp Pháp) đã từng có bài viết về minh văn khắc đá này, đăng trên tờ Lettre de la Société des Amis du Champa Ancien năm 2004. Theo tiến sĩ Wittayarait, ông có tư liệu này từ con gái của J.Le Pichon - một vị quan ba, thanh tra đội quân ở An Nam, từng đồn trú ở hai huyện Hiên và Giằng, Quảng Nam, thời thuộc Pháp, đã chụp ảnh và ghi chép. (J.Le Pichon có rất nhiều ghi chép, hình ảnh nghiên cứu có giá trị về văn hóa Cơtu). Ghi chép của quan ba J.Le Pichon ghi rõ, đã phát hiện minh văn này từ tháng 3 - 4.1938, gần đồn Samo. Ông đã thuê lính bản địa làm giàn giáo, bôi vôi trắng để rõ chữ rồi chụp lại ảnh. Từ tư liệu này, các chuyên gia cổ ngữ đã cho rằng đây là thổ ngữ Môn-Khơme. Họ đã so sánh với các mẫu chữ trên những bia đá cổ từng phát hiện sớm ở vùng Chiêm Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam và bia Vat Luong Kao (Nam Lào) mà đoán định cổ ngữ xếp vào niên đại thế kỷ thứ VI, thứ VII. Ghi chép của J. Le Pichon, từ năm 1938 ông đã trao đổi với linh mục Cadière, xác nhận đây là ngôn ngữ của người Chăm cổ. Tiến sĩ người Pháp này cũng đã “đọc” được nhiều từ liên quan đến đồ hiến tế như châu báu, ngọc trai, trâu, nghĩa từ thần thánh... Theo chuyên gia về người Cơtu - Nguyễn Tri Hùng (Ban Dân tộc tỉnh Quảng Nam), người Cơtu xưa là một láng giềng thân thiện với người Chăm. Từng có câu chuyện “Con đường muối” mà gần đây các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu về việc giao thương, trao đổi của vùng đồng bằng với miền núi ở miền Trung Việt Nam, Lào, Thái Lan. Nhưng văn khắc này bước đầu chỉ là đoán định, còn là ẩn ngữ phải tiếp tục giải mã. Trước mắt, chính quyền, ngành văn hóa Quảng Nam cần phải có biện pháp bảo vệ để di chỉ văn hóa thuộc dạng hiếm quý này trước nguy cơ có thể biến mất bởi sa bồi, vì sự vô tình xâm hại của người dân. theo laodong.com.vn
0 Rating 432 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 3, 2012
  Abd. Karim Trong kho tàng văn học dân gian Chăm, Cei Balaok La-u (Hoàng Tử Sọ Dừa) là truyện cổ mang nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa và xã hội Champa. Nhìn dưới gốc độ của văn chương lịch sử, truyện Cei Balaok La-u có nội dung liên quan đến hai dòng tộc lớn của vương quốc Champa dưới thời cổ đại, đó là thị tộc Cau (Kramuka) và thị tộc Dừa (Narikela). Theo tài liệu bia đá Champa cho biết, hoàng tử Thang, còn gọi là Yang Visnumurti tự cho mình là người xuất thân từ hai thị tộc. Thân phụ của ngài là thị tộc Dừa (Narikela) nắm quyền ở miền bắc và thân mẫu của ngài là thị tộc Cau ((Kramuka) cai trị tiểu vương quốc ở phía nam. Dựa vào nguồn xuất sứ của hai gia đình hoàng gia này, hoàng tử Thang đã thành công thống nhất hai miền nam bắc của Champa đã từng xảy ra các cuộc xung đột nội bộ trong vương quốc Champa thời bấy giờ, và lên ngôi vào năm 1074 với danh hiệu là Vijaya Çri Harivarmadeva, Yang Devatamurti. Mặc dù dân tộc Chăm chưa bao giờ nghe đến cốt truyện thị tộc Cau, nhưng truyện này lại rất được phổ biến trong biên niên sử của Mã Lai là Sejarah Melayu. Theo biên niên sử này, vị vua trị vì vương quốc Champa ở phương nam thấy có một cây cau kỳ lạ mọc bên cạnh hoàng cung của ngài. Cây cau trổ buồng rất to và đẹp, nhưng buồng cau không chịu nở hoa. Thấy kỳ lạ, nhà vua cho người trèo lên chặt buồng cau ấy đem xuống cho ngài xem. Ông dùng cây kiếm thần của mình chẻ mo cau ra, thấy trong đó có một đứa trẻ hồng hào đẹp đẽ. Ông rất vui mừng, nhận làm con nuôi, rồi đặt tên là Raja Po Klaong (Hoàng tử Po Klaong). Mo cau bọc hoàng tử biến thành tấm mộc đỡ của hoàng gia. Đầu nhọn của mo cau biến thành bảo kiếm keris (một loại kiếm ngắn) của nhà vua. Về sau, hai thứ khí giới này trở thành biểu tượng cho uy quyền nhà nước Champa ở phía Nam. Ngược lại, Cei Balaok La-u là cốt truyện nằm trong văn học dân gian của người Chăm. Đây chỉ là truyện cổ tích, nhưng nội dung của nó có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với yếu tố lịch sử Champa vào đầu thế kỷ thứ XI. Đó, chính là nguyên nhân giải thích cho mục tiêu bài viết của chúng tôi.   Yếu tố văn hóa – xã hội Nhìn dưới gốc độ văn hóa, truyện Cei Balaok La-u mang một số yếu tố truyền thống Chăm, như chế độ mẫu hệ; tục đeo karah mata (chiếc nhẫn hạt cườm); tục dùng trầu cau trong cưới hỏi, giao tế; gói trầu cau bằng khăn màu đỏ, và v.v…   Chế độ mẫu hệ Người Chăm là dân tộc theo chế độ mẫu hệ và mẫu cư. Theo truyền thống Chăm, phụ nữ là người đứng ra lựa chọn phái nam trong việc cưới hỏi. Sau ngày đám cưới, người chồng sống bên nhà vợ. Của cải, con cái trong gia đình là thuộc về người vợ hay dòng tộc bên vợ. Balaok La-u (Sọ Dừa) dù là một hoàng tử hay nhân vật siêu phàm cũng không thoát ra khỏi truyền thống này. Do vậy, anh ta không đi cưới công chúa Út, mà chỉ để cho công chúa Út cưới mình. Sau khi lấy công chúa Út, Balaok La-u không về sống bên nhà mình, mà sống bên nhà vợ, rồi trở thành phò mã sau đó lên ngôi bên xứ sở của vợ mình.   Chiếc nhẫn hạt cườm Karah mata hay “chiếc nhẫn hạt cườm” là bản sắc văn hóa riêng biệt của tôc người Chăm. Đối với dân tộc Chăm, “chiếc nhẫn hạt cườm” không phải là đồ trang sức trong nghĩa rộng của nó mà là biểu tượng cho nguồn gốc của một chủng tộc. Bởi vậy, khi ai đeo karah mata là tự xác định bản thân mình là người Chăm. Qua karah mata, người Chăm tự nhận diện nhau, biết nhau là người đồng tộc. Cei Balaok La-u, khi vừa bước ra khỏi cái lốt sọ dừa, đã thấy trên ngón tay chàng có đeo “chiếc nhẫn hạt cườm”. Như vậy, chẳng cần qua một lời giới thiệu nào, mọi người đều biết bản thân Balaok La-u là người Chăm. Karah mata còn biểu tượng cho lòng trung thành và sự thủy chung. Trao tặng karah mata cho một người tức là ghi một dấu ấn minh chứng cho sự trung thành của mình đối với người ấy. Cei Balaok La-u trao karah mata cho vợ trước khi nàng xuống thuyền, là dâng cho người vợ trái tim thủy chung của mình, đồng thời, cũng là cái nhắc nhở để nàng không đánh mất bản thân hay bản thể của chính mình. Nhờ vậy, mà dù có trải qua bao gian nan khốn khó, cuối cùng hai người sẽ tìm được lại nhau.   Tục dùng trầu cau Tục dùng trầu cau trong giao tế, cưới hỏi, thừa tự, cúng tế, v.v… là một sự việc quan trọng và cần thiết trong cộng đồng người Chăm cả bên Ahier cũng như bên Awal. Sự việc sẽ không thành hay không hội đủ nếu như thiếu trầu cau. Cô công chúa Út muốn kết thân với Cei Balaok La-u, cô đã khôn ngoan sử dụng “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Nó vừa hợp với lẽ đạo, vừa hợp với truyền thống, vừa kín đáo cho Cei Balaok La-u biết rằng: Việc cô làm là hoàn toàn có ý thức. Lời cô nói với chàng là những lời lẽ chân tình, chứ chẳng phải là lời lẽ hời hợt của kẻ hồ đồ hay nông nỗi. Cho nên, Cei Balaok La-u khó có thể phủ nhận. Nhờ vậy, mà chuyện tình của hai người được kết thành.   Gói trầu bằng khăn đỏ Gói trầu cau bằng khăn đỏ, là thói quen riêng của người Chăm mà không thấy ở dân tộc nào khác. Công chúa Út khi mang trầu cho Cei Balaok La-u cũng theo kiểu cách của người Chăm. Điều này, chứng tỏ cô là một người hiểu biết và thấm nhuần Văn hóa Chăm.   Harei But Theo quan niệm của người Chăm, ngày thứ Tư (harei But) trong tuần được xem là ngày tốt lành và vẹn toàn nhất. Cho nên họ thường chọn ngày này để tiến hành hôn lễ, dựng nhà cửa, mua sắm và, v.v… Trong truyện Cei Balaok La-u, nhà vua cũng chọn ngày thứ Tư (harei But) để cử hành hôn lễ cho cô công chúa Út của mình.   Xã hội hòa đồng và không giai cấp Trong truyện Cei Balaok La-u, người Chăm được sống trong môt xã hội an bình không giai cấp: Mẹ Balaok La-u một thường dân, Balaok La-u một anh chăn dê tật nguyền, bà lão nhà nghèo bán “chăn dằn” v.v.. đều có thể xin gặp nhà vua bất kỳ lúc nào mà họ thấy cần thiết. Balaok La-u một anh chăn dê tật nguyền, cũng có thể thực hiện giấc mơ ngàn đời, là lấy cô công chúa đẹp như tiên nữ làm vợ, trở thành nhà vua và truyền lại ngôi báo cho con cháu của mình muôn đời sau, mà không chút trở ngại. Một đám cưới to lớn được tiến hành trong suốt một trăm ngày đêm. Khách được mời là toàn thể nhân dân, không phân biệt vua chúa, giàu sang hay nghèo hèn đã cho thấy một sự hòa đồng cao độ. Sự kiện trên đây còn cho thấy, vị trí của ông vua chỉ là người anh cả trong gia đình, để điều phối và gìn giữ sự an bình và sự công bằng cho xã hội hơn là để thống trị. Trong truyện Cei Balaok La-u, chưa thấy mức độ xử lý người có tội, nhưng người có công thì khen thưởng rất trọng hậu, như trường hợp hai cụ nhà nghèo, người đã tìm được cô công chúa Út.   Xã hội nông nghiệp phát triển Trong thời Cei Balaok La-u xã hội Chăm còn mang nặng yếu tố nông nghiệp, nhưng đã phát triển khá cao. Mức sống của người dân tương đối ổn định: Chỉ riêng trâu của nhà vua cũng đã nhiều đến mức ba mươi gia đinh chăn giữ mà vẫn bị thất lạc hay mất mát. Nghèo như mẹ Balaok La-u nhà cũng có xe trâu, dê cừu… Lúa gạo không thiếu nên nhà vua mới có thể một lần thưởng đến một trăm xe lúa cho một người, cùng với vàng bạc và đất đai. Vào thời điểm này, người Chăm cũng đã biết đóng thuyền tàu. Chuyên chở trên bộ chủ yếu bằng xe trâu. Có những giao thương rộng rãi (ra cả ngoài nước). Và làm được những sản phẩm như tơ lụa v.v…   Tóm lược truyện Cei Balaok La-u Khi xưa, có một gia đình nghèo khó sống ở ven rừng. Hằng ngày, người ông và người cháu gái phải đi vô rừng đốn củi để đem về bán, đổi lấy lúa gạo. Có một hôm, trời nắng gắt, nước hai người mang theo không bao lâu đã hết cạn. Người ông bảo: – “Cháu đi tìm quanh đây coi có nơi nào có nước không?” Người cháu đi tìm và thấy trên một tảng đá lớn có một cái trũng nước rất trong. Cô vốc lên uống. Làn nước ngọt ngào mát rượi. Cô vốc nước lên tắm. Làn nước mát làm cô thấy sảng khoái vô cùng. Xong, cô về báo lại cho ông cô biết, rồi đưa ông cô đến đó. Nhưng lạ thay, khi nãy là một trũng nước đầy, bây giờ, bỗng dưng khô cạn, chỉ còn dấu ươn ướt trên đá, mà thôi. Họ về nhà chưa được bao lâu, cô gái cảm thấy trong người có biến đổi khác lạ, cô có mang thai. Sau đủ chín tháng mười ngày, cô sinh ra một bé trai. Bé trai này không có chân và tay, mà tròn trịa như một cái gáo dừa. Thấy vậy, mọi người đặt tên cho cậu ta là Balaok La-u (Sọ Dừa). Sọ Dừa lớn lên nhanh chóng. Bảy tháng tuổi biết nói, biết lăn đi chơi một mình. Ba năm tuổi biết đi chăn dê giúp mẹ. Sọ Dừa là cậu bé vừa thông minh, vừa khôn ngoan, có nhiều tài, lại khéo ứng xử. Do vậy, thay vì ghê tởm hay ghét bỏ cái cục thịt xấu xí chỉ biết lăn long lóc, mọi người dần dần trở nên thân thiện và yêu thích Sọ Dừa. Một hôm, Sọ Dừa đề nghị với mẹ cho mình đi ở chăn trâu cho nhà vua. Mẹ bảo: – “Con không có chân, có tay. Chăn mấy con dê, mẹ còn lo cho dê bị mất. Nay con đòi chăn trâu cho nhà vua, trâu vua nhiều, làm sao con giữ được.” Nhưng Sọ Dừa vẫn quyết tâm đòi mẹ đi tâu với vua. Nghe tin Sọ Dừa muốn giữ trâu cho mình, nhà vua hơi ngỡ ngàng, nhưng vì muốn thử tài Sọ Dừa, nên ông đồng ý, bảo: – “Mẹ Sọ Dừa, cứ mang Sọ Dừa lại đây”. Trâu của nhà vua rất nhiều, hơn ba mươi gia đinh chăn giữ mà cứ bị thất lạc hay mất mát. Nay giao cho một mình Sọ Dừa, nhưng chưa hề bị thất lạc một con nào. Vua rất lấy làm mãn nguyện. Một hôm, nhà vua sai công chúa Út mang cơm cho Sọ Dừa. Công chúa mang cơm đến nơi Sọ Dừa đang chăn trâu. Cô nhìn quanh quẩn chẳng thấy Sọ Dừa đâu cả. Chỉ thấy một đoàn gia nhân của một quốc vương nào đó, đang làm việc: người chặt cây, kẻ bức dây rừng, người chăn trâu, kẻ xếp cây rào … Công chúa muốn gọi Sọ Dừa ra lấy cơm ăn, chợt nghe tiếng nhạc và tiếng sáo du dương nổi lên, cô vội nép mình sau cành lá, lén nhìn về nơi vừa phát ra thanh nhạc. Cô thấy có một đám người đang ca múa phục vụ cho một vị hoàng tử. Vị hoàng tử trẻ tuổi này có khuôn mặt đẹp rạng rỡ như ánh trăng rằm. Cô nhìn vị hoàng tử một cách đam mê, lòng xốn xang, bỗng cảm thấy trái tim mình như thầm yêu, trộm nhớ đến chàng. Rồi thời gian trôi qua. Đã nhiều lần công chúa Út mang cơm đến cho Sọ Dừa. Cũng đã nhiều lần cô trộm nhìn vị hoàng tử Sọ Dừa. Nhiều lần trong thâm tâm cô khẳng định: – “Hoàng tử Sọ Dừa chẳng phải là người phàm tục, mà là người của xứ sở thần tiên, hoặc giả, một nhân vật siêu phàm hiếm thấy”, nhưng cô chẳng bao giờ tiếc lộ điều này với ai. Có một lần, nhà vua bảo: – “Hôm nay, công chúa Cả và công chúa Hai, hai ngươi mang cơm cho Sọ Dừa, công chúa Út đã mang đi nhiều lần rồi.” Nghe tin này, tim công chúa Út như se thắt lại. Nàng lo ngại mất đi cơ hội để gặp hoàng tử Sọ Dừa. Bỗng nghe hai cô chị nói: – “Hai con không muốn mang cơm cho Sọ Dừa. Sọ Dừa chỉ là một cục thịt, chỉ biết lăn long lóc. Mang cơm cho Sọ Dừa là một điều sỉ nhục.” Thấy vậy, nhà vua mới nói: – “Thôi, tụi bây không ai muốn đi thì để cho cô Út nó đi”. Nghe vậy, công chúa Út mới mừng thầm. Cô vội têm trầu cau, gói trong chiếc khăn đỏ mang theo. Cô đến nơi Sọ Dừa làm việc sớm hơn thường khi, rồi giấu mình kín trong một lùm cây. Khi thấy hoàng tử Sọ Dừa vừa bước ra khỏi “lốt sọ dừa”, cô cũng bất ngờ xuất hiện trước mặt chàng, làm cho hoàng tử Sọ Dừa không kịp biến mình vào cái “lốt sọ dừa” như các lần trước. Cô mời Sọ Dừa miếng trầu, và nói: – “Em đã quen chàng từ lâu. Nhớ nhung, sướng khổ đã từng. Chàng đừng phụ em miếng trầu này. Dẫu mai sau chúng ta có nên duyên nợ hay không, thì qua miếng trầu, chàng còn có giây phút nhớ đến em”. Trước mối tình thâm sâu, chân thành của công chúa Út, hoàng tử Sọ Dừa không thể phủ nhận. Rồi hai người trở thành đôi bạn tình yêu nhau. Sọ Dừa về nhà thưa với mẹ, là chàng muốn lấy công chúa con vua làm vợ. Mẹ chàng vừa nghe đến thì đã giãy nảy và run cầm cập, cho là chàng không bình thường, gia đình bà có thể bị kết tội chết. Nhưng trước cái thúc ép của Sọ Dừa, bà đành chịu thua, liều chết đến thưa chuyện với nhà vua. Về phần nhà vua, ông không những không bắt tội hay trách cứ mẹ Sọ Dừa, mà còn có phần hoan hĩ. Vua bảo: – “Chuyện ấy, không có gì trở ngại. Ngặt ta, có ba người con. Không biết, đứa nào chịu lấy Sọ Dừa làm chồng!” Rồi ông cho gọi ba cô công chúa lại, hỏi: – “Trong các con, ai chịu lấy Sọ Dừa làm chồng?” Nghe đến đây, hai cô công chúa chị đều giãy nảy, bảo, Sọ Dừa không xứng đáng với mình. Trước thái độ của hai cô chị, ông quay sang hỏi cô công chúa Út: – “Còn con như thế nào?” Cô công chúa Út trả lời: – “Phận làm con, cha đặt đâu thì con ngồi đấy”. Nhà vua quay sang mẹ Sọ Dừa, và bảo: – “Ngày lành thứ Tư này, trẫm sẽ tổ chức hôn lễ cho chúng”. Nhà vua cho tổ chức một tiệc cưới thật linh đình, kéo dài trong suốt một trăm ngày đêm. Tất cả mọi người, không kể bậc vua chúa, người sang hay kẻ hèn đều được mời đến. Đúng là một tiệc cưới to lớn và vui nhộn, hiếm thấy. Sau ngày tân hôn, hoàng hậu cho gọi công chúa Út đến để hỏi thăm về cuộc sống chung của hai vợ chồng trẻ. Công chúa Út bảo: – “Vợ chồng con sống hạnh phúc như các cặp vợ chồng bình thường khác.” Cô còn thêm: – “Sọ Dừa là một hoàng tử quí phái gấp hơn cả mấy lần con, không dễ gì tìm được”. Cuộc trò chuyện giữa công chúa Út và hoàng hậu, không thoát khỏi tai mắt của hai người chị. Họ rất lấy làm ngạc nhiên. Bởi vậy, khi đêm tối vừa buông xuống, hai người đã đến rình xem, coi vợ chồng công chúa Út sống với nhau như thế nào. Họ thấy, từ phòng của công chúa Út, ánh hào quang sáng lên, rồi từ trong cái sọ dừa một thanh niên phương phi tuấn tú bước ra. Vẻ đẹp, sự ngời sáng của chàng ta là không thể nào mô tả hết được. Vẻ đẹp này, đã làm mê mệt trái tim của hai người chị. Làm cho hai người tự trách mình sao quá ngu dại. Sao trước đây họ không chịu lấy Sọ Dừa làm chồng. Rồi than tiếc: – “Uổng thay! Công chúa Út, thật là may mắn! “. Do không cưỡng được mối tình si đối với Sọ Dừa, hai cô công chúa chị nảy ra cái ý định cướp chồng của em. Ít lâu sau, Sọ Dừa muốn cùng vợ làm một chuyến giao thương ra nước ngoài. Hai người chị cũng đòi đi theo. Trước khi xuống thuyền, Sọ Dừa đưa cho vợ chiếc nhẫn hạt cườm “thần kỳ” của mình, và bảo nàng nên đeo vào ngón tay. Thuyền đã ra khơi xa, không ai còn có thể nhìn thấy bến bờ. Ba cô công chúa cùng bước dạo chơi trên khoang thuyền. Hai cô chị ngỏ ý muốn xem chiếc nhẫn “thần kỳ” trên ngón tay của cô em út. Không hiểu được dã tâm của hai người chị, Công chúa Út tháo nhẫn trao cho họ. Hai người chị giả vờ ngắm nghía, rồi bất chợt ném nó xuống biển.Thấy ánh sáng từ chiếc nhẫn lóe lên trước khi rơi xuống nước. Không chút ngần ngại, công chúa Út cũng vụt người lao theo. Hai người chị đứng nhìn, họ chờ đến khi thuyền đã đi xa nơi xảy ra sự cố, mới giả bộ than khóc đến báo cùng Sọ Dừa. Sọ Dừa cho thuyền quay trở lại tìm vợ, nhưng chẳng thấy, chỉ thấy chiếc khăn quàng của nàng đang lênh đênh trên mặt nước. Lòng buồn bã, Sọ Dừa cho hủy chuyến ra đi nước ngoài. Chàng cho thuyền quay trở về để báo cho nhà vua biết. Công chúa Út lao xuống biển, kịp thời nắm bắt chiếc nhẫn “thần kỳ”, nên cô không hề hấn gì. Cô hóa thân thành một hài nhi, vào tá túc trong một vỏ sò lớn. Vỏ sò ấy tự trôi lênh đênh trên biển cho đến hơn một năm sau mới giạt vào bờ, nơi hai vợ chồng cụ già nhà nghèo thường hay đến để nhặt sò, hến. Hai cụ thấy có cái vỏ “sa cừ” rất lớn, mà bên trong dường như có tiếng trẻ thơ. Hai cụ lấy làm lạ, rồi cùng nhau khiêng về để phía sau nhà. Bẵng đi một hôm, hai cụ đi làm về, thấy nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng ngăn nắp, cơm nước dọn sẵn. Hai vợ chồng nghĩ chắc có người tốt bụng nào đó sang giúp. Song việc ấy cứ liên tục xảy ra, nên hai người cũng sinh nghi. Một ngày kia, hai người giả vờ ra đi như thường lệ, khi đi được nửa đường thì quay về ẩn mình vào một góc kín để theo dõi. Họ thấy, một cô gái có vóc dáng đẹp như tiên nữ từ trong vỏ sò bước ra. Cô nhanh nhẹn thu dọn nhà cửa, đun nước pha trà, rồi nấu nướng để sẵn cho hai người. Không chậm trễ, hai cụ bất ngờ đi ra cầm tay cô gái, rồi hỏi: – “Có phải cháu là người mà bấy lâu nay đã âm thầm giúp cho hai già này không?” Nàng gật đầu, rươm rướm nước mắt và khe khẻ nói: – “Hai cụ nhặt con về. Con không có gì đền đáp công lao. Con giúp làm việc nhà để trả ơn hai cụ.” Tuy đã về được đất liền, nhưng công chúa Út không vơi được nỗi buồn. Cô nhớ vua cha cùng mẫu hậu. Cô nhớ nhất là Sọ Dừa, người chồng thương yêu của cô. Cô dệt một tấm “chăn dằn”, rồi nhờ bà cụ mang vào cung vua để bán. Trước khi bà cụ ra đi, cô căn dặn: – “Cụ đừng bán “chăn” này cho ai, ngoại tr&
0 Rating 429 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On April 26, 2020
Kadhar là ch?c s?c tín ng??ng dân gian quan tr?ng trong ??i s?ng tâm linh Ch?m, nhi?m v? chính c?a h? th?ng ch?c s?c này là hát các bài thánh ca ca ng?i công ??c các v? th?n trong các l? nghi trên ??n tháp (ngap yang bimong), các l? cúng c?a dòng t?c nh? Puix – Payak, l? Rija thrua và nghi l? nh?p Kut c?a ng??i Ch?m Ahiér. Di s?n âm nh?c Kadhar là t?ng hòa nh?ng bái hát l? ?i kèm v?i lo?i nhac c? ??c tr?ng là ?àn kanyi t?o thành m?t lo?i hình ngh? thu?t nghi l? mang tính ??c tr?ng và vô cùng ??c ?áo, gi? vai trò n?i b?t trong n?n ngh? thu?t ca múa nh?c Ch?m nói chung. Tuy v?y, trong b?i c?nh hi?n ??i hóa hi?n nay, c?ng nh? nhi?u di s?n âm nh?c truy?n th?ng khác, di s?n âm nh?c Kadhar c?ng ??ng tr??c nh?ng thách th?c, nhi?u bài hát b? c?t g?n, tam sao th?t b?, nhi?u bài ít khi s? d?ng d?n d?n mai m?t, l?c l??ng ch?c kadhar thi?u m?t th? h? ti?p n?i ch?t l??ng… nh?ng ?i?u ?ó ??a di s?n này vào nguy c? b? mai m?t. Chính vì th?, ???c s? h? tr? c?a H?i ??ng Anh Vi?t Nam, m?t nhóm các b?n tr? Ch?m ?ã th?c hi?n công tác th?ng kê, s?u t?m m?t toàn di?n danh m?c, n?i dung và hi?n tr?ng th?c hành các bài hát l? trong ??i s?ng Ch?m ???ng ??i. M?c tiêu c?a d? án là t?o ra m?t b? s?u t?p các file ghi hình các ch?c s?c th? hi?n các bài hát l? t?o ra s?n ph?m là các ??a DVD ho?c các video công b? trên internet ?? chia s? ??n m?i thành ph?n trong xã h?i t? chính trong c?ng ??ng Ch?m và k? c? c?ng ??ng bên ngoài.     Hình 1: Nhóm nghiên c?u ?ang ph?ng v?n Kadhar Thành V?n L?y trong ch??ng trình d? án D? án ???c tri?n khai t? tháng 3 n?m 2019 và d? ki?n hoàn thành vào tháng 12 n?m 2019, k?t qu? c?a d? án s? cho ra nh?ng video trình di?n các bài hát l? c?a ch?c s?c Kadhar, ??ng th?i th?c hi?n các b? phim t? li?u v? lo?i hình ngh? thu?t này, t?t c? các s?n ph?m này s? ???c chia s? m?t cách r?ng r?i ??n c?ng ??ng. Nhóm th?c hi?n d? án bao g?m 3 thành viên chính là ??ng Thành Danh, Th?p H?ng Luy?n (Trung tâm Nghiên c?u V?n hóa Ch?m) và Hán D??ng H?i ??ng (nghiên c?u t? do).   Hình 2: Ch?c s?c Kadhar ?ang tham gia hát l? trong ch??ng trình s?u t?m c?a d? án   ??NG THÀNH DANH Trung tâm Nghiên c?u V?n hóa Ch?m Ninh Thu?n  
0 Rating 429 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2013
“United We’re Cham” July 12, 2013 Dear all, On behalf of Sacramento Cham Youths, we would like to thank everyone for the dedication of your time, participation, support, and donation in the 8th Annual Champa Youth Camp that took place at Rancho Seco Park in Sacramento, California on July 5th to 7th of 2013. The purpose of this camping event is for Cham youths and families getting together, having fun, meeting and making new friends regardless of religious affiliation, organization, distance, and age. At first, we thought there wouldn't be many people show up due to long holiday weekend. People could choose taking their kids to other places for fun instead but they decided to come to the 8th Annual Champa Youth Camp in Sacramento. This made us believe that all of you have the same thought as we do that getting together with Cham people is more important than spending time at other places. People not only showed up but they were also very cooperative. They partici- pated in all the games, sang Cham songs, and danced traditional Cham dances. They also enjoyed eating authentic Cham foods. People were getting along very well at the campsite. This truly makes us even happier because all of our hard works are well worth it. Once again we would like to thank everyone who drove and flew to Sacramento from far places like Los Ange- les, southern california cities, San Jose, Modesto, Patterson, Washington, Hawaii, and Alaska states. We also would like to thank the Cham Community of Sacramento for helping and preparing lunch for the whole Camp. Last but not least, we would like to thank everyone that helped raise money for this camping event. We would not do it successfully without your support and contribution. We hope you will continue to support and contribute to the Champa Youth Camping in the future regardless of wherever place it will be taken. Best regards, Kayden Phu & Sacramento Cham Youth Team July 12, 2013 Knh goi Người Chăm Thn Thương Thay mặt Thanh Thiếu Ni�n Champa tại Sacramento, chng ti ch괢n thnh cảm ơn tất cả mọi người đ bỏ nhiều thời gian, cࣴng sức v chi ph để đến dự Trại H୨ lần thứ tm của Thanh Thiếu Nin Champa được tổ chức tại Rancho Seco Park a thủ phủ Sacramento, California, Hoa Kỳ từ ng᪠y 5 đến ngy 7 thng 7 năm 2013. Mục đ࡭ch của trại h l tạo th蠪m cơ hội cho thế hệ trẻ Champa v những gia đnh đến gần nhau cହng chung vui, lm quen, kết thm bạn mới dહ khng cng t乴n gio, hội đon, địa phương, hay tuổi tᠡc. Chng ti tưang rằng sẽ kh괴ng nhiều người đến tham dự v đy l좠 dịp Lễ lớn cuối tuần của Mỹ (Independence Day) thường th mọi người cha con ci đi chơi những chổ kh졡c vui hơn. Tuy nhin rất đng người Chăm đ괣 đến tham dự hội trại với chủ đề ‘oРn Kết Chng ta l Nguời Chăm’. ꠐiều ny lm cho ch࠺ng ti tin rằng mọi người c c䳹ng một suy nghĩ l ‘đến trại h Champa vui với người Chăm lਠ nghĩa nhất’. Mọi người khng chỉ đến chung vui m� hết lng ho quyện c⠹ng nhau chơi cc tr chơi, hᲡt Chăm v ma Chăm. Mọi người đຣ rất vui khi được thưang thức cc mn ăn truyền thống Chăm. Mọi người sinh hoạt vui vẻ v᳠ ha đồng lm ch⠺ng ti vui lay v kh䠴ng uổng bao cng sức chuẩn bị cho trại h năm nay. Một lần nữa ch䨺ng ti chn th䢠nh cảm ơn tất cả mọi người đ li xe hay bay đến Sacramento từ nhiều nơi như Los Angeles v㡠 vng phụ cận, San Jose, Modesto, Patterson... hay từ tiểu bang Washington, Hawaii, v Alaska. Ch頺ng ti cũng khng qu䴪n cảm ơn cộng đồng Chăm Sacramento đ gip đỡ thanh ni㺪n v c một bữa ăn trưa Chăm thật đặm đೠ bản sắc. Theo đ chng t㺴i cũng xin cảm ơn mọi người đ hảo tm đ㢳ng gp gy qũy cho chương tr㢬nh trại h Champa. Trại h sẽ kh訴ng thnh cng tốt đẹp nếu khഴng c sự đng g㳳p nhiệt tnh của mọi người. Chng t캴i hy vọng v mong muốn rằng mọi người sẽ tiếp tục ủng hộ hết lng cho Trại Hನ Champa trong tương lai, khng cần biết Trại H Champa sẽ được tổ chức nơi đ䨢u. Knh Mến Ph B�nh Khả v tất cả thanh thiếu nin Champa Sacramento <h> Danh sડch ủng hộ Trại h 2013 Below is a list of contributors to the 8th Annual Champa Youth Camp in Sacramento 2013 1. Tan Quang & Thuy Luu (Sacramento) $50 2. Tan Lam & Loan Luu (Sacramento) $50 3. Dang Quoc Huy (Tracy) $50 4. Cham Muslim organization (San Jose) $400 5. Mr. Luu Quang Sang & wife (Sacramento) $50 6. Thanh Ngoc Co & family (San Jose) $100 7. Duong Nhu Ngoc & Qua Dinh Nam (Sacramento) $50 8. Nguyen, Phao family (Alaska) $200 9. Tai Dai An family (LA) $100 10. Nguyen, Hau family (LA) $100 11. Thanh, Si family $50 12. Tu, Qasim family (LA) $50 13. Duong Tan An & Dung (Sacramento) $50 14. Chau Van Thu & Lieu family (Sacramento) $50 15. Mr. Thanh Phu Ba $30 16. Phuc Truong & Binh Duong (Sacramento) $50 17. Mai & Don family $20 18. Ba, Ali family (San Jose) $40 19. Ba, Trung Tuyen family (San Jose) $60 20. Ba, Mong Huy family (San Jose) $40 21. Tuan Dang & Phuong Duong( Seatle) $50 22. Mai & Thanh family $50 23. Hoa Luu & Truong Dong family (Sacramento) $50 24. Kit & Tu Duong family (Sacramento) $60 25. Da & Quang Kieu family (Sacramento) $20 26. Hali Lam & Thi (Pensylvania) $50 27. Thuy Truong & Sara Don (Pennsylvania) $50 28. Khiem Truong & Trang (Pennsylvania) $50 29. Thanh Pa (Ve) (Pennsylvania) $50 30. Mr. Ba, Dong family (Sacramento) $40 31. Tu, Cong Nhuong family (LA) $20 32. Mr. Thach Ngoc Xuan & Giai family (Modesto) $50 33. Chinh Kieu & Truc Luu (Sacramento) $50 34. Ba, Van Thieu family (San Jose) $50 35. Dao, Van Hien family (San Jose) $50 36. Mr. Phu,Van Luu family (Sacramento) $100 37. Trang & Khanh Kieu (San Jose) $50 38. Mrs. Lai $20 39. Mrs. Bao family $100 40. Ariya Chau (Sacramento) $40 41. Kayden Phu & Lillian Chau (Sacramento) $50 42. Sang Luu Jr. & Quynh family (Sacramento) $100 43. Son Truong & Vy Quang (Sacramento) $50
0 Rating 426 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On December 7, 2014
VĂN HÓA CHĂM: BẢN SẮC VÀHỘI NHẬP (Tiếp cận từ góc nhìn đương đại) Đặt bút, viết lên những dòng này, tức là trong tâm tưởng[của tôi] đang chứa đầy những ưu tư, trăn trở về một dân tộc [Chăm] trong thế đứng của nó ở một thời đại [hội nhập hay toàn cầu hóa]. Bản sắc của một dân tộc, là cái hồn túy tạo nên đặc trưng riêng có của dân tộc đó, cốt lõi của nó chính là văn hóa dân tộc, văn hóa ở đây bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, văn chương, trang phục, nghi lễ, hội hè, phong tục, tạp quán...Văn hóa có tính “động”: thời đại nào, thì văn hóa đó, nói thế tức làvăn hóa sẽ biến đổi theo từng thời kỳ,  nhưng cái cốt tủy, cái căn cơ cấu thành văn hóa thì không bao giờ được biến đổi, một khi biến đổi thì tức là mất văn hóa, mất bản sắc. Thời đại – từ phía nó - luôn đặt ra cho văn hóa những lo lắng, yêu cầu phải làm thế nào để vừa hội nhập, biến đổi văn hóa theo thời đại, mà lại vừa giữ gìn những cốt tủy của văn hóa? Không biến đổi, một số hiện tượng văn hóa sẽ trở nên lạc hậu, lỗi thời,làm trì trệ dân tộc; nhưng nếu biến đổi quá nhanh, không kiểm soát, thiếu chọn lọc thì những giá trị văn hóa quý báu, lành mạnh sẽ có nguy cơ bị mai một và đánh mất, khi đó dân tộc không còn văn hóa nữa, bởi vì bản sắc - cốt tủy của văn hóa - không còn nữa. Câu hỏi đặt ra lớn là làm thể nào để vừa hội nhập mà vẫn giữ vững bản sắc? Để vừa “hòa nhập mà không hòa tan”? Mahatma Gandhi, nói: “Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào”.Đểthực hiện nhiệm vụ này mỗi dân tộc cần phải có: bản lĩnh văn hóa. Trãi qua biết bao biến thiên, thâm trầm của lịch sử, bản sắc Chăm cũng biết bao lần biến đổi. Từ thuở ban sơ, khi người Chăm chỉ biết đến thần trời, thần đất, thần mưa, thần biển,... chưa biết gì đến Shiva, Po Awlaoh,... chỉ biết các thầy mo, thầy cúng chứ chưa biết gì đến Basaih, Po Acar... chỉ biết Chăm Jat chứ chưa biết đến Chăm Hier, Awal hay Chăm Islam. Cho đến khi, Ấn Độgiáo, Hồi giáo theo đường biển truyền vào Champa làm biến đổi tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, cứ mỗi lần như vậy, văn hóa Chăm lại bao lần biến đổi. Và cứ mỗi lần như vậy, bản lĩnh văn hóa Chăm lại luôn được thể hiện.Trong quá trình ấy, người Chăm không hấp thụ toàn bộ Ấn Độ giáo, Hồi giáo mà đã biến đổi làm cho các tôn giáo này khi du nhập vào không còn như nguyên bản mà bị bản địa hóa, tạo nên những đặc thù của văn hóa Chăm trong đó các tôn giáo (với hệ thống đền tháp, thánh dường, tăng lữ) kết hợp với chế độ mẫu hệ, tục thờ cúng đa thần và ông bà, tổ tiên… Nhưng cũng trong quá trình biến thiên ấy, đã biết bao lần người Chăm lãng quên hoặc dần đánh mất các giá trị truyền thống trong nền văn hóa của mình. Những cuộc biến loạntrong các năm 1471, 1832 làm cho người Chăm không còn đồng nhất phân biệt làm Chăm giữa, Chăm Đông, Chăm Tây, Chăm Việt Nam, Chăm Campuchia…Kéo theo đó ngôn ngữ và phong tục của mỗi cộng đồng cũng có nhiều dị biệt. Mặt khác, từ những cuộc chạy loạn ấy, bao sách vở, văn bản Chăm cũng bị thất tán, mất đi rất nhiều giá trị văn hóa. Người Chăm ngày nay không còn hoạt động kinh tế biển, do đó dấu ấn văn hóa biển rất mờ nhạt, nhiều phong tục tập quán được ghi trong thư tịch cổ cũng không được duy trì… Dù vậy, cho đến hôm nay, người Chăm vẫn còn giữ được rất nhiều truyền thống văn hóa quý báu như duy trì các lễ hội, lễ tục như Rija nưgar, Kate, Ramưwan… Nhiều người già vẫn còn giữ nhiều ciet sách, vẫn biết ngâm nhiều ariya, damnưi…vẫn còn các nghệ nhân thổi kèn Saranai, đánh trống Baranưng, Ginang, đàn Kanhi…Đặc biệt, ngôn ngữ Chăm dù có bị lai căng, pha tạp rất nhiều, nhưng vẫn được các nhà nghiên cứu, chuyên gia và một số người Chăm quan tâm và duy trì (dù con số này cũng ít ỏi)… Nhưng,thế giới ngày nay đã “phẳng”, người ta có thể gọi thế giới và cách mà các thực thể trong thế giới này liên kết với nhau bằng các mỹ từ như hội nhập, toàn cầu hóa hay bất cứ thuật ngữ nào khác, nhưng tựu chung lại nó ám chỉ một thế giới mà ở đó, ranh giới giữa các dân tộc, các nền văn hóa là rất nhạt nhòa. Thế giới đương đại là một thế giới hội nhập, hội nhập không ngừng với tốc độ vũ bão. Nhân loại đã trải qua nhiều cuộc hội nhập, tiếp xúc giữa các dân tộc, các nền văn hóa nhưng hôm nay hội nhập diễn ra ở quy mô toàn thế giới, với mức độ hội nhập mạnh mẽ gắp nhiều lần. Truyền thông hiện đại, làm cho con người ở khắp nơi liên kết với nhau dễ dàng, từ đó văn hóa, ngôn ngữ, lối sống của dân tộc này sẽ tiếp xúc, ảnh hưởng văn hóa, ngôn ngữ, lối sống dân tộc khác. Những nền văn hóa này sẽ hòa nhập vào nền văn hóa kia, nhiều hiện tượng văn hóa của dân tộc khác sẽ ảnh hưởng và phổ biến vào dân tộc này. Chẳng hạn, Hàn Quốc thông qua truyền thông đa phương tiện (phim ảnh, âm nhạc) đã du nhập thời trang, âm nhạc, cách sống vào các quốc gia khác. Các sản phẩm văn hóa ngoại lại (từ tinh thần đến vật chất) không có chút gì mang dấu ấn dân tộc tồn tại đầy rẫy,… Trong trào lưu đó, những yếu tố truyền thống được ông, cha lưu giữ tự bao đời rất có nguy cơ bỉ những thứ văn hóa lai tạp, hiện đại, nhất thời ấy làm biến đổi, mai một vàlúc nào cũng cóthể nuốt chửng các giá trị văn hóa truyền thống ấy, con người hiện đại mà đa phần là giới trẻ đang cuốn theo những trào lưu văn hóa hiện đại, ngoại lai mà lãng quên dần văn hóa dân tộc – Chăm cũng vậy! Thế giới cần phát triển, cần hiện đại, nhưng thử thách đặt ra là phải làm thế nào vừa phát triển nhưng vừa không đánh mắt bản sắc dân tộc?Thomas L.Friedman trongchiếc lexus và cây Ôliu viết: “…Bất cứ xã hội nào muốn thịnh vượng về kinh tế đều phải cố gắng chế tạo cho được xe Lexus và lái chúng ra thế giới. Nhưng người ta cũng đừng bao giờ ảo tưởng rằng chỉ tham gia tích cực vào kinh tế thế giới không thôi mà có thể tạo được xã hội lành mạnh…Một đất nước không có những rặng cây Ô liu khỏe khoắn sẽ không bao giờ có được cảm giác nguồn gốc được duy trì hay an tâm để có thể đón nhận và hội nhập với thế giới. Nhưng một đất nước mà chỉ có những rặng Ô liu không thôi, chỉ lo giữ cội rễ, mà không có xe Lexus, thì sẽ không bao giờ tiến xa được. Giữ cân bằng giữa hai yếu tố nói trên là một cuộc vật lộn triền miên…”. Dân tộc Chăm, tồn tại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, không thể không hội nhập, không thể đứng ngoài tiến trình phát triển. Nhưng cũng như các nền văn hóa khác, Chăm cần phải giữ cho được bản sắc, đối với Chăm đây thật sự là một thách thức, “một cuộc vật lộn triền miên”. Qủa thật không ngoa khi nói như vậy! Hiện thực sinh hoạt văn hóa Chăm đương đại, cho phép chúng ta nghi ngờ đến một viễn cảnh đánh mất bản sắc dân tộc và những nguy cơ đó sẽ là sự thực nếu chúng ta không có những hành đồng kịp thời và hữu hiệu.           Cứ xem, palei Chăm nơi tự bao đời lưu giữ các giá trị truyền thống, tính cố kết cộng đồng, nơi mà ở đó mỗi người con ý thức được vai trò, nghĩa vụ của mình với gia đình, dòng họ, xóm làng, nơi ở đó luật tục (adat) được bảo tồn, tình làng nghĩa xóm và các giá trị văn hóa được lưu giữ…Ngày nay,dưới ảnh hưởng của đô thị hóa, các palei  đã thay đổi sâu sắc, đó không còn là một không gian khép kín, nơi mà các giá trị truyền thống được lưu giữ biết bao đời.Mà mang nhiều hướng mở, nhiều giá trị bên ngoài xâm nhập vào palei, kéo theo đó nhiều giá trị văn hóa truyền thống cũng không ngừng nhiều biến đổi.           Đã không còn nữa, hình ảnh những cụ già, dưới ánh trăng, đêm đêm ngâm những dòng ariya, damnưi cho con cháu, người Chăm của mấy chục năm gần đây, đã không còn được trưởng thành từ những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ Chăm, giới trẻ chỉ biết có truyện Con rồng cháu tiên, Thánh Gióng, Tám Cám, Cây tre trăm đốt…chứ không biết đến truyền thuyết Po Inư Nagar, Po Kloang Garai, Po Rame hay Ja Li-u… Những đứa trẻ lớn lên lại được cha mẹ nó đưa vào giất ngủ những câu truyện cổ tích của dân tộc khác, chứ không hề biết gì đến các truyện cổ của dân tộc mình.           Từ xưa, dân tộc Chăm có một kho tàng văn chương rất phong phú, nhưng thời gian và sự quên lãng của con người khiến nó tản mát đi rất nhiều. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu, học giả đã bỏ nhiều công sức ra - để gọi là - sưu tầm lại những tác phẩm văn chương Chăm. Nhưng đó chỉ là công việc mang tính hàn lâm, đa số người Chăm vẫn không quân tâm đến nó, đối với họ những mẫu chuyện của người Kinh đã ăn sâu vào tâm trí ngay từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường và đến lược họ, lại kể những câu truyện đó cho con cháu mình nghe.           Không chỉ trong văn học, ngày nay, nhiều giá trị dân gian khác như âm nhạc, diễn xướng cũng đang bị thế hệ hội nhập dần dần lạnh nhạt. Trong cộng đồng không còn bao nhiêu nghệ nhân biết hát xướng dân ca, đánh đàn Kanhi, trống Baranưng, Ginăng, kèn Saranai…Dù ở quê nhà, cũng như tại Sài Gòn đã tổ chức nhiều lớp học nhạc cụ truyền thống nhưng số người theo học vẫn rất ít so với số đông những người Chăm quay lưng lại với truyền thống, mà phần nhiều trong đó là các bạn trẻ.           Ngày nay, nhiều thanh niên Chăm không còn thích nghe các bài dân ca, các ca khúc viết về quê hương xứ sở, về palei Chăm với những hình ảnh những ngôi tháp Chàm cổ kính, con sông quê hương, xóm thôn Chăm mùa gặt, tình yêu thủy chung của trai gái làng Chăm… những ca khúc ấy tự bao đời đã trở thành bệ đỡ tinh thần cho bao đứa con Chăm, gợi nhắc trong họ tình yêu quê hương, sứ xở.  Ngày nay, đa phần người trẻ chỉ hướng về các dòng nhạc hiện đại, mang nhiều tính thị trường của Vpop, Kpop…mà lãng quên dần các bài dân ca, các bài hát về quê hương, dân tộc.           Bên cạnh đó, một hiện tượng văn hóa cũng đang ngày càng mai một, ngay trong tâm thực của người Chăm hiện đại đó là trang phục truyền thống Chăm. Người Chăm có nhiều loại trang phục cổ truyền phong phú, mang tính thẩm mỹ cao và chứa đầy giá trị tinh thần, tạo nên một nét đặc trưng của tộc người.Thế nhưng, hiện nay, trừ những người đã cao tuổi, hầu hết những người hai mươi, ba mươi tuổi không còn thích mặc váy, áo dài truyền thống mà chỉ mặc áo sơ mi, quần tây trong đời sống hằng ngày (kể cả nam lẫn nữ), trừ các dịp lễ hội người ta mới khoác lên mình những trang phục mang đậm hồn dân tộc ấy!               Đặc biệt nhất, đáng báo động nhấtlà thực trạng ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc Chăm. Trong khi những chuyên gia về ngôn ngữ Chăm vẫn đang có những bất đồng về truyền thống và cải biên, vẫn chưa tìm được một tiếng nói chung thì ngôn ngữ Chăm đang hằng ngày, hằng ngày lụi tàn, giãy chết. Thực trạng người Chăm giao tiếp với nhau trong đời sống hằng ngày trộn đến 50% tiếng Việt là một điều đáng quan ngại, vì nhiều từ ngữ sẽ bị lãng quên, muốn biết, muốn hiểu nghĩa người ta lại phải tra từ điển và sách vỡ, đây là một thực trạng phổ biến trong đời sống Chăm đương đại và đã được nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia báo động. Đó là về ngôn ngữ nói, về chữ viết, người Chăm ngày nay cũng không nhiều người biết viết tiếng Chăm nữa. Cho dù, trong các trường tiểu học ở các làng người Chăm, có dạy tiếng Chăm, nhưng khi lên các lớp lớn do không có điều kiện học thêm và tiếp xúc, chủ yếu trong đời sống họ viết và sử dụng toàn tiếng Việt nên sẽ không thể nhớ được, dần dần lãng quên nó. Tiếng Chăm, đối với nhiều người,không còn quan trọng nữa, không ứng dụng gì nhiều trong cuộc sống nên họ không cần thiết phải viết nó. Một số sinh viên, có ý thức bảo tồn chữ viết dân tộc đã tham gia vào các lớp học tiếng Chăm, nhưng số lượng này không được bao nhiêu, và khi hoàn thành khóa học do không có điều kiện, thời gian tiếp xúc viết, nói hằng ngày nên lâu dần lại quên. Thành ra, tiếng nói đã lai căng, chữ viết Chăm lại càng bị mai một, không còn bao nhiêu người biết viết chữ mẹ đẻ nữa, ngôn ngữ Chăm thành ra một thứ ngôn ngữ hàn lâm (tức là chỉ sử dụng cho giới tu sĩ, giới nghiên cứu, học giả…) ngày càng xa rời đại chúng, trong khi một thứ ngôn ngữ ngoại lai lại pha tạp vào tiếng nói hằng ngày và lấn áp chữ viết dân tộc– đó là tiếng Việt, cái mà chúng tagọi là tiếng phổ thông. Ngôn ngữ Chăm, không chỉ là đặc trưng cho bản sắc văn hóa, nó còn là phương tiện để con người hiện đại liên kết với quá khứ. Một khi ngôn ngữ này càng ngày càng bị mai một thì nó cũng sẽ kéo theo các giá trị văn chương, các văn bản cổ Chăm sẽ không còn ai lưu giữ, bảo tồn và truyền lại cho thế hệ sau, dòng chảy văn hóa của dân tộc sẽ bị gián đoạn. Không còn ngôn ngữ, người Chăm cũng sẽ mất đi nhiều giá trị văn hóa, mất đi bản sắc, câu truyện của 2500 ngôn ngữ đã mất (theo Unesco) là một cảnh báo cho chúng ta. Trong suốt tiến trình tồn tại, văn hóa Chăm đã bao lần biến đổi có lúc nó hấp thu rồi tiếp biến các giá trị bên ngoài, tạo thành cái riêng, cái đặc sắc của mình, thế là tốt! Nhưng cũng có những lúc thăm trầm và đen tối, nó bị văn hóa ngoại lai thống trị và xâm nhập, khiến cho một số truyền thống bị lụi tàn…Nhưng, may mắn thay! Hôm nay,  Chăm vẫn còn giữ được một số bản sắc văn hóa như ngôn ngữ, sách cổ, các lễ hội, lễ tục và tính cố kết cộng đồng…Điều đó cho thấy, dù trải qua bao biến thiên người Chăm vẫn luôn thể hiện được bản lĩnh văn hóa của mình. Trước thềm toàn cầu hóa, hội nhậplà yêu cầu khách quan không thể chối bỏ, nhưng làm thế nào để vừa hội nhập mà lại vừa không đánh mất bản sắc? Ở đây,tôi bày tỏ đồng cảm với Pauh Catwai, lời người xưanhư vẫn còn nguyên giá trị, thuở ấy, năm 1832, quốc gia mất đi, dân tộc phải đối mặt với nguy cơ mất luôn cả văn hóa, những người trí thức đương thời như Pauh Catwaiưu tư, trăn trở cho việc lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc: “…Sa bauh cơk tajuh giloang, sibơr ka throang bhap ilimo…” (một núi bảy đường, biết đường nào thông cho văn hóa dân tộc). Hôm nay, chúng ta phải ý thức rằng: dân tộc này, theo thời gian đã mất mát rất nhiều giá trị văn hóa, đừng để mất luôn những giá trị còn giữ lại được, để rồi đánh mất luôn chính bản sắc dân tộc. Nếu có hỏi tôi có quá bi quan không khi nói vậy? Xin trả lời: Không. Vì rằng, dù Chăm, hôm nay vẫn còn ngôn ngữ, người Chăm hôm nay vẫn biết xướng hát dân ca, thuộc lòng các kho tàng văn chương…Nhưng số này rất ít, hầu hết đều đã già, nay mai cũng trở thành người thiên cổ, trong khi giới trẻ rất ít ai mặn mà, thậm chí còn quay lưng lại với chúng. Vậy, thử hỏi: Văn hóa Chăm, còn giữ lại bao nhiêu để mà cợt đùa, để mà không quan ngại? Đối với Chăm nhiệm vụ bảo tồn bản sắc trong thời đại này lại càng khó khăn, nhất là khi chúng ta chỉ là một cộng đồng thiểu số, bị phân hóa thành các palei tách biệt và hằng ngày có những sự tiếp xúcnhiều với một cộng đồng đa số, có một nền văn hóa dị biệt, lúc nào cũng có thể hút chúng ta vào tầm ảnh hưởng của nó. Tôi chợt nghĩ đến một viễn tượng đáng buồn của tương lai: “…nơi người Chăm nói với nhau bằng một thứ tiếng lai căng, mất gốc; nơi những bài dân ca, ariya, những nhạc cụ được đưa vào bảo tàng vì không có ai ngâm nga, diễn xướng; nơi chữ viết Chăm trở thành cổ vật phi vật thể vì không ai biết viết; nơi các lễ hội Chăm chỉ là những huyền thoại xa vời;…; nơi những đứa trẻ Chăm được truyền thụ và tự ý thức rằng tổ tiên chúng ta là con của rồng, cháu của tiên…” Hãy nhìn vào quá khứ mà suy ngẫm, tạo nên một giá trị đã khó, giữ cái giá trị đó đến muôn đời lại càng khó hơn. Đừng để những giá trị mà bao đời tổ tiên gây dựng mất đi, nếu vậy, không phải chúng ta - những kẻ hậu thế - hổ thẹn với tiền nhân lắm sao? Một lần nữa và hơn lúc nào hết, người Chăm (tất cả người Chăm) cần thể hiện bản lĩnh văn hóa của mình trong bối cảnh mới – bối cảnh toàn cầu hóa.  Ja shaklikei (Nguồn: Tagalau 16)                                                                
0 Rating 425 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On September 2, 2012
Hố thing Chăm ngn năm tuổi Thứ Bảy, 01/09/2012 22:05 Rất nhiều hiện vật văn h꠳a Chămpa độc đo, c niᳪn đại ngn năm tuổi được pht hiện tại lࡠng cổ Phong Lệ - TP Đ Nẵng, h lộ nhiều b੭ ẩn của những dng chảy văn ha qua v⳹ng đất miền Trung Việc khai quật khu di tch khảo cổ Phong Lệ đến thật tnh cờ khi v�o thng 3-2011, một người dn lᢠm nh pht hiện những hiện vật Chămpa. Sự việc được bࡡo ln chnh quyền vꭠ một quyết định khai quật khẩn cấp được thực hiện. Qua 2 đợt khai quật (đợt 1 từ thng 4 đến thng 6-2011 vᡠ đợt 2 từ thng 7 đến thng 8-2012), Bảo tᡠng Nghệ thuật điu khắc Chămpa Đ Nẵng vꠠ tổ cng tc khảo cổ học Trường ĐH KHXH&NV H䡠 Nội đ pht hiện nhiều hiện vật qu㡽 bị vi chn trong l鴲ng đất cả ngn năm. Những bu vật ngࡠn năm Trong đợt khai quật lần thứ nhất, đon khảo cổ đo 5 hố thࠡm st trn diện t᪭ch 500 m2, pht hiện được những hiện vật v nền mᠳng của một khu đền thp rộng lớn. Chnh những ph᭡t hiện ny đ l࣠m tiền đề cho đợt khai quật lần thứ hai với quy m lớn hơn, ở ngay khu vực được cho l th䠡p chnh trong quần thể di tch rộng 10.000 m2. Tại đ�y những nh khảo cổ đ ph࣡t hiện một hố thing hnh vuꬴng nằm trong lng thp c⡳ cạnh di 4,26 m x 4,26 m, cc cạnh đࡡy khng đồng đều, di từ 3,86 m đến 3,95 m. Chiều s䠢u hố ny l 1,82 m được l࠳t những lớp đ cuội gốc granit v gốc thạch anh, xếp lớp lang trᠪn nhỏ dưới lớn xen với lớp ct trắng. Theo cc nhᡠ khảo cổ, đy l những vật liệu thường được người Chăm d⠹ng khi đo hố trong lng thಡp để đặt thờ những vật linh thing. Hố thing trong lꪲng thp Chm vừa được khai quật tại lᠠng Phong Lệ. Ảnh: ĐNG NGUYỄN Trước đԢy, tại khu đền thp Mỹ Sơn (tỉnh Quảng Nam), trong một đợt khai quật lng thᲡp G1, cc nh khảo cổ người ᠝ đ pht hiện một hố thi㡪ng 2,2 m x 2,31 m, trong đ c c㳡t, sỏi, đ ong v đᠡ ni. Thp nꡠy được xc định xy dựng vᢠo thế kỷ XII. Trong lng thp F1 được x⡢y dựng vo thế kỷ VIII, cc nhࡠ khảo cổ cũng pht hiện được một hố thing 1,84 m x 1,84 m chứa c᪡c vật liệu tương tự. Hố thing tại lng th겡p phế tch Phong Lệ lớn hơn rất nhiều so với cc hố thi�ng đ được pht hiện. Điều n㡠y chứng tỏ ngi thp c䡳 hố thing ny hẳn c꠳ kch thước kh lớn. Điều đặc biệt, c�c nh khảo cổ đ bất ngờ khi ph࣡t hiện ở cc vch hố thiᡪng ở Phong Lệ c 8 “hốc thing” v㪠 cho rằng đy l một kiểu kh⠡n thờ. Tm hốc thing n᪠y hnh thp, cao từ 47 - 53 cm. Bốn hốc thi졪ng ở cc gc Đ᳴ng - Ty - Nam - Bắc nằm lệch tim, khng đối xứng. Bốn hốc nằm ở cⴡc gc Đng Bắc - Đ㴴ng Nam - Ty Bắc - Ty Nam đối xứng nhau. Ph⢭a trước cc hốc thing đều c᪳ một vin đ thạch anh đꡣ được gia cng với phần đy lớn, phần tr䡪n nhỏ. Giữa hốc thing c một vi곪n đ cuội hnh bầu dục, chiều cao từ 14 - 16 cm,ᬠ pha trn được đặt một vi�n gạch hnh vung c촳 diện tch 16 cm x 16 cm, trng giống h�nh Linga v Yoni ngược. Cࠡc hốc thing cũng được lấp đầy ct trắng. Cꡡc nh khảo cổ phỏng đon rằng cࡳ thể đy l một c⠡ch yểm ba ch hoặc ma thuật n麠o đ theo quan niệm của người Chăm. TS Nguyễn Chiều, giảng vin ch㪭nh Bộ mn Khảo cổ Khoa Lịch sử Trường ĐH KHXH&NV H Nội, trưởng nh䠳m khảo cổ, nhận định: “Đy l kiến tr⠺c hố thing độc đo, khꡡc lạ m chng tິi chưa thể l giải được.” Sống tr�n cổ vật Những người dn sinh sống tại đy cho biết khi đ⢠o mng lm nh㠠 hay cc cng trᴬnh phục vụ dn sinh, họ thường pht hiện gạch ng⡳i, vết tch của thp Chăm. Họ cũng biết c� di tch Chăm ở đy nhưng kh�ng hnh dung đang sống trn một khu di t쪭ch ngn năm tuổi v lớn như vậy. Tại khu trưng bࠠy cổ vật hnh lang Quảng Nam trong Bảo tng Chăm Đࠠ Nẵng, khch tham quan dễ dng nhᠬn thấy một số hiện vật Chăm Phong Lệ được ghi nin đại từ thế kỷ VI-VII. Đ l고 những hiện vật được ng chủ đồn điền Phong Lệ tm thấy c䬡ch đy hơn 100 năm v gửi cho nh⠠ khảo cổ người Php Henri Parmentier, nay trưng by tại Bảo tᠠng Chăm. Cc nh khảo cổ Nhật đang nghiᠪn cứu những vin gạch vừa tm thấy tại hố thiꬪng. Ảnh: ĐNG NGUYỄN Những phԡt hiện khảo cổ mới đy tại khu phế tch Phong Lệ dường như mới chạm v⭠o một phần rất nhỏ những b ẩn cn nằm s�u trong những địa tầng văn ha Đ Nẵng. TS L㠪 Đnh Phụng, trưởng đon khảo s젡t, lịch sử Đ Nẵng, nhận định: Nằm chung trong dng chảy xứ Quảng của lịch sử dải đất miền Trung, manh nha từ văn hಳa Sa Huỳnh v theo suốt tiến trnh lịch sử với văn hଳa Chămpa hơn 1.000 năm, tiếp đ với gần ngn năm văn h㠳a Việt trn địa bn Đꠠ Nẵng đ để lại những dấu tch v㭴 cng quan trọng. Hiện tại, ở TP Đ Nẵng c頳 khoảng 10 phế tch Chăm được pht hiện nhưng hầu hết đ� bị chn vi trong l乲ng đất, chỉ cn st lại rải rⳡc khắp nơi những hiện vật v những giếng Chăm. Sau hơn cả ngn năm tồn tại, phế t࠭ch Phong Lệ tưởng như bị chn vi trong l乲ng đất với bao biến thin của lịch sử v d꠲ng chảy của thời gian v tưởng chừng chỉ cn được nhắc đến qua những hiện vật sಳt lại trong bảo tng, giờ đ hiện hữu v࣠ pht sng với những dự ᡡn văn ha du lịch đang được ấp ủ triển khai. Gắn di tch với du lịch 㭔ng V Văn Thắng, Gim đốc Bảo t塠ng Chăm, cho biết đon khảo cổ quyết định lập dự n đề nghị quy hoạch, bảo tồn, phࡡt huy gi trị di tch Chăm Phong Lệ với hy vọng sẽ được cấp ph᭩p xy dựng thnh khu bảo tồn, trưng b⠠y v phࠡt triển du lịch. “Quần thể di tch ny c� vị tr thuận lợi v nằm cạnh Quốc lộ 1A v� sng Cầu Đỏ, nối thẳng tuyến du lịch đường sng l䴪n khu di sản văn ha thế giới Mỹ Sơn, c c㳡c di tch lịch sử, khảo cổ bao hm nhiều gi� trị lớn lao. V vậy, nếu được quy hoạch kịp thời, khai quật hon chỉnh, nơi đ젢y c đủ tiềm năng để trở thnh điểm đến du lịch văn h㠳a hấp dẫn” - ng Thắng nhận định. Lng Phong Lệ cũng l䠠 một ngi lng cổ, ng䠠y trước c tn l㪠 Đ Ly, xuất hiện trn Hồng Đức bản đồ cડch đy hơn 500 năm. Đy cũng l⢠ qu hương của ng ꔍch Khim. Thời vua Thiệu Trị năm thứ nhất (1841), khi ng ꔍch Khim ra lm quan, lꠠng đổi tn thnh Phong Lệ. Hiện nơi đꠢy cn c nhiều nhⳠ vườn, những cy cổ thụ hng trăm năm tuổi, c⠳ nh thờ danh nhn ࢔ng ch Khiͪm v nhiều di sản văn ha phi vật thể rất độc đೡo. Đặc biệt c đnh thờ Thần N㬴ng v lễ rước mục đồng - lễ hội dnh riࠪng cho cc trẻ chăn tru, tᢴn vinh nghề nng, cầu cho những vụ ma bội thu đang được kh乴i phục v thu ht đິng đảo người dn tham gia. Tuy nằm trong TP Đ Nẵng nhưng l⠠ng cổ Phong Lệ vẫn giữ được những nt cổ knh. Theo 魴ng V Văn Thắng, nn quy hoạch khu vực n媠y thnh cng viപn khảo cổ du lịch, kết hợp pht triển một số lng nghề truyền thống để du khᠡch c thể vừa tham quan một lng qu㠪 giữa lng phố thị vừa thưởng thức những đặc sản, nghề truyền thống, đồng thời tm hiểu di t⬭ch lịch sử địa phương. Dấu tch những ta th�p Chăm đồ sộ Đợt 1 ( từ thng 4 đến thng 6-2011): Khai quật tại 5 hố thᡡm st trn tổng diện t᪭ch 206 m2, đon khảo cổ đ ph࣡t hiện nền mng kiến trc 2 phế t㺭ch thp Chăm quy m lớn, 30 hiện vật tương đối nguyᴪn vẹn v hng trăm viࠪn gạch, mảnh ngi, gốm… c nguồn gốc Chămpa ni㳪n đại khoảng 1.000 năm. Đặc biệt, dấu tch tại hố khai quật H1 rộng 90 m2 cho thấy c thể từng tồn tại một t�a thp Chăm đồ sộ tại đy. Đợt 2 (từ thᢡng 7 đến 8-2012): Khai quật tại 4 hố thm st trᡪn diện tch 500 m2, đon khảo cổ đ� lm lộ r vൠ chnh xc to�n bộ quy m v cấu tr䠺c chn mng của một tⳲa thp Chăm rất lớn, chn mᢳng c hnh chữ thập. Từ cửa Đ㬴ng đến cửa Ty của thp c⡳ chiều di 23,15 m; từ cửa Bắc đến cửa Nam c chiều dೠi 19,3 m; từ mng tường Đng đến m㴳ng tường Ty di 15,85 m; từ m⠳ng tường Bắc đến mng tường Nam di 16,15 m. Những phế t㠭ch chờ khai quật Đ l phế t㠭ch thp Chăm tại g Cấm MᲭt (thn Cẩm Toại Đng, x䴣 Ha Phong, huyện Ha Vang) rộng hơn 1.000 m2. Dấu tⲭch Chăm cn kh đậm đặc ở phế t⡭ch ny, c tiềm năng lớn về khai quật khảo cổ học. Phế t೭ch thp Qu Giᡡng (thn Qu Gi䡡ng, x Ha Phước, huyện H㲲a Vang), hiện c một ngi miếu B㴠, chnh giữa miếu c một tượng Chăm được đặt tr�n bệ đ, mặt trước c chạm khắc hᳬnh con t gic. Phế tꡭch thp Xun Dương (thᢴn Nam , phường HԲa Hiệp Nam, quận Lin Chiểu), theo người dn, trước kia nơi đꢢy l một l gạch cao bị đổ nಡt với nhiều tc phẩm điu khắc c᪳ tnh mỹ thuật cao, nay đ được đưa về bảo quản tại Bảo t�ng Điu khắc Chămpa. Cch trung tꡢm TP Đ Nẵng về pha Tୢy Nam khoảng 10 km, dưới chn ni Phước Tường c⺲n dấu vết của một quần thể đền thp Chăm rộng lớn, khu phế tch trong khu᭴n vin An Sơn cổ tự, một ngi ch괹a được dựng vo những năm giữa thế kỷ XIX... Bࠠi v ảnh: KIM NGN
0 Rating 422 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Inra Patra (sử thi Inra Patra) là tác phẩm văn học viết bằng Akhar Thrah Thrah mang ký hiệu số CHCPI 5. Tác phẩm này do Linh Mục G. Moussay (Trung Tâm Văn Hóa Chăm) sao lại vào năm 1970 dựa vào bản gốc của một cuốn sách được lưu tại Palei Tanran (Hữu Đức, Ninh Thuận). Tác phẩm này đăng tải  trên trang Champaka.info với nội dung như sau: Akayat Inra Patra (Po Dharma & Abd. Karim)   Akayat Inra Patra (sử thi Inra Patra) mà chúng tôi trình bày ở đây là tác phẩm văn học viết bằng Akhar Thrah mang ký hiệu số CHCPI 5 hiện lưu trử trong thư viện của Trung Tâm Lịch Sử và Nền Văn Minh Bán Đảo Đông Dương (đại học Sorbonne, Paris). Tác phẩm này do Trung Tâm Văn Hóa Chăm của Linh Mục G. Moussay sao lại vào năm 1970 dựa vào bản gốc của một cuốn sách nằm trong Palei Tanran (Hữu Đức, Ninh Thuận), gồm 59 trang và tổng cộng 581 câu thơ. Akayat Inra Patra có nhiều dị bản mang ký hiệu CAM 28 (1), CAM 99, CAM 157, MEP 1189/5, CM 8, CM 12 (3), CM 21 (4), CHCPI 5 hiện lưu trử trong thư viện của cộng hòa Pháp. Lần đầu tiên, Akayat Inra Patra được dùng làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp đại học Sorbonne (Paris) vào năm 1976 bởi Nara Vja (Ngụy Văn Nhuận). Tác phẩm này cũng là chủ đề nghiên cứu khoa học do Po Dharma, G. Moussay và Abd. Karim thực hiện và ấn hành mang tựa đề : Akayet Inra Patra = Hikayat Inra Patra = Epopée Inra Patra (Perpustakaan Negara Malaysia & EFEO. Song ngữ : Pháp-Mã, Kuala Lumpur, 1997) Phiên âm Phương pháp phiên âm của tác phẩm này dựa vào hệ thống phiên âm La Tinh quốc tế của Viện Viễn Đông Pháp. Độc giả nên lưu ý cách phát âm của một số phụ âm và nguyên như sau : Nd = nduec (chạy), ndom (nói) Mb = mbeng (ăn), mboh (thấy) Nj = njep (phải), njuh (củi) Â = tương đương với ư của tiếng Việt, như hâ (nó), jiâ (thuế) O = tương đương với ô của tiếng Việt, như oh (không có), hadom (bao nhiêu) Aow = tương đương với o của tiếng Việt, như pataow (chỉ dẩn), tanaow (đực) Chú thích Chữ nằm trong dấu ngoặc […] là từ mà người Chăm thường dùng hôm nay. Số nằm trong […] là số trang của tác phẩm Akhar Thranh   Trang đầu của Akayat Inra Patra     Bản phiên âm   1. Ni dahlau kal si panâh di ariya, palei Sumen Tapara, praong libaih saih di saih,,   2. patao Kurama Basapa sunit ginreh, pangap dher Débisreh, pahlap ka buol di grep nager,,   3. sa phun kuyau balinga di krâh tanran, siam phun siam dhan, bingu mebaoh oh meda,,   4. Bimeng Kubami si bican drâtsa, hec abih khaol ita, siber me [meng] siam tel hadei,,   5. ka po ita ni o hu anâk likei, pakreng nager saong palei, buol su bhap thuk hatai,,   6. patao bi-ndang panraong jabuol sinbiai, ew huer Rajreng merai, tangi ka o hu anâk,,   7. huer pa-nder patao nao di krâh tathik, Dopabrei sunit ginreh, sunuw binik abih merai,,   8. buh di tan mâh bingu inâgiray, Norapet [Norapat] sanâng di hatai, kieng wek tama raja-iei,,   9. likhah jaga bibak pak pluh harei, aien [auen] ka Dosreh brei, irés bijak chaina,,   10. dom nan nyu brei angan Inra Patra, irés sani bengsa, di grep nager jang nyu thau,,   11. sa nager nyu ba mâh pataih li-uw, sa nager tra thau, patia amrak mâh bingu,,   12. patao bi-ndang baruw mang nyu ba tama, limah Norapet [Norapat] aien [auen] ka hu, anâk likei séh di séh,,   13. patia ikan daok dalam kawan [cawan] mâh, thau yaom sunit ginreh, ikan bican puec klao,,   14. sa nager nyu patia khan su aw, ba tama limah patao, aien [auen] ka hu Inra Patra,,   15. dalam nager palei Sumen Tapara, mâh pariak di riim meta, abih mang ba rai alin,,   16. dom nan ikan mâh si bican, yau ra ndung amrek di khan, tathuak tangin haok abih,,   17. Inra Patra akhan su aw mang mâh, nyu jak di ngaok yorah, irés bijak chaina,,   18. amrak mâh tatah iten su permeta [permata], patao Kurama Basapa, tabiak bi-ndang kieng pame-in,,   19. dom nan amrak mâh ba per, nao laik dalam nager, patao Rija Sah Suan,,   20. dalam thuen muk Ranaik Bariyén, nyu duon raong aien [auen] tabuon, lac anâk Dobita,,   21. dom nan nyu tangi Inra Patra, cei anâk Dobita, hapak libik palei nager,,   22. biruw mang Inra Patra si bican, di kal amrak ba per, mang Sumen Tapara,,   23. kau ni anâk patao Kurama Basapa, daok saong muk raong ba, calah di inâ ngan ama,,   24. blaoh tuei muk nao pablei bingu, Palidaw Mentri, likuw kieng raong jiéng anâk,,   25. meyah kuthaot kau brei kaya kal [kar] ka muk, aek lipa juai ka-uk, kau anit Inra Patra,,   26. kuhlaom anâk patao Kurama Basapa, daok saong muk raong ba, nda [ka] muk her wer,,   27. dom nan meda patao nao amal, dep mboh di jalan, anâk inâ njruah mâh,,   28. blaoh patao pa-ndik kathur kieng panâh, njap anâk njruah mâh, libuh tanan blaoh metai,,   29. dom nan patao gilac wek merai, mang sanâng dalam hatai, damân anâk njruah mâh,,   30. patao bi-ndang panraong jabuol taom abih, ikhan ndom ka panâh, tak di bés (?) nao amal,,   31. kau ni jiéng Norapet pakreng nager, tel usak rapajen, anâk tacaow oh meda,,   32. Sri Palieng Sujang Narah kuhrii kuhria, chinbiai ka ita, kami ka-uk dalam hatai,,   33. duah jru bi hu anâk ba merai, Palidaw Mentri nyu biai, tangi grep gram pari,,   34. pamiit panuec di Bimeng Kubimi, haké meda jru tani, pak Bimong Settik,,   35. meyah kieng nao sanâng ku-nda oh thau libik, gen cek tapa tathik, thei urang nao sa tel,,   36. Balidaw Mentri merai bican, pathau abih panuec yau nan, patao ginaong kieng pametai,,   37. Balidaw Mentri tabiak merai, Inra Patra nan kieng biai, bican lac nyu kieng nao,,   38. patao paruah khan su aw siam metuaw, kuhlaom anâk lac kieng nao, amâ alin ba anguei,,   39. dom nan Inra Patra tabiak merai, dom sanâng dalam hatai, me-irat nyu kieng nao,,   40. muk Ranaik Bariyén paralao, anit tacaow lac kieng nao, ri-mbi ri-mbâp lo sa drei,,   41. Inra Patra si také truh palei, rimaong caguw pép merai, limân saong kruk litha,,   42. kakuh da-a hec Po Inra Patra, irés sani bengsa, anâk patao praong nager,,   43. miit sep Taguret ew bican, di kal amrak ba per, inâ ama po su-aien [su-auen],,   44. tama dalam sang megik ngap dher, kuhri kuhra palei nager, pep Bimeng Kubimi,,   45. mang kal dahlak tuei po mai sani, tel urak merathi, metai abih yau binés,,   46. names sukal pak sunit Débisreh, sa meta brei mboh, su-aien [su-auen] ka Po Inra Patra,,   47. khaol dahlak metai di rak khik gaha, di ngaok cek Andel Yasa, kakei di cei plaih bi truh,,   48. Inra Patra si také jreng mboh, rak trun merai metâh, cek nyu ew Inra Patra,,   49. hec aong anâk ranaih ra meda, kau brei sa dak lakkuraba, ka hâ tani baik ka sah,,   50. names sukal pak sunit Débisreh, nyu pametai rak blaoh, biak yaom sa kasen,   51. laik trun sumu jaleh cek su cer, rimaong caguw aien [auen] tabuon, limân saong kruk lisa,,   52. Inra Patra tama jreng dalam giha, mâh pariak lo meda, di riim pakal [pakar] buissaki,,   53. di ngaok cek nan sa phun kurama, siam dhan mebaoh bingu, glaong metâh aderha,,   54. nyu nao tel Kubimi ew da-a, hec Po Inra Patra, pagar [pagan] dahlak siam kieng mbeng,,   55. mbeng thar klak tamuh blaoh jiéng, anâk tacaow mbuak di krung, tadhuw sunit Débisreh,,   56. Inra Patra si také nao truh, pep mboh amrak mâh, tiaong biyén kameng mrai,,   57. caguor bingu ciim Pabah Rem Tangai, caraw hadang abih merai, thét biyak Inra Patra,,   58. nao mboh sa phun bingu yorika, nattiak puissada, tabeng mâh ew da-a,,   59. hec po sunit ginreh Inra Patra, paik dahlak blaoh ba, plah di kéng sa asat [asit],,   60. sa phun jrai deng di krâh parabet [parabat], di cek Nder Jai Yét, Inra Patra padei tanan,,   61. nyu jreng tapak harei tagok mboh buol, ribuw tamân ralo rajen, Ribep Arosah merai,,   62. ba buol ribuw tamân kot chai, chait mâh bingu palai, pahaluei gah kawah,,   63. ribep meri kaong kamre dua gah, pak pluh dok meriah, nyu jak di ngaok thing mâh,,   64. jreng tapak harei tagok nattathih, buol su bhap Sumen Giléh, ribuw tamân laksa,,   65. anâk patao In Sumen Loga, dalam nager nyu hatua, merai kieng duah nager paken,,   66. nyu ndik di ngaok raong athaih kaok per, Rabep Arosak bican, tangi hapak gah kieng nao,,   67. dom nan Sumen Jalé nyu jak methao, ka dua mang anâk patao, daok methuh gep tanan,,   68. nyu pabinés buol su bhap lo rajen, Inra Patra nao tel, tangi hagait sreh gi-ndi,,   69. hec aong sa baoh akaok merai ta ni, hâ juai pagen gi-ndi, kau mesuh merak nager,,   70. Inra Patra nyu ginaong blaoh bican, Sumen Jalé puec yau nan, likau di ai juai methuh,,   71. Sumen Jalé pa-ndik kathur blaoh panâh, Inra Patra sunit ginreh, oh mada huec ku-nda,,   72. ndaih apuei glaong metâh aderha, nyu mak padak lakkuraba, pametai Sumen Jalé,,   73. buol bhap ribuw tamân nduoc abih, si meyaom sunit ginreh, ires bijak chaina,,   74. Ribep Rosah kakuh blaoh da-a, nyu bican lac ba, bi tel ama mang bak hatai,,   75. patao Rija Sah Suan tiap merai, Inra Patra saktajai, da-a bi tel medhir riya,,   76. dalam tian patao ranam Inra Patra, irés bijak chaina, ama patok anâk ka sah,,   77. kuhri kuhra Sri Palieng Sujang Narah, angan Rabep Rosah, biai panâh raja-iei,,   78. patao paruah hadom urang saktrei, pak pluh mesiam likei, thét biyak Inra Patra,,   79. saong paruah hadom urang kaya kaya, pak pluh mang dara, thét biyak tuan patri,,   80. Binara auak rabep yuk meri, adaoh kamrie tuon [tuan] patri, di ngaok kacak maligai,,   81. likhah caga kaong Inra Patra merai, mbeng menyum saktajai, sa rituh harei melam,,   82. Inra Patra saong patri Jamjam, Ratna Dawi Ilam, biruw mejieng subarriya [subharriya],,   83. patao bi-ndang panraong jabuol kuhri kuhra, mâh pariak di riim meta, alin anâk saong metuw,,   84. liwik harei thruai melam dahlak kieng nao, kunâ drei di patao, blaoh bican panuec kudha,,   85. tuen [tuan] patri su-aien [su-auen] Po Inra Patra, Rabep Arosah kieng ba, paralao metâh jalan,,   86. Inra Patra si také di rah nager, jreng bi-ndang mboh dil, Tagirak ew bican,,   87. khaol dahlak duah po di luic nager, tel usak me rapajen, metai di muk Kaphuari,,   88. sa phun kuyau deng di krâh jallidi, Inra Patra si také, deh padei tak ula,,   89. Kaphuari tagok di dil Sumenna, merai kieng mbeng Inra Patra, biruw mang nyu kieng pametai,,   90. biruw mang muk Kaphuari mbai, sa baoh ra-ndaik saktajai, limah ka Po Inra Patra,,   91. ra-ndaik ula sanji kawanna, sunit ginreh lo meda, riim pakal [pakar] buissanâ,,   92. Inra Patra tama dalam jallidi, tel sang Kaphuari, payak di den [del] menâng ahar,,   93. blaoh mang muk Kaphuari akhan, meyah si nao di jalan, likau digen [digar] ba saong drei,,   94. tel harei suk patri trun menei, di aia tabeng siam ndei, su nam diyeng taom hader,,   95. Inra Patra yuo mak kaya kal [kar], yuo drei jiéng ikan, tama dalam aia tabeng,,   96. rup patri saih di saih mboh sa [si] gleng, hec su nam urang diyeng, menei bi drah ita kieng nao,,   97. gleng mboh lihik aban khan su aw, tiap su radiyeng nao, duah bi mboh ba ka kau,,   98. hec po daok ala haluei kuyau, po mak rei o thau, lihik kaya kal [kar] patri,,   99. biak jeh halun merai daok tani, halei kaya kal [kar] patri, halun ké mboh sa [si] gleng,,   100. Inra Patra akhan wek saong radiyeng, nyu lac patri séh melang ,biruw mang nyu lue angal,,   101. biruw mang ra biyeng nao akhan, tuen [tuan] patri paraot di tian, nyu sap hatem Inra Patra,,   102. patri pa-nder nao wek sa mbeng tra, pathau rei panuec kudha, biruw mang tuen [tuan] patri merai,,   103. hec po siam likei saktajai, duon kaya kal [kar] kanai, brei ka halun likau di cei,,   104. meda halun mboh biyén per merai, cagaong kaya kal [kar] kanai, palaik di ngaok thing kata,,   105. halun duon biak halun si taka, pak diger nan tra, ka halun likau di nai,,   106. hec po siam likei saktajai, peng panuec halun hai, brei ka halun baik susah,,   107. nao ruah kaya kal [kar] baik bi drah, Inra Patra pa-nder tapah, sari tanan mang nyu peng,,
0 Rating 421 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 24, 2015
Written by Po Dharma & Abd. Karim Akayat Dewa Mano (s? thi Dewa Mano) l
0 Rating 415 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 8, 2017
Cách ?ây n?a th? k?, v?i t?p th? kh? nh?, m?ng m?nh g?m 36 bài là ?iêu tàn, Ch? Lan Viên ?ã “??t ng?t xu?t hi?n gi?a làng th? Vi?t Nam nh? m?t ni?m kinh d?” (Hoài Thanh -  Thi nhân Vi?t Nam). Kinh d? không ph?i ch? vì lúc ?ó tác gi? còn nh? tu?i (lúc vi?t ?iêu tàn, ông ch? m?i 15-16 tu?i) mà ch? y?u vì gi?ng th? bu?n ?o n?o pha màu s?c huy?n bí k? l?. ? ?ó, Ch? Lan Viên ?i ng??c th?i gian, và b?ng t??ng t??ng ?ã ph?c hi?n m?t th?  gi?i ch? còn trong ký ?c v?i nh?ng d? c?m hãi hùng khác th??ng. ? ?ó, ng??i h?c trò m?t n??c tìm th?y l?i ???c nh?ng d?u v?t huy hoàng r?c r?  c?a m?t dân t?c m?nh m? vào lo?i b?c nh?t c?a ?ông Nam Á nh?ng ngày  nay ch? còn trong c? s? và huy?n tho?i: dân t?c Ch?m-pa. ?ây, ?i?n các huy hoàng trong ánh n?ngNh?ng ??n ?ài tuy?t m? d??i tr?i xanh?ây, chi?n thuy?n n?m m? trên sông l?ngB?y voi thiêng tr?m m?c d?o bên thành(Trên ???ng v?) Nh?ng ??y ch? là ánh h?i quang c?a m?t gi?c m? h? ?o thu?c v? quá vãng. Nó thoáng hi?n và không b?ng bó ???c v?t th??ng lòng cho con ng??i. Mà d??ng nh? nó l?i còn kh?i sâu thêm cho n?i ?au hi?n t?i: V? r?c r? ?ã tàn bao n?m tr??cBao n?m sau còn d?i ti?ng kêu th??ng Có l? ch? vì Ch? Lan Viên s?ng trong m?t giai ?o?n l?ch s? b? nô l? và trong m?t không gian tràn ng?p s?c bu?n g?i c?m. S? di?t vong c?a m?t dân t?c  ?ã d? dàng ??p m?nh vào tình c?m và trí t??ng t??ng c?a m?t ng??i trai  tr? yêu n??c. L?i thêm nh?ng ch?ng tích còn ?ó, nh?ng c? tháp s?ng s?ng nh?ng tr? v?, l?c lõng gi?a ru?ng ??ng núi non khô kh?c c?a mi?n Trung n?ng cháy, nh?ng huy?n s? g?i c?m xa xôi v? Ch? B?ng Nga, nàng M? Ê, thành ?? Bàn ?ã khi?n nhà th? tu?i tr? l?m ?i trong ni?m u u?t, tr?m c?m tuy?t v?ng : C? d? vãng là chu?i m? vô t?nC? t??ng lai là chu?i huy?t ch?a thànhC?ng ???ng chôn l?ng l? nh?ng ngày xanh(Nh?ng n?m  m?) M?c t??ng tri?n miên trong m?c t??ng, nhà th? h? Ch?  ch? th?y nh?ng vang v?ng l?ch s? kia m?t th? gi?i “?iêu tàn”. ?ó là m?t cõi âm gi?i v?i x??ng s? ??u lâu, v?i m?  không huy?t l?nh. v?i tha ma pháp tr??ng. ?ó là m?t dòng sông Linh  h? ?o ???c d?ng lên d??i tà d??ng n?ng x? hay trong ?êm m? s??ng tàn l?nh, v?i nh?ng h?n ma v?t v??ng, v?i nh?ng thành quách ?? nát trong m?t màu s?c tàn l?i kinh d?. ?iêu tànc?a Ch? Lan Viên vì th? là m?t th? gi?i h? linh, ma quái chìm ??m trong bóng t?i cô ??n l?nh l?o v?i nh?ng c?n mê s?ng c?a m?t tâm h?n vong nô b? giá l?nh: ?ây, nh?ng tháp g?y mòn vì mong ??iNh?ng ??n x?a ?? nát d??i th?i gianNh?ng sông v?ng lê mình trong bóng t?iNh?ng t??ng Chàm l? lói r? rên than?ây nh?ng c?nh ngàn sâu cây l? ng?nMuôn ma H?i s? so?ng d?t nhau ?iNh?ng r?ng th?m bóng chi?u lan h?n ??nL?ng l?ng ??a n?i r?n rã ti?ng t? quy?ây chi?n ??a ?ôi bên giao tr?nMuôn c? h?n t? s? thét g?m vangMáu Chàm cu?n tháng ngày ni?m u?t h?nX??ng Chàm tuôn rào r?o n?i c?m h?n(Trên ???ng v?) Và b?ng m?t lòng tin ?au ??n, ông d?ng lên m?t th? gi?i hoang t??ng h? ng?y, và ông tin là nó có th?t. R?i ông b? hút theo xác tín siêu hình ?ó. Nh?ng sau ?ó, xác tín b? ?ánh  v?, lúc ?y ông tr? nên cô ??n và câm ??ng. Vì th? Ch? kêu lên h?t ho?ng, m?t ti?ng kêu kh?c kho?i v? vi?c n?i ?au bi bi?n ch?t, v? vi?c m?t lòng tin và ch? còn l?i s? cô ??n. Và ông t? ng?y t?o cho mình nh?ng âm v?ng t? m?t th? gi?i khác ?? trò chuy?n: Ai kêu ta trong cùng th?m h? vôAi réo g?i gi?a muôn sao ch?i v?i ?ó th?c s? là m?t ti?ng kêu h?t ho?ng mà sâu th?m, m?t ti?ng g?i kh?c kho?i v? n?i cô ??n c?a con ng??i trong xã h?i nô l?. Th?c ra ?ó là cách nhà th? c? t?o ra m?t ng?n cách gi? ??nh gi?a nhà th? và cu?c ??i. Cho nên khi cu?c ??i "t?t c? không ngoài ngh?a kh? ?au" thì tin vui mùa xuân ??a ??n ch? còn là m?t s? m?a mai ?au ??n: Tôi có ch? ?âu có ??i ?âu?em chi xuân l?i g?i thêm s?u ?V?i tôi t?t c? nh? vô ngh?aT?t c? không ngoài ngh?a kh? ?au(Xuân) Ch? có mùa thu là th?t, c?ng nh? ch? có n?i ?au là th?t, nh?ng v?i thu ?y, c?ng ch? có m?t bóng ng??i ?i - v?, ?i t?i ?âu không bi?t, và v? ? n?i không bao gi? t?i và mong ??c: Ô hay tôi l?i nh? thu r?iMùa thu r?m máu r?i t?ng chútTrong lá bàng thu ?? r?c tr?i???ng v? thu tr??c xa l?m l?mMà k? ?i v? ch? m?t tôi Ng??i con trai m?nh m? và say ??m "ch? m?t tôi" ?y không tìm th?y cho mình m?t kho?ng l?ng thanh th?n gi?a ngày ?? m? m?ng và yêu th??ng. Nhìn vào ?âu c?ng th?y ch?t ng?t nh?ng tháp bu?n ch? v?. Tâm c?m con ng??i c? tràn ng?p s?c úa quá vãng và siêu hình. Trong kho?ng gi?a n?m, mùa nào c?ng là "??a ng?c". ? mùa xuân thì nh? mùa thu, ? mùa thu hi?n t?i thì ch?p ch?n nh? mùa thu quá kh?. Còn trong kho?ng gi?a ngày - bu?i tr?a, v?i lòng nhà th? ch? là m?t mi?n ??t siêu tr?n th?: Tr?a lên tr?i. Và xanh th?m b?u tr?iB?ng mê ly, n?m th?y tr?ng mây trôi(Tr?a ??n gi?n) Hay ngay trong bu?i ??u ngày xán l?n, ta v?n th?y Ch? m?c t??ng u u?t: ?ây muôn v?t chìm sâu trong yên l?ngMà lòng ta th?n th?c mãi không thôiHay ng??i khóc vì tháp Chàm qu?nh v?ngHay khóc vì xuân ??n g?ch Chàm r?i ?(Bình ??nh, 9h sáng ngày 25-12-1936) Ch? có bu?i t?i, n?i bóng ?êm ng? tr?, nhà th? m?i ???c sinh t?n vì ? ?ó, nh?ng linh h?n "?iêu tàn" b? khánh ki?t lòng tin m?i bi?t c?m thông và g?p ???c nhà th?: Này, em trông m?t vì sao ?ang r?ngHãy nghiêng mình mà tránh ?i nghe emCh?c có l? lính h?n ta lay ??ngKhi v?i vàng tr? l?i n??c non Chiêm (?êm tàn) Khác v?i Hàn M?c T? - n?i ?au ??i ???c di?n ??t b?ng n?i ?au ng??i, m?t n?i ?au tr?i nghi?m c?a th?t da tôi s??ng s?n và tê ?i?ng, Ch? Lan Viên nh?c nh?i m?t n?i ?au trí tu? sâu s?c. ?ó là c?n v?t vã c?a suy t??ng chiêm nghi?m v? xác tín, v? ni?m tin, v? s? t?n t?i c?a con ng??i trên m?t ??t, và v? cái Tôi b? vong thân gi?a ??i. B?i th? cách tìm ki?m ph?c sinh c?a Ch? th?t khác v?i bao nhà th? khác nh? V? ?ình Liên, Nguy?n Nh??c Pháp, Nguy?n Bính, ?oàn V?n C?,... Nh?ng thánh ???ng, tháp c?, nh?ng thiên th?n v? n? ?ang nh?y nh?ng ?i?u luân v? tr?n th? ??y g?i c?m hoan l?c trên ?á hay nh?ng nét tr?m t? c?a nh?ng con bò ?á canh gi? vòm tr?i tinh tú c?a n?n ngh? thu?t k? di?u Ch?m-pa ?ã không ???c ông chú ý. Ông ch? kh?c sâu n?i "?iêu tàn" ?ang có c?a nó ?? ph?c sinh nh?ng tâm h?n b? vong nô: Ai t??ng ??n tháp Chàm kia tr? tr?iTháng ngày luôn r?ng c?a ??i ma H?iAi nhìn ??n làn th??ng rêu l? lóiTrên th?t h?ng n?t n? g?ch Chàm t??i(Thu v?) ?iêu tàn vì th? ph?n nào có th? làm cho m?t s? ng??i bi?t suy ngh? và nh? l?i thân ph?n ?ích th?c c?a mình cùng nh?ng bài h?c l?ch s? ??u lòng c?a m?t dân t?c ch?a bao gi? ch?u làm nô l?.Và ngày nay, ??c ?iêu tàn, chúng ta c?m ?n r?t nhi?u nhà th? Ch? Lan Viên, nh?ng ? m?t bình di?n khác, tôi còn mu?n c?m ?n th? gi?i ngh? thu?t còn l?i c?a Ch?m-pa: Chính th? gi?i này không ch? là ch?t li?u cho c?m h?ng thi ca m?t th?i mà nó còn là toàn b? th?n thái bu?n bã ?o n?o và ?au ??n cùng c?c c?a ?iêu tàn c?a Ch? Lan Viên nói riêng và c?a tr??ng th? Lo?n Bình ??nh nói chung. Chính nó ?ã làm nên khí ch?t, s?c th? và tình ?i?u th?m m? cho tr??ng phái th? n?i ti?ng này, và c?ng t? ??y ghi l?i m?t d?u son khó phai trong l?ch s? thi ca Vi?t Nam hi?n ??i.LÊ QUANG ??C(theo t?p chí V?n hóa H?i An s? 2, ra tháng 09-2000) (Trà Nha S?u t?m) theo gocnhosantruong.com
0 Rating 397 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 28, 2012
"Thp Chăm Phong Lệ cần khai quật rộng hơn" - Sng nay (28/8), tại khu vực khai quật di tᡭch Chăm lng Phong Lệ, Bảo tng Điࠪu khắc Chăm – Đ Nẵng phối hợp với Trường ĐH KHXH&NV thuộc ĐHQG HN tọa đm c࠴ng bố những kết quả khai quật bước đầu v nu lપn phương n bảo tồn pht huy giᡡ trị di tch… >> Truy tm vật thi�ng trong lng thp Chăm >> Giải m⡣ hố thing nghn năm trong lꬲng đất >> Pht hiện hố vung kỳ lạ giữa lᴲng thp Chăm >> Phát ḷ nᴪ̀n tháp Chăm-pa nghìn tủi Quang cảnh buổi tọa đ䠠m ngay tại di tch Chăm lng Phong Lệ �ng Nguyễn Chiều, giảng vin chnh bộ mꭴn khảo cổ học, khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH&NV HN, người chủ tr khai quật cho biết: Đợt khai quật vừa qua đ l죠m lộ kh r rᵠng v chnh xୡc ton bộ quy m vഠ cấu trc chn mꢳng của 1 to thp Chăm. Cụ thể, chࡢn mng c b㳬nh đồ gần hnh chữ Thập. Từ cửa Đng tới cửa T촢y di 23,15m, từ cửa Bắc tới cửa Nam di 19,85m. Từ m࠳ng tường Bắc tới mng tường Nam di 16,15m. 㠠 Bề mặt của chn mng khⳡ bằng phẳng, được tạo bởi 1 lớp gạch vụn đầm rất chắc, dy khoảng 10cm. Pha dưới lớp gạch vụn đầm mặt m୳ng đến độ su hơn 2m l những lớp gạch vụn đầm kh⠡c xen kẽ giữa những lớp cuội cng ct trắng. Lớp dưới c项ng l đất pha ct, khࡡ mịn v chặt. Ở chnh tୢm của mng thp c㡳 1 hố vung c độ s䳢u cng với mng th鳡p. Hố vung ny được Đo䠠n Khảo cổ quy ước gọi l Hố thing. Hố thiપng c vch ph㡭a ty, bắc chiều di 3,86m, v⠡ch pha đng, ph�a nam l 3,92m. Một phần hiện trạng di tch Chăm được tiến hୠnh khai quật Được biết, đy l những kết quả ban đầu sau hai đợt khai quật Di t⠭ch khảo cổ Phong Lệ nằm tại địa phận thn 3, Phường Ha Thọ Đ䲴ng, Quận Cẩm Lệ, Thnh phố Đ Nẵng (đợt 1 (thࠡng 4/2011 đến cuối thng 6/2011; đợt 2 (đầu thng 7/2012 đến cuối thᡡng 8/2012). Trao đổi trong buổi tọa đm, PGS.TS Bi Duy H๲a, ủy vin hội đồng Di sản Quốc gia, cũng l một người dꠢn Đ Nẵng, ni: “Kết quả khai quật khảo cổ học ban đầu lೠ rất lớn. Nhưng n chỉ l những t㠭n hiệu cơ bản, chưa đầy đủ. V vậy, ti đề xuất, tiếp tục tiến h촠nh khai quật quy m rộng lớn, để c kết quả to䳠n diện”. Hiện vật di tch Chăm: đ thạch anh, gạch chăm được trưng b�y ng VԵ Văn Thắng, Gim đốc bảo tng Chăm cho biết thᠪm: Sau đợt bo co kết quả của đợt khai quật di tᡭch Chăm ny, chng tິi tạm thời dừng tiến hnh khai quật v đề nghị UBND Phường tiếp tục quan tࠢm cng tc bảo vệ di t䡭ch. Chng ti cũng đề nghị th괠nh phố hỗ trợ, quy hoạch di tch v khu vực chung quanh di t�ch thnh một khu bảo tồn di sản văn ha, trưng bೠy, giới thiệu sản phẩm truyền thống của địa phương, gắn liền bảo tồn di tch với pht triển kinh tế du lịch. C�c hnh ảnh về hiện vật điu khắc t쪬m thấy ở di tch Phong Lệ Cc nh� khảo cổ vẫn đang tiếp tục tm kiếm cc hiện vật nơi hố thi졪ng v những hiện vật lin quan đến khu thડp ny cng như t๬m kiếm tra cứu ti liệu lịch sử để giải m những b࣭ ẩn nơi khu thp Chăm dưới lng đất lᲠng Phong Lệ vừa được pht lộ ny. Đᠴng đảo người dn đến xem hiện vật Di tch Chăm tại l⭠ng Phong Lệ thu ht một số nh khoa học, nghi꠪n cứu nước ngoi cũng đến tm hiểu ଠ Uyn Chu - Vũ Trung
0 Rating 395 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 9, 2012
Thổ cẩm là nghề “mẹ truyền con nối” và là nguồn sống của cả làng Mỹ Nghiệp - Đó là chủ đề cuộc triển lãm nghệ thuật đặc sắc nhằm khơi gợi và bảo tồn những giá trị văn hóa dân gian độc đáo của dân tộc Chăm sẽ khai mạc vào chiều ngày 28/5 tại Hà Nội.   Dân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa cổ, hiện có khoảng 20 vạn người, nhiều nhất ở Ninh Thuận - 85.000 người, và Bình Thuận - 37.000 người. Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, sinh hoạt hàng ngày vẫn giữ nếp truyền thống với các lễ hội dân gian rất đặc sắc. Rija Nưgar (vào đầu năm Chăm lịch, tức tháng 4 Dương lịch) và Katê (Tết Chăm, vào tháng 7 Chăm lịch, tức tháng 10 Dương lịch) là hai lễ hội lớn nhất. Người Chăm cũng rất giỏi nghề thủ công, nổi bật nhất là nghề gốm và dệt thổ cẩm. Tại triển lãm Không gian văn hóa Chăm, công chúng sẽ có dịp thưởng lãm các sản phẩm gốm, thổ cẩm mang đậm họa tiết truyền thống của nền văn hóa Chăm cổ cùng nhiều tác phẩm văn học độc đáo nói về con người và cuộc sống của đồng bào dân tộc Chăm.   Không chỉ giỏi nghề dệt thổ cẩm, người Chăm còn được biết đến với nghề làm gốm Bên cạnh đó, công chúng được gặp lại và giao lưu với nghệ nhân Thuận Thị Trụ, người đoạt danh hiệu “Bàn tay vàng thổ cẩm Việt Nam. Bà là người có công sưu tầm hơn ba mươi hoa văn nền tưởng như đã thất truyền và từ đó cách điệu ra khoảng năm mươi hoa văn khác. Tại đây, bà sẽ kể những câu chuyện thú vị về văn hóa Chăm thông qua phần trình diễn nghệ thuật dệt thổ cẩm và những điệu múa của mình… Được biết, triển lãm sẽ kéo dài đến hết ngày 11/6 tại 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội. N.H theo dantri.com
0 Rating 391 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 3, 2015
KHÓC NÀNG MỴ Ê                                            “Châu Giang một giải sông dài,                         Thuyền ai than thở một người Cung phi!...”                                                              Tản Đà.   Gió Châu giang, gió gào cung oán Trong sương mờ ai khóc thảm thương. Có phải nàng Mỵ Ê của Chiêm Thành năm ấy? Đã gieo mình xuống bãi sông đây. Ta nghe đâu đây, tiếng Chiêm nương than thở, Và lại buồn tiếc nhớ thuỡ xa xưa: “ - Cái thuở giang sơn còn chiến loạn, Phận má đào tựu cánh bèo trôi. Kẻ ngang tàn vùi hoa, dập liễu, Để Hoa Vàng rụng xuống bến sông sâu. Và từ đó tiếng lòng sông vang vọng, Như tiếng người con gái khóc đêm trăng.” Ta đứng đây, nơi Chiêm nương tuẫn tiết, Để khóc người thiếu nữ liệt trinh. Nàng không chết dù xác thân đã mất, Vẫn sống hoài sống mãi với non sông. Đây dưới đáy Châu giang thăm thẳm, Anh linh nàng vẫn khóc với nhân gian.  Ja shaklikei    
0 Rating 386 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On May 4, 2018
Kaum muda và Kaum Tua( H?i giá c? và H?i giáo m?i)*L?u ý thu?t ng? H?i giáo c? & H?i giáo m?i trong bài vi?t ??u n?m trong h? th?ng chính th?ng giáo c?a Islam trên th? gi?i. Khác v?i c?ng ??ng Bani ? Ninh Bình Thu?n. Nik Mansour Nik Halim Thu?t ng? “kaum Muda” và “kaum Tua” mang ngh?a ??n thu?n là “nhóm ng??i tr?” và “nhóm bô lão, ng??i già”. nh?ng trong v?n hóa Ch?m, nó l?i thiêng v? ng? ngh?a tôn giáo ?? ch? nhóm H?i giáo c? ( kaum Tua) và nhóm H?i giáo m?i ( kaum Muda). C? hai nhóm này ??u t?n t?i song song trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c. Th?t ra hai thu?t ng? nêu trên xu?t hi?n ? Mã Lai vào nh?ng n?m 50 c?a th? k? 20. Nó dùng ?? ch? nhóm tr? ?ã ???c du h?c ? Ai C?p và ? R?p và mang m?t lu?ng ki?n th?c m?i v? H?i giáo, ??i l?p v?i nhóm ng??i già v?i nh?ng khuôn kh? lu?t ??o c? x?a, c?ng ng?t và mang tính b?o th?. H? t? t??ng này ???c th? gi?i H?i giáo g?i là Wahabi và ???c ph? bi?n khi nhà n??c Arabsaudi hình thành. H? t? t??ng nh?m kiêu g?i các tín ?? quay l?i v?i nh?ng lu?t ??nh H?i giáo c? x?a t? th?i thiên s? Muhamad. Tuy th?, th?t ch?t h? t? t??ng trên n?ng tính chính tr? nh?m c?ng c? quy?n l?c c?a nhà n??c ? R?p, m?u ?? ? R?p hoá các tín ?? b?ng cách rao gi?ng Sunnah ( l?i s?ng c?a thiên s?) nh?ng n?ng v? thuy?t ngo?i ( v? b? ngoài) thay vì cái n?i ( l?i s?ng, tâm h?n ??p c?a thiên s?) . Th? nên khi xu?t hi?n ? Mã Lai, nó b? ph?n ??i k?ch li?t và ngày nay nó v?n b? ?y ban H?i giáo ( majlis agama) c?a nhà n??c Malaysia ph?n ??i và lo?i b?.Ng??i Ch?m và ng??i Mã Lai ?ã có m?i giao h?o t? xa x?a và khi nhóm ng??i Ch?m di c? sang Châu ??c h? v?n gi? m?i giao h?o qua l?i ?ó. Trong nh?ng n?m 50, khi ? Mã Lai ?ang hình thành nên m?t nhóm thi?u s? “kaum Muda” thì m?t s? ng??i Ch?m ?ang h?c t?p t?i Mã Lai c?ng ch?u ?nh h??ng. Vào n?m 1957, s? sinh viên du h?c ? Mã Lai tr? v? Vi?t Nam và chính th?c truy?n bá nh?ng t? t??ng m?i v? H?i giáo ? palei Kénh ( Châu Phong) (1). Vi?c làm trên là ti?n ?? gây xáo tr?n h? th?ng tín ng??ng c?ng nh? ??i s?ng c?a ng??i Ch?m ? Châu ??c vào th?i ?ó. Vào n?m 1960, ông Hakim Haji Mahli cùng jumaah nhìn th?y ???c m?i nguy h?i khi phái canh tân thu ph?c ???c m?t s? tín ?? và ch? tr??ng xóa b? n?n t?ng truy?n th?ng cha ông c?ng nh? phá v? giáo lý Islam mà ?ã tr? thành khuôn kh? trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c. Vì lý do ?ó mà ông cùng jumaah c?a mình ?ã t? ch?c cu?c bi?u tình l?n ? th? xã Châu ??c vào th?i ?ó ?? ph?n ??i(2). Cu?c tranh ch?p kéo dài nhi?u n?m khi?n chính quy?n ??a ph??ng ph?i tri?u t?p nhi?u cu?c h?p gi?a ??i bi?u t? hai phía. ?áng k? nh?t là cu?c h?p vào ?êm 12-4-1960 t?i thánh ???ng Niamah, xã Châu Phong, b?a ti?c ?oàn k?t vào ngày 9-11-1964 và m?t b?a ti?c k? ni?m s? ?oàn k?t do t??ng ??ng V?n Quang ch? t?a vào ngày 25-8-1966 t?i thánh ???ng Jamiul Azhar, Châu Giang. Nh?ng cu?c ?àm ??o, hòa gi?i ?ã xoa d?u và t?o nên hai h? phái H?i giáo cùng song hành hòa bình t?n t?i trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c. Nhóm H?i giáo m?i gi? thái ?? b?t ??ng, không tranh ch?p, không ch? trích l?n nhau. C? hai ??u âm th?m ho?t ??ng trong ph?m vi riêng c?a mình. Th?t ch?t nhóm H?i giáo c? ( kaum Tua) và nhóm H?i giáo m?i ( kaum muda) trong c?ng ??ng Ch?m Châu ??c không t?n t?i riêng l?, mà theo th?i gian có s? ?nh h??ng qua l?i. Nhóm truy?n th?ng x?a kia còn gi? r?t nhi?u l? t?c, có khi ??i ngh?ch v?i lu?t ??nh Islam nh? ilmu kabal ( thu?t bùa ngãi), ilmu falak ( thu?t chiêm tinh) ilmu gun calat ( phép thu?t võ ngh?). Nh?ng t?c l? cúng ki?ng trong nghi th?c Khatan ( c?t bao quy ??u) cho tr? em nam nh? dâng các l? v?t là g?o, mu?i, xôi n?p vàng, tr?u cau...trong l? nghi và s? c?ng ng?t trong vi?c tìm hi?u v? quy?n n?ng c?a Th??ng ?? Allah trong sifat dua puluh ( sifat 20). D?n dà nhóm Ch?m truy?n th?ng c?ng h?c h?i ???c s? ?úng ??ng trong lu?t ??nh Islam chính th?ng và lo?i b? d?n nh?ng tính ch?t ??i ngh?ch ( Syrik) trong vi?c ph?ng th? Th??ng ?? Duy Nh?t. H? ch? còn gi? l?i nh?ng thu?n phong m? t?c ??p, phù h?p v?i lu?t ??nh Islam. Nhóm Ch?m canh tân c?ng b? ch?i v?i khi h? lo?i b? h?n b?n s?c cha ông trong ??i s?ng v?n hoá. Kaum Muda ch? tr??ng lo?i b? các y?u t? truy?n th?ng s?c t?c, thay vào ?ó h? theo hoàn toàn l?i s?ng c?a thiên s?, tránh nghe theo Kias, ijmak ulama ( nh?ng lu?t ??nh do các giáo s? H?i giáo gi?i ngh?a t? thiên kinh Quran và l?i nói c?a thiên s? "hadith"). Tuy nhiên, do s? thi?u ki?n th?c v? s? chu?n hoá c?ng nh? cái g?c c?a Islam. C?ng thêm s? nh?p nh?ng phân ??nh ?âu là Sunnah và ?âu là v?n hoá ? R?p trong c?ng ??ng Muda ?ã d?n nên h? l?y "loãng v?n hoá". H? b?i r?i không bi?t bám víu vào ?âu. Ví d? nh? khi làm l? c??i, chi?u theo Sunnah và lu?t ??nh Islam thì ch? làm l? Ikaq Nikah/Kabul là xong. Nh?ng h? mu?n t? ch?c ?ám c??i thì s? t? ch?c theo phong t?c nào? ? R?p? Vi?t? Hay Ch?m?... . Th? nên theo th?i gian, h? t?o l?p l?i các y?u t? b?n s?c Ch?m song hành cùng lu?t ??nh H?i giáo. Tuy th?, s? ??i l?p trong quan ni?m gi?a hai lu?ng t? t??ng trong c?ng ??ng Ch?m v?n còn kho?ng cách nên ??n nay c? hai nhóm v?n ch?a th? th?ng nh?t m?c dù s? ??i kháng hay kì th? l?n nhau d??ng nh? ?ã không còn gi?a hai nhóm t? t??ng nói trên. Xin ???c trích ngoài lu?ng câu nói c?a Imam Shafi’i, v? Imam c?a chúng ta:“trong lu?t ??o ta nên chia làm hai: th? nh?t là nh?ng ?i?u m?i ???c t?o ra, mà nó ??i kháng, ngh?ch lí v?i Al kitab ( Qur’an), Sunnah, Ijmak ulama thì ?ó là ?i?u x?u c?n lo?i b?. Ng??c l?i nh?ng cái m?i, t?t cho chúng ta nh?ng nó không ??i ngh?ch v?i nh?ng cái ???c niêu ra ? trên thì nó ?áng ???c trân tr?ng và phát huy” Chúng ta là ng??i Ch?m Islam, không ph?i ng??i ? R?p Islam. Chúng ta tuân th? hoàn toàn theo nh?ng lu?t ??nh c?a Allah trong thiên kinh và s?ng theo l?i s?ng Sunnah Thiên s?, ch? không ph?i l?i s?ng c?a ng??i ? R?p. Chúng ta c?ng có b?n s?c t?c ng??i chúng ta, nó ??p và phù h?p v?i nh?ng lu?t ??nh c?a Allah. Mong Allah Redha ( hài lòng), hidayah ( soi sáng) và th??ng xót t?t c? cúng ta. Amin!!! (1). Bangsa Champa- m?t c?i ngu?n cách xa, Dohamid Dorohime, California, Hoa K? 2004.(2). Ng??i Chàm H?i giáo ? Tây Nam Ph?n Vi?t Nam, Nguy?n V?n Lu?n, 1974.p/s: hình ?nh v? ti?c k? ni?m s? ?oàn k?t gi? hai nhóm Ch?m do t??ng ??ng v?n Quang ch? t?a vào n?m 1966 t?i thánh ???ng Jamiul Azhar Châu Giang. ?i chung v?i t??ng ??ng ( ? gi?a) là Hakim Haji Umar Ali. Ngu?n: Facebook.com  
0 Rating 386 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 15, 2015
Madeh Hatai Indrapura Chau Dahlak hu sa dalukal ni kieng kalak wek saong mik wa peng aiek yaom. Kadha ni ngap ka dahlak caik di dalam hatai tel harei ni. Hadei di graduat (graduate) sang bac highschool, dahlak jang yau hadom ayut dam dara daok dalam palei tabiak nao magru di sang bac university pak Bai-gaor (Saigon). Tel bulan Ramavan marai, dahlak da-a hadom anâk saih ayut Yuen daok bac saong gep pieh marai riwang palei dahlak. Hadom anâk saih ayut Yuen jang kieng thau, kieng aiek anâk Cam yau haber, khan aw, anguei Cam cuk yau halei jang ngap yau adat ca-mbat Cam Awal rei. Blaoh di nan, khaol dahlak jak gep marai mbeng harei Muk Kei. Biruw di trun radéh yam takai tamâ palei, khaol dahlak talak mboh hu paning panuec (banner) wak mâng akhar Thrah praong biak praong tuer di angaok mbeng jang palei (gate of village). Mboh hadom akhar wak hagait blaoh karei lo nan, hadom ayut Yuen mâng ta-nyi dahlak “sa-ai ley, akhar hagait wak di angaok nan?”, dahlak mang akhan lac, “nan ye akhar Cam”. Blaoh di nan, sa urang ayut karei ta-nyi dahlak wek “Sa-ai thau puec halei?”, dahlak lac “Sa-ai di thau puec o”. Tuk nan dahlak mâng dah mata thau ka rup drei pataok akhar Cam ngap ka hadom urang Yuen klao balei gah likuk. Apakar di harei nan ngap ka dahlak malau, pa-ndik pa-ndua di hatai. Hadei mâng nan, dahlak mâk gruk nan marai sanâng wek, ralo anâk saih Cam nao bac glaong akhar tapuk urang li-ngiw, mayai ndom yaih rup lac drei ni “ngaon” min di hu thau puec akhar Cam drei o! Ndom Cam maluk Yuen biak ralo blaoh lac drei ni “ngaon” wek! Mayah drei ni di hu bac magru akhar Cam drei o, ngap haber drei si thau! Tanâh aia Campa drei lihik biak, min sap puec panuec ndom, akhar wak drei di hu thei paoh blah o. Yau panuec Cam drei hu pa-ndit lac:  “Pataok danaok alah, krah danaok tarieng”. Kaoh mâng harei nan, dahlak khaom bac, ramik tuk wak pieh magru akhar Cam. Harei ni hu hadom adei sa-ai pacheh gep wak akhar Cam ngap ka dahlak hader wek hadom gruk tapa mâng dahlau. Dalukal dahlak taluic pak ni, tadhuw ayuh mik wa kajap karo, kheng kadeng.  -------***------- md-H hEt dhL` h\U s\ dlUk& n{ kY-) kl` w-` Os= m[` w\ p-) aY-` Oy+ ; kD\ n{ Q$ k\ dhL` Ec` d{ dl, hEt t-& hr] n{;; hd] d{ RgdW@ s) b! highschooldhL` j) y-U hOd, ayU@ d, dr\ Od_` dl, pl] tbY` On_ mRg\U d{ s) b! university p` EbOg_^;;  t-& bUl# rmw# mEr; dhL` da\ hOd, an` EsH ayU@ yW-# Od_` b! Os= g-$ pY-H MEr r[w-) pl] dhL`; hOd, an` EsH ayU@ yW-# j) kY-) T-U kY-) aY-` an` c. y-U hb-^ ;K# a*; aqW] cU` c. y-U hl] j) Q$ y-U ad@ cv@ c. aw& r];; ObL_H d{ N# OK_& dhL` j` g-$ mEr v-) hr] mU` k];; b[rU* d{ RtU# rd-H y, tEk tmI\ pl]; OK_& dhL` tl` OvH h\U pn[~ pnW-! w` m-) aK^ RTH ORp= bY` ORp= tW-^ d{ aOq_` v-) j) pl];; OvH hOd, aK^ w` hEg@ ObL_H kr] Ol\ N#;; hOd, ayU@ yW-# m-) tz{ dhL` “SEA l-% aK^ hEg@ w` d{ aOq_` N#”  dhL` m-) aK# l! “N# y| aK^ c.” ; ObL_H d{ N# s\ ur) ayU@ kr] tz{ dhL` w-` “SEA T-U pW-! hl]” dhL` l! “SEA d{ T-U pW-! o” ;; tU` N# dhL` m-) dH mt\ T-U k\ rU$ Rd] pOt_` aK^ c. Q$ k\ hOd, ur) yW-# OkL_ bl] gH l[kU`;; a\pk^ d{ hr] N# Q$ k\ dhL` ml-U ; pV[` pV\W d{ hEt ; hd] m-) N# dhL` m` RgU` N# MEr SnI) w-`; rOl\ ur) an` ESH c. On_ b! OgL= aK^ tpU` ur) l[q[*; m-Ey OV, EyH rU$ l! Rd] n{ “Oq_#” m[# d{ h\U T-U pW-! aK^ c. Rd] o;; OV, c. mlU` yW-# bY` rOl\ ObL_H l! Rd] n{ “Oq_#” w-`;; myH Rd] d{ h\U b! mRg\U aK^ c. Rd] o; Q$ hb-^ Rd] s{ TU-;; tnH aY\ cf\, Rd] l[h[` bY` m[# S$ pW-! pnW-! OV,; aK^ w` Rd] h\U T] Op_H bLH o; y-U pnW-! c. Rd] hU\ pV[@ l!: “pOt_` dOn_` alH; RkH dOn_` trY-)”;; Ok_H m-) hr] N#dhL` OK+ b! ; rm[` tU` w` pY-H mRg\U aK^ c.;; hr] n{ hU\ hOd, ad] SEA pC-H g-$ w` aK^ c. Q$ k\ dhL` hd-^ w-` hOd, RgU` tp\ m-) dhL-U ;; dlUk& dhL` tlW[! p` n{ ; tDU* ayUH m[` w\ kj$ kOr\ ; K-) kd-);;  
0 Rating 383 views 2 likes 0 Comments
Read more
Ny bng Nắng, lang thang nơi nೠo bỏ lại ta 1 mnh ngoi theo thế? Mi c졳 đi về nơi vm trời xanh thật xanh kia khng ? Nơi đⴳ c kht khao, ước mơ đang c㡲n bỏ ngỏ, c đi về đ kh㳴ng? Hay mi lại độc hnh bước chn về phࢭa mnh mng, xa x괴i v hun ht? Nơi đຳ chỉ c những khoảng ngy đ㠣 vỡ xao xc…Nơi đ chỉ cᳳ c đơn l bạn tri kỉ ng䠠n năm của c độc. Đừng về nh!N䩠y bng Nắng, đang ngủ hay thức? Nếu ngủ th đang mơ g㬬 thế? Một ngọn gi lang thang di bước chn rong chơi khắp trời qu㢪n lng? Một nụ cười thật khẽ khi ngẩng mặt ln trời chợt thấy hai mươi mấy m㪹a a về trn t骳c? Một ước mơ chạm tới mặt trời vẹn trn bỏng chy? Hay đơn giản chỉ l⡠ 1 giấc mơ lạ, bnh yn b쪪n những hạnh phc giản đơn? Cn nếu thức th견 đang nghĩ g thế? C nhớ về ta kh쳴ng? Đang nghĩ g về lời ru của đ n졺i tật nguyền v vết sẹo thời gian? Đang nghĩ g mଠ trầm mặc trong đm thong dong thế? Hay chập chờn giữa 2 miền tỉnh thức, như ta?Ny b꠳ng Nắng, Đm nay ta lại mơ giấc mơ ngập Nắng. Nắng trn tr꠪n tc, a về trong mắt… Ướt đẫm! Nắng len lỏi vỡ o㹠 thnh những dấu lặng yn như bao nhiપu điều đi qua m năm thng vẫn thế. Một mࡠu cũ mục ru phong! C về hong t곳c ta khng? Cơn mưa Oi Nam trn dải đất n䪠y lạ lắm, biết khng? Mưa trải di nghi䠪ng mất ma 20…Mưa xối xả lật tung những trang ngy cũ… Mưa n頳i rằng mưa buồn, mưa c đơn trống rỗng từ khi Mưa v Nắng cất bước ra đi…N䠠y bng Nắng, biết khng? L㴺c chiều ta đ về với biển. Biển cạn mất rồi, hải u đ㢣 vỗ cnh bay đi về nơi phương trời no xa thăm thẳm. Chỉ cᠲn trn ct lꡠ loi d tr࣠ng ng soi nghi㠪ng ngả con nước đi bờ chnh v䪪nh. Chỉ cn nơi pha cuối l⭲ng biển mắt sng hanh hao v những ng㬠y nổi bo chưa tắt. Sng lặng y㳪n hay biển thiếu kht khao? Sng kh᳴ng đủ cồn co hay biển khng đi hết được những khഡt khao lng mnh? Trả lời ta đi…N⬠y bng Nắng, ni cho ta v㳬 sao đời sống ny buồn tnh thế? Trịnh từng viết: Đời lઠ ci tạm! C tạm thật kh峴ng, đời ơi! Sầu ơi sao sầu thế? Hư v ơi sao khng b䴠o mn đi bờ cⴡch xa? Để ta về cất tiếng ca hồn nhin giữa lng th겪ng thang nụ cười. Để một ngy ta về lm đứa trẻ con mười hai l࠲ng rưng rức hương hoa đồng nội ma gi. Để một ng鳠y của ngy đ vắng, ta cầm lo࣠i cỏ g v chơi tr࠲ tung tăng sấp ngửa giữa mnh mang… Tạm được khng sao kh괴ng tạm đi… Đời sống ny đang ngy một giࠠ nua….Ta khng muốn thấy cảnh tất cả mọi thứ đang trở thnh cũ m䠨m trong lng nhau, Tạm ơi!Ny b⠳ng Nắng, ni cho ta biết v sao k㬭 ức cũ thế? Ta đ đi qua 20 k ức, 20 m㭹a mưa nắng, 20 kht khao của những ngy bᠣo lửa. Mắt ta dại đi nhiều, tc ta đ v㣠ng đi nhiều v lng ta cũng đಣ bạc đi nhiều… Khng cn ta của k䲭 ức nữa. Tan mất rồi, long vo hư v㠴, lng qun v㪠o vm trời cũ… Cho đến một ngy c⠳ người bảo: “Nếu ta đều đi về pha ngy xưa…?”. Ừ, th� sao nhỉ? Ta c về khng k㴭 ức ơi? Nếu ta về, c điều g nhận mặt ta kh㬴ng? Thi, Ta khng về v䴬 lng ta đ thay m⣠u mất rồi. Ta khng về v c䬳 những điều đi rồi th mi m죣i chẳng bao h trở lại…Cho nn người ta mới gọi những thứ đ qua l꣠ k ức. “Khng ai tắm 2 lần tr�n một dng sng” vⴠ cũng chẳng c ai quay về k ức để rồi ng㭣 thm 1 lần nữa cả, đng kh꺴ng? Đi l đi thi…mải miết… tബm kiếm… kht khao… bnh yᬪn !Ny bng Nắng, Đ೪m vẫn loang lổ những mảnh ngy được mất. Mắt vẫn chong đn trਲ chuyện cng mn đ頪m đơn độc. Lạnh lẽo v trống rỗng giữa lng hạ khಡt chy! Kim đồng hồ nhch th᭪m 1 cht, ngy nh꠭ch thm một cht… Ta nh꺭ch thm cht nữa về nơi nhau, được kh꺴ng?Ừ! Th thi, kh촴ng cần. Giận rồi! Vắng! Rỗng! Đi…Đi thi. Khng giữ lại… Th䴬 thi! Ta về lm bạn c䠹ng c đơn, cng m习n đm giữa giao ma nhớ-qu깪n! Ta về với ta để ngy mai khoc trࡪn vai l gi, lೠ cỏ dại đi cho hết những thng ngy lang thang cᠹng thnh thang bt ngꡡt. Ta về với thn phận du mục du ca về miền đất thức mn thức mỏi để tan con nắng thⲠnh những hạt tn rơi… Ta đi về pha tr୪n cao để bầu trời khoc mu xanh hiền hoᠠ, bnh yn ta kh쪡t …Ny bng Nắng, ta vẫn cೲn rất nhiều điều muốn thủ thỉ cng mi. Nhưng sao mi im lặng để cơn mưa chiều ny chưa tan cơn kh頡t đ vội tắt như mưa Oi Nam trn dải đất miền Trung bạc m㪠u gi ht n㡠y? V sao?
0 Rating 356 views 0 likes 0 Comments
Read more
Như cc bạn cũng đ biết ai cũng hiểu trong tiếng Anh, "HAPPINESS" cᣳ nghĩa l "HẠNH PHC". Nhưng ta cứ luڴn tự hỏiHẠNH PHCl g? H — Healthy (Sức khỏe) Hy giữ g죬n sức khỏe mỗi ngy, bạn sẽ lớn ln thật khoẻ mạnh vઠ hạnh ph! Nhớ Ăn đng bữa, tập thể dục đều đặn, v꺠 ngủ đủ giấc đồng thời từ bỏ những thi quen c hại cho sức khoẻ (H㳺t thuốc, chơi game qu giờ...). Ngoi ra. cᠲn c một thể chất khoẻ mạnh gip bạn vượt qua được nhiều kh㺳 khăn ở pha trước. A — Attitude (Thi độ) �h, bạn c biết ch lừa Eeyore trong phim "Winnie the Pooh" kh㺴ng? Ch lừa lun gặp phải những t괬nh huống tồi tệ nhất. V ch đຣ nhanh chng bỏ cuộc khi chưa kịp khởi đầu việc g. Nếu bạn lu㬴n c một thi độ t㡭ch cực đng đắn, bạn sẽ tự tin vo ch꠭nh mnh. Hy lu죴n tự nhủ v quyết tm rằng "Mࢬnh C Thể Lm Được." P — Present (Hiện tại, m㠳n qu) Bạn hy luࣴn lun sống mỗi ngy v䠠 mọi ngy ở hiện tại. Hiện tại l gࠬ? Hiện tại l một mn qu, h㠣y tận dụng hết những g cuộc sống mang lại cho bạn chứ đừng qu lo lắng về những g졬 đ xảy ra ngy h㠴m qua hay sẽ xảy ra vo ngy mai. Ngay bࠢy giờ, bạn phải bắt đầu từ ngy hm nay vഠ nghĩ về mục tiu lu dꢠi trong cuộc sống bạn nh! P — Play (Vui chơi) C thể bạn đang bận rộn đến mức đầu 鳳c căng như ong v vẻ? Đ đến l⣺c bạn phải thư gin với tivi, ca nhạc, my t㡭nh. Hoặc l bạn chỉ cần ngồi một mnh, thả hồn ra cửa sổ, ra ngoଠi ngắm my trời, cy cối. Nhưng trước hết, bạn h⢣y lắng nghe một bi ht rất hay đang ngࡢn ln từ trong tư tưởng của bạn ka! I — Inward (Nội tꬢm) Bạn hy nhớ rằng hạnh phc đ㺭ch thực bắt nguồn từ chnh bạn chứ khng thể chịu t�c động bởi những lời ni hay việc lm của người kh㠡c. Inward cũng c nghĩa rằng hạnh phc kh㺴ng thể bn, rằng của cải vật chất khng mang lại hạnh phᴺc. Tnh yu thương, c쪹ng với sự cảm thng v l䠲ng can đảm đều l những thứ bạn khng cần phải mua vബ hiện tại đ c trong ch㳭nh con người bạn đ. N — Nut (Hạt) Ngay by giờ, bạn h㢣y thử tưởng tượng một hạt bạn hay ăn với phần bn trong mềm mại được bảo vệ bởi lớp vỏ cứng bn ngoꪠi. Chng ta cũng như vậy đấy, vẻ bề ngoi chỉ lꠠ lớp vỏ để bảo vệ cho phần "nhn" ngọt ngo của bạn ở b⠪n trong. E - Express Yourself (Bộc lộ chnh mnh) Bạn n�n nhớ đừng bao giờ ngồi chờ php mu n頠o sẽ đến m phải tự biết lm sao để c࠳ được php mu cho m頬nh. Thử vẽ một bức tranh, chụp một kiểu ảnh, viết một cu chuyện tnh y⬪u v.v... Đ cũng l c㠡ch bạn bộc lộ mnh đ, thật kỳ diệu biết bao! Bạn c쳲n chần chừ g nữa ngay by giờ bạn h좣y bộc lộ cảm xc thật của mnh đi nhꬩ! S - Simple (Đơn giản) Tại sao bạn cứ lm phức tạp cuộc sống của mnh lପn nhỉ? Hy bằng lng với những g㲬 mnh c v쳠 khng cần phải nu k䭩o qu sức. Hy dᣠnh thời gian với gia đnh của bạn, cng nhau lắng nghe v칠 chia sẻ. S - Smile (Nụ cười) Bất cứ khi bạn cảm thấy thất vọng, buồn b th h㬣y cố gắng nghĩ ra hay lm điều g đଳ để cười, để xoa dịu tm trạng, cảm xc của bạn. Bạn ch⺭nh l người bạn thn thiết quan trọng của bạn đࢳ. Vậy "B Quyết Của Hạnh Phc Đ�ch Thực" tức l bạn khng thể mua được tബnh yu thương, thời gian l v꠴ gi. Hy sống mỗi ngᣠy như thể n khng bao giờ quay trở lại v㴠 tận dụng hết sức những g mnh c쬳. => Như vậy, Hạnh Phc Thực Sự khng kh괳 như cc bạn nghĩ phải ko bạn?
0 Rating 350 views 1 like 0 Comments
Read more