Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On August 15, 2017
L?U L?C X? CHAMPA JaHaon *Bi?n Ch?mpa, 28/12/1282. G?n m?t tháng lênh ?ênh trên bi?n, ch? còn vài ngày n?a là ??n Ch?mpa. Trong tôi c? mong ???c s?m th?y mi?n ??t ?y, n?i mà tôi có th? th?y ???c nh?ng ?i?u m?i m?, nh?ng con ng??i m?i. Tôi t? c??i chính mình, sao tôi l?i suy ngh? k? c?c nh? v?y! Nhi?u ng??i nói r?ng, h? nh? nhà l?m, h? mu?n lênh ?ênh nh? v?y mãi. Ch?mpa s? là m?t n?i r?t t?i t?. Tôi là Yuen Pa, 25 tu?i, sinh ra ? m?t làng quê nghèo, vùng Qu?ng ?ông, Nam T?ng. Tôi là ??a con duy nh?t c?a ba m?, chúng tôi yêu th??ng và s?ng vui v? v?i nhau, cu?c s?ng c? th? trôi qua bình th?n, gi?n d? cho ??n khi ng??i Mông C? xu?t hi?n. Hai n?m tr??c Nam T?ng b? quân Mông C? xâm chi?m. Nh?c ??n quân Mông C? tôi l?i c?n r?n r?i n??c m?t. Chúng quá tàn ác, sao chúng l?i có th? gi?t ng??i tàn b?o ??n v?y? Chúng c?ng có cha m?, có con, có ng??i thân, b?n bè... chúng c?ng là con ng??i nh? tôi v?y, nh?ng d??ng nh? chúng ch?ng có chút ??ng c?m gì v?i ??ng lo?i. Chúng ??t c? làng chúng tôi, gi?t b?t c? ai chúng th?y, k? c? tr? s? sinh và ph? n? mang b?u. Cu?c s?ng d??ng nh? là m?t chu?i ?au kh? b?t t?n, ông tr?i c? thích ??a ??y con ng??i vào nh?ng th?m c?nh k? c?c nh?t. Bây gi? ?ây, b?n bi?t không? tôi l?i ? ?ây, trên nh?ng chi?n thuy?n d?n ??u b?i b?n Mông C?, tôi tr? thành th? x?u xa mà tôi c?m thù nh?t. Hôm ?ó tôi ?ã nhìn th?y t?t c?, trong vô v?ng tôi núp mình trong b?i cây trên m?t ng?n ??i cao ngoài làng. Quân Mông C? ti?n vào làng, chúng gi?t t?ng ng??i, ??t t?ng c?n nhà. Tôi quá hèn nhát, ch? bi?t núp, không dám ch?y ra, ch?y ra lúc ?ó ??ng ngh?a v?i cái ch?t. Trong thâm tâm, tôi bi?t r?ng nh?ng ng??i thân yêu ?ang g?p nguy hi?m, nh?ng tôi l?i t? d?i r?ng h? s? ch?y thoát. M?t suy ngh? d?i trá hèn h?. Khi b?n Mông C? ?ã r?i ?i, tôi m?i dám b??c vào ngôi làng, nhà tôi ch?ng còn gì ngoài tro b?i. H?n n?a n?m sau, tôi quanh qu?n kh?p n?i c? tìm tung tích c?a cha m?. Trong s? nh?ng ng??i còn s?ng, có ng??i nói cha m? tôi ?ã m?t, có ng??i nói h? không bi?t. Nh?ng tôi ch?a bao gi? còn nhìn th?y cha m? n?a, c?ng ch?ng còn ng??i thân nào. Tôi ??n Qu?ng Châu, xin vào làm ph? b?p trong m?t quán ?n. Làm nh?ng vi?c l?p ?i l?p l?i, ngày qua ngày ch? ?? sinh t?n. Trong quán ?y có m?t cô gái tên Khan Sy, cô gái r?a chén c?a quán ?n. Tôi c?m m?n c? ?y, ngh? r?ng chúng tôi h?p ?ôi. L? ?âu sau này chúng tôi có th? cùng k?t duyên, xây nên ngôi nhà, có v?i nhau nh?ng ??a con, cùng xây nên m?t gia ?ình h?nh phúc. Suy ngh? ?y ?em l?i cho tôi chút ?m áp. Tôi hay nhìn tr?m cô ?y, nhìn mái tóc tôi r?t mu?n ch?m vào. Có ?ôi l?n ánh m?t chúng tôi b?t g?p nhau, th?t thú v? và b?i r?i. R?i m?t hôm, tôi ngõ l?i, cô ?y ??ng ý. Chúng tôi yêu nhau ???c h?n m?t n?m và có r?t nhi?u k? ni?m vui bu?n. Nh?ng cu?i cùng chúng tôi ?ã chia tay. Khan Sy ?ang tu?i tr?ng tròn, nhi?u ng??i h?i c??i cô ?y, ng??i giàu c?ng có, ng??i tu?n tú c?ng có, t?t c? ??u có v? t?t h?n tôi. C? nh? v?y làm cho cô ?y ph?i b?n kho?n. Tôi yêu Khan Sy l?m, tôi b?o r?ng tôi s? c? g?ng cho hai tôi có m?t cu?c s?ng t?t ??p, hãy tin ? tôi. Lúc ?y, tôi không có gì trong tay. Khan Sy không tin l?i tôi nói. Sau ?ó, tôi càng níu gi?, cô ?y càng quy?t tâm r?i b?. Tôi nh? ?iên d?i, con tim tan nát. Sao cu?c ??i l?i nh? th?? Sao m?t ng??i có th? t? b?c v?i ng??i yêu th??ng mình nh? v?y? Bi?t bao k? ni?m mà sao h? có th? quên nhanh ??n nh? v?y? R?i m?t ngày Khan Sy nói chúng tôi nên chia tay, cô ?y xin l?i, cô ?y c?n ph?i ngh? v? t??ng lai c?a gia ?ình mình, ?ã có ng??i h?i c??i và cô ?y ?ã ??ng ý. Không còn cách nào khác, tôi và Khan Sy r?i xa nhau t? ?ó. Lúc này, gian s?n ??i T?ng ?ã thu?c v? ng??i Mông C?. Tri?u ??i m?i l?y qu?c hi?u là Nguyên. M?t hôm tôi ?ang làm thì quan quân tri?u ?ình t?i b?t tôi ?i. H? nói tri?u ?ình ?ang tuy?n binh, tôi bu?c ph?i tòng quân. Cu?c ??i tôi b?t ??u chuy?n sang m?t ngã r? khác ? m?t n?i xa xôi, tôi tr? thành th? mà tôi c?m ghét nh?t. Cu?i n?m 1282, Toa ?ô d?n ??u 10 v?n quân cùng 1000 chi?n thuy?n t? Qu?ng Châu ti?n th?ng ??n Ch?mpa.   *Bi?n Ch?mpa, 29/12/1282. Sau g?n n?a n?m hu?n luy?n, tôi ???c ?i?u ?i tham gia cu?c vi?n chinh Ch?mpa. Do không quen v?i khí h?u trên bi?n nên tôi b? s?t n?ng, có m?t ng??i tên Yan Sao ???c phân công ch?m sóc tôi. Nh? anh ta t?n tình ch?m sóc mà tôi ?ã qua kh?i c?n b?o b?nh, chúng tôi thân nhau t? ?ó. Tôi và Yan Sao cùng thu?c m?t ti?u ??i, anh c?ng là ng??i Hán nh? tôi. Hàng ngày c? ??n gi? ?n, tôi l?i r? Yan Sao cùng ?i ?n, m?t hôm th?y Yan Sao ?n c?m mà m?t r?i l?, anh nói anh nh? nhà quá. Anh tâm s? tr??c ?ây anh là ng? dân ? m?t làng chài nh?, anh có m?t cô v? xinh ??p cùng ??a con th? ?ang ch? ? quê nhà. Tri?u ?ình ban l?nh tòng quân, anh không th? tr?n, c?ng không ?? ti?n lo lót quan l?i, ch? còn bi?t hy v?ng có th? toàn m?ng tr? v?. Quen nhau t? khi lên chi?n thuy?n này, tôi luôn c?m nh?n ???c sâu th?m trong Yan Sao là s? bu?n bã, b?t l?c và n?i s? hãi, lo l?ng. Anh có quá nhi?u th? ?? ngh? v?. So v?i anh, tôi l?i th?y mình may m?n ph?n nào, tôi không có quá nhi?u th? ph?i lo ngh? nh? Yan Sao. H?m ??i có t?i 1000 chi?n thuy?n do Nguyên soái Toa ?ô ch? huy. Chi?n thuy?n r?t to, m?i chi?c ch?a t?i 100 ng??i cùng l??ng th?c, binh ph?c và nhi?u th? c?n thi?t khác cho t?ng ?y con ng??i trong vòng m?t n?m. Nguyên Tri?u ?ã chu?n b? hai n?m tr?i cho vi?c chinh ph?c Ch?mpa l?n này. Tr??c kia Nam T?ng là m?t ?? qu?c giàu có s? h?u k? thu?t ?óng tàu tân ti?n nh?t thiên h?. D?a vào k? thu?t ?ó, Nguyên Tri?u cho ?óng m?t lo?t chi?n thuy?n c? l?n chu?n b? cho vi?c chinh ph?c nh?ng x? s? xa xôi nh? Ch?mpa, Java và ??i Vi?t. ?? ch? Mông Nguyên ??t ng??i Mông C? lên v? trí ?u vi?t nh?t, n?m quy?n cai tr? thiên h?, ??ng th?i h? c?ng ??t chúng tôi - nh?ng th?n dân c?a Nam T?ng xu?ng v? trí th?p nh?t g?i là Nam nhân. ??i v?i tôi b?n Mông C? m?i x?ng ? v? trí th?p nh?t, chúng không gì h?n là nh?ng k? du m?c man r? không chút tính ng??i. Không hi?u sao ông tr?i l?i trao cho chúng v? trí ?u vi?t h?n so v?i các gi?ng dân khác, th?t không công b?ng. V?i b?n tính tàn b?o và tham v?ng ngu xu?n, H?t T?t Li?t xua nh?ng ng??i nh? tôi và Yan Sao ??n nh?ng vùng ??t xa l?, ? ?ó chúng tôi bu?c ph?i sát h?i nh?ng ng??i xa l? ch?ng thù oán gì v?i mình, h?n thù l?i ch?t thêm h?n thù. Nh?ng ng??i Hán nh? tôi ch?ng m?n mà gì khi ph?i chi?n ??u trong hàng ng? quân Mông Nguyên, chúng tôi bu?c ph?i tòng quân ch? vì th?i th?. Màn ?êm buông xu?ng, c? m?t vùng bi?n l?p lánh ánh ?èn c?a 1000 chi?n thuy?n, t?a nh? ngàn ngôi sao sáng gi?a ??i d??ng. Tôi ??ng trên thuy?n, nhìn ng?m nh?ng ánh ?èn, r?i l?i nhìn lên b?u tr?i có vô s? nh?ng vì sao sáng. T? h?i có ph?i m?i ngôi sao là m?t linh h?n? ??t nhiên, tôi th?y h?, r?t nhi?u ng??i, có c? ba m?, trên ng??i h? toàn máu. T?t c? h? ?ang nhìn tôi ch?m ch?m. M?t ph?n tôi mu?n ch?y ??n v?i h?, m?t ph?n tôi th?y s? hãi. Ánh m?t h? nh? mu?n nu?t s?ng tôi, nh?ng h? ch?ng làm gì c?, h? ch? nhìn. Phía sau tôi là m?t cánh c?ng g?, sau cánh c?ng là m?t ??i d??ng mênh mông. M?t n??c ? ?ó r?t ph?ng l?ng. Tôi v?i ch?y v??t qua cánh c?ng, th?t l? là tôi có th? ??ng trên m?t n??c, lúc ?ó tôi c?m nh?n th?y m?t con qu? ?ang ? phía sau mình, nó ch?n cánh c?ng l?i. Tôi ti?p t?c ch?y xa kh?i cánh c?ng, ch?y mãi, r?i tôi nh?n ra m?i th? xung quanh là m?t bi?n n??c r?ng vô t?n. Xa xa tôi th?y cánh c?ng g? ban nãy. Tôi quy?t ??nh ch?y l?i cánh c?ng. Khi ?ã ch?y t?i tr??c c?ng, tôi b?ng d?ng l?i, c?m nh?n có th? gì ?ó ?ang ? trên ??u mình, m?t con qu? ?ang ?n nh?ng móng tay s?t nh?n c?a nó xuyên qua ??u tôi... Tôi ch?t t?nh d?y, Yan Sao ?ang v? nh? vào ??u tôi, hóa ra m?i th? kinh kh?ng lúc nãy ch? là m?. Yan Sao v?a v? tôi v?a g?i "d?y ?i Yuen Pa, t?i ??t li?n r?i!". Tôi t?nh d?y trong m? màng, tr?i ?ã t? m? sáng, có th? nghe th?y ti?ng gà gáy, phía tr??c chúng tôi là vùng ??t c?a Ch?mpa.     *??m Cri Vinaya, g?n kinh ?ô Ch?mpa, 30/12/1282. ?? ?ánh chi?m kinh ?ô Vijaya, tr??c h?t chúng tôi ph?i vào ???c m?t con ??m r?ng l?n tên là Cri Vinaya. Ch? có m?t c?a bi?n h?p ?? vào con ??m ?y, quân Ch?mpa có th? ??t mai ph?c ? hai bên c?a bi?n. Vì v?y vi?c ti?n vào ??m s? r?t nguy hi?m, nh?ng không còn cách nào khác. 1000 chi?n thuy?n ?ang ch?m rãi v??t qua c?a bi?n ?y. T?ng chi?c n?i ?uôi nhau xâu chu?i thành m?t ???ng th?ng, m?i ng??i im l?ng m?t cách ?áng s?. Nh?ng g??ng m?t s? hãi, lo l?ng báo hi?u ?i?u ?áng s? ?ang g?n k?. M?t n??c th?t ph?ng l?ng, ? phía ?ông, m?t tr?i ch? m?i b?t ??u ló d?ng. ??t nhiên, trên tr?i xu?t hi?n nh?ng t?ng ?á kh?ng l? lao v? phía chúng tôi. Hàng ch?c t?ng ?á lao t?i t? phía tây. M?t n??c t?nh l?ng b?ng xu?t hi?n nh?ng ti?ng n? d? d?i. M?t vài chi?c thuy?n b? ?á ?âm th?ng ?ang chìm d?n, nhi?u ng??i ch?t ?u?i, có ng??i b? ?á ?âm ph?i nát bét. Nh?ng t?ng ?á v?n ti?p t?c lao t?i nh? món quà ra m?t ch?t chóc t? Ch?mpa. Phía tây c?a bi?n có nhi?u máy b?n ?á l?n. Quân Ch?mpa không ng?ng b?n ra nh?ng t?ng ?á kh?ng l? v? phía chúng tôi nh?m phá h?y nh?ng chi?n thuy?n. M?c cho c?n m?a ?á, chúng tôi dong thuy?n ti?n th?ng v? phía tây c?a bi?n, ph?i tiêu di?t ??i quân b?n ?á. Ch?ng m?y ch?c thuy?n ?ã ti?n sát b?, l?p l?p binh lính r?i thuy?n ti?n v? phía máy b?n ?á. ??i c?a tôi dùng khiên r?ng che ch?n l?n nhau tr??c nh?ng m?i tên ??c. Chúng tôi t? t? ti?n v? phía tr??c, r?i b?ng nhiên quân Ch?mpa rút ch?y b? l?i nh?ng máy b?n ?á ?ã b? phá h?y. K?t thúc tr?n này, có 12 thuy?n b? chìm, kho?ng 1000 ng??i ch?t. Tôi và Yan Sao may m?n v?n còn s?ng. ?ây m?i ch? là s? kh?i ??u c?a nh?ng c?n ác m?ng. Chúng tôi ti?p t?c dong thuy?n ti?n v? phía ?ông ??m Cri Vinaya. B? ??m n?i chúng tôi d?ng tr?i là m?t bãi cát tr?ng r?ng l?n. T? doanh tr?i nhìn v? phía tây là b? bên kia c?a ??m, n?i có quân Ch?mpa; n?u ?i v? phía ?ông kho?ng n?a canh gi? s? th?y bi?n Ch?mpa. Chi?n thuy?n ???c neo l?i trong ??m, chúng tôi di chuy?n trên nh?ng con phà ?? vào b?. T?i hai ngày sau thì m?i vi?c m?i xong xuôi. Trong h?n 30 ngày sau ?ó không có chi?n s? n? ra. C? vài ngày l?i có s? gi? sang d? hàng vua Ch?mpa, nh?ng không có d?u hi?u cho th?y Ch?mpa s? ??u hàng. Trong m?t bu?i chi?u, ??i tôi ?i tu?n tra quanh b? bi?n. ? ?ó có r?ng thông và nh?ng dãy núi cao nhô ra bi?n. Trong khu r?ng có nh?ng qu? trái nh? mà tôi không bi?t tên, nh?ng trái ?y v?a chua v?a ng?t v?a ??ng, ?n vào r?t s??ng mi?ng. Chúng tôi hái nh?ng trái ?y, ng?i ngh? l?i bên g?c cây, v?a ?n trái v?a bàn v? cu?c chi?n ?ang di?n ra. R?i mai Ch?mpa s? ??u hàng ch?ng? Tôi h?i ?ùa Yan Sao. Nhìn v? phía Bi?n, Yan Sao tr?m ngâm: Không ?âu, tr? phi s? gi? mình có phép thu?t! Yuen Pa ?i, chúng ta ??u mong t?i ngày tr? v?. Quê h??ng ? phía bên kia bi?n c?. Nh?ng ph?i ch?p nh?n thôi, Ch?mpa có ??u hàng thì còn có chi?n d?ch ti?n lên ??i Vi?t, hành trình tr? v? gian nan l?m. Ng??i Ch?m hay ng??i Vi?t không bao gi? d? dàng giao l?i gian s?n c?a h?, mu?n chi?m l?y ch? con cách ?? máu mà thôi. M?t hôm ??i tôi ?ang ?ánh cá ? ??m thì th?y m?t thuy?n l?n ?i ngang qua, là thuy?n c?a s? gi? ?i d? hàng ng??i Ch?mpa tr? v?. Trên thuy?n l?i c?m c? ?en, là d?u hi?u báo r?ng s? m?nh ?ã th?t b?i, là l?n th? 7 r?i. Ba ngày sau, ??i tôi nh?n nhi?m v? h? t?ng s? gi? sang d? hàng. ?ây là l?n th? 8, c?ng là l?n cu?i cùng, n?u không thành công thì s? có m?t tr?n quy?t chi?n. Ch?ng m?t nhi?u th?i gian ?? thuy?n ??n ???c phía tây b?c c?a ??m. ? ?ó có m?t con sông l?n, chúng tôi dong thuy?n ?i ng??c dòng sông v? phía tây nam, n?i có nhà vua ng?. Khác h?n v?i n?i chúng tôi ?óng quân là m?t n?i khô h?n, nhìn ra hai bên b? sông có th? th?y nh?ng ??ng lúa xanh r?ng mênh mông, cây c? phát tri?n t??i t?t. Lâu lâu l?i th?y m?t s? thuy?n Ch?mpa ?ang ?i xuôi ng??c. Có v? m?i sinh ho?t c?a ng??i dân v?n di?n ra bình th??ng. Nhi?u ng? dân ch? m?t qu?n mà không m?t áo b?t k? là trai hay gái, khí h?u n?i ?ây khá nóng nên nhi?u khi m?t áo là không c?n thi?t. Ph?n l?n h? có làn da ?en ngâm, nh?ng c?ng có ng??i có da tr?ng sáng. Nhìn th?y thuy?n s? gi? h? c?ng ch?ng b?n tâm l?m, v?n ti?p t?c công vi?c. Có l? thuy?n s? gi? ?i qua ?ây nhi?u l?n r?i nên c?ng ch?ng còn gì l?. ? phía nam b? sông có m?t thành quân s? r?t r?ng, ng??i Ch?m g?i là Bal Sri Banoy. Thành ch? y?u ???c làm b?ng g?, phía B?c thành d?a vào hào t? nhiên là con sông mà chúng tôi ?i qua. Thuy?n ph?i m?t h?n n?a canh gi? m?i ?i qua h?t m?t b?c c?a thành. D?a vào tính toán thì thành này có chu vi kho?ng 20 d?m. Trên thành có binh lính canh gi? c?n m?t. H? m?t qu?n áo v?i màu ?en xám, ?i chân tr?n, tay c?m giáo và khiên. Có nhi?u ng??i còn có cung v?i tên n? ???c t?m ??c. M?t s? ít ng??i khác, có l? là ch? huy ???c trang b? áo giáp. So v? trang b? h? không h? thua kém binh lính nhà Nguyên, ch? khác là chúng tôi ??u có giày ?? ?i. ? phía d??i thành, lâu lâu th?y có nh?ng con voi cao t?i 3 mét ?ang ???c cho ?n, ngà c?a chúng s?t nh?n ???c b?c l?i b?ng thép, ch?c h?n là voi chi?n Ch?mpa, trông khá ?áng s?. V?n còn 10 d?m n?a m?i ??n n?i nhà vua ng?, chúng tôi ti?p t?c dong thuy?n v? phía tr??c.     *??a khu Vijaya, Ch?mpa, 10/2/1283. Có m?t nhóm binh lính Ch?mpa ?ang ?óng tr?i ? ven sông. Th?y thuy?n s? gi? nhà Nguyên thì h? ra hi?u cho c?p b?. Sau khi vào b?, chúng tôi ???c chào ?ón b?i m?t v? quan cùng kho?ng 100 binh lính khác. V? quan ?y m?t m?t chi?c áo dài màu xám ch? dài ??n quá ??u g?i, ph?n thân d??i qu?n m?t chi?c sarong nhi?u màu dài t?i t?n bàn chân, chi?c áo dài che ch?n ph?n trên c?a chi?c sarong ?y, ??u tóc v? quan ???c qu?n l?i g?n gàng b?ng m?t chi?c kh?n màu ?en, chân ông ta mang m?t ?ôi giày ???c làm t? da thú. V? quan còn có m?t thanh ?ao ???c ?eo ? sau l?ng, tôi ?oán ông ta là m?t v? võ quan. Không ng? r?ng v? quan này có th? giao ti?p sành s?i v?i chúng tôi b?ng Ti?ng Hán. Sau này tôi m?i bi?t ?ã có r?t nhi?u ng??i Hán dong thuy?n ??n t?n x? này ?? tr?n tránh quân Mông C?, r?t có th? v? quan ?ã h?c Ti?ng Hán t? nh?ng ng??i ?ó. H? ?ã chu?n b? s?n r?t nhi?u ng?a cho chúng tôi c??i. Gi?ng ng?a c?a h? th?p bé h?n nh?ng con ng?a tôi th?y ? Trung Nguyên. Tuy th?p bé nh?ng nh?ng con ng?a này v?n là ph??ng ti?n di chuy?n nhanh nh?t ? x? này. Không m?t nhi?u th?i gian, chúng tôi ?ã ??n ???c hành cung n?i nhà vua ?ang ?. Sau khi dâng th? c?a ch? soái Toa ?ô lên nhà vua, chúng tôi ???c d?n ??n n?i ? giành cho s? gi?, ? ?ó chúng tôi ???c ti?p ?ãi tr?ng th?. ??n ngày hôm sau vua Ch?mpa s? quy?t ??nh có mu?n g?p s? gi? hay không. N?u không hài lòng, ông ta có th? yêu c?u chúng tôi quay tr? v?, th?m chí có th? b?t nh?t ho?c gi?t h?t chúng tôi. *Th? Toa ?ô g?i cho vua Indravarman V: Ta vì th??ng dân x? ngài còn th? d?i, không n? l?m sát mà h?n m?t tháng nay án binh b?t ??ng, không n? ti?n vào ??t phá x? s? c?a ngài. Ngài ngh? r?ng, v?i binh l?c hùng h?u c?a Nguyên Tri?u, m?t khi tràn vào ?ánh chi?m kinh ?ô thì li?u binh lính ngài có ch?ng gi? n?i không? X?a kia, Khwarezm là m?t ?? qu?c r?ng l?n h?n x? ngài g?p ch?c l?n, vua x? ?y ng?o m?n sai ng??i tàn sát s? gi? Mông C?, k?t c?c quân ta tràn vào x? ?y ??t s?ch, gi?t s?ch, già tr? l?n bé ngay c? gia c?m c?ng không tha. Nhà Kim ??i ??ch v?i chúng ta h?n 23 n?m tr?i cu?i cùng c?ng ph?i ch?u th?t b?i, thành Yên Kinh b? quân ta ??t tr?i t?i ba tháng m?i cháy h?t. Ngay c? nhà T?ng m?t th?i hùng m?nh gi? c?ng ?ã b? chúng ta chinh ph?c. K? ra nh?ng ?i?u ?y ?? cho ngài th?y ???c m?nh tr?i ?ã thu?c v? Nguyên Tri?u. Là b?c quân v??ng, ch?c ngài th?a sáng su?t ?? hi?u th? nào là Thiên M?nh. C? sao ngài v?n mãi ngoan c? mà ch?a ch?u qui ph?c Thiên Tri?u? ? phía B?c, các vua ??i Vi?t t?ng nhi?u l?n mang quân sang tàn phá ??t n??c c?a ngài, b?t ?i dân chúng c?a ngài, chi?m nhi?u lãnh th? c?a ngài. M?i thâm thù này há ngài có th? quên ???c? N?u ch?u qui ph?c, ta ??i di?n cho Thiên Tri?u h?a s? giúp ngài tiêu di?t ??i Vi?t, sau ?ó s? hoàn tr? l?i gian s?n toàn v?n cho ngài. Bên nào l?i, bên nào h?i ?ã quá rõ ràng. Ta bi?t r?ng ngài là m?t b?c quân v??ng th??ng dân nh? con, há l?i mu?n con dân mình ph?i lâm vào c?nh máu ch?y ??u r?i? Ng??i x?a có câu "k? th?c th?i m?i là trang tu?n ki?t", mong ngài hãy suy xét th?t k? càng.   T?i ?ó là m?t ?êm tr?ng sáng, chúng tôi ???c ban cho nh?ng chum r??u c?n, r?t nhi?u th?t dê, th?t trâu cùng nhi?u qu? trái t??i ngon khác. Chúng tôi hút r??u thông qua nh?ng ?ng hút b?ng tre ???c c?m vào chum r??u theo nh? t?p quán c?a ng??i Ch?mpa. R??u c?a h? r?t loãng và ngon, ph?i u?ng t?i t?n khuya m?i say. T?i ?ó, chúng tôi ???c ?n u?ng no say th?a thích. ?ây có l? là kho?ng th?i gian vui nh?t trong h?n hai tháng t? khi tôi r?i quê nhà. B?t ch?t m?t c?m giác bu?n ??n não lòng ch?t ?p ??n, toàn thân tôi xìu xu?ng nh? ch?ng còn s?c s?ng. Tôi nh? ??n Khan Sy ng??i tôi yêu, không bi?t gi? này nàng ?ã ra sao? Tôi l?i nh? ba m? c?a mình, nh? ngôi làng thân th??ng g?n li?n v?i tu?i th?. N??c m?t tôi trào ra. Nhìn xung quanh tôi th?y nhi?u ng??i khác c?ng ?ang khóc, h? c?ng r?t nh? nhà nh? tôi. Tôi tìm ??n Yan Sao, anh ta ?ang ng?i m?t mình bên chum r??u, tay c?m m?ng th?t to, v?a hút r??u v?a nhai ng?u nghi?n. Trông anh ch?ng có v? gì bu?n r?u. Th?y tôi v?i b? d?ng nh? ??a tr?, Yan Sao ch? c??i th?m r?i nói: Tôi ?ã khóc quá nhi?u r?i, ch?ng còn n??c m?t ?? mà r?i n?a. Yuen Pa, hãy ??n ?ây, chúng ta s? ti?p t?c u?ng, u?ng cho quên h?t m?i s?. Tôi gi?t l?y ?ng hút, hút liên t?c m?y ch?c ng?m, r??u ??i v?i tôi khi ?y nh? n??c ??i v?i ng??i s?p ch?t khát v?y. Tôi c? u?ng, c? u?ng r?i g?c lúc nào không hay. Sáng hôm sau, khi tôi v?n còn ?ang v?t l?n v?i c?n say ?êm qua thì có m?t v? quan ??n báo r?ng vua c?a h? không mu?n g?p s? gi? và yêu c?u chúng tôi ph?i r?i ?i ngay. V? quan ??a cho chúng tôi th? c?a vua Ch?mpa, b?o r?ng ph?i g?i ??n t?n tay Toa ?ô. S? gi? nh?n th? r?i nhanh chóng s?p x?p r?i kh?i hành cung c?a nhà vua. Chúng tôi phi ng?a tr? v? thuy?n, trên ???ng ?i tôi nh?n th?y m?t ?i?u l? là có r?t nhi?u nhà tranh hai bên ???ng, nh?ng lâu lâu m?i th?y ???c vài ba ng??i, dân chúng ?ã ?i ?âu h?t?   *??a khu Vijaya, Ch?mpa, 11/2/1283. Dong thuy?n xuôi theo dòng sông quay tr? l?i ??m Cri Vinaya. Khi t?i gi?a ??m thì th?y m?t vài binh lính Nguyên Mông ?ang ?ánh b?t cá, h? nhìn chúng tôi v?i ánh m?t nh? lúc tr??c tôi nhìn nh?ng s? gi? v?y. Ch?c h? c?ng ?oán ???c s? m?nh l?n này l?i th?t b?i, và m?t tr?n ác chi?n là không th? tránh kh?i. S? gi? mang th? c?a vua Ch?mpa trao cho Toa ?ô. Sau khi ??c xong Toa ?ô ?ã r?t gi?n d? vì ?ã u?ng công h?n m?t tháng khuyên hàng. Ông ta coi lá th? nh? là l?i khiêu chi?n, ra l?nh cho binh lính ? tr?ng thái s?n sàng, chúng tôi s? t?n công vào Bal Sri Banoy b?t c? khi nào có l?nh.     *Th? vua Indravarman V g?i Toa ?ô: Bi?t ???c ??i nhân vì th??ng dân n??c tôi mà không mu?n ??ng binh, tôi vô cùng c?m kích. B?n thân tôi ?ã già y?u ch?ng trông mong gì nhi?u, ch? mong sao dân chúng luôn ???c yên bình vui s?ng, th?t không h? mu?n nhìn th?y c?nh máu ch?y ??u r?i. Nay Thiên Tri?u có ý mu?n giúp tôi ?ánh ??i Vi?t, tâm ?y tôi xin nh?n. Nh?ng n??c tôi v?i ??i Vi?t g?n ?ây không có mâu thu?n gì, n?u vô c? d?n quân qua ?ánh, e r?ng làm ?i?u b?t chính tr?i s? không phù h?, l?i làm t?n h?i l??ng dân. Nên tôi xin ???c phép t? ch?i ý t?t c?a Thiên Tri?u. Tâm tôi m?t lòng qui ph?c Thiên M?nh, ?ã s?m dâng th? x?ng th?n. Không bi?t vì hi?u l?m gì ?ã khi?n cho Hoàng Th??ng ph?i c?t công c? quân t?i t?n ?ây ?? h?i t?i. Tuy là qu?c v??ng ?ã 17 n?m tr?i, nh?ng ??i v?i nh?ng vi?c ??i s? c?a v??ng qu?c, tôi th?t s? không ???c toàn quy?n quy?t ??nh. M?c dù ?ã m?t m?c khuyên can các v? có th?c quy?n trong v??ng qu?c nh?ng h? th?t không ch?u nghe l?i. H? còn trách móc tôi làm v??ng mà quá nhu nh??c, tôi th?t s? ?ã h?t cách. Ch? mong sao ??i nhân có th? rút quân v?, n?m sau tôi s? ?ích thân qua Trung Nguyên ?? t? t?i v?i Hoàng Th??ng. N?u ??i nhân s? b? Hoàng Th??ng trách t?i mà không th? rút quân, s? r?ng hai ta ch? còn cách quy?t chi?n m?t tr?n. Mong ??i nhân suy xét.   Chi?u hôm ?y mây ?en ph? kín b?u tr?i, sóng to, gió l?n n?i lên làm h? h?i quá n?a chi?n thuy?n. Là ?i?m d? ch?ng? Tôi hoang man ngh? v? t??ng l?i s?p t?i. ??n sáng thì c?n giông t? qua ?i, chúng tôi ph?i dành c? ngày ?? s?a ch?a nh?ng chi?n thuy?n b? h? h?i. Khi v? l?i doanh tr?i, tôi th?y v? ch? huy thông báo m?t vi?c quan tr?ng: Tôi ph?ng m?nh quan trên thông báo v?i các anh em r?ng ??i chúng ta nh?n ???c l?nh ph?i tham gia vào tr?n ?ánh s?p t?i. V?y nên, chúng ta ph?i chu?n b? tâm lý cho nh?ng gì s?p x?y ra. Trên chi?n tr??ng không có ch? cho lòng th??ng c?m, các anh em ph?i gi?t ?? không b? gi?t. Ch? soái ra l?nh, m?t khi chi?m ???c thành c?a gi?c, n?u g?p b?t c? ai, dù ?àn bà hay con nh? c?ng ph?i gi?t ?i. M?c ?ích c?a vi?c này là làm cho ng??i khác khi?p s? mà b? ?i quy?t tâm ph?n kháng. Có nh? v?y quân ta m?i mau th?ng l?i, anh em c?ng không ph?i t?n quá nhi?u x??ng máu. Phàm nh?ng v?t ít giá tr?, anh em có th? gi? l?i, nh?ng nh?ng kho tàng l?n thì ph?i nghiêm phong. ?ây là l?nh, anh em nh?t m?c ph?i tuân theo, n?u trái l?nh s? b? x? theo quân pháp. Nghe l?i truy?n ??t c?a ch? huy, tôi l?i nh? ??n ngôi làng b? tàn sát c?a mình. ?úng v?y, chi?n thu?t c?a Mông C? ?ã r?t hi?u qu?, bi?t bao ng??i T?ng ch? c?n nghe ??n s? tàn ác c?a h? thôi c?ng ph?i rung s?, không còn quy?t tâm ph?n kháng. ?? bây gi? chính ng??i T?ng ph?i chi?n ??u d??i tr??ng ng??i Mông C?. Toa ?ô không h? có ý th??ng xót dân chúng Ch?mpa. Ông ta ch?a mu?n t?n công ch? vì mu?n b?o toàn l?c l??ng ?? có th? ?ánh lên ??i Vi?t. N?u chúng tôi b? thi?t h?i quá nhi?u t?i chi?n tr??ng Ch?mpa, k? ho?ch lâu dài ?ánh chi?m ??i Vi?t s? g?p nhi?u r?c r?i. Ch?mpa là x? có nh?ng h?i c?ng r?t quan tr?ng, Nguyên Tri?u r?t mu?n chi?m ???c n?i này, mu?n bi?n n?i ?ây thành m?t bàn ??p v?ng ch?c ?? v??n ra xâm l??c các qu?c gia xung quanh. M?t khi ??u hàng, dân Ch?mpa ch?c ch?n s? ph?i lao ??ng vô cùng kh? c?c ?? ph?c v? cho m?ng xâm l??c c?a Nguyên Tri?u. Toa ?ô hy v?ng có th? d? hàng vua Ch?mpa, tám l?n g?i s? gi? ??n khuyên hàng. Ông ta ngh? r?ng vua Ch?mpa có th? vì th?y quân ??i hùng h?u c?a nhà Nguyên mà khi?p s? ??u hàng. Nh?ng r?t cu?c ông ta ?ã l?m. Cu?i cùng vua Indravarman V g?i cho Toa ?ô m?t b?c th? có n?i dung khiêu chi?n. ??n n??c này, ch? còn cách b??c vào m?t tr?n gi?t chóc mà thôi.   *??a khu Vijaya, Ch?mpa, 13/2/1283. Gi?a ?êm khuya, chúng tôi ???c l?nh lên thuy?n ti?n qua b? Tây con ??m, tr?n này chúng tôi ph?i ?ánh chi?m ???c Bal Sri Banoy. ?ó là m?t ?êm r?m, tr?ng sáng v?ng v?c. M?t v?n quân ???c chia làm 3 cánh ti?n t?i Bal Sri Banoy. Cánh quân c?a tôi g?m 3000 quân ???c ch? soái Toa ?ô tr?c ti?p ch? huy. Chúng tôi s? ti?n ?ánh m?t phía nam c?a thành. Hai cánh quân còn l?i s? l?n l??t t?n công vào c?a b?c và m?t ?ông c?a thành. Bal Sri Banoy là m?t thành quân s? n?m ? phía tây ??m Cri Vinaya, ??c l??ng n?i ?ây có m?t v?n quân Ch?mpa canh gi? ngày ?êm. ?? chi?m ???c kinh ?ô Ch?mpa, tr??c h?t ph?i chi?m ???c Bal Sri Banoy. Ng?i im trên chi?n thuy?n, lòng tôi nôn nao tr??c s? yên t?nh c?a c?nh v?t. Ch? m?t ch?c n?a, không bi?t chuy?n gì r?i s? ??n? Ph?i ch?ng ?ây là th?i kh?c cu?i cùng c?a ??i mình? C?m giác lúc ch?t th? nào? Ngh? ??n lúc ?y, tôi c? hình dung ra c?m giác ch?t. Tôi nh?m m?t l?i, nh?n th?, c? không suy ngh? gì c?. Tôi nghe k? r?ng, cho t?i c?n k? cái ch?t ng??i ta v?n nghe ???c. Âm thanh là th? cu?i cùng mà m?t con ng??i có th? c?m nh?n, không ph?i s? ?au ??n, không ph?i nh?ng suy ngh? nu?i ti?c. Ti?ng kêu c?a nh?ng con cò ch?t khi?n tôi m? m?t, ??n b? r?i sao? Không ph?i. M?t vài con cò ?ang bay trên tr?i phát ra ti?ng kêu quan quác. D??i ánh tr?ng r?m, nhìn v? phía tây có th? th?y ?óm l?a quân Ch?mpa. ?oàn thuy?n chúng tôi h?n 30 chi?c, t?t c? ??u không b?t ?èn d?u ?? tránh quân Ch?mpa nhìn th?y. Nh? ánh tr?ng mà các chi?n thuy?n có th? bám theo nhau mà ?i. Khi s?p vào b?, chúng tôi b? lính canh Ch?mpa phát hi?n, h? li?n th?i kèn báo ??ng. ? xa xa v? phía B?c và phía ?ông thành, c?ng nghe th?y ti?ng kèn và tr?ng báo ??ng vang kh?p b?u tr?i. Hai cánh quân kia ?ã b?t ??u t?n công r?i. Toa ?ô l?nh ??y nhanh t?c ?? ti?n vào ??t li?n. Chúng tôi nhanh chóng ch?n ch?nh ??i hình ti?n t?i phía nam Bal Sri Banoy. D??i tr?ng r?m, 3000 chi?n binh nh?m h??ng c?ng thành mà ti?n t?i. T? trong thành, quân Ch?mpa b?n ra nh?ng qu? c?u l?a và m?i tên ??c. Không th? b?t thang lên thành, chúng tôi dùng tên t?m l?a b?n cháy thành g?. B?n bao nhiêu thì ng??i Ch?mpa d?p l?a b?y nhiêu, chúng tôi ti?p t?c b?n không ng?ng ngh?, cu?i cùng thành c?ng cháy, khói b?c lên cao ng?t tr?i. Không th? d?p l?a, ng??i Ch?mpa xua voi ra thành. Chúng tôi r?t s? nh?ng con voi cao l?n ?y, nh?ng chúng còn s? l?a h?n. C? m?i l?n voi ti?n ??n, chúng tôi l?i dùng tên l?a b?n ?i làm chúng ph?i lui l?i. Th? tr?n gi?ng co ngày càng ác li?t, kéo dài t?i sáng r?i t?i t?n tr?a. Tr??c tình th? ?y, Toa ?ô l?nh cho 1000 quân c?m t? x?p theo ??i hình m?i tên xông th?ng vào c?ng thành. Tuy b? thi?t h?i khá n?ng, nh?ng chúng tôi ?ã nhanh chóng phá ???c c?ng thành. T?t c? quân Nguyên còn l?i tràn vào ?ánh phá h? tr? quân c?m t?. Quân Ch?mpa v? ??i hình, nhanh chóng ch?y tan tác. Chúng tôi tràn vào thành ??t phá toàn b?, lúc này quân Ch?mpa trong thành ph?i ch?ng ch?i v?i cánh quân Nguyên ?ã tràn vào thành và 2 cánh quân Nguyên khác ?ang t?n công ? phía B?c và phía ?ông. Th?y không th? ch?ng n?i bèn rút ch?y kh?i thành, nh?ng ai ch?y không k?p ??u b? tàn sát. Cu?i cùng chúng tôi ?ã làm ch? ???c toàn b? Bal Sri Banoy. Nhi?u toán quân Nguyên ?i lang thang l?c l?i trong thành, thu ???c h?n 100 máy b?n ?á mà quân Ch?mpa ?? l?i. ?i v? phía Tây, tôi th?y m?t tháp Ch?mpa và ba ng??i v?n ch?a ch?u ?i. H? là các th?y tu trông gi? tháp. H? không hi?u ti?ng Hán, t? v? vô cùng s? hãi. Ngôi tháp này khá ?? s?, cao t?m 20m, thân hình ch? nh?t, ??u thì nh?n d?n lên cao. bên trong không có gì ??c bi?t, ch? có các v?t b?ng ?á g?i là Linga và Yoni. Yan Sao rút g??m ra, m?t ??y sát khí ti?n v? phía th?y tu. Tôi v?i can ng?n: c?u ??nh làm gì? Yan Sao: Ch? soái ra l?nh ph?i gi?t h?t.  ??t ng?t anh ta chém ph?ng m?t ng??i, ??u ng??i ?y r?i xu?ng ??t, máu phun nh? n??c. Hai ng??i kia th?y v?y thì vô cùng kinh hãi b? ch?y vô tháp quì l?y thánh th?n, Yan Sao vào trong tháp k?t li?u toàn b?. Sau khi tàn sát, anh ta l?y m?i vàng b?c trên các thi th?, còn ??a cho tôi m?t cái vòng vàng, b?o r?ng: ?ây là ph?n c?a c?u, ??ng nói cho ai bi?t. Tôi b??c vào Tháp, nhìn nh?ng thi th? ??y máu. Tôi khép l?i nh?ng ?ôi m?t v?n còn m? to. T?i sao tôi l?i r?i vào hoàn c?nh ??y t?i l?i này, tôi ch? mu?n thoát kh?i n?i này.     *Bal Sri Banoy, Vijaya, Ch?mpa, 16/2/1283. L?a v?n cháy, m?t th??ng c?ng nh?n nh?p ch? còn là ch?n hoang tàn. Xác ch?t còn r?i rác kh?p n?i, mùi máu tanh v?n còn n?ng n?c. Ch? sau m?t ngày, chúng tôi l?i ???c l?nh ti?n ?ánh thành Vijaya. Toa ?ô vi?t m?t b?c th? ng?n g?i toàn quân ?? khích l? nhu? khí. Tr?n này, quân ta tuy ít h?n v?n d? dàng dành ???c chi?n th?ng, không h? danh v?i t?m vóc c?a m?t quân ??i vô ??ch thiên h?. Ng??i Ch?m không bi?t t? l??ng s?c, m?t m?c hung h?ng lao ??u vào tr?n chi?n, khác gì l?y tr?ng ch?i ?á. Gi? thì b?n chúng ?ã chu?c l?y ??i b?i, có h?i h?n c?ng ?ã mu?n màng. ?úng là, ch?a th?y quan tài ch?a ?? l?. Nay, vua tôi chúng trong c?n ho?ng lo?n ?ã ch?y tr?n v? thành ?ô Vijaya. Ti?c thay, v?i s?c m?nh c?a quân ta, hành ??ng c?a vua tôi chúng ch?ng khác gì chui ??u vào r?. C? nhân nói “d?ng binh quí ? th?n t?c”, nhân lúc ??ch còn r?i lo?n, anh em hãy ngay l?p t?c ch?n ch?nh ??i ng? chu?n b? ti?n ?ánh thành Vijaya. L?nh m? sáng ngày mai b?t ??u xu?t quân. Hành quân d??i c?n m?a t?m t?, ?oàn quân Nguyên n?i ?uôi nhau dài nh? vô t?n. V?a ?i v?a hát Quân Ca, ti?ng hát c?a hàng v?n ng??i vang lên t?n b?u tr?i, hòa cùng ti?ng m?a và ti?ng s?m t?o nên m?t b?n hòa ca c?a tr?i ??t và con ng??i.   Ta ?i Vì s? nghi?p nh?t th?ng Ta ?i Quân ??ch ph?i b?i tan Ta ?i Ti?c gì s? s?ng Ta ?i Tr?n thiên m?nh, báo hoàng ân   Chúng tôi ti?n ??n ?ông nam thành Vijaya. Lúc này, vua Ch?mpa c? s? gi? ra xin hàng, nh?ng Toa ?ô ?u?i s? v?, yêu c?u Vua ph?i ?ích thân ra m?t thì s? ???c mi?n t?i. Qua m?t ngày, không th?y h?i ?áp nên phát l?nh ti?n ?ánh m?i phát hi?n thành Vijaya ?ã b? b? tr?ng. Sau khi chi?m ???c thành, chúng tôi ra ngoài thành h? tr?i nh? t?p quán c?a quân Nguyên Mông. Hai ngày sau, s? gi? Ch?mpa l?i t?i, l?n này là c?u c?a vua Ch?m, tên là Bhadradeva. Tuy là ng??i Ch?mpa chính th?ng, nh?ng Bhadradeva có th? nói sành s?i ti?ng nói c?a ng??i Nguyên, dáng ?i c?a ông ta toát lên v? cao thâm khó l??ng.   *Toa ?ô và Bhadradeva: Bha..: B?m ??i nhân, t?i h? ph?ng m?nh qu?c ch? t?i ?? xin c?u hòa. Toa ?ô: Tr??c kia, ta n?m l?n b?y l??t c?u hòa v?i chúa nhà ng??i. Nh?ng ông ta nh?t m?c không ch?u m?i gây ra c? s? này. L?n tr??c ta ?ã nói, mu?n c?u hòa thì ?ích thân ông ta ph?i ??n ?ây, c? sao l?n này ng??i ??n l?i là ng??i? Bha..: B?m, qu?c ch? ?ã r?t ân h?n vì hành ??ng ngu mu?i, ?nh h??ng ??n bi?t bao l??ng dân bá tánh. Vì lo ngh? quá nhi?u, l?i tu?i cao s?c y?u nên qu?c ch? lâm tr?ng b?nh. Gi? ng??i n?m b?t ??ng trên gi??ng không bi?t còn s?ng ???c bao lâu. Do v?y, qu?c ch? ch?a th? t?i ?? ti?p ki?n ??i nhân. Nay, qu?c ch? sai t?i h? mang theo ng?n giáo này, là v?t b?t ly thân c?a ng??i làm v??ng trao l?i cho ??i nhân ?? t? lòng thành. Toa ?ô: Ng??i t??ng có th? l?a ???c ta hay sao? Nói v?i chúa nhà ng??i, n?u còn không ch?u ra t? t?i, ta s? ?? sát toàn b? dân chúng. Ng?n giáo này ta không nh?n. Bha..: Xin ??i nhân b?t gi?n, t?ng l?i t?i h? nói ??u là s? th?t. Tuy ch?a th? ra ti?p ki?n, nh?ng qu?c ch? có nói, ba ngày sau con tr??ng qu?c ch? Sri Harijit s? ??n t? t?i v?i ??i nhân. Toa ?ô: ?ích thân ông ta ph?i t?i ch? không ph?i ai khác, ng??i ??ng nhi?u l?i. Bha..: Xin ??i nhân hãy cho t?i h? th?i gian ?? b?m báo l?i v?i qu?c ch?. Xin ??ng làm t?n h?i l??ng dân. Toa ?ô: ???c, ng??i hãy mau ?i ?i. Nh? r?ng, tính m?ng c?a r?t nhi?u ng??i tùy thu?c vào s? thành tâm c?a chúa nhà ng??i. Bha..: T?i h?, xin cáo lui. Thành Vijaya b? b? tr?ng không m?t bóng ng??i. Nh?ng th? có giá tr? nh?ng không th? mang ?i ??u b? ??t h?t, không thu ???c gì t? thành này. Ch? th?y xung quanh là m?t ??ng lúa d?i r?ng mênh mông. Sau khi Bhadradeva r?i ?i, chúng tôi ???c l?nh t?a ra xung quanh thành ?? lùng b?t b?t c? ai còn ? l?i. D??ng nh? m?i ng??i ? ?ây ?ã b? ?i t? lâu, tr??c c? khi thành ?ô th?t th?, ch? b?t ???c h?n m?t tr?m ng??i già ch?a ch?u r?i ?i. Th?t ra c?ng có ng??i tr? ? l?i, ch? có m?t ng??i mà tôi nhìn th?y, m?t cô gái tr?. Hôm ?ó, chúng tôi vô m?t ngôi làng ?? lùng b?t b?t c? ai còn ? l?i. Nh?ng t?t c? dân làng ?ã r?i ?i, tr? c?n nhà n?. Phát hi?n th?y m?t c? già, chúng tôi xông vào l?c soát xem còn ai n?a không. Th?t ra chúng tôi ch? l?c soát qua loa vì ngh? r?ng s? không còn ai khác ? ?ó. Th?y khát nên tôi m? n?p cái lu tìm n??c u?ng. Nh?ng trong cái lu ?ó, không ph?i là n??c, mà là m?t cô gái tr?, v? m?t ngây th?, ánh m?t to, ánh m?t ?y, nhìn tôi ?? c?u mong chút th??ng h?i. ?ây là kho?nh kh?c mà tôi có th? quy?t ??nh ??n s? ph?n c?a m?t con ng??i, có th? t??ng t??ng ra m?i th? kh?ng khi?p s? x?y ra v?i cô gái t?i nghi?p n?u tôi không ?óng cái n?p ?y l?i. Nh?ng n?u tôi ?óng l?i thì sao? Tôi có th? b? phát hi?n ?ã trái l?nh, và theo quân pháp tôi s? b? x? t?, ??u ?ó c?ng t?i t? không kém. ??n lúc ??a ra quy?t ??nh tôi l?i nhìn vào ánh m?t ?y, c?m giác th?t thân thi?t, nó làm tôi ngh? v? Khan Sy. Ch?t m?t ng??i lính t? ??ng xa g?i tôi: Hey, Yuen Pa ?i thôi, có gái ??p trong ?ó hay sao mà nhìn hoài v?y? Yuen Pa: Không, tôi ch? tìm n??c u?ng, mà nhìn mãi ch?ng th?y n??c! R?i tôi ?óng n?p l?i, chúng tôi cõng c? già ?i xa kh?i ngôi làng. Tôi v?a quy?t ??nh m?t ?i?u tr?ng ??i, quy?t ??nh ?y làm tôi c?m th?y thanh th?n. Chúng ta ???c sinh ra ?? làm nh?ng ?i?u t?t ??p, ch? không ph?i gi?t chóc. Ch?ng ai vui vì gi?t chóc, n?u có là b?i vì h? b? h?y ho?i b?i s? c?m thù, ho?c h? là c?m thú. Nh?ng cu?c s?ng v?n ph?c t?p, ?âu ph?i lúc nào ta c?ng làm vi?c t?t. Gi? nh?, ng??i trong lu là m?t gã m?t hung d? thì sao? Tôi có b?t h?n không? Có th? l?m, khi ?ó tôi l?i ??i ?áp v?i l??ng tâm r?ng ?ó ch? là nhi?m v?.   *Bên ngoài thành Vijaya, Ch?mpa, 27/2/1283. Sau m?t tu?n, Bhadradeva l?i ??n, l?n này ông d?n theo hai ng??i n?a ?i vào doanh tr?i c?a Toa ?ô. Trên ???ng ?i, ông nhìn th?y bên ???ng là nh?ng th?n dân Ch?mpa b? b?t làm con tin, lòng Bhadradeva tr? nên n?ng tr?u. Bha..: B?m ??i nhân, qu?c ch? s?c y?u qu? th?t không th? ??n y?t ki?n. Qu?c ch? có hai con trai, nay ??n thay m?t cha ?? bàn vi?c xin hàng. Toa ?ô: Trên ???ng vào ?ây, ch?c ng??i ?ã th?y s? ng??i b? ta b?t. S? ng??i ?ó, n?u ta có gi?t h?t thì chúa nhà ng??i ch?c c?ng ch?ng ??ng lòng. V?y mà nói th??ng dân nh? con ?? Chúa nhà ng??i ham s?ng s? ch?t, vì b?n thân m?c k? dân lành. Nay l?i ?em hai con ??n th? m?ng. M?t ng??i nh? th?, có x?ng ?áng làm v??ng không h?? N?u không nói s? th?t, ta s? gi?t h?t ?ám ng??i ngoài kia. Bha..: ??n n??c này, t?i h? ch? còn bi?t nói s? th?t. Toa ?ô: Nói. Bha..: Hai ng??i này, th?t không ph?i con qu?c ch?. Toa ?ô: H?, bây ?âu, nh?t hai k? m?o danh này l?i. Hai ng??i b? b?t t? v? gi?n d?, liên t?c ch?i Bhadradeva là k? ph?n b?i: ?? vong ân b?i ngh?a, ta có ch?t c?ng s? v? ám nhà ng??i, s? v? ám ba ??i nhà ng??i... Bhadradeva ch? bi?t cu?i ??u. Sau khi hai ng??i ?ó b? lôi ?i, Bhadradeva m?i ti?p t?c nói. Bha..: Lúc tr??c b?n qu?c có 10 v?n quân m?i dám ch?ng l?i thiên binh. Nay ?ã tan tác h?t, không còn hy v?ng ph?c h?i. Thái t? Sri Harijit là m?t ng??i anh d?ng kiên c??ng c?ng ?ã b? m?ng. Toa ?ô: Còn qu?c ch? nhà ng??i th? nào? Bha..: B?m, qu?c ch? b? tên b?n vào má, nay ?ã ??. Nh?ng vì h? th?n và s? hãi nên không dám ??n y?t ki?n. Toa ?ô: Ch?ng qua là h?n s? b? ta b?t. ?ã h?t th?i mà còn c? bám víu quy?n l?c. N?u v?y, ta s? c? ng??i ??n h?i th?m h?n xem sao. Nói r?i Toa ?ô sai Lâm T? Toàn, L?t Toàn, Lý ??c Kiên ?i theo Bhadradeva, m??n c? th?m b?nh vua Ch?mpa ?? dò thám quân tình. Toa ?ô: Bhadradeva, ta th?y ngài là m?t b?c hi?n tài, n?u có th?, c? g?ng cùng ta s?m k?t thúc cu?c chi?n này. N?u m?i vi?c suôn s?, ta có th? tâu l?i v?i thánh th??ng, ?? ngài ???c làm v??ng. Bha..: T?i h? không dám! T? lâu, t?i h? ?ã say mê v?n hóa Trung Nguyên. N?u có ngày ???c d?c lòng ph?c v? Thiên tri?u, thì qu? là phúc ph?n ba ??i! Toa ?ô: Hay l?m, tr?i qua trùng d??ng, không ng? l?i g?p ???c tri k? ch?n này. Hay l?m!! Sau ?ó Bhadradeva cùng b?n Lâm T? Toàn theo h??ng Tây B?c mà ?i. ??n vùng ??i núi hi?m tr? thì b? quân Ch?mpa ch?n l?i không cho ?i ti?p. B?y gi?, Bhadradeva t? v? nh? b? vua Ch?mpa d?i g?t. Ông ta nói v?i Lâm T? Toàn: "Qu?c ch? dùng d?ng không ch?u ra hàng, nay l?i phao l?i là mu?n gi?t tôi, ông hãy v? th?a v?i t?nh quan r?ng qu?c ch? ??n thì ??n, không ??n thì tôi s? b?t ?em n?p". B?n Lâm T? Toàn ?ành quay v? báo l?i v?i Toa ?ô. Còn Bhadradeva thì quay tr? v? c?n c? quân Ch?mpa. H?n 10 ngày sau, Bhadradeva l?i ??n g?p Toa ?ô. Bha..: Qu?c ch? gi? không còn tin t?i h?. Cái ??u này, không bi?t còn gi? ???c bao lâu. Toa ?ô: Lão v?n còn ngoan c? th? sao? Bha..: T?i h? h?t lòng khuyên nh?. Nh?ng qu?c ch? không nh?ng không nghe l?i, còn ?òi chém n?u t?i h? ti?p t?c khuyên hàng. Toa ?ô: V?y là ông ta không có ý ??nh ??u hàng hay sao? Bha..: B?m, ?úng v?y. Toa ?ô: N?u v?y, ta ?ành ph?i d?n binh vào b?t lão ta. Bha..: ??i nhân ch? ??ng! Ch? qu?c ch? ? là n?i hi?m ??c, quân lính thà chi?n ??u ??n ch?t còn h?n ??u hàng. Quân binh thiên tri?u không thông thu?c ??a hình, n?u d?n binh vào ch?n nh? v?y, e r?ng s? thi?t h?i n?ng. Toa ?ô: V?y ngài có k? gì hay h?n ch?ng? Bha..: Nhi?u v? ??i th?n khi nghe t?i h? can ng?n ?ã ??i ý mu?n qui ph?c thiên tri?u, gi? h? r?t b?t mãn v?i qu?c ch?. N?u ???c, xin ??i nhân hãy ban cho t?i h? m? áo c?a thiên tri?u. T?i h? s? c? g?ng khuyên hàng qu?c ch?, n?u l?n này th?t b?i, t?i h? có ch?t c?ng cam lòng. Toa ?ô: ???c, ta mong ch? tin t?t t? ngài.   *Bên ngoài thành Vijaya, Ch?mpa, 15/3/1283. Bhadradeva l?i ??n, ?i theo ông là các quan ??i th?n Ch?mpa. Bha: Th?a ??i nhân, ?ây là các v? quy?n cao ch?c tr?ng trong tri?u ?ình. H? r?t có uy tín trong dân chúng, ch? c?n h? lên ti?ng thì dân chúng Ch?mpa s? không ph?n kháng n?a mà thu?n theo thiên tri?u. Nay h? ??u v? ?ây c?, cha con Indravarman không ???c lòng dân, c?ng không ???c lòng quan, gi? nh? r?n m?t ??u nh?ng v?n không ch?u t? b? ngai vàng. Các v? ??i th?n ??ng thanh ho to: Thiên tri?u v?n tu?! Toa ?ô: Th?t v?y sao. Sao ta nghe nói.. Các ng??i ngày ?êm tr? binh, ??p thành, tích tr? l??ng th?c là có ý gì? Bha..: B?m, th?t s? không h? có chuy?n này. C? sao ??i nhân l?i nói nh? v?y? Toa ?ô: Có ng??i nói v?i ta. D?n T?ng Diên vào ?ây. T? ngoài b??c vào là m?t ng??i Hán tên là T?ng Diên. T?ng Diên: Th?a ??i nhân, ?ã t? lâu tr??c khi có chi?n s?, vua Ch?mpa b?t dân chúng ngày ?êm xây d?ng thành g? trên núi Aia Hu. Hi?n gi? còn phát chi?u c?n v??ng ??n các ??a khu khác, t?p h?p ???c quân s? lên t?i h?n hai v?n ng??i. Bha..: Ng??i d?a vào ?âu mà nói nh? v?y? T?ng Diên: T?i h? x?a là ng??i Nam T?ng, l?u l?c ??n ?ây ch? mu?n s?ng yên bình. Th?i th
0 Rating 325 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 13, 2017
Nhà th? Inrasara G?i cho BBC t? Sài Gòn V??ng qu?c Champa ???c thành l?p n?m 192, kéo dài t? M?i Hoành S?n - sông ?inh cho ??n Bà R?a - V?ng Tàu. Ba?n quyê?n hi?nh a?nhISTOCK Image captionNhi?u ??n ?ài Champa còn ? M? S?n, t?nh Qu?ng Nam T? th? k? XI, qua các cu?c Nam ti?n c?a ??i Vi?t, biên gi?i lui d?n v? ph??ng Nam r?i m?t h?n vào n?m 1832, khi cu?c kh?i ngh?a cu?i cùng c?a Thak Wa b? vua Minh M?ng d?p tan. Su?t quá trình l?ch s? ?y, ng??i Cham l?u l?c qua nhi?u vùng ??t khác nhau, ?? t?o thành c?ng ??ng riêng v?i nh?ng khác bi?t nh?t ??nh v? v?n hóa và ngôn ng?. Giai ?o?n 986-988, khi L?u K? Tông làm vua ??t Champa, b? ph?n Cham ch?y qua H?i Nam - Trung Qu?c sinh s?ng. N?m 1044, nhà Lý b?t 5.000 tù binh Cham ra B?c; 25 n?m sau, s? l??ng tù nhân Cham ra B?c lên ??n 50.000 ng??i; h? l?p thành các làng riêng và t?n t?i th?i gian khá dài. ??n th?i Po Rome (1627-1651), m?t b? ph?n l?n Cham v??t ??i d??ng qua s?ng ? Kelantan - Malaysia; sau này 1975, 5 v?n ng??i Cham ch?y tr?n cu?c th?m sát c?a Pôn P?t qua Mã Lai sinh s?ng, và không có ý quay l?i Campuchia (G. Moussay). Ba?n quyê?n hi?nh a?nhDUONGDINHHUNG Th? k? XVIII, ng??i Cham ch?y lo?n qua Thái Lan, hi?n thu?c khu Ban Khrua, Bangkok, kho?ng 5.000 ng??i. ? Campuchia, vào n?m 1692, 5.000 gia ?ình Cham t? Pangdurangga di c? qua, ? vùng ??t t?t d?c sông Mekong, sau ?ó còn m?y ??t di dân khác n?a. Hi?n nay, ngoài 22 làng còn theo tôn giáo Bà-ni, t?t c? ??u là Muslim. Cu?i th? k? XX, ng??i Cham ? Campuchia thay ??i h? tên thành Khmer Islam. Riêng ? Vi?t Nam có g?n 20 v?n ng??i Cham sinh s?ng. B? ph?n Cham Hroi hình thành khi vào 1471, Lê Thánh Tông chi?m ?? Bàn, ng??i Cham ch?y lên vùng trung du Bình ??nh, Phú Yên, s?ng c?ng c? v?i dân t?c Bana. C?ng ??ng Cham ? ?ây theo tín ng??ng dân gian; dân s? hi?n nay trên d??i 30.000 ng??i. Th? k? XVIII, Cham t? Pandurangga ?i vào Nam tr? l?i Tây Ninh và An Giang; sau ?ó ít lâu do bên Campuchia có bi?n, m?t s? t? Campuchia tr? l?i An Giang. Gi?a th? k? XX, m?t b? ph?n vào Sài Gòn, ?? n?a cu?i th? k? XX, hàng tr?m gia ?ình ra Long Khánh sinh s?ng. Ng??i Cham ? các t?nh này theo Islam, t?c là H?i giáo chính th?ng, v?i kho?ng 50.000 tín ??. Nh?ng có th? nói ng??i Cham ? Vi?t Nam t?p trung nhi?u nh?t ? Ninh Thu?n và Bình Thu?n v?i s? dân 110.000 ng??i. ??i ?a s? ng??i Cham ? Ninh Thu?n và Bình Thu?n theo hai tôn giáo chính là ?n giáo và H?i giáo Bà-ni. ?ông nh?t là c?ng ??ng Cham ?n giáo còn g?i là Cham Ahier v?i 68.000 ng??i; H?i giáo Bà-ni là Islam ???c Cham hóa ?? tr? thành th? tôn giáo dân t?c r?t ??c ?áo v?i 38.000 tín ??; s? ít còn l?i theo H?i giáo chính th?ng ???c truy?n vào Ninh Thu?n vào th?p niên 60 cùng vài tôn giáo m?i du nh?p g?n ?ây nh? Công giáo, Tin Lành. Tôn giáo m? Tôn giáo Cham là tôn giáo m?. Nh?p ??a Champa vài th? k? và kh?ng ??nh v? th? c?a mình vào th? k? 14, Islam xung ??t v?i c?ng ??ng và t? ch?c xã h?i Cham ?n giáo kéo dài su?t hai th? k?, mãi ??n th?i Po Rome (1627-1651), tôn giáo này m?i ???c bi?n c?i thành H?i giáo Bà-ni. ? ?ây n?m c?t tr? làm nên n?n t?ng ??c tin H?i giáo, là: Chahadah: ??c tin không có Chúa Tr?i nào khác ngoài Allah, Salat: c?u nguy?n 5 l?n m?t ngày, Zakat: b? thí, Sawm: nh?n ?n tháng Ramadan, Hadj: hành h??ng thánh ??a Mecca, ??u không còn ???c ng??i Cham Bà-ni tuân th?. Ng??i Cham Bà-ni bên c?nh ??c tin vào Allah, h? còn th? c? th?n M?a, Bi?n, Núi… và cúng ông bà t? tiên; h? không còn nh? ??n vi?c hành h??ng Mecca; còn vi?c c?u nguy?n m?i ngày hay ?n chay vào tháng Chín và b? thí ch? ???c th?c hi?n vào mùa Ram?wan và ch? dành cho gi?i tu s?; còn ? ngoài ??i, ng??i Cham Bà-ni bi?n tháng chay t?nh thành ngày l?: Bb?ng Muk Kei, dân gian g?i là ?n “t?t” Bà-ni. Cu?i cùng, ?nh h??ng ch? ?? m?u h? khi?n ng??i Cham Bà-ni chú tr?ng l? kar?h dành cho n? h?n katat c?a nam; còn ?ám c??i hay ?ám tang thì hoàn toàn theo h? m?. C?ng ??ng Cham s?n sinh r?t nhi?u l? h?i, trong ?ó Rija N?gar là l?n h?n c?. V?i Islam là v?y, riêng v?i Cham ?n giáo, ng??i Cham Bà-ni có s? hòa h?p r?t ??c bi?t. ? ?ây, ông bà Cham ?ã t?o ra h? phái M?dw?n ?? ph?c v? l? bái cho c? ?ôi bên. Trong vài l? t?c mang tính gia ?ình hay dòng t?c, ng??i ta th?y c?p Acar vào làng Cham ?n giáo cúng t?. Khi có l? nghi mang tính khu v?c nh? Pakap Haluw Kraung, giáo s? c? hai bên Cham ?n giáo l?n Cham Bà-ni cùng ph?i h?p th?c hi?n. Ba?n quyê?n hi?nh a?nhISTOCK Dân t?c Cham là c? dân c?a v??ng qu?c Champa c?, nh?ng không gi?ng các dân t?c thi?u s? khác ? Vi?t Nam, ??i ?a s? ng??i Cham s?ng ? vùng ??ng b?ng theo t?ng ??n v? palei (làng), s?ng xen c? và c?ng c? v?i ng??i Vi?t. Dù có b? ph?n nh? buôn bán l? hay làm công ch?c Nhà n??c, ng??i Cham làm ru?ng n??c là chính, ??c bi?t ng??i Cham ? Ninh Thu?n hi?n t?n t?i ba làng ngh? n?i ti?ng, là: làng g?m Bàu Trúc, làng th? c?m Chakleng và làng Ph??c Nh?n chuyên ngh? thu?c nam. Ngay t? th? k? th? 4, dân t?c Cham ?ã có ch? vi?t. ?ó là th? ch? vay m??n t? ?n ?? qua nhi?u bi?n thái ?? tr? thành ch? Cham ngày nay, ti?ng Cham g?i là Akhar thrah. Ng??i ta có th? tìm th?y các v?n b?n g?m v?n h?c, l?ch s?, truy?n thuy?t, các l? nghi tôn giáo và nhi?u t? li?u giá tr? khác ???c th? hi?n b?ng ch? vi?t này trên các lo?i lá buông hay gi?y b?n. Tr??c 1975, các b?c có ch? ngh?a trong xã h?i Cham tìm ?? m?i cách vi?t, in (ronéo) sách giáo khoa b?ng Akhar thrah ?? ph? bi?n ch? ông bà vào các tr??ng h?c và trong dân. ??t n??c th?ng nh?t, Ban Biên so?n sách ch? Ch?m thành l?p n?m 1978 chuyên biên so?n và theo dõi vi?c d?y và h?c ch? Cham ? các tr??ng Ti?u h?c có ng??i Cham sinh s?ng. C?ng ??ng Cham s?n sinh r?t nhi?u l? h?i, trong ?ó Rija N?gar là l?n h?n c?. ?ây là l? ???c t? ch?c vào ??u n?m Cham l?ch (kho?ng tháng 4 D??ng l?ch), mang ý ngh?a t?ng kh?i làng cái x?u xa nh? nh?p c?a n?m c?, ?ón cái t?t lành vào làng nhân n?m m?i. L? Rija Praung th?c hi?n t? 3-7 ngày ?êm ???c xem là l? tr? n? l?n nh?t, là t?p ??i thành các ?i?u múa, bài t?ng ca cùng nghi th?c liên quan. L? T? ?n hay T?y oan dù th?c hi?n ??n s? h?n, v?n mang ý ngh?a l?n v? m?t xã h?i. Sau cùng l? h?i Kate di?n ra vào ??u tháng B?y Cham l?ch ???c dân gian xem nh? m?t th? T?t c?a ng??i Cham, ? ?ó h?u h?t làng Cham t? ch?c lên tháp d? vào cu?c hành h??ng long tr?ng và nhi?u màu s?c. Kate, hành h??ng lên ??t Tháp, con ng??i Cham ???c nh?n bi?t qua l?i ?n m?c, ti?ng nói hay ?i?u múa. Th? nh?ng nh?c ??n Cham không th? không nói ??n tháp Chàm. Tháp Chàm cô ??c, kiêu hãnh có m?t su?t d?i ??t mi?n Trung Vi?t Nam. Trong ?ó Thánh ??a M? S?n ???c UNESCO công nh?n là Di s?n V?n hóa – L?ch s? th? gi?i. Bài vi?t th? hiê?n quan ?i?m riêng và cách dùng t? c?a tác gi?. theo www.bbc.com/vietnamese  
0 Rating 354 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 12, 2017
 (Bài vi?t c?a b?n: M?ng Nhi Nguy?n) from facebook Tr??ng h?p Nhi s?p vi?t ra ?ây, ?ã làm KHÔNG TH? LÀ BÓNG C? CHO CÁC CON N?A.... Tr??ng h?p Nhi s?p vi?t ra ?ây, ?ã làm Nhi tr?n tr? và suy ngh? r?t nhi?u. M?i khi nhìn vào nh?ng t?m hình này là lòng l?i ?au và bu?n. V? quê trong ??t phát quà ch??ng trình "Hãy chung tay vì m?t Palei Ram t??ng lai l?n 2/2017" tu?n v?a r?i, Nhi m?i hay tin v? tr??ng h?p ?au th??ng c?a gia ?ình anh L??ng (Hoay) và ch? Trúc. V? ch?ng anh thu?c di?n khó kh?n c?a xã, h? là nh?ng ng??i nông dân ch?t phát ? thôn V?n Lâm 4, xã Ph??c Nam, huy?n Thu?n Nam, t?nh Ninh Thu?n. Anh ch? có 3 ng??i con, cu?c s?ng nghèo khó ? làng quê n?ng gió ?y t??ng ch?ng s? êm trôi, nh?ng tai h?a ?ã ?p ??n gia ?ình. Ch? Trúc b? xu?t huy?t não ?ã m?y n?m nay, ?i?u tr? t?i b?nh vi?n ?a khoa Ninh Thu?n, chi phí ?i?u tr? t?n kém, b?nh tình ngày càng tr?m tr?ng. Không có ti?n chuy?n vi?n lên tuy?n trên nên ch? ?ành ti?p t?c ?i?u tr? ? b?nh vi?n t?nh.  Anh L??ng hàng ngày vào b?nh vi?n ch?m sóc ch?, v?a làm ru?ng, làm thuê ki?m ti?n nuôi con ?n h?c. Nh?ng không may, trong m?t l?n ?i mua c?m cho v?, anh L??ng ?ã b? tai n?n giao thông. Tai n?n khi?n anh L??ng ch?n th??ng s?, n?t x??ng quai hàm, gãy tay, còn cánh tay kia c?a anh b? li?t ?ang ch? m?.  Anh L??ng c?ng ???c ?i?u tr? t?i b?nh vi?n t?nh Ninh Thu?n, m?c dù hai phòng g?n nhau, nh?ng ng??i nhà không cho ch? Trúc bi?t anh b? tai n?n, s? ch? bu?n ch? lo r?i b?nh tình nghiêm tr?ng h?n. Lan b? d? gi?a ch?ng gi?ng ???ng ??i h?c ?? v? ch?m sóc m?, em Long h?c t?i l?p 6 c?ng ngh? h?c ? nhà ch?n c?u m??n. Th?ng út còn nh? ???c bà n?i ch?m sóc. Ba m? không th? là bóng c? cho các em n?a.... M?i cách ?ây vài ti?ng thôi, Nhi có g?i ?i?n cho Lan thì ???c bi?t là ch? Trúc ?ang ???c chuy?n vào b?nh vi?n Ch? R?y, b?nh vi?n t?nh b?t bu?c ph?i chuy?n ch? ?i dù gia ?ình không ?? kinh phí. Gi?ng Lan bu?n, n?i bu?n c?a ch? hai l?n trong nhà. R?i ?ây, t??ng lai các em s? nh? th? nào, anh L??ng, ch? Trúc s? l?y ti?n ?âu ?? ti?p t?c ch?a tr?. Nhi vi?t bài này, th?t s? mu?n m?i ng??i cùng chung tay giúp ?? hoàn c?nh ?áng th??ng này; giúp anh ch? s?m bình ph?c và giúp Lan, Long ti?p t?c ??n tr??ng. ?? anh ch? mãi là bóng c? cho 3 ??a con th?. M?i s? ?ng h? vui lòng liên h? Nhi 0901 44 66 29. Tài kho?n nh?n ti?n ?ng h?: - 711AA9033681 - Ch? tài kho?n: T? N? Hoàng Lan (con gái anh L??ng+ch? Trúc) - Ngân hàng Vietinbank Thu?n Nam, Ninh Thu?n. - 0481000831101 - Ch? tài kho?n Bá Quang Rol - Ngân hàng Vietcombank chi nhánh ??ng Nai. - 0017100015651006 - Ch? tài kho?n Nguy?n Th? M?ng Nhi - Ngân hàng TMCP Ph??ng ?ông chi nhánh Ch? L?n, TP. H? Chí Minh. Trân tr?ng,             Danh Sách H?o Tâm (U.S.A) Cho g/d b?nh nhân                    Stt         H? và Tên   Sô ti?n   Ghi chú 1   Web: Nguoicham.com $200   2   v/c Miêu V?n Tu?n $100   3  chú Hùng  $20   4  Hani Miêu $20   5  v/c V?n Ph??ng Trình $50   6  Nguy?n Ph??ng Thuý $50   7  v/c Bá Trung Thi?u  $100  ?ã nh?n ? VN 8  v/c Bá Trung Thi?u  $100  ??t 2 9  v/c Bá V?n T? $100    10.  v/c Báo V?n Don (Ng?c Minh) $200   11  v/c B?ch Thanh Tho?ng $50   12  v/c Th?p Danh ??ng $50   13  v/c Hi?n ??o (M?ng Huy) $100   14  v/c Aly Ba $100   15  v/c Sarif Châu $50   16   v/c T? H?u L?i $30   17  v/c Nguy?n Sao $30   18  v/c Bá V?n D? $60   19   v/c ??t Xuân Hi?p $30   20  Báo V?n Cân $40   21  Bá V?n Vi?nk $50   22  Bá Imam  $50 23  v/c L?u Quang Sáng  $100   24  v/c Tr??ng Thanh An  $50   25  v/c V?n Ph??ng Thành (Zamin + Savy Châu)  $100   26  Thu Tôn (Lan B?ch s' friend)  $50   27 v/c wa Ysa Cosiem  $100   28  v/c Th?ch Ng?c Xuân  $50   29  Savy Châu 's friend (d?u tên)  $50   30  Norma (Savy Châu ''s friend)  $25   31  Rosa (Savy Châu 's friend)  $20   32  Qasim T?  $ 50   Thay m?t BTN Bhum Kawei Palei Ram, Tr??ng Ban. Sarif Chau M?i chi ti?t xin liên l?c qua: V?n Ph??ng Thành: (408) 623-7328 Bá Trung Thi?u: (408) 674-4099 NC: (408) 836-5735 Emails: Email: info@nguoicham.com Email: vpthanh_vl@yahoo.com   G?i Check v?: Thanh P Van 1582 TRIESTE WAY  SAN JOSE CA 95122   --------------------       H? VÀ TÊN S? TI?N  GHI CHÚ  WEB NGUOICHAM.COM 200 ?Ã NH?N  BÁ TRUNG THI?U 100 ?Ã NH?N  BÁ ALY 100 ?Ã NH?N  BÁ V?N VIÊNK 50 ?Ã NH?N  BÁ IMÂM 50 ?Ã NH?N  V/C ?ON & MINH 200 ?Ã NH?N  V?N PH??NG THÀNH (ZAMIN) 100 ?Ã NH?N  V/C BÁ KATHY 100 ?Ã NH?N  BÁO V?N CÂN 40 ?Ã NH?N  T? H?U L?I 30 ?Ã NH?N  NGUY?N SAO 30 ?Ã NH?N  A.HÙNG(B?N CHÚ TU?N) 20 ?Ã NH?N  THU TÔN( B?N LAN BACH) 50 ?Ã NH?N  SARIF CHÂU 50 ?Ã NH?N  TH?P DANH ??NG 50 ?Ã NH?N  TR??NG THANH AN  50 ?Ã NH?N  V?N PH??NG TRÌNH 50 ?Ã NH?N  ??T XUÂN HI?P 40 ?Ã NH?N  BÁ V?N T? 100 ?Ã NH?N  B?CH THANH THO?NG 50 ?Ã NH?N  FRIEND SAVY (D?U TÊN) 50 ?Ã NH?N  NORMA (FRIEND SAVY) 25 ?Ã NH?N  ROSA (FRIEND SAVY) 20 ?Ã NH?N  QASIM T? 50 ?Ã NH?N  TH?CH NGOC XUÂN 50 ?Ã NH?N  MIÊU V?N TU?N 100 ?Ã NH?N  MIÊU HANI 20 ?Ã NH?N HOA V? (FRIEND SARIF CHAU) 200 ?Ã NH?N H?A ??I NINH 50 ?Ã NH?N             T?NG C?NG 2025         G?I ??T 1: $ 1000 ( EM M?NG NHI ?ã nh?n )   G?I ??T 2 :$ 1000 (QUANG nh?n và ??a cho gd n?n nhân) L? PHÍ G?I LÀ:  $ 25            
0 Rating 419 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 28, 2017
Michael Vickery Ng??i d?ch: Hà H?u Nga   Nh? ??u ?? c?a bài vi?t mu?n nói, tôi cho r?ng l?ch s? Champa, v?i t? cách là m?t t?ng th? h?u nh? ch?a có m?t nghiên c?u phê phán nào, k? t? khi cu?n sách1 c?a Georges Maspéro xu?t b?n n?m 1928, nay c?n ph?i ???c nhìn l?i v?i các v?n ?? sau: i) Ngu?n g?c c?a ng??i Ch?m nói ti?ng Nam ??o hi?n sinh s?ng t?i Vi?t Nam và Cambodia; ii) V?n ?? Lâm ?p; có ph?i Lâm ?p chính là Champa do nh?ng h? s? ??u tiên liên quan ??n v?n ?? này, hay là do ???c xác ??nh v? sau, còn n?u Lâm ?p không ph?i là Champa thì ?ó là gì?2 ; iii) Các quan h? v?i Vi?t Nam, ??c bi?t là quan ni?m cho r?ng Champa, bao g?m c? Lâm ?p th??ng xuyên là n?n nhân c?a t? bành tr??ng c?a ng??i láng gi?ng phía b?c; iv) Cách k? v? l?ch s? Champa c?a Maspéro. M?c dù cu?n sách c?a ông l?p t?c thu hút s? xét ?oán c?a ??c gi? ngay sau khi xu?t b?n và càng ngày càng th?u ?áo h?n k? t? Rolf Stein, nh?ng các k?t lu?n ch? y?u c?a ông l?i ???c trao truy?n theo ngh?a ?en vào công trình t?ng h?p n?i ti?ng c?a Georges Coedès, và ?ã ti?p t?c tác ??ng ?nh h??ng m?nh m? ??n các công trình nghiên c?u khác, k? c? vi?c ch?p nh?n chung c?a m?t s? nhà ngôn ng? cho ??n t?n th?p k? v?a qua 3.   Bài vi?t này bao g?m c? vi?c xem xét l?i v? th? chính tr? – hành chính c?a các vùng ng??i Ch?m sinh s?ng ???c xác ??nh c?n c? vào các di tích ki?n trúc và bi ký tr?i dài t? Qu?ng Bình ??n nam Phan Rang. Có ngh?a là nhìn l?i xem li?u có ph?i Champa là m?t nhà n??c/v??ng qu?c th?ng nh?t duy nh?t nh? mô t? trong các công trình nghiên c?u kinh ?i?n ?ã có hay ?ó là m?t lo?i liên chính th? do ng??i Ch?m nói ti?ng Nam ??o th?ng tr?, hay c? hai, ho?c ?ó là nh?ng chính th? hoàn toàn riêng bi?t, th?nh tho?ng có tranh ch?p? 4   Các ngu?n t? li?u: Có ba lo?i ngu?n t? li?u cho l?ch s? Champa: (1) các di tích v?t ch?t – ki?n trúc g?ch v?n ???c coi là h? th?ng ??n tháp ?i li?n v?i các công trình ?iêu kh?c, và các t? li?u thu ???c t? các cu?c khai qu?t kh?o c? h?c; (2) các bi ký b?ng ti?ng Ch?m c? và ti?ng Ph?n; và (3) các s? li?u ch? Hán và ti?ng Vi?t v? m?i quan h? gi?a các qu?c gia ?ó và các chính th? khác thu?c các vùng phía nam Trung Qu?c, trong ?ó có b?c Vi?t Nam, và vùng lãnh th? thu?c nam Vi?t Nam ngày nay.   Các di tích v?t ch?t: Các di tích v?t ch?t trên m?t ??t, h? th?ng ??n tháp thông qua các công trình ki?n trúc ?ã cho th?y t?i thi?u có ba vùng b?t ??u phát tri?n vào cùng m?t th?i gian – kho?ng các th? k? 8 – 9. Tuy nhiên, ch?c ch?n là ?ã có các ki?n trúc s?m h?n gi? ?ây không còn n?a và niên ??i kh?i ??u th?c s? thì s?m h?n. K? t? B?c vào Nam, các vùng ?ó là (1) Qu?ng Nam, nh?t là l?u v?c sông Thu B?n, khu v?c M? S?n, Trà Ki?u và ??ng D??ng; (2) vùng Nha Trang v?i ph?c h?p Po Nagar, và (3) vùng Phan Rang, trong ?ó các b? ph?n thu?c di tích Hòa Lai có th? có niên ??i vào th? k? 8, và có l? có th? g?m c? các ki?n trúc Pô Dam và Phan Thi?t xa h?n v? phía Nam.5   M?t vùng khác, ? ?ó có s? l??ng l?n các di tích ??n tháp, ?ó chính là khu v?c Quy Nh?n, nh?ng các ki?n trúc ? ?ó l?i có niên ??i th? k? 11 – 13, mà không có các di tích s?m h?n. Toàn b? các vùng này ??u n?m ? các c?ng r?t thu?n ti?n thu?c các c?a sông, ho?c trên các con sông, không xa bi?n. M?t di ch? c? t?i l?u v?c Thu B?n ? ?ó toàn b? các công trình ki?n trúc trên m?t ??t ?ã bi?n m?t theo th?i gian, là ?? tài thu hút r?t nhi?u m?i quan tâm, nh?ng ? ?ó các công trình ?iêu kh?c ?n t??ng thì l?i v?n còn, ?ó là Trà Ki?u, cách M? S?n kho?ng 20 – 30 km; t?m quan tr?ng c?a nó có l? t? th? k? th? nh?t ?ã ???c kh?o c? h?c phát l?6.   Hai con sông có t?m quan tr?ng h?n c? trong l?ch s? s?m Champa, m?c dù cho ??n bây gi? v?n ch?a ???c chú ý ?úng m?c. M?t là – tôi s? ch? rõ, con sông ch?a bao gi? ???c quan tâm ??n – sông Trà Kúk ? Qu?ng Ngãi v?i hai ngôi thành c? Châu Sa (rõ ràng là m?t thành l?y l?n) và C? L?y (n?i này ?ã phát hi?n ???c m?t s? công trình ?iêu kh?c quan tr?ng, có l? niên ??i t? th? k? 7 – 8). C? hai ngôi thành này ??u n?m g?n c?a sông, cùng v?i các di tích c?a ngôi tháp Chánh L? có các công trình ?iêu kh?c r?t ?áng chú ý, có niên ??i th? k? 11. Vi?c g?n nh? b? qua thành Châu Sa c?a các nhà kh?o sát tr??c ?ây có l? do h? không phát hi?n ???c h? th?ng ??n tháp ?n t??ng, mà l?i ch? có m?t bi ký 7. Còn con sông kia là ?à R?ng – Sông Ba, ?? vào bi?n ? Tuy Hòa, gi?a Quy Nh?n và Nha Trang; ?ó là m?t l?u v?c r?ng nh?t ? Vi?t Nam. Các di tích c?a các giai ?o?n khác nhau ?ã ???c phát hi?n d?c tri?n sông, m?t bi ký Ph?n th? k? XV ? vùng c?a sông, và Thành H? r?ng h?n thành Châu Sa, cách bi?n kho?ng 15 km. Không còn nghi ng? gì n?a, ?ây là m?t tuy?n ???ng th?y quan tr?ng vào n?i ??a 8.   M?t vùng khác c?ng b? b? qua, ?ó là vùng phía c?c b?c c?a Champa ? Qu?ng Tr? và Qu?ng Bình, rõ ràng là thu?c th? k? 9 – 10, khi Indrapura và khu v?c ??n tháp ??ng D??ng h?ng th?nh và khi các di ch? Ph?t giáo ??i th?a phát tri?n t?i Ròn/B?c H?, ??i H?u, M? ??c và Hà Trung 9. Vùng này có l? ???c ??a vào ph?m vi “tri?u vua th? sáu” c?a Maspéro, nh?ng các công trình t??ng ni?m c?a nó ?ã không ???c nghiên c?u trong th?i gian ông ?ang vi?t v? v?n ?? này, và t?m quan tr?ng c?a vùng này ch?a bao gi? ???c ?ánh giá ?úng m?c. H?n n?a, ý ngh?a to l?n c?a nó l?i b? lu m? ?i trong các v?n li?u v?i vi?c quy cho các công trình ?ó thu?c “phong cách” ???c ??t tên cho các trung tâm xa h?n v? phía nam, ch?ng h?n nh? ??ng D??ng, M? S?n, v.v…10. Vi?c chú ý thi?t y?u ??n vùng này bu?c chúng ta ph?i di?n gi?i l?i l?ch s? các s? ki?n trong các th? k? 10 – 11.   C?n ph?i nh?n m?nh r?ng vi?c ??nh niên ??i nhi?u di tích ki?n trúc và vi?c phát hi?n các công trình ?iêu kh?c trên m?t ??t v?n c?n ph?i ???c nghiên c?u k? h?n, vì ng??i ta ?ã không còn ch?p nh?n các di?n gi?i c? là h?p lý n?a. Các m?u bao g?m M? S?n E-1, ???c ??nh niên ??i b?ng cách so sánh v?i ?iêu kh?c Cambodia cách xa 700 km v?i m?t bi ký m? h? ?i kèm; c?m tháp Hòa Lai, Phan Rang ???c ??nh niên ??i theo Damrei Krap ? Phnom Kulen, Cambodia, c?n c? vào m?t m?u huy?n tho?i trên bi ký Cambodia Sdok Kak Thom; phong cách Tháp M?m, Bình ??nh thì d?a vào cách x? lý n?ng tính h? c?u c?a Maspéro; còn phong cách M? S?n A1 tr??c h?t d?a trên m?t ??nh ki?n c?a Henri Parmentier cùng m?t bi ký b? l?m d?ng và gi? ?ây không còn ???c phân bi?t rõ ràng kh?i Trà Ki?u mà ngày nay r?t ít ng??i ??ng ý vì nh?ng phong cách Trà Ki?u khác nhau ???c kh?o c? h?c th?c ??a phát hi?n11. Vì v?y trong giai ?o?n nghiên c?u này thì vi?c ??nh niên ??i các công trình ki?n trúc và ?iêu kh?c c?a l?ch s? Champa ??u khá l?ng l?o.   Bi ký: Bi ký Champa ???c th? hi?n b?ng hai ngôn ng?, Ch?m và Ph?n. Bi ký Ch?m ???c coi là c? nh?t chính là bia Võ C?nh ???c phát hi?n t?i m?t di ch? g?n Nha Trang. Nó ???c ??nh niên ??i vào kho?ng th? k? 2 – 4, và càng ngày ng??i ta càng có nh?ng ý ki?n khác nhau v? vi?c nó có thu?c Champa hay thu?c v? m?t th? l?nh Phù Nam ?ã t?ng chinh ph?c vùng ??t sau ?ó ?ã tr? thành m?t ph?n c?a Champa. Quan ?i?m cu?i cùng c?a Coedès ???c Maspéro ?ng h? cho r?ng bia ?ó thu?c Phù Nam, và v? th? l?nh ???c xác ??nh rõ ràng, có tên ???? ???* ?r? M?ra, ???c vi?t b?ng ch? Hán là ???* Fan Shih man Ph?m S? M?n, còn tôn giáo th?i k? ?ó là ??o Ph?t. Quan ?i?m ?ó ???c th?nh hành ??n t?n n?m 1969, khi Jean Filliozat cho r?ng t??c v? M?ra có l? có ngu?n g?c t? m?t t??c v? hoàng gia ???????* Pandyan, còn n?i dung c?a t?m bi ký có th? c?ng ch? ?n ý ?n ?? giáo nh? là Ph?t giáo mà thôi. Cách x? lý nh? v?y d??ng nh? cho th?y bia Võ C?nh có th? không ???c coi là thu?c Phù Nam, ho?c Champa, và ch?c ch?n không thu?c Lâm ?p 12.     Tuy nhiên ngày nay William Southworth ?ã lôi cu?n s? chú ý ??n nh?ng ??c ?i?m nh?t ??nh c?a n?i dung bi ký, có v? th? hi?n xã h?i Nam ??o; n?u l?p lu?n ?y ??ng v?ng thì có th? hoàn tr? l?i cho m?t th?c th? Ch?m t?m bi ký ??u tiên ?ó, m?c dù nó không thu?c Lâm ?p. Nh? Southworth ?ã l?u ý, ?o?n d?ch d??i ?ây c?a Filliozat và Claude Jacques: “Tác gi? c?a t?m bi ký này có l? không h? là h?u du? c?a ?r? M?ra, mà là m?t ng??i con r? ?ã k?t hôn v?i dòng t?c m?u h? th?ng tr?. Tr?ng tâm then ch?t c?a dòng t?c này rõ ràng là ng??i con gái c?a cháu n?i ?r? M?ra, mà tác gi? c?a t?m bi ký xu?t thân t? gia ?ình ?ó, còn n?i dung t?m bi ký ?ã cho th?y tôn ty m?u h? này”.     Có ngh?a là lo?i v?t quyên cúng này ???c mô t? trong bi ký là “r?t thông th??ng trong các xã h?i m?u h?”, và t?m bi ký “ch? y?u ???c thúc ??y b?i các m?i quan tâm xã h?i b?n ??a”. Cái tên ?r? M?ra có th? v?n thu?c v? ngu?n g?c Tamil nh? Filliozat ?? xu?t – mà ng??i Ch?m h?c ???c trong các chuy?n h?i hành ??n ?n ?? và s? d?ng cái tên ?ó m?t th?i gian cho ??n khi t??c v? ph?n ??????* varmache ch?, b?o v?* tr? thành ph? bi?n vào giai ?o?n sau. Nha Trang, nh? Southworth ?ã mô t?, là m?t c?ng “trên tuy?n th??ng m?i chính qua ?ông Nam Á” t? ?n ?? ??n b?c Vi?t Nam và nam Trung Qu?c, “t?o ra m?t b?i c?nh l?ch s? và ??a lý h?p lý cho vi?c d?ng bia Võ C?nh” 13. T?m bia ???c coi là c? x?a th? hai, th? k? IV, sau Võ C?nh là m?t v?n b?n c? ng? Ch?m thu?c ?ông Yên Châu, g?n Trà Ki?u. ???c phát hi?n t?i vùng Thu B?n, không xa M? S?n, ?ây c?ng là lo?i v?n b?n c? nh?t c?a b?t c? c? ng? Nam ??o ho?c ?ông Nam Á nào 14.      C? hai t?m bia s?m này ??u bi?t l?p và có th? không thu?c vào s? còn l?i, nh?ng t?m bia còn sót l?i không ???c phân b? hoàn toàn phù h?p v?i các di tích v?t ch?t. Nhóm bia có n?i dung m?ch l?c nh?t g?n li?n v?i s? phát tri?n s?m c?a l?u v?c sông Thu B?n, di ch? M? S?n, ??ng th?i ch? có nh?ng v?n b?n bi?t l?p ? n?i khác. T? th? k? V-VIII có 20 bi ký t?t c? ??u b?ng ch? Ph?n, tr? hai bia ? M? S?n ho?c g?n ?ó. Theo các th?ng kê c?a Southworth thì 19 bi ký v?i 279 dòng v?n b?n ? Qu?ng Nam, v?i 12 bi ký và 258 dòng ? M? S?n, nh?ng ch? có ba bi ký v?i 13 dòng ? n?i khác 15. Sau ?ó t? gi?a th? k? VIII ??n gi?a th? k? IX, kho?ng 774 ??n 854, có m?t nhóm 8 bia m?ch l?c nh?t ? phía Nam. H?u h?t các bia này ??u ? Phan Rang, ch? có vài cái ? Nha Trang; 5 t?m bia hòan toàn, ho?c m?t ph?n, vi?t b?ng ch? Ch?m. Ti?p theo, t? 875 (ho?c s?m h?n tý chút) ??n 965, có 25 bi ký ???c coi là thu?c tri?u ??????????* Indrapura/??ng D??ng, l?i ? phía b?c vùng Thu B?n, nh?ng riêng bi?t kh?i M? S?n. Các bi ký này ??u phác h?a m?t khu v?c rõ ràng t? Qu?ng Nam ??n Qu?ng Bình và ch? có lo?i c? t? trong các v?n t?p ?ã ???c công b? phát hi?n ? phía b?c Hu?. B?n bi ký nhóm này ? phía Nam và 16 bi ký hoàn toàn ho?c m?t ph?n thu?c ch? Ch?m 16. M?t bi ký có nhi?u c? t? Ch?m h?n c?, và có l? liên quan là bia M? S?n, có niên ??i 991 (xem bên d??i).   V? sau các bi ký này phân b? khá ??ng ??u gi?a B?c và Nam cho ??n ??u th? k? XIII, sau ?ó có 32 bia ???c phát ? phía Nam, và ch? có sáu bia ? M? S?n, niên ??i mu?n nh?t là 1263. Sau n?m 991, trong s? 75 bia ?ã bi?t cho ??n cái cu?i cùng n?m 1456 thì ch? có 5 cái b?ng ch? Ph?n, t?t c? ??u tr??c n?m 1263, và s? còn l?i là ch? Ch?m. Trong cùng giai ?o?n có 18 bia M? S?n tính ??n chi?c cu?i cùng ???c ??nh niên ??i 1263 và m?t bia khác t? cu?i th? k? ??* ?aka XII, hai tr?m n?m sau khi các vua Champa, theo Maspéro, ???c cho là chuy?n v? phía nam ??n ????* Vijaya do s?c ép c?a ng??i Vi?t, m?t hoàn c?nh bu?c ph?i xem xét l?i các m?i quan h? gi?a hai chính th? này.       Th?t khác th??ng là Bình ??nh/Quy Nh?n m?c dù rõ ràng có t?m quan tr?ng nh? h? th?ng tháp g?ch ?ã ch?ng t? và rõ ràng các ngu?n t? li?u Champa và Cambodia ??u chú ý ??n nó, nh?ng ? ?ây l?i ch? th?y có 7 bi ký r?t ng?n – t?t c? ??u mu?n màng, và ch? có m?t bi ký có nhi?u giá tr? l?ch s? h?n c? (C53 and C54/1178-1278, C58/1259, C55/1265, C52/th? k? ?., C47/1401, C56/1456). T?t c? các bi ký ch? y?u c?a các nhà cai tr? ???c cho là ?ã ki?m soát Bình ??nh tr??c th? k? XIII ??u ???c ch?m kh?c t?i M? S?n. [V? v?n ?? này, xin xem ? d??i, trong ph?n nói v? Vijaya.   M?t t?p h?p các bi ký chi ti?t và m?ch l?c nh?t, chí ít là có m?t ch?c v?n b?n, liên quan ??n các m?i quan h? c?a các th? k? XI – XIII, h?u nh? hoàn toàn là chi?n tranh v?i Cambodia. Vi?c th?o lu?n chi ti?t v? các bi ký này ???c trình bày t?i m?c v? l?ch s? t? s? ? phía d??i. Công trình ??u tiên v? các bi ký Champa b?t ??u vào cu?i th? k? XIX. Abel Bergaigne b?t ??u t?ng h?p các thông tin t? các bi ký t? n?m 1888, và công b? các v?n b?n Ph?n ng? n?m 1893. Công trình ??u tiên v? các bi ký Ch?m ng? là c?a Étienne Aymonier n?m 1891. Sau ?ó, trong m?t lo?t bài vi?t, Louis Finot ?ã x? lý c? các bi ký Ch?m ng? và Ph?n ng?, b?ng cách bi?n ??i m?t s? v?n ?? di?n gi?i v? sau c?a Aymonier. Édouard Huber c?ng ?ã th?c hi?n m?t công trình nghiên c?u quan tr?ng liên quan 17.   V?n còn nh?ng v?n ?? v? vi?c gi?i thích theo ngh?a ?en m?t s? v?n b?n Ch?m ng?. Vì h?u h?t các bi ký ???c Aymonier x? lý trong bài vi?t n?m 1891, nh?ng ông ?ã không công b? chính v?n b?n ?ó, và c?ng không h? ??a ra m?t b?n d?ch ??y ??, mà ch? tóm t?t các chi ti?t quan tr?ng. Rõ ràng là m?t s? bi ký v?n c?n có nh?ng di?n gi?i m?i, ?? r?i cu?i cùng, nó ?ã thu hút ???c s? chú ý c?a m?t nhà Ch?m h?c tài n?ng. Khi Louis Finot ti?p t?c công vi?c công b? và d?ch các bi ký Ch?m, ông luôn ch?n các v?n b?n mà Aymonier không x? lý; và vì ông không ph?i là m?t chuyên gia v? ngôn ng?, nên không th? ch?p nh?n toàn b? các b?n d?ch c?a ông mà không ??t câu h?i.  Vì ch?t l??ng không ch?c ch?n c?a các b?n d?ch c? ng? Ch?m, nh?t là công trình c?a Aymonier, và c?a c? Finot n?a, nên t?t c? các di?n gi?i v? các s? ki?n l?ch s? d?a vào ?ó ??u ph?i ???c trình bày b?ng cách thông báo tr??c r?ng ?? có ???c nh?ng b?n d?ch t?t h?n thì bu?c ph?i xem xét l?i m?t s? chi ti?t.        Gi? ?ây ?ã có m?t công trình m?i c?a Anne-Valérie Shweyer v? các bi ký Champa ???c s? d?ng làm h??ng d?n cho t?t c? các xu?t b?n ph?m. Nó có ý li?t kê toàn b? các bi ký ?ã ???c công b? theo tr?t t? niên ??i, ?ã ???c hi?u ch?nh v?i các c?t ghi s? ??ng ký, v? trí, tên ng??i và tên các th?n ???c ?? c?p và các công b? khác liên quan 18. Ngoài công trình c?a Shweyer, không có m?t nghiên c?u nguyên b?n nào m?i v? các bi ký Ch?m tr??c n?m 1920, và danh m?c t? li?u chu?n v? các bi ký Champa, c? Ch?m ng? và Ph?n ng?, ??u có niên ??i t? 1923 19. S? sách Trung Qu?c và Vi?t Nam   Các ngu?n s? li?u Trung Qu?c ???c Maspéro s? d?ng là các b? s? sách chính th?c c?a các tri?u ??i d?n t? ????* V?n hi?n Thông kh?o c?a ???* Mã ?oan Lâm, do Hervey de Saint-Denys d?ch ra ti?ng Pháp v?i t?a ?? Ethnographie des peuples étrangers Man t?c kh?o và ?ã ???c Maspéro trích d?n b?ng t?Méridionaux 20, Nam man. M?i ?ây Geoff Wade ?ã d?ch m?t s? ph?n c?a m?t v?n b?n vi?t v? Champa khác, ???* Song huiyao T?ng H?i y?u*, không ???c Maspéro s? d?ng, v?n b?n này v? nhi?u tình ti?t quan tr?ng l?i khác h?n v?i ??* T?ng s? ???c Maspéro trích d?n, s? ???c chú thích ? d??i. ??i v?i m?t s? giai ?o?n c?a l?ch s? Champa thì các s? sách này ???c biên so?n mu?n h?n nhi?u so v?i th?i ?i?m di?n ra các s? ki?n, và rõ ràng là các ngu?n tài li?u gián ti?p. Nh? Wade ?ã mô t?, ???* Song huiyao T?ng H?i y?u ???c biên so?n “trong m?t quá trình tr?i t? ??u th? k? XI ??n gi?a th? k? XIII … nh?ng ch?a bao gi? ???c in ra”. Sau ?ó nó ?ã ???c s? d?ng làm m?t ngu?n s? li?u cho vi?c biên so?n T?ng s? vào th? k? XIV 21. V?i nh?ng ?i?u ki?n này, ng??i ta c?n ph?i trì tín ?? ??m b?o r?ng m?i chi ti?t v? Champa trong các th? k? X – XI c?n ???c ch?p nh?n là th?c s?, và nh?ng b?t nh?t v? s? li?u c?n ph?i ???c xem xét k? càng.         Các ngu?n s? li?u Vi?t Nam ?ã ???c s? d?ng ?? vi?t l?ch s? Champa g?m có Ð?i Vi?t s? ký Toàn th? (Tt), Khâm ??nh Vi?t s? Thông giám C??ng m?c (Cm), andVi?t s? l??c (Vsl) 22. Trong vi?c s? d?ng các ngu?n s? li?u Vi?t Nam c?a Maspéro có m?t v?n ?? còn m? h? và không ???c các công trình sau này ?? ý ??n, ?ó là s? t?n t?i c?a hai truy?n th?ng biên niên s? ch? y?u khác nhau v? m?t s? s? ki?n liên quan ??n Champa, và c? các chính th? khác n?a. Tr??c h?t, ?ó là Toàn th? ???c C??ng m?c ?i theo, và th? hai là Vi?t s? l??c. Maspéro ?ã s? d?ng phiên b?n này ho?c phiên b?n khác, rõ ràng là theo quy?t ??nh võ ?oán c?a ông v? s? ki?n “c?n di?n ra” nh? v?y. Các ví d? v? v?n ?? này s? ???c ch? ra ? ph?n sau.       ??i v?i khu v?c ?ang ???c ?? c?p, các s? sách Trung Qu?c và Vi?t Nam th??ng b?t ??u b?ng vi?c tham chi?u vào m?t chính th? có tên g?i là Lâm ?p, n?m ? phía nam Giao Ch?, các t?nh c?a Vi?t Nam ???c coi là d??i quy?n qu?n lý c?a Trung Qu?c; tr??c h?t nó ???c ghi chú b?ng cái tên ?ó vào nh?ng n?m 220 – 230, và d?n chi?u cu?i cùng xu?t hi?n n?m 757. Lâm ?p là m?t vùng có v?n ?? vì các ho?t ??ng gây h?n ch?ng l?i Giao Châu ? phía b?c. Sau khi Lâm ?p bi?n m?t kh?i các ghi chép c?a Trung Qu?c thì các s? sách chính th?c c?a Trung Qu?c trong m?t th? k? th?nh tho?ng có nh?c ??n m?t chính th? có tên g?i là Hoàn V??ng, rõ ràng là thu?c vùng Lâm ?p, cho ??n gi?a th? k? th? 9 ng??i ta v?n nh?n là Champa b?ng tên g?i Chiêm Thành, “Thành  c?a ng??i Ch?m”.   Xuyên su?t th?i k? Lâm ?p cho ??n gi?a th? k? VII, t?c là m?t th? k? tr??c khi cái tên ?ó bi?n m?t – các th? l?nh Lâm ?p trong các s? sách Trung Qu?c có t??c v?Fan và sau ?ó là nh?ng cái tên có t? m?t ??n ba âm ti?t, v?i th? l?nh cu?i cùng,???* Fan Zhenlong Ph?m Tr?n Long, xu?t hi?n trong kho?ng n?m 645 [???* C?u ???ng th? cxcvii, 32a; ???* Tân ???ng th? ccxxii, ? 19a; ????*V?n hi?n Thông kh?o xxiv, 46b]. Nói chung không th? ??ng nh?t m?t cách h?p lý nh?ng cái tên Fan v?i tên c?a nh?ng ng??i tr? vì trong các bi kí Champa ???ng th?i, m?c dù Maspéro ?ã th? và sau ?ó các nhà s? h?c ?ã ?i theo. Vào gi?a th? k? th? VIII ??n cu?i th? k? IX, khi t?t c? các bi ký ??u ? phía Nam thì ng??i Trung Qu?c không ghi các t??c v? Fan và các tham chi?u c?a h? v? Hoàn V??ng không cho bi?t tên nh?ng ng??i tr? vì c?a chính th? ?ó d??i b?t k? d?ng th?c nào.   Nh?ng cái tên trong các s? sách Trung Qu?c và Vi?t Nam rõ ràng có th? quy vào nh?ng ng??i tr? vì Champa b?t ??u t? nh?ng n?m 860 và ti?p t?c – dù có kho?ng tr?ng l?n – ??n cu?i th? k? XII, sau ?ó trong kho?ng g?n m?t tr?m n?m d??i s? can thi?p c?a ng??i Angkor vào Champa, rõ ràng là ng??i Vi?t và ng??i Trung Qu?c ?ã ít chú ý ??n nó. Các ngu?n s? li?u ?ó b?t ??u l?i cho th?y nh?ng cái tên c?a nh?ng ng??i tr? vì Champa t? ??u th? k? XIV và ti?p t?c qua m?t vài th?p k? cho ??n khi không còn bi ký Champa n?a. Nh? Stein ?ã nh?n m?nh, không th? ??ng nh?t h?u h?t nh?ng cái tên trong các v?n b?n Trung Qu?c và Vi?t Nam v?i nh?ng cái tên trong các bi ký. H?u h?t nh?ng cái tên trong các bi ký là các t??c v? có ch? varma, mà cách d?ch chu?n sang ch? Hán là ?? ba mo b?t ma. Trong toàn b? l?ch s? Champa t? ??????* varma ??u tiên, có l? vào th? k? th? t?, ??n n?m 1471, ch? có b?n tr??ng h?p ???c phiên âm b?ng ch? Hán ?? ba mo b?t ma, mà t?t c? ??u thu?c th? k? VI-VII, và r?t ít th?y tr??ng h?p trong ?ó các y?u t? phiên âm ch? Hán khác có th? ??ng nh?t v?i m?t t??c v? ??a ph??ng nào; m?t trong nh?ng ngo?i l? hi?m hoi là các âm Hán ???lu tuo luo L? ?à La và ?? lu tuo L? ?à cho ???????????* Rudra-[varman] vào gi?a th? k? th? VIII. Còn có m?t tr??ng h?p phiên âm Hán và âm Vi?t ?áng tin c?y cho m?t t??c v? Ch?m y?ï po ku vijaya ?r? (xem bên d??i). Nh? tôi ?ã ?? c?p liên quan ??n m?t tr??ng h?p trong m?t bài vi?t tr??c ?ây, và s? ti?p t?c ?? c?p ??n trong bài vi?t này, lý do cho s? b?t nh?t này có l? là do ng??i Trung Qu?c và ng??i Vi?t không quan tâm ??n cái chính th? Champa ?ã ???c ghi trong các bi ký 23.      Nhìn l?i l?ch s? Champa   I. Các c?i ngu?n Champa và dân Ch?m: Mãi cho ??n g?n ?ây, ng??i Ch?m v?n ???c coi là m?t b? ph?n c?a nh?ng “làn sóng” di chuy?n dân c? ra kh?i Trung Qu?c ?? ??n ?ông Nam Á l?c ??a, trong ?ó có m?t s? nhóm ti?p t?c di chuy?n ??n vùng ??o Nusantara. Các nhóm dân c? nói chung ???c xác ??nh trong khuôn kh? th? ch?t v? ph??ng di?n nhân h?c. Tr??c h?t ng??i Australoid-Melanesoid xu?t hi?n, t??ng ??ng v?i các th? dân Úc và các nhóm ng??i Papua New Guinea, sau ?ó hai nhóm Indonesians, Proto- và Deutero- k? ti?p. Ng??i Ch?m – vì h? nh?n ngôn ng? c?a mình là Indonesian, bây gi? g?i là Austronesian, m?t nhánh, trong th?i gian ?ó nhìn chung không ???c ch?p nh?n – ???c coi là nh?ng tàn d? c?a nh?ng ng??i Indonesians v?n còn trên l?c ??a này, sau khi s? còn l?i ?ã ti?p t?c di chuy?n ??n các ??o d??i s?c ép c?a làn sóng di dân m?i nh?t lúc ?ó là ng??i Mon – Khmer. Theo quan ?i?m này, toàn b? các cu?c v?n ??ng ?y có l? ?ã ???c hoàn thành tr??c khi b?t ??u K? nguyên Thiên chúa. V?y là Champa hoàn toàn là m?t c??ng qu?c n?i ??a, và theo quan ?i?m ?ó, thì ng??i láng gi?ng Phù Nam ? ph??ng nam c?ng v?y. V?i nh?ng bi?n th? ng?u nhiên th? y?u, t?t c? các h?c gi? tr??c ?ây ??u ch?p nh?n ?i?u này, k? c? Coedès, Maspéro và Stein; ngu?n g?c l?c ??a c?a ng??i Ch?m g?n ?ây nh?t v?n còn ???c Jacques Népote duy trì và ???c ?n trong “các bài vi?t cho H?i th?o v? Champa t?i ??i h?c Copenhagen” ngày 23/5/1987 24. Ng??i ta c?ng công nh?n r?ng ng??i Tày/ Thái ?ã di c? ??n các môi tr??ng s?ng ngày nay mu?n h?n nhi?u so v?i các cu?c di dân ?ã phác h?a ? trên, và ng??i ta c?ng tin r?ng ng??i Vi?t, ???c cho là m?t nhánh Sinitic (thu?c các nhóm Hoa ng?), ?ã di chuy?n ??n vùng b?c Vi?t Nam ngày nay m?t cách ??c l?p so v?i các cu?c di dân kia.    B?t ??u vào kho?ng 30 n?m tr??c, khi vi?c t?p h?p thành các nhóm nhân h?c th? ch?t không còn th?nh hành n?a, và ngôn ng? h?c ngày càng ti?n b? thì ng??i ta quy?t ??nh r?ng các ngôn ng? Nam ??o, k? c? ti?ng Ch?m phát tri?n không ph?i thông qua các t?c ng??i di c? ra kh?i Trung Qu?c theo con ???ng ?ông Nam Á l?c ??a, sau ?ó ?i ra các ??o n?a, mà là theo ???ng bi?n – có l? b?t ??u t?i ?ài Loan, sau ?ó ??n Philippines, Indonesia, các ??o Thái Bình D??ng, Madagascar, và trong các cu?c di c? cu?i cùng, các t? tiên c?a n??i Ch?m t? Borneo ??n b? bi?n Vi?t Nam ngày nay vào kho?ng 500 n?m TCN và nh?ng n?m ??u c?a K? nguyên Thiên chúa, m?c dù các xác ??nh niên ??i nh? v?y v?n ch? r?t t??ng ??i 25. M?t s? nhà kh?o c? h?c cho r?ng V?n hóa Sa Hu?nh thu?c ven bi?n mi?n trung Vi?t Nam chính là b?ng ch?ng v?t ch?t ??u tiên c?a ng??i Ch?m, m?c dù nh?ng nghiên c?u t?i s? thay ??i quan ?i?m này, và có th? không ph?i ch? có m?t cu?c ?? b? duy nh?t c?a nh?ng ng??i Ch?m có ngu?n g?c bi?n ??u tiên 26. Tuy nhiên không nghi ng? gì r?ng ti?ng Ch?m là m?t ngôn ng? Nam ??o, có m?i quan h? g?n g?i v?i ngôn ng? Ache, Malay và xa h?n v?i các ngôn ng? c?a ng??i Indonesia, Philippines, Polynesia và Madagascar.   Nh? nhà ti?n s? h?c Peter Bellwood ?ã xác ??nh, “t? t??ng c?, vì v?y th??ng ???c l?p l?i trong các công trình ph? bi?n ngày nay là ng??i Nam ??o di c? t? châu Á l?c ??a qua bán ??o Malay ho?c Vi?t Nam là hoàn toàn sai l?m”. H?n n?a Bellwood còn cho r?ng các di tích kh?o c? h?c Sa Hu?nh có th? ??ng nh?t v?i ng??i Ch?m ??u tiên, là nh?ng ng??i có l? ?ã ??n ?ó vào thiên niên k? th? nh?t TCN. Ho?c, d?n l?i Bellwood, “Heine Geldern [1932] rõ ràng ?ã nh?m l?n … khi ông g?i ý r?ng nh?ng ng??i Nam ??o ??u tiên ?ã di c? t? Châu Á l?c ??a qua bán ??o Malay ??n Indonesia. Hành trình th?c s? c?a cu?c di chuy?n c?a ng??i Nam ??o là ?i theo m?t h??ng khác 27. T?t nhiên, có th? ?ã không ch? có m?t cu?c ?? b? duy nh?t d?c ven bi?n trung Vi?t Nam, mà nh?ng di tích Champa s?m nh?t ???c bi?t cho ??n nay ?ã cho th?y có l? ?ó là nh?ng di tích ? phía nam c?a Hu?. Khi h? ??n ?ó, vùng này ?ã có các c? dân nói ti?ng Mon – Khmer. Trong th?c t?, v? ph??ng di?n ngôn ng?, ?ông Nam Á l?c ??a th?i ?ó có l? là m?t kh?i Mon – Khmer thu?n nh?t 28.         Rolf Stein, trong m?t nghiên c?u ch? ch?t v? Lâm ?p ?ã b?t ??ng m?t cách m?nh m? v?i Maspéro v? nhi?u chi ti?t và d??ng nh? ?ã ch? ra m?t cách d?t khoát r?ng tr??c th? k? th? V, chí ít thì Lâm ?p và Champa có th? ?ã khác bi?t nhau, và ông c?ng xem xét b?ng ch?ng v? v? trí ngôn ng? c?a Lâm ?p, mà ông tin là thu?c Mon-Khmer. Chúng ta c?n ph?i nh?n m?nh l?i là Stein v?n tin r?ng ng??i Ch?m ?ã di c? trên ??t li?n và vì v?y mà h? ?ã t?ng ? trong vùng nam Trung Qu?c – b?c Vi?t nam hàng tr?m n?m ho?c th?m chí hàng ngàn n?m. Stein không nói v? ?i?u này m?t cách d?t khoát, nh?ng qua các ghi chú c?a ông thì rõ ràng là ông ch?p nh?n ?i?u ?ó nh? m?t th?c ti?n c? b?n không c?n gì ph?i kh?ng ??nh l?i m?t l?n n?a. Vì v?y khi cho r?ng ng??i Ch?m ?ã ti?p xúc v?i ng??i Trung Qu?c trong m?t th?i gian quá lâu dài, ông ?ã phân tích ng? âm thái c? (th? k? VIII – III TCN) và ng? âm c? (th? k? VI SCN) c?a các ch? Hán ???c s? d?ng ?? g?i Lâm ?p và Ch?m, cu?i cùng ?ã phát hi?n ra r?ng chúng g?n nh? ??ng nh?t, b?t ??u b?ng nhóm ph? âm “KR” HO?C “PR”. Thông qua phân tích này, ông ?ã tìm cách phát hi?n ra cách phát âm g?c c?a các t? ti?ng Hán thích h?p, và ông cho r?ng Lâm ?p và Ch?m ??u là Mon-Khmer 29.      Tuy nhiên gi? ?ây ng??i ta hi?u r?ng ng??i Ch?m không ??n b? bi?n mi?n trung Vi?t Nam tr??c thiên niên k? I TCN, và trong m?t vùng có l? ?ã có ít ho?c không có ti?p xúc v?i ng??i Trung Qu?c vào th?i gian mà ng??i Trung Qu?c ?ang chú ý ??n h? và vi?t v? h?. Vì v?y ch? Hán ???c s? d?ng ?? ch? v? h? ?ã có m?t cái gì ?ó g?n v?i cách phát âm hi?n ??i c?a chính ch? ?ó, và có l? ?ã ??i di?n – nh? Stein và sau ?ó là Bergaigne ?ã nh?n ra – cho m?t s? th? hi?n m?t cái tên nào ?ó mà ng??i Ch?m ?ã s? d?ng cho chính b?n thân h?, nh?ng v? ?i?u ?ó, gi? ?ây chúng ta không th? bi?t ???c. Vì v?y, nghiên c?u c?a Stein v? các cách phát âm thái c? c?a các ch? ?ó là không thích h?p, nh? ?ã ???c Paul Demiéville 30 l?u ý. Hi?u bi?t m?i này v? các c?i ngu?n Ch?m d?a trên c? s? ngôn ng? có ngh?a là ng??i Ch?m ph?i ???c hi?u nh? là m?t trong nh?ng dân t?c ?i bi?n v? ??i c?a ?ông Nam Á ti?n s?, và vì v?y mà v? th? kinh t?-chính tr? c?a Champa c?ng c?n ph?i ???c nhìn nh?n l?i. Ngày nay ?ã có m?t s? ??ng thu?n cho r?ng ??n th? k? XII, ngh? ?i bi?n và th??ng m?i bi?n trong vùng ?ông Nam Á và gi?a ?ông Nam Á v?i Trung Qu?c và ?n ?? là do các nhóm ??a ph??ng chi ph?i, n?i b?t trong s? ?ó là nh?ng ng??i nói ti?ng Nam ??o, k? c? ng??i Ch?m. Di?n gi?i này v? ngu?n g?c ng??i Ch?m và niên ??i t??ng ??i c?a s? ki?n h? c?p b?n t?i khu v?c thu?c Vi?t Nam ngày nay ?ã ?ánh g?c s? ng? v?c lòng kiên ??nh c?a m?t s? nhà nghiên c?u v? tính ?a t?c thu?c c?a Champa c?, t?i thi?u là trong vi?c mô t? các nhóm t?c ng??i g?m có các nhóm riêng r? (nh?ng l?i liên h? g?n g?i) là Ch?m, Jarai, Rhadé, Churu và Raglai c?ng nh? các nhóm Mon – Khmer khác nhau. Ngày nay ng??i ta hi?u r?ng các ngôn ng? Jarai, Rhadé, Churu, Raglai và các ngôn ng? Nam ??o khác t?i Champa và Vi?t Nam v? sau ?ã phát tri?n v??t ra kh?i ngôn ng? Ch?m, và có l? không ph?i là các ngôn ng? riêng bi?t trong giai ?o?n Champa c? ?i?n cho ??n t?n th? k? XV. T? khi ng??i Ch?m ??u tiên chen vào lãnh th? Mon-Khmer, không nghi ng? gì n?a, các chính th? Champa luôn luôn bao g?m m?t s? nhóm ngôn ng? t?c ng??i và vì Champa g?m có các c?ng th? ? c?a các con sông chính, nên m?t s? lãnh th? xem cài nào ?ó có th? dân c? Mon-Khmer luôn luôn ?ông h?n dân c? Nam ??o 31.   Nh? chuyên gia v? ngôn ng? Mon-Khmer Gérard Diffloth ?ã mô t? quá trình ?y:   “B?ng ch?ng ngôn ng? cho th?y r?ng nh?ng gì th?c s? ?ã di?n ra chính là cái mà nh?ng ng??i nói ti?ng Ch?m (C?) ?ã chuy?n ??n m?t lãnh th? (Tây Nguyên) mà lúc ?ó toàn b? do ng??i nói ngôn ng? Mon-Khmer (??c bi?t là nh?ng ng??i nói các lo?i hình ngôn ng? Bahnar, Sre, Mnong, và có l? c? Sedang và các ngôn ng? khác) c? chi?m, ?ã xác l?p vi?c ki?m soát chính tr? ??i v?i h?, và cu?i cùng ?ã làm cho h? chuy?n ??i ngôn ng?, t? b? ngôn ng? Mon-Khmer g?c c?a h? và ch?p nh?n m?t lo?i ngôn ng? Ch?m ?? gi? ?ây ?ã tr? thành Jarai, Rhade, …v.v. ?i?u này ?ã ???c th?c hi?n m?t cách r?t rõ ràng b?ng m?t th?c t? là các lo?i ngôn ng? Ch?m ?ó chính là lo?i hình ngôn ng? Bahna v? ph??ng di?n c?u trúc, ch? không ph?i là Nam ??o, và ng? v?ng c?a h? có ch?a hàng tr?m h?ng m?c t? Bahnaric không ph?i là nh?ng t? vay m??n, mà là nh?ng gì còn gi? l?i ???c t? các ngôn ng? tr??c ?ây. C? t?ng Mon-Khmer trong ngôn ng? Ch?m Núi là r?t rõ ràng và bu?c ta ph?i gi?t mình vì nó ?ã ?ánh l?a ???c các nhà nghiên c?u tr??c ?ây, k? c? Schmidt là ng??i ?ã ??a các nhóm Chamic vào ti?u h? Mon-Khmer [xem thêm Stein, Lâm ?p, ? d??i], khi cho r?ng các nhóm ?ó là “các ngôn ng? pha tr?n”, m?t khái ni?m không còn ???c s? d?ng n?a” 32.   ?ám Copenhagen c?ng ?ã duy trì m?t ý t??ng c? c?a Finot cho r?ng thu?t ng? “Cham/Cam” không ph?i là tên c?a m?t nhóm t?c ng??i, mà ch? là m?t apocopehi?n t??ng m?t âm ch? c?a “Champa”. ?ây là m?t v? trí ??c bi?t ph?i gi?. Cái tên Champa có th? ???c hi?u là m?t s? mô ph?ng cái tên  ????* Champa ? ?n ??, nh?ng vi?c ch?n cái tên ?ó cho m?t khu v?c trên b? bi?n ?ông Nam Á, nh? Stein th?a nh?n, có l? vì cái tên c?a nhóm ng??i ? ?ây có cái gì ?ó gi?ng th? /cam/. Cái tên ?ó có l? do chính h? l?a ch?n sau các chuy?n h?i hành ??n ?n ?? ch? không ph?i là b? bu?c ph?i dùng cái tên ?ó do nh?ng ng??i ?n ?? ?em ??n, nh? Finot tin t??ng m?t cách ch?c ch?n. T? ?i?n c?a Aymonier và Antoine Cabaton n?m 1906 ?ã ??a ra ch? ?aü nh? là cái tên hi?n nay cho h?, b?ng ngôn ng? c?a h?, nh? t? ?i?n n?m 1971 c?a Gérard Moussay, ?ánh v?n trong b?n ch? vi?t Ch?m, phiên âm là c?m. Nh?ng ng??i láng gi?ng hi?n ??i c?a h?, không nghi ng? gì n?a ?ã r?t ngây th? v? các ??nh ki?n ?n ?? h?c, nên ?ã g?i h? là ?am (Rade), cam(Jarai, Chru), cap (Raglai), …v.v; còn cái ???c g?i là Chiêm ti?ng Vi?t ?? di?n gi?i l?ch s? Champa c?, nh?ng phiên b?n Cham c?a h?, h?t nh? cách ??nh danh chính th?c c?a ng??i Trung Qu?c ??i v?i Champa sau th? k? th? IX (?? ZhanchengChiêm Thành) là thành c?a ng??i Ch?m, ch? không ph?i là thành c?a Champa? Ngay b?n thân Po Dharma là ng??i Ch?m, khi không ?? c?p gì ??n ý th?c h? nhóm Paris c?a ông, c?ng có th? ??t tên cho cu?n sách c?a mình m?t cách vô th?c là Quatre lexiques malais-cam anciens B?n t? ?i?n Mã Lai – Ch?m c?, khi không xem xét ??n ngôn ng? Ch?m c? th?c s?, mà là ngôn ng? Ch?m th? k? XIX33. II. V?n ?? Lâm ?p   ??i v?i nh?ng ng??i châu Âu ??u tiên quan tâm ??n v?n ?? này thì l?ch s? Champa ???c b?t ??u b?ng m?t chính th? có tên g?i Lâm ?p (âm c? là Liem-.iep) l?n ??u tiên ???c ghi trong s? li?u Trung Qu?c là ?ã d?y lo?n ch?ng l?i chính quy?n Giao Ch? vào th? k? th? III SCN. Trong su?t các th? k? ti?p theo cho ??n khi cái tên Lâm ?p bi?n m?t kh?i các s? sách Trung Qu?c (và sau này là c? s? sách Vi?t Nam) sau n?m 757, thì nó ???c mô t? là m?t th?c th? hi?u chi?n th??ng gây s?c ép v? phía b?c ch?ng l?i các t?nh do ng??i Trung Qu?c cai qu?n, mà ngày nay là b?c Vi?t Nam. Vì v?y các ghi chép ??u tiên b?ng ch? Hán xác ??nh nó thu?c phía B?c, nh?ng các s? gia ch?ng h?n nh? Maspéro thì l?i tin r?ng bia Võ C?nh g?n Nha Trang là thu?c v? chính th? này, và vì v?y mà Lâm ?p g?c m? r?ng t? xa v? phía B?c cho ??n t?n vùng Nam Trung b? Vi?t Nam ngày nay. Các bi ký b?ng ch? Ph?n và ch? Ch?m th?y có t? th? k? V t?i vùng l?u v?c sông Thu B?n, trong s? ?ó quan tr?ng nh?t là bia M? S?n, và ti?p t?c phát tri?n v? s? l??ng và t?m quan tr?ng cho ??n th? k? VIII ??u ???c coi là thu?c chính th? mà ng??i Trung Qu?c g?i là Lâm ?p này, và gi? thuy?t ?ó ?ã c?ng c? cho quan ?i?m coi Lâm ?p và Champa là m?t.       S? sách Trung Qu?c không di?n gi?i gì v? Lâm ?p, t?i thi?u nh? ?ã mô t? trong các v?n li?u hi?n th?i, ch?ng h?n nh? vi?c cung c?p các ch? d?n c? th? v? t?c thu?c ho?c ngôn ng?. N?u các di tích kh?o c? h?c v? Sa Hu?nh th?c s? ??i di?n cho ng??i Ch?m thì các di tích xa v? phía Nam c?a vùng này d??ng nh? l?i ???c ph?n ánh trong các s? li?u Trung Qu?c vi?t v? Lâm ?p. H?n n?a, ngoài các di tích kh?o c? h?c ra thì không có ghi chép ???ng th?i nào khác c?a ??a ph??ng (ch?ng h?n bi ký) cho ??n khi có t?m bia ch? Ch?m ??u tiên có niên ??i gi? ??nh thu?c th? k? IV, và muôn h?n ?ôi chút là các bi ký ch? Ph?n g?n li?n v?i Champa, nh?ng toàn b? các bi ký này d??ng nh? c?ng là phía nam Lâm ?p nh? các v?n li?u Trung Qu?c mô t?. Stein c?ng ?ã l?u ý v? các v?n ?? này, và sau khi ??c k? các ngu?n t? li?u Trung Qu?c liên quan, ông cho r?ng trung tâm c?a Lâm ?p s?m là ? Qusu [??* Khu Túc?]/Ba ??n, phía b?c c?a cái có v? ???c coi là trung tâm ch? y?u c?a ng??i Ch?m, và cho r?ng s? h?p nh?t gi?a hai vùng – n?u ?i?u ?ó ?ã x?y ra – không ph?i mãi cho ??n th? k? th? VI. Tuy nhiên ông c?ng nh?n r?ng, th? ?ô c?a Lâm ?p mà ng??i Trung Qu?c ?ã c??p phá n?m 605 có l? là Trà Ki?u, n?i mà các phát hi?n kh?o c? h?c d??ng nh? cho th?y là thu?c v? Champa, và có th? là trung tâm c?a Champa t? th? k? I ho?c th? k? II 34.     Trong m?t xu?t b?n ph?m tr??c ?ây, tôi cho r?ng Lâm ?p v? m?t ngôn ng? là thu?c Mon – Khmer, nh?ng có l? tôi th?y r?ng m?t b? ph?n c?a nó có th? b? h?p thu vào Champa trong th?i gian ng??i Trung Qu?c v?n còn ?ang s? d?ng cái tên Lâm ?p, và ?i?u ?ó ???c th? hi?n trong cu?c xâm chi?m n?m 605 nh? ?ã ???c Stein phân tích 35. Có l? tôi v?n thiên v? ý ki?n cho r?ng nhóm ngôn ng?-t?c ng??i ch? y?u c?a Lâm ?p là Mon-Khmer, có l? thu?c ngành Katu, ho?c th?m chí thu?c ngành Vi?t ho?c Vi?t M??ng chuy?n v? phía b?c khi ng??i Trung Qu?c l?n ??u tiên bi?t v? h?, cho ??n khi h? h?p nh?t thành cái mà cu?i cùng tr? thành Vi?t Nam ??u tiên. Gi? ?ây các nhà ngôn ng? cho r?ng ??a bàn g?c c?a các ngôn ng? Vi?t – M??ng là Ngh? An, và Urheimat [Nguyên quán*] c?a ngành Katu là ? Trung Lào 36. Cùng v?i quá trình này, ng??i Ch?m, mà trung tâm ??u tiên có nhi?u kh? n?ng nh?t là Trà Ki?u, c?ng ?ã m? r?ng v? phía b?c ??n cái ???c g?i là lãnh th? Lâm ?p c?, mà ng??i Trung Quôc không bi?t ho?c không quan tâm ??n nó, chính là các ph?c h?p ngôn ng?-t?c ng??i ???c ti?p t?c g?i là “Lâm ?p” cho ??n gi?a th? k? VIII.   G?i ý bu?i ??u c?a tôi là Lâm ?p là Mon-Khmer c?n c? vào t??c v? Fan ???c ng??i Trung Qu?c s? d?ng cho c? th? l?nh Lâm ?p l?n m?t s? th? l?nh s?m c?a Phù Nam, và ??i v?i Phù Nam, tôi th?y t??ng ?ng v?i t??c v? poñ ???c s? d?ng cho th? l?nh ??a ph??ng, v?n th??ng th?y trong các bi ký Khmer th? k? VII, nh?ng l?i không bao gi? th?y k? t? gi?a th? k? VIII. Poñ là t??c v? Khmer duy nh?t hoàn toàn t??ng ??ng v? ngh?a v?i Fan, cách phát âm c? là b’iwAm 37. Fan ??u tiên ? Lâm ?p là Fan Xiong/Ph?m Hùng [? ?* Ph?m Hùng] ???c ghi l?i vào th? k? IV còn Fan cu?i cùng là th? k? VII. V? sau không th?y Fan xu?t hi?n trong danh m?c s? li?u Trung Qu?c và Vi?t Nam vi?t v? các th? l?nh Lâm ?p và Champa n?a. H?t nh? m?t Fan nào ?ó trong s? li?u Trung Qu?c v? Phù Nam ?ã ???c mô t? là “t??ng” nh?ng l?i không ph?i là các th? l?nh tr? vì, còn các poñ nào ?ó trong các bi ký Khmer th? k? VII l?i là nh?ng hình t??ng t?i cao khác trong vùng c?a h?, vì v?y t?i Lâm ?p c?ng có Fan, không ???c coi là nh?ng ng??i tr? vì. M?t V?n nào ?ó, xu?t thân nghèo kh? nh?ng cu?i cùng ?ã tr? thành Fan, ???c mô t? là ?ã tr? thành th? l?nh t?i Tây Quy?n, nh?ng l?i không ph?i là ng??i tr? vì Lâm ?p, có tên là Fan Chui [???* Ph?m Chút, Ph?m Tr?n Thành] ; có m?t nhân v?t Fan Jian ??* [Ph?m Ki?n] , là t??ng c?a th? l?nh Lâm ?p Fan Huda [???* Ph?m H? ??t]; hai Fan khác không ph?i là vua c?ng th?y d??i tri?u Fan Yang Mah [???*Ph?m D??ng M?i]; m?t s? th?n c?a Fan Yang Mah II ?ã ???c phong t??c Fan Long Pa; và m?t Ph?m (= Fan) nào ?ó tên Côn Sa ??t … không ???c Maspéro ?? c?p ??n, nh?ng l?i ???c ghi trong chính s? Vi?t. Còn có m?t Fan Xiong [? ?* Ph?m Hùng] th? hai d??ng nh? ?ã c?nh tranh v?i ng??i tr? vì Lâm ?p Fan Huda[???* Ph?m H? ??t] b?ng vi?c g?i m?t s? th?n ??n Trung Quôc, khi?n cho Maspéro ?ã có ?ôi chút h? c?u l?ch s? 38.      T? th? k? th? V ??n gi?a th? k? VIII có hai t?p h?p s? li?u – các bi ký b?ng ch? Ch?m và các bi ký ch? Ph?n ghi l?i các ho?t ??ng (th??ng là gây chi?n) c?a Lâm ?p d??i s? lãnh ??o c?a các Fan. ??i v?i Maspéro, và ??i v?i h?u h?t các s? gia sau này, hai t?p ghi chép ?y liên quan ??n cùng m?t chính th?, và nh?ng cái tên ?n ?? trong các bi ký ???c ??ng nh?t v?i nh?ng cái tên Fan nh? ?ã th?y qua các s? li?u Trung Qu?c. Các di tích ki?n trúc th? k? VII – VIII phía nam Hu?, thu?c l?u v?c sông Thu B?n rõ ràng thu?c v? m?t chính th? có th? có lý ?? g?i là “Champa”, b? sung cho các bi ký, trong khi các ngu?n s? li?u Trung Qu?c và sau này là Vi?t Nam ti?p t?c cho bi?t nh?ng cái tên mà Maspéro ??ng nh?t v?i cùng các nhân v?t tr? vì th??ng v?i nhi?u t??ng t??ng.         L?n l?n nghiêm tr?ng trong cách x? lý c?a Maspéro v? các s? li?u Trung Qu?c và các bi ký Champa b?t ??u t? s?m, trong “tri?u ?
0 Rating 439 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On July 25, 2017
Ngôi Nhà C?ng ??ng Champa – Gi?c M? Thành Hi?n Th?c “M? m?t mái nhà N?i ch?a ???c c? h?n ta và H?n Tháp". Vâng, gi?c m? ?y luôn hi?n di?n trong m?i tâm h?n Cham. M?t mái nhà, n?i h?i t?, tr?ng bày nh?ng m?nh v?n di s?n v?n hóa v?n minh Cham, ?i?m ??n cho bà con anh ch? em Cham, và c? nh?ng ng??i yêu v?n hóa Cham tìm v?. M?t mái nhà, n?i tìm v? ngu?n c?i cho nh?ng cánh chim non tr??ng thành n?i ??t khách. M?t mái nhà cho các c? già thong th? ?ón hoàng hôn. Nhi?u th? h? tr??c ?ã m?, h?n 10 n?m tr??c Ch? Linh c?ng ?ã m?t l?n m? “Nhà V?n Hóa Champa – 2006”. Và hôm nay H?i V?n Hóa Truy?n Th?ng Champa USA ?ã và ?ang hóa gi?c m? ?y thành hi?n th?c: Ngôi Nhà C?ng ??ng Champa. M?y ngày này c?ng ??ng Cham Sacramento xôn xao tranh mua khu ??t vàng b? hoang gi? lòng thành ph?. Cái khó là h? b?t ph?i gi?i quy?t trong vòng 1 tu?n mà Cham ch?ng m?y ng??i có s?n ti?n trong ngân hàng. Xoay s? toát m? hôi v?n thi?u 1/4 giá tr?. T??ng ch?ng nh? không th?, phút cu?i m?t t?m lòng Cham g?i v? cho m??n mi?n phí ?? hoàn t?t h? s?. Không khí nh? bùng v?. C?ng ??ng khá nghèo, ?a ph?n là ng??i già, thanh niên, tr? con, và m?t vài c?p v? ch?ng thi?u-trung-niên cày b?a ngang d?c nh?ng ?ã ch?m ???c tay s? h?u. ?ó là m?t k? tích! Xây d?ng nhà c?ng ??ng l?n này chúng tôi nhi?u l?n b?t khóc b?i nh?ng t?m lòng. Ng??i thì c?m nhà, ng??i thì rút ti?n h?u. Vài cháu sinh viên nói “cháu còn m?t ít ti?n tiêu v?t nh?ng có th? cho m??n”. M?t anh tài xé xe t?i xuyên bang g?i v? nói “Chuy?n này ???c bao nhiêu t?ng h?t”. Nh?ng c?m xúc c? dâng trào, có l? Ngôi Nhà C?ng ??ng Champa ?ã ch?m vào lòng, ch?m vào nh?ng khát khao nên m?i s? ??u tr?n tru khó t?. Chi?u nay tôi ?i ngang qua m?nh ??t ?y, tôi ?ã cúi ??u kh?n nguy?n vì bi?t ??ng Linh Thiêng ?ã v? ng? tr? n?i ?y. N?u không có s? linh thiêng thì trong vòng 3 ngày m?i s? ?ã không ???c suông s? nh? th?. Hi?n nay ngôi nhà ch? là m?t ??ng ?? nát, nh?ng chúng tôi quy?t tâm xây d?ng dù ch? t? ?óng tro tàn. Nh?ng l?i chúc m?ng g?i v? nh? thác ??, xin chân thành c?m ?n. Xin tri ân nh?ng t?m lòng và nh?ng món quà ?ã g?i v? khi nghe tin Ngôi Nhà C?ng ??ng Champa ?ang tr? thành hi?n th?c. Và c?ng ??ng c?ng mong ch? nh?ng t?m lòng vàng góp thêm nh?ng bàn tay. Chân Thành Tri Ân L?u Quang Sáng T?ng Th? Ký H?i VHTT Champa USA ??c bi?t xin gi?i thi?u bài vi?t c?a nhà v?n Inrasa g?i v? nh? m?t món quà tinh th?n. Inrasara NGÔI NHÀ C?NG ??NG CHAMPA H?I NGO?I & TÍNH BI?U T??NG M?i dân t?c luôn có m?t/ m?t vài bi?u t??ng. Các y?u t? làm thành bi?u t??ng:  - ??a ?i?m, ?i kèm m?nh ??t là ki?n trúc hay th?p h?n: c? s? v?t ch?t, là n?i ch?n thu hút c?ng ??ng tr? v?, nh? v?, h??ng v?;  - M?t bi?u t??ng ?úng ngh?a không phân bi?t tôn giáo, tín ng??ng, ý th?c h? xã h?i hay n?i c? trú c?a thành viên dân t?c;  - Bi?u t??ng ?a ph?n mang tính Tinh th?n và ???c ??i b? ph?n c?ng ??ng tin t??ng và g?i g?m ni?m tin yêu vào ?ó. V?i Cham, Tháp Chàm là m?t bi?u t??ng. Bi?u t??ng xa và dài làm thành vô th?c c?ng ??ng không th? xóa nhòa. Cham hãnh di?n vì Tháp và ?au kh? c?ng b?i Tháp, yêu th??ng hay gi?n d? c?ng t? Tháp và qua Tháp. Dù b?n ?i xa ??n ?âu, b?n mang ??c tin nào b?t kì, có th? c? ??i b?n ch?a m?t l?n lên Tháp, ho?c có ý ??nh hành h??ng ??t Tháp - Tháp v?n c? là bi?u t??ng ? th?m sâu tâm linh b?n. ??a con Cham ??ng hóa mình v?i Tháp. T?i sao? Tháp là c?m ki?n trúc ng? ? m?t n?i ch?n nh?t ??nh: m?nh ??t c?a v??ng qu?c Champa c?; n?i ?âu có tháp, ?ó là ??t Champa. Tháp Chàm dù xu?t phát ?n ?? giáo và ???c d?ng lên ?? th? các v? th?n liên quan ??n ?n giáo, nh?ng v?i m?i sinh linh Cham, Tháp là c?a chung, n?i Cham hành h??ng, th? ph?ng các v? vua Champa [không là c?a riêng ai] ???c c?ng ??ng Cham th?n hóa cùng các v? anh hùng li?t n?, và vô s? con ng??i vô danh góp công xây d?ng non sông ??t n??c. M?t bi?u t??ng xa và x?a nh? Tháp Chàm, thì khó có th? th?t truy?n trong tâm th?c con dân Cham. Ng??c l?i, có nh?ng bi?u t??ng th?t truy?n… Tr??c n?m 1975, Tr??ng Trung h?c Pô-Klong, Trung tâm V?n hóa Chàm là bi?u t??ng. Ho?c tr??c n?a: Huy?n An Ph??c và Huy?n Phan Lý Chàm là bi?u t??ng. Khi hai huy?n kia vài l?n chia và tách, cu?i cùng tan rã, bi?u t??ng mang tính hành chính th?t truy?n nhanh chóng. Chúng ch? còn l?a l?i trong kí ?c ng??i già, ?? làm c? s? ??i sánh, khi c?ng ??ng Cham h?u s? v?i t? ch?c chính quy?n s? t?i sau ?ó. Trung tâm V?n hóa Chàm - dù do ng??i Pháp thành l?p và cai qu?n -, v?i Cham, là m?t bi?u t??ng. C?ng nh? sau 1975, Ban Biên so?n sách ch? Cham do Nhà n??c CHXHCNVN thành l?p, là bi?u t??ng. Hai c? s? này có ?? y?u t? làm thành bi?u t??ng, trong ?ó y?u t? quan tr?ng nh?t là: Nó thu hút Cham ??n sinh ho?t, Cham h??ng v? - ngh?a là h?n vía Cham g?i g?m ? ?ó.  R?i khi BBS m?t “??t”, không có Cham nào ghé qua n?a: bi?u t??ng th?t truy?n.  Trung tâm Nghiên c?u V?n hóa Ch?m hi?n nay ng??c l?i, c? s? v?n là m?nh ??t ?ó, ??p và khang trang m??i l?n h?n, khi m?nh ??t ?ó không v?y g?i Cham ??n, nh?: Bà con nh? ???ng ghé qua tá túc, ng??i có ch? h?n g?p m?t trao ??i, cô chú qua nh? v? vi?c riêng t?, th?m chí cánh trai tr? t?t vào ?n u?ng nh?u nh?t… thì Trung tâm ch? còn là “trung tâm” nghiên c?u ??n và thu?n không h?n không kém. Cham có thêm m?t bi?u t??ng th?t truy?n. Xã h?i Cham hi?n ??i, Tr??ng Trung h?c Pô-Klong là m?t bi?u t??ng l?n nh?t, ?áng hãnh di?n nh?t - ch?c ch?n th?! Tr??ng mang tên v? vua anh minh trong l?ch s? Champa: Pô Klong Girai do Cham thành l?p, xây d?ng và phát tri?n trên chính “m?nh ??t Cham”, b?ng m? hôi n??c m?t c?a mình. Pô-Klong t?p h?p g?n nh? t?t c? con em Cham ? Ninh Thu?n và Bình Thu?n ??n h?c t?p và sinh ho?t kéo theo ph? huynh các n?i th??ng xuyên ghé kí túc xá th?m nom con cái. Th?y Cham [?a ph?n] và h?c sinh Cham, sinh ho?t Cham và v?n ngh? Cham, có ??c san cho Cham do chính các cây bút Cham vi?t…  Th? nh?ng sau 1975, khi Tr??ng Trung h?c Pô-Klong ???c Nhà n??c ti?p qu?n, vài b?n thay tên ??i h?, Cham t?n ?i kh?p n?i, Tr??ng m?t d?n h?i th? và nay ch? còn là cái xác không h?n [Cham]. M?t bi?u t??ng th?t truy?n t? t?, chua xót và ?au ??n. Cham còn bi?u t??ng nào không? Tagalau ch?ng? Không! Tagalau dù thu hút non 300 tác gi? Cham kh?p n?i vi?t, và… ch? là m?nh ghép ph? tr? cho bi?u t??ng, ch? không th? là m?t bi?u t??ng. ?? m?i Katê, Ram?w?n hay Rija N?gar, Cham c?m nó trên tay, và nh?. Nh? v? nh?ng bi?u t??ng. Henri Miller: D??ng nh? s? m?nh chính c?a con ng??i trên m?t ??t này, là nh?.  Hôm nay, Cham còn bi?u t??ng nào ?? nh?? Tháp Chàm!  Dù khói nhang ?ang mù m?t ??i Tháp ngày ?êm, dù thân Tháp ???c/ b? ph?c ch? và nâng c?p theo cách nhìn c?a v?n hóa du l?ch, dù t??ng Tháp ???c/ b? nâng b? cao ngang ng??i cho ai không bi?t, và nh?t là khi sinh linh Cham hành h??ng ??t Tháp b?/ ???c ch?n c?a bán vé – Tháp v?n c? là bi?u t??ng, m?t bi?u t??ng b?t kh? th?t truy?n.  Còn gì n?a? Hôm nay và ngày mai… Ngôi Nhà C?ng ??ng Champa H?i ngo?i, có l?. – T?i sao không?
0 Rating 386 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 26, 2017
  Written by Wa Praong from facebook Khi ti?ng ve b?t ??u ngân vang, cái n?ng b?t ??u lên ??nh ?i?m kh?c nghi?t kh?p các thôn làng ng??i Ch?m chu?n b? cho m?t l? t?c ??u n?m có tên g?i là Rija nâgar Rija nâgar là m?t tín ng??ng dân gian có t? lâu ??i, theo quan ni?m c?a ng??i Ch?m ?ây là m?t l? c?u xin s? bình an, cho m?a thu?n gió hòa khi b?t ??u m?t n?m m?i, ??ng th?i c?ng là d?p t?y u? nh?ng gì không may m?n c?a n?m c?. Qua l? t?c này ng??i Ch?m th? hi?n ni?m tin vào th? l?c siêu nhiên mang m?t ý ni?m v? m?t tinh th?n, cùng các bái kh?n t? nói lên m?t cái gì ?ó c?a l?ch s? dân t?c. Có th? chia l? t?c Rija nâgar ? ph?n chính: th? nh?t là l? chung c?a c? c?ng ??ng cùng góp làm, th? hai là l? cá nhân c?a m?i gia ?ình còn g?i là ba ahar mah. Rija chung c?a palei (làng) : B?t ??u vào ngày th? n?m (th??ng tu?n tháng 1 Ch?m l?ch) c? làng t?p chung t?i nhà làng (sang palei), m?i ng??i m?t nhi?m v? riêng do m?t ng??i l?n trong làng am hi?u v? v?n hóa, phong t?c h??ng d?n. Th?i gian l?: Bu?i chi?u th? n?m là ngày vào, ngày vào theo quan ni?m c?a ng??i Ch?m là ngày cúng cho th?n Yang m?i, v? l? v?t chính c?a ngày này là ba con gà và tr?ng, sáng ngày th? sáu là ngày ra là ngày cúng cho th?n Yang c?, l? v?t là m?t con dê. Ng??i Ch?m có câu "tamâ manuk tabiak pabaiy". Tuy ng??i Ch?m có quan ni?m là ngày vào cúng cho th?n Yang m?i và ngày ra cúng cho th?n Yang c? nh?ng trong n?i dung bài cúng c?a ông Maduen thì có s? hòa h?p gi?a th?n Yang c? và m?i không phân bi?t. ?ó là m?t s? khôn khéo c?a dân t?c Ch?m trong vi?c hòa h?p tín ng??ng Bàlamôn và Bani. Ch?c s?c làm l? bao g?m : Ông ka-ing, ông maduen. Bên c?nh ?ó có các ngh? nhân ?ánh tr?ng Gineng và th?i kèn Saranai. Trong quá trình hành l?, ch?c s?c ch? l? là ông Ka-ing làm trung tâm, ông là ng??i ??i di?n c?ng ??ng liên l?c v?i th?n Yang b?ng nh?ng l?i kh?n vái và các ?i?u múa c?ng nh? lúc lên ??ng. Còn ch?c s?c ông Maduen v?i cái tr?ng Baranâng v?a v? v?a hát các bài nói lên công ?n c?a các v? th?n ??i v?i tr?n th? c?ng nh? c?ng ??ng, bên c?nh ?ó các ngh? nhân gineng và saranai c?ng hòa nh?p vào làm cho không khí l? càng thêm ph?n linh thiêng và r?n ràng h?n. Các l? v?t và các món dùng ?? cúng trong Rija nâgar bao g?m : M?t con dê, ba con gà, m?t mâm c?m ( lisei thap). Chi?u th? n?m ( ngày vào) ng??i ta cúng ba con gà. Riêng Po Haniim Par ng??i ta ??t m?t mâm c?m (lisei thap), m?t qu? tr?ng gà và m?t con gà lu?c còn các th?n Yang khác là th?t gà xé nh? và x??ng gà b?m nh? ?? làm mâm l? talai lisei hop (h?p c?m), b?n mâm c?m và ba cambah raba (d?a th?t và chén canh). Sáng th? sáu là ngày ra ng??i ta làm m?t con dê l?y th?t thái nh?, x??ng b?m nh? ?? làm mâm l? talai lisei hop, patuy, b?n mâm c?m và ba cambah ?? cúng th?n Yang. Ngoài ra còn có các món nh? : Canh gà, canh môn th?t dê, aia tanut th?t dê. Trong l? t?c nh?t ??nh ph?i có: tr?u, r??u, g?o n?, xôi và hoa qu? ( d?a, chu?i, mía…). ??c bi?t qu? l?u và bông ?i?p là hai th? r?t quan tr?ng nó mang m?t ý ni?m sâu xa, cây mía dùng ?? ông Ka-ing múa bài chèo thuy?n nói v? Po Tang Haok. Các v? th?n trong l? t?c bao g?m : Po Haniim Par, Po Tang Haok, Po Tang, Po Gihluw, Po Than, Po Riyak. ?ó là các v? th?n theo ng??i Ch?m quan ni?m là th?n Yang m?i. Ngoài ra còn có : Po Thun Girai (Po Klaong), Po Girai Bhaok, Po Rame, Po Sah inâ, Po Klaong Kasat, Po Cei Tathun, Cei Dalim, Cei Sit, Cei Praong, Po Patra và Po Nai. Ng??i Ch?m v?n là dân t?c có tín ng??ng th? ?a th?n vì v?y trong các l? t?c ng??i Ch?m có th? m?i g?i t?t c? các th?n Yang mà h? cho là quan tr?ng trong l? t?c ?ó. Có th? nói trong l? t?c Rija nâgar vi?c múa l?a là r?t ??c bi?t ông Ka-ing ??p lên ??ng l?a ?ang l?ng cháy, múa l?a là m?t ?i?u múa th? hi?n ý chí và tinh th?n b?t khu?t c?a dân t?c, nh?ng th?i gian càng trôi v? sau này thì tinh th?n ?y không còn n?a. Ngày tr??c ông Ka-ing múa l?a khi?n cho bao ng??i ph?i kinh ng?c và cu?n hút ng??i xem, ph?i ch?ng lúc ?ó tinh th?n c?a dân t?c Ch?m v?n còn dâng trào?, còn ngày nay thì ng??c l?i ?i?u ?ó làm m?t ?i tính ch?t linh thiêng c?a ngày l?. Ngày tr??c Po Riyak v??t trùng kh?i bi?t bao hi?m nguy ?? ?i h?c h?i v?n hóa n??c b?n v? truy?n ??t cho th?n dân Champa, Po Tang Haok chèo thuy?n ?i chinh chi?n ?? b?o v? quê h??ng x? s?. Tuy ?ó là s? h? c?u c?a dân gian nh?ng cho chúng ta m?t bài h?c ?ó là tinh th?n b?t khu?t. Ph?n l? mah : là l? c?a gia ?ình ?êm l? v?t c?a gia ?ình ?? bày t? lòng thành c?a mình v?i th?n Yang. ( L?u ý: tùy thu?c vào làng ng??i ta có th? cúng l? v?t là hoa qua hay hay gà…). Ph?n l? này ng??i ta ?em v?t cúng ??n tr??c c?ng làng hay ??n khu v?c có th? các th?n ( danaok). Nói chung Rija nâgar c?a dân t?c Ch?m nó là l? t?c mang ??m b?n s?c Champa,trong cùng th?i gian này các n??c ? khu v?c ?ông Nam Á ?i?u di?n ra nhi?u l? h?i và Rija Nagar Ch?m c?ng n?m trong ngày ?ó. P/s: Th? 5 ngày 27 tháng 4, b?t ??u vào l? ? các làng Ch?m Ahier. Riêng Awal mình ch?a c?p nhât. N?m nay có s? khác bi?t. Mik wa ley gilac nagar Auen saong raok Rija Nagar Cam.    
0 Rating 318 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 26, 2017
 BAN THANH NIÊN BHUM KAWEI PALEI RAM T?I HOA K?                                        ---o0o--- San Jose: Ngày 10 Tháng 4 N?m 2017 TH? M?I Kính g?i: Quí ??ng h??ng, Trong không khí hân hoan ?ón m?ng ngày l? h?i Harei Mukei –Ram?wan truy?n th?ng, và ?? cùng hòa nh?p chung v?i bà con Ch?m ? quê nhà, Ban Thanh Niên Bhum Kawei Palei Ram trân tr?ng kính m?i quí ??ng h??ng vui lòng b? chút th?i gian quí báu ?? ??n tham d? ngày l? h?i truy?n th?ng -Harei Mukei n?m nay s? ???c t? ch?c vào Th? B?y, Ngày 20 Tháng 05 N?m 2017. Ch??ng trình l? h?i: 1. Tr?n ??u bóng ?á giao h?u: T? 2 gi? - 4 gi? chi?u Gi?a ??i tuy?n Cham Thanh niên Sacramento và Thanh niên Ch?m San Jose ??a ?i?m: Ocala Middle School                 2800 Ocala Avenue San Jose, CA 95148 2. Ch??ng trình V?n Ngh?: T? 5 gi? - 7 gi? chi?u ??a ?i?m: Trung Tâm Sinh Ho?t C?ng ??ng                  111 E Gish Rd, San Jose, CA 95112 T? 7gi? - 10 gi? t?i: Dùng c?m thân m?t và D? v? Dùng c?m thân m?t, ??c bi?t trong d?p này, quí v? s? có nh?ng món ?n ??c thù theo truy?n th?ng Ch?m nh? Pei-nung, Pei-glik, và La-kaya… ?? cùng chia s? ??n quí ??ng h??ng. S? hi?n di?n c?a quí ??ng h??ng là ni?m vinh d?, và khích l? l?n lao cho Ban Thanh Niên c?ng nh? nói lên tinh th?n ?oàn k?t, cùng gìn gi? phong t?c truy?n th?ng v?n hoá dân t?c ? x? ng??i. Trân tr?ng, T.M Ban Thanh Niên Bhum Kawei Palei Ram t?i Hoa K?, Tr??ng Ban,   Sarif Châu  Cell: (408) 821-4708    
0 Rating 330 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 12, 2017
  Hoa Kỳ là một nước lớn nhưng có những giai đoạn trong lịch sử vì hai chính đảng, Dân Chủ và Cộng Hoà, không chịu nhượng bộ nhau nên đã xảy ra những cuộc khủng hoảng chính trị gây tổn hại không ít cho quốc gia. Do đó vào thập niên cuối của thế kỷ 20 họ muốn đi tìm một nền tảng chính trị ổn định hơn, bằng cách theo thể chế trung dung. Nghĩa là tìm kiếm một chính trị gia ôn hoà không quá thiên về phía cực nào, bên tả cũng như hữu. Nên trong một bài xã luận trên tuần báo Business Week, khi nói về cuộc bầu cử tổng thống, một tác giả đã nhấn mạnh là trong năm 1996 cử tri muốn lãnh đạo của họ phải theo hướng ôn hoà. Năm 1992, Bill Clinton đã đánh bại George Herbert Walker Bush chỉ sau một nhiệm kỳ làm tổng thống, bằng cách mô tả mình là một chính trị gia mới của đảng Dân Chủ, một người ôn hoà, một ứng cử viên đến từ ngoài Washington không bị những phê phái chính trị ở thủ đô ảnh hưởng. Lúc ấy ông đang là thống đốc của tiểu bang Arkansas và hứa là sẽ làm giảm nhẹ đi những chính sách cồng kềnh quá tốn kém của quốc gia. Nhưng khi nắm được chính quyền trong tay, thì ông lại rơi vào thế chẳng khác gì các chính trị gia tiền nhiệm của mình gặp, ấy là bị các nhóm lợi ích ảnh hưởng lôi kéo đi theo chủ nghĩa tự do quá trớn của bên tả. Kết quả là đã đem đến sự thảm hoạ lớn lao cho đảng Dân Chủ. Do đó mà chỉ hai năm sau nhiệm kỳ thứ nhất của Tổng thống Bill Clinton, đảng Cộng Hoà đã thắng lớn trong kỳ bầu cử vào năm 1994. Đây là lần đầu tiên trong bốn mươi năm đảng Cộng Hoà nắm quyền kiểm soát cả hai viện của Quốc Hội. Chủ tịch Hạ Viện Newt Gingrich thuộc đảng Cộng Hoà, một người trực tính đòi xoá bỏ chính sách welfare của nhà nước, nghĩa là xoá bỏ chương trình phúc lợi xã hội quá lớn lao của đảng Dân Chủ. Tuy nhiên, không bao lâu sau đảng Cộng Hoà cũng sớm nhận thức về sự ngạo mạn quá cực đoan của mình, nó cũng là mồ chôn của chính họ. Sự bất đồng của hai chính đảng đã dẫn đến việc đóng cửa các cơ quan nhà nước liên bang hai lần, từ ngày 14 đến 19 tháng 11 năm 1995 và từ 16 tháng 12 năm 1995 đến ngày 6 tháng 1 năm 1996. Trong 26 ngày ấy đã làm tốn mất ngân sách quốc gia hết 1 tỉ 4 đô-la Mỹ, chưa kể đến những mất mát khác. Trong cơn khủng hoảng, Tổng thống Bill Clinton đã làm một việc ngay cả đảng Cộng Hoà phải ngạc nhiên, ấy là ông chuyển hướng từ phía cực tả về thế trung dung. Ngay trong bài diễn văn “State of the Union” của năm ấy, ông đã kết nạp chương trình cải cách phúc lợi xã hội và cân bằng ngân sách quốc gia của Cộng Hoà vào trong chính sách. Cuộc đấu đá giữa hai đảng Dân Chủ nắm quyền kiểm soát Cơ Quan Hành Pháp và Cộng Hoà nắm quyền kiểm soát Cơ Quan Lập Pháp vào những năm từ 1994 đến đầu năm 1996 là cao điểm. Cuộc khủng hoảng trên một phần do chính sách của hai chính đảng khác xa nhau và một phần là do hai vị lãnh đạo của hai đảng thời ấy quá cực đoan. Sau cuộc khủng hoảng lịch sử này, Tổng thống Bill Clinton của Dân Chủ và Chủ tịch Quốc Hội Newt Gingrich của Cộng Hoà đã chịu nhân nhượng nhau, làm việc hướng về quyền lợi đích thực của quốc gia. Nhờ vậy họ đã cùng tìm ra những giải pháp tốt đẹp, để đem lại những phúc lợi lớn lao cho toàn dân. Đây là bài học mà chúng ta nên học, bài học này có thể áp dụng cho tất cả mọi tầng lớp từ chính quyền lớn như Mỹ đến cộng đồng nhỏ như người Chăm chúng ta. Ấy là hợp tác với nhau để cùng đem lại quyền lợi thiết thực chung cho cộng đồng và dân tộc chúng ta. Dĩ nhiên là khi làm việc chúng ta không tránh khỏi những bất đồng, nhưng mỗi khi sự bất đồng đến chúng ta hãy ngồi lại để tìm ra phương cách tốt đẹp. Hầu tránh bớt đi những căng thẳng, giảm thiểu đi những bất đồng. Những dị biệt về chính kiến, quan điểm và ngay cả phương pháp làm việc có thể san bằng được nếu chúng ta chịu ngồi lại bàn bạc và làm việc chung với nhau. Ao ước lớn lao của hầu hết người Chăm là làm sao người mình có thể làm việc chung với nhau, hầu giải toả những bất hoà. Sau cuộc khủng hoảng đó Tổng thống Bill Clinton và Chủ tịch Quốc Hội Newt Gingrich đã cùng làm việc chung với nhau, nhờ đó họ đã cùng nhau với bao thế hệ kế tiếp thừa hưởng cái phương pháp làm việc tốt đẹp, giúp đưa đất nước Hoa Kỳ đến vị thế siêu cường quốc như bây giờ. Cuộc khủng hoảng sau kỳ hội thảo về “Lịch Sử Ngôn Ngữ và Chữ Viết Chăm” diễn ra trong hai ngày là 21 và 22 tháng 9 năm 2006 tại Kuala Lumpur Malaysia đến nay đã hơn 10 năm mà những nhà trí thức Chăm chưa tìm ra giải pháp. Hơn 10 năm nay với biết bao bài viết bình luận và tranh luận với nhau trên nhiều diễn đàn, nhất là trên mạng xã hội. Nhưng kết cuộc thì cũng chỉ là những cuộc tranh luận kéo dài, dường như không có hồi kết. Làm cho nhiều người cứ mãi băn khoăn, là với ngần ấy thời giờ, công sức và trí tuệ thì tại sao mình không nghĩ đến cách ít tốn kém hơn, bớt ồn ào hơn. Ấy là đến gặp nhau để tay bắt mặt mừng, bốn mắt nhìn nhau nói lên cái trăn trở, cái ưu tư và ngay cả cái bất đồng của mình cho nhau nghe một cách trực tiếp và rõ ràng. Để từ đó mà mình với nhau cùng tìm ra giải pháp, nếu như một lần không xong thì cứ tiếp tục thêm lần khác nữa. Tại Hoa Kỳ, trong toà nhà Quốc Hội, nơi mà tôi đã có những lần đặt chân đến, người Mỹ họ vì đại cuộc mà những chính trị gia có khi tranh luận với nhau một cách hăng say. Nhưng dù sao đi nữa, những ngôn từ mà họ dùng để tranh luận với nhau có chừng mực và đầy sự thuyết phục. Nếu chúng ta học được nơi người để áp dụng cho chính mình, thì những trao đổi giữa mình với nhau dù là thuộc đề tài nóng hổi chăng nữa cũng ít gay gắt hơn. Vì cuối cùng chúng ta cũng phải làm việc với nhau, nếu như ai đó thực sự có còn quan tâm đến số phận chung của người Chăm, để có thể cùng giải quyết những vấn đề còn nổi cổm khác trong xã hội chúng ta. Đồng bào Chăm của chúng ta trải dài qua bao thế kỷ, đã sinh ra và lớn lên trong những hoàn cảnh thật là đau thương và thiếu thốn mọi bề. Chúng ta thật không có gì nhiều để ban cho hoặc giúp đỡ, nhưng điều chúng ta có thể làm được là hãy yêu thương nhau hòng hàn gắn lại những thương đau. Nếu như vấn đề Ngôn Ngữ và Chữ Viết Chăm đã được giải quyết ổn thoả, thì hãy gát qua một bên để làm công việc khác. Còn không, thì hãy cứ tiếp tục trao đổi với nhau, nhưng theo phương cách ít ồn ào và ôn hoà nhất. Hầu đem lại phần nào sự đoàn kết và yên vui cho mọi người Chăm. Dù sống ở đâu, trên chính quê hương xưa cũ hay nơi xứ lạ quê người.   CHÂN THÀNH     tác giả gởi bài qua info@nguoicham.com    
0 Rating 466 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 30, 2017
  Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Ðông Pháp) Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử duy nhất viết bằng tiếng Akhar Thrah Chăm liên quan đến lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga, chứ không phải là biên niên sử của vua chúa liêng bang Champa đóng đô ở Vijaya. Tiếc rằng, những yếu tố cơ bản lịch sử trong tư liệu có giá trị này đã bị hiểu lầm và sửa đổi theo nhãn quan riêng tư của một số nhà nghiên cứu hay nhà viết lách trong nhiều bài viết đăng tải trên tập san và báo chí viết bằng tiếng Việt ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại gần 40 năm qua. Chỉ cần nhìn lai các bài viết sai lầm về Po Klaong Garai, Po Binnasuar và Po Saong Nhung Ceng, ba nhân vật được ghi trong biên niên sử này, chúng ta đã thấy rằng Sakkarai Dak Rai Patao đã bị thêu dệt tùy theo quan điểm của mỗi tác giả để rồi trở thành nạn nhân của làn sóng nghiên cứu về văn hóa Chăm hôm nay. Một số tác giả cho rằng Po Klaong Garai là vị vua thật sự trị vì vào năm (1151-1295). Họ còn cho rằng Po Klaong Garai là Jaya Indravarman IV vua của liên bang Champa (1147-1160), nhưng họ không bao giờ cho biết tại sao. Tiếc rằng, trong tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao, Po Klaong Garai chỉ là vua huyền sử, một vị thần linh tự sinh ra (éngkat) và được xếp vào triều đại thứ 5 trong danh sách các vua huyền sử này. Sau mấy năm trì vị ở trần gian, Po Klaong Garai trở về trời (nao mâng rup). Po Binnasuar (hay Po Binthuer) cũng là nhân vật được phô trương trong nhiều bài viết. Một số người tự phỏng đoán rằng Po Binnasuar (1316-1361 hay 1328-1373) là quốc vương Chế Bồng Nga (1360-1390). Tiếc rằng, Po Binnasuar và Chế Bồng Nga là hai vị vua khác nhau. Po Binnasuar là vua của tiểu vương quốc Panduranga, gốc làng Bính Nghĩa, Phan Rang lên ngôi năm 1316 hay 1328. Ðền của ngài vẫn còn thờ phượng ở gần làng Bính Nghĩa này. Ngược lại, Chế Bồng Nga là quốc vương của liên bang Champa đóng đô ở Vijaya (Ðồ Bàn), lên ngôi năm 1360. Cuối cùng, Po Saong Nhung Ceng (1799-1822) là quốc vương Panduranga đã chết tại Phan Rí vì bệnh già yếu vào năm 1822 mà cả thư tịch cổ Việt Nam cũng đã chứng minh biến cố này. Ngược lại, một số nhà viết lách cứ cho rằng ngài chạy sang Cao Miên lánh nạn vào năm 1822.  Nguyên nhân của sự sai lầm  Ðiều mà chúng tôi muốn khẳng định ở đây đó là những sai lầm này chỉ xuất hiện trên mặt sách báo viết bằng tiếng Việt và nó bắt nguồn từ ngày ra đời tác phẩm Dân Tộc Chàm Lịch Sử của Dorohiem và Dohamide xuất bản vào năm 1965. Thế thì đâu là nguyên nhân chính đã đưa các nhà nghiên cứu hay người viết lách bằng tiếng Việt vấp phải lỗi lầm vô cùng tai hại cho lịch sử Champa nói chung và lịch sử của tiểu vương quốc Panduranga nói riêng. Ðể trả lời cho câu hỏi này, chúng tôi xin trình bày sơ lược xuất xứ của các bài nghiên cứu về Sakkarai Dak Rai Patao kể từ cuối thế kỷ thứ 19 cho đến hôm nay. Người nghiên cứu đầu tiên về Sakkarai Dak Rai Patao là E. Aymonier (1890: 145-206). Trong bài nghiên cứu này, E. Aymonier tự đặt bao câu hỏi có chăng Sakkarai Dak Rai Patao chỉ là cốt truyện huyền sử, hoang đường nếu cho rằng tác phẩm này là biên niên sử của vương quốc Champa? Vì rằng danh sách vua chúa ghi trong Sakkarai Dak Rai Patao không có gì liên hệ đến vua chúa Champa đóng đô ở Viyaja, từ niên đại lên ngôi, tên tuổi, thủ đô, v.v. Trong bài viết của mình, E. Aymonier chỉ nêu ra câu hỏi, đặt lại vấn đề liên quan đến xuất xứ của tư liệu này, nhưng ông không tìm ra một câu để giải đáp. Mười lăm năm sau, nhà nghiên cứu Pháp là E. Durand (1905: 377-382) trở lại nghiên cứu tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao. Trong phần kết luận, E. Durand cho rằng đây không phải là cốt truyện huyền sử và hoang đường, mà cũng không phải là biên niên sử của liên bang Champa như E. Aymonier đã nêu ra, mà là biên niên sử của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam, chỉ có thế thôi. Bài nghiên cứu của E. Durand vào năm 1905 đã trở thành một yếu tố lịch sử mà các chuyên gia ở phương Tây đều công nhận cho đến hôm nay. Theo quan điểm của E. Durand, Panduranga không phải là một đơn vị hành chánh tương đương với “Tỉnh” ở Việt Nam, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Chính vì thế, tiểu vương quốc này cũng có một cơ cấu hành chánh riêng, chính trị và quân sự  riêng, kể cả biên niên sử riêng, đó là Sakkarai Dak Rai Patao. Năm 1978, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao trở thành bài luận án phó tiến sĩ của tôi ở đại học Sorbonne, Paris. Trong bài luận án này, tôi cũng chứng minh rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của Panduranga, một tiểu vương quốc của liên bang Champa. Không đọc đến bài nghiên cứu của E. Durand viết vào năm 1905 và những bài bài viết khác đăng tải trong các sách báo khoa học ở phương Tây, và cũng không cần nghiên cứu sâu đậm nội dung của biên niên sử viết bằng tiếng Chăm akhar thrah này, Dorohiem và Dohamide (Dân Tộc Chăm Lược Sử, 1965) chỉ dựa vào bài nghiên cứu bằng tiếng Pháp của E. Aymonier xuất bản vào năm 1980 để phát họa nội dung Sakkarai Dak Rai Patao theo cảm hứng riêng tư của mình. Trong tác phẩm này, Dorohiem và Dohamide, vì vô tình hay là cố ý, đã sửa đổi hoàn toàn quan điểm của E. Aymonier để thay vào đó một quan điểm mới lạ nhưng rất là phi lịch sử, cho rằng Sakkarai Dak Rai Patao là biên niên sử của vương quốc Champa, nhưng Dorohiem và Dohamide không đưa ra một dữ kiện lịch sử nào để minh chứng nội dung bài viết của mình. Ðúng ra, phong cách “sửa đổi yếu tố lịch sử” này chỉ thường xuất hiện trong các bài viết của người viết lách hơn là của nhà khoa học dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày ra đời tác phẩm Dorohiem và Dohamide vào năm 1965, một số nhà nghiên cứu hay một vài người viết lách chỉ dựa vào tác phẩm bằng tiếng Việt mang tựa đề là Dân Tộc Chàm Lược Sử,  để rồi lặp đi lặp lại bao sự sai lầm lịch sử trong bài viết của Dorohiem và Dohamide. Thế là, tác phẩm Sakkarai Dak Rai Patao Cham, kể từ năm 1965, đã trở thành nạn nhân của quan điểm sai lầm do Dorohiem và Dohamide đưa ra, chứ không phải là nạn nhân của các nhà viết lách nữa. Ðể làm sáng tỏ lại vấn đề liên quan đến nội dung của tác phẩm lịch sử có giá trị này, chúng tôi muốn đặt lại vấn đề ở đây có chăng Sakkarai Dak Rai Patao là một tác phẩm huyền thoại như E. Aymonier đã đề nghị vào năm 1890 hay là biên niên sử của vương quốc Champa như Dorohiem và Dohamide đã phỏng đoán vào năm 1965 hay là biên niên sử thật sự của tiểu vương quốc Panduranga như E. Durand đã đưa ra vào năm 1905?  Sơ lược lịch sử Panduranga  Cũng nhờ các bia ký Champa, tư liệu cổ Việt Nam và Trung Hoa, các nhà nghiên cứu phương Tây đã phác họa lịch sử vương quốc Champa một cách tổng thể từ thế thế kỷ thứ 2 đến năm 1471, cũng là năm đánh dấu cho sự thất thủ Vijaya, tức là thành Ðồ Bàn (G. Maspero: 1928); G. Coedes: 1964; Po Dharma: 1978, 1987). Sau năm 1471, các bia ký Champa không còn xuất hiện nữa. Dựa vào sự biến mất của bia ký, các nhà nghiên cứu không còn quan tâm đến lịch sử cận đại của Champa sau thế kỷ thứ 15. Tiếc rằng, người ta đã quên rằng dân tộc Chăm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí vẫn còn lưu trữ rất nhiều văn bản cổ viết bằng tiếng Chăm liên quan đến lịch sử và nền văn minh Champa sau năm 1471 (Po Dharma: 1987; P-B. Lafont: 1980). Trong kho tàng văn chương lịch sử này, Sak Karay Dak Rai Patao là văn bản duy nhất nói về biên niên sử của vua chúa Panduranga. Ai cũng biết, kể từ đầu thế kỷ thứ 20, các nhà nghiên cứu phương Tây (L. Finot: 1903; G. Coedes: 1964; P-B. Lafont: 1980; Po Dharma: 1987; B. Gay: 1988)  đã phân tích một cách khoa học và có hệ thống những nền tảng tổ chức chính trị và hành chánh Champa để rồi đưa ra một kết  luận chung đó là Champa không phải là một quốc gia tập quyền, thống nhất như thể chế chính trị ở Trung Hoa hay ở Việt Nam, mà là một vương quốc liên bang (fédération) và đôi lúc cũng là một liên hiệp quốc gia (confédération), rất gần gũi với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay. Liên bang Champa tập trung 5 tiểu vương quốc trong đó có Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Ðứng đầu của quốc gia liên bang Champa là quốc vương mang tôn hiệu Rajadiraja (tức là vua của vua), chứ không phải là Patao như Dohamide và Dorohiêm (2004, tr. 263) đưa ra. Quốc vương này còn mang một tôn hiệu khác đó là Po Tana Raya (lãnh chúa toàn diện đất đai) để cai trị quốc gia với «cây lộng duy nhất››, biểu hiện cho uy quyền hoàng gia Champa. Thủ đô liên bang lúc ban đầu đặt tại Indrapura (Quảng Nam) sau đó dời về Vijaya (Bình định) kể từ năm 1000. Nằm ở cực nam của lãnh thổ liên bang Champa, Panduranga là một tiểu vương quốc có một thể chế hành chánh, chính trị và quân sự riêng biệt. Sự hình thành tiểu vương quốc này đã có từ lâu đời. Vì rằng vào năm 1050, bia ký đã nói đến cuộc vùng dậy của nhân dân Panduranga chống lai chính quyền trung ương Champa ở miền bắc. Ðể trả lời cho thái độ bất qui phục này, quốc vương Champa là Jaya Paramesvaravarman I đứng ra chỉ trích kịch liệt thái độ ương ngạnh của nhân dân Panduranga mà ngài gọi họ là «dân tộc phóng đãng (vicieux), ác tâm (malfsaisant), khinh bạc (frivole), luôn luôn phản động chống lai triều đình trung ương» (Maspero, 1928: 37 ; Po Dharma, 1987 : 57). Nhằm phá tan yêu sách đòi tự trị ở miền nam và đưa dân tộc Panduranga phải tôn trọng uy quyền triều đình trung ương, quốc vương liên bang Champa thường biến tiểu vương quốc Pandurang thành một lãnh thổ đặc hữu (apanage) đặt dưới quyền cai trị của một thái tử (yuvaraja) do quốc vương liên bang Champa chỉ định (Finot, 1909: 205-209, Maspero, 1928: 137). Sự hiện diện của thái tử này cũng không ngăn cấm nổi Panduranga trở lại con đường cũ : thua keo này bày keo khác. Vì rằng, Panduranga vẫn là nơi phát sinh một số biến cố chính trị lớn vào thế kỷ thứ 11. Biến cố thứ nhất đó là một nhân vật quan trọng trong triều đình của Panduranga đứng ra kêu gọi nhân dân tách rời ra khỏi liên bang Champa, rồi tự phong mình làm vua ở miền nam, dù rằng vương triều này chỉ kéo dài trong vòng 13 năm. Hết tìm cách xây dựng một quốc gia tự trị, Panduranga còn là nơi trú ẩn dành cho một số nhân vật chính trị từ trung ương ở Vijaya chạy sang lánh nạn (Finot, 1909: 205-209; Maspero, 1928: 137). Với bản chất cương quyết của nhân dân Panduranga đấu tranh cho bằng được quy chế tự trị ở miền nam, một số quốc vương liên bang Champa không còn cách nào khác là công nhận nền tự trị của Panduranga ở miền nam. Ðiển hình nhất là vào thế kỷ thứ 10, tư liệu Trung Hoa cho rằng mặc dù Panduranga vẫn là lãnh thổ trực thuộc liên bang Champa, nhưng tiểu vương quốc này vừa triều cống vua liêng bang Champa ở miền bắc, vừa gởi triều cống đến Trung Hoa như một quốc gia độc lập (Pelliot, 1903: 649). Ngoài yêu sách tự trị, vua chúa Panduranga cũng thường xác nhận họ có một thị tộc riêng biệt. Ðiển hình là vào cuối thế kỷ thứ 11, quốc vương liên bang Champa là Sri Harivarman IV (1074-1081) tự cho mình là người xuất thân từ thị tộc cây câu (Narikela) của dòng thân mẫu ở Panduranga, một thị tộc tinh khiết của chủng tộc Champa. Thân phụ của ngài thuộc thị tộc cây dừa (Kramula) ở Vijaya. Hai thị tộc này thường dùng đến bạo lực để chinh phục uy quyền ở liên bang Champa trong nhiều thế kỷ (Maspero, 1928: 43). Hết sự khác biệt về thị tộc, Panduranga thường đeo đuổi tư thế độc lập của mình về phương diện chính trị đối với miền bắc. Chính vì thế, Panduranga thường không hỗ trợ quân sự cho Vijaya, một khi tiểu vương quốc phía bắc này bị ngoai bang xâm chiếm. Vào năm 1145, vua Cao Miên xua quân xâm chiếm Vijaya và giết chết vua liên bang Champa là Indravarman III. Trước sự tấn công của ngoại bang, Panduranga không hề gởi quân để giúp đỡ quốc vương Champa ở phương bắc. Thêm vào đó, Panduranga còn đón nhận hoàng tử của tiểu vương quốc Vijaya là Rudravarman IV cùng với đứa con trai là Srivanandana chạy sang lánh nạn trên lãnh thổ của mình một khi quân Cao Miên phá hủy thủ đô Vijaya vào năm 1145. Ngoài sự tiếp đón nồng hậu này, dân chúng Pandurang còn tôn vinh hoàng tử Srivanandana lên làm vua Champa ở miền nam lấy vương hiệu là Jaya Harivarman I (Maspero, 1928: 156-157). Thế là vương quốc Champa bị chia đôi thành hai miền rõ rệt. Vijaya đặt dưới quyền chỉ huy của quân đội Cao Miên và Panduranga thì có Jaya Harivarman I. Với sự hỗ trợ của quân đội Panduranga, vua Jaya Harivarman I xuất quân ra bắc vào năm 1149 tấn công Vijaya và giết được tổng tư lệnh quân viễn chinh Cao Miên là hoàng tử Harideva, tức là em rể của vua nước này (Maspero, 1928: 156). Năm 1190, vua Cao Miên là Jayavarman VII giao quyền cho hoàng tử Champa là Sri Vidryanandana sang lánh nạn ở Cao Miên từ năm 1182, đem quân tấn công Vijaya lần thứ hai, bắt được vua Champa là Jaya Indravarman IV đưa về Cao Miên. Một khi thắng trận, vua Cao Miên phong cho em rể của mình lên làm quốc vương Vijaya (Nagara Vijaya) với vương hiệu là Suryajayavarman. Riêng về hoàng tử Sri Vidryanandana, ngài trở lại Panduranga, tự phong cho mình là quốc vương của tiểu vương quốc này với vương hiệu là Sri Suryavarmadeva, đặt thủ đô tại Rajapura (Phan Rang). Thế là vương quốc Champa lai bị chia đôi một lần nữa. Miền bắc do quân Cao Miên trấn giữ. Tiểu vương quốc Panduranga do hoàng tử Sri Suryavarman lãnh đao (Maspero, 1928: 166). Vì không chấp nhận tiểu vương quốc Vijaya bị cai trị bởi ngoại bang, hoàng tử Champa tên là Rasupati vùng dậy vào năm 1191 đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên sau đó lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Indravarman V. Ðể trả thù cho cuộc vùng dậy này, vua Cao Miên chấp nhận trả tự do cho cựu quốc vương Jaya Indravarman IV bị bắt giam tại vương quốc này vào năm 1190. Từ vương quốc Cao Miên, cựu quốc vương Jaya Indravarman IV ghé sang Panduranga cầu cứu quân sự hầu chiếm lại ngai vàng ở phương bắc. Một khi đã nhận lời giúp đỡ, vua Panduranga là Sri Suryavarman xua quân sang miền bắc, đánh đuổi quân xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya. Lợi dụng sự chiến thắng này, vua Panduranga phế truất cựu vương quốc Jaya Indravarman IV ra khỏi ngai vàng, tự phong mình làm quốc vương liên bang Champa kiêm cả chức vua của tiểu vương quốc Panduranga kể từ năm 1192 (Maspero, 1928:165-166). Một năm sau, tức là vào năm 1193, vua Cao Miên Jayavarman VII xuất quân sang chinh phạt Sri Suryavarman ở Vijaya. Bị thất trận vào năm 1203, Sri Suryavarman chạy sang Ðại Việt lánh nạn. Nắm chủ tình hình, vua Cao Miên chiếm lại thủ đô Vijaya và đặt nền cai trị ở miền bắc Champa trong xuốt 17 năm, từ 1203 đến 1220 (Maspero, 1928: 167) Sự đô hộ của Cao Miên ở Champa vào những năm 1203 và 1220 đã đánh dấu một biến cố quan trọng trong văn chương lịch sử ở Champa. Chính trong thời điểm này mà tác phẩm Sakkaray Dak Ray Patao đã ra đời với vị vua đầu tiên là Sri Agarang trị vì vào năm 1193 hay 1205 tùy theo dị bản. Tiếc rằng, không tư liệu nào có thể giúp chúng tôi để nhận diện rằng sự ra đời của Sakkaray Dak Ray Patao ở Panduranga có liên hệ gì với chính sách đô hộ Cao Miên ở Vijaya, miền bắc của Champa? Ðây chỉ là một vấn đề đặt ra nhưng không ai có thể trả lời câu hỏi này (Po Dharma, 1978). Một khi đã thoát thân ra khỏi nền đô hộ của Cao Miên vào những thập niên đầu của thế kỷ thứ 13, vương quốc Champa lại vướng vào một tai họa khác đó là chính sách Nam Tiến của Ðại Việt. Sau khi thôn tính dần dần một số đất đai ở phía bắc của Champa, Ðại Việt quyết định nuốt trọn thủ đô Vijaya vào năm 1471 và dời biên giới của mình đến đèo Cù Mông, phía bắc Phú Yên. Sự thất thủ thành Ðồ Bàn đã đưa bản đồ dân cư Champa vào một khúc quanh mới. Vì rằng, kể từ năm 1471, Champa bị thu hẹp lại trong lãnh thổ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam mà thôi (Po Dharma, 1987, I, tr. 61-62). Sau khi Vijaya bị thất thủ, tướng Bố Trì Trì sang lánh nạn ở Panduranga, chiếm giữ một phần năm đất đai của tiểu vương quốc này để thành lập một quốc gia riêng biệt. Ngài cũng xin vua Lê Thánh Tông công nhận sự tấn phong của mình và biên niên sử Minh Chê của Trung Hoa vẫn còn nói đến sự liên hệ với Champa của Bố Trì Trì giữa năm 1478 và 1543 (Maspero, 1928: 240). Từ ngày thất thủ thành Ðồ Bàn vào năm 1471 đến năm 1611, tức là gần 140 năm, người ta cứ tuởng rằng chiến tranh không còn tái diễn nữa giữa hai nước láng giềng thù địch, đó là Champa và Ðại Việt. Tiếc rằng sự hòa bình này chỉ là một giấc mơ huyền ảo. Năm 1611, nhà Nguyễn bắt đầu phất cờ Nam Tiến, mà Phú Yên là nạn nhân đầu tiên của chính sách xâm lược này. Năm 1653 quân nhà Nguyễn chiếm đóng Kauthara (Nha Trang) và năm 1658 tràn sang khu vực Sài Gòn tức là đất đai của Cao Miên thời đó (Po Dharma (1987, I: 64-66). Ba mươi chín năm sau ngày thất thủ Kauthara (1653), nhà Nguyễn quyết định nút trọn lãnh thổ Champa còn lại vào năm 1692, thay đổi danh xưng Chiêm Thành thành Trấn Thuận Thành và thành lập phủ người Việt đầu tiên mang tên là phủ Bình Thuận trong biên giới của tiểu vương quốc Panduranga. Ðể trả lời cho chính sách xâm lược này, nhân dân Champa vùng dậy đánh đuổi quân xâm luợc nhà Nguyễn vào năm 1693. Vì không kháng cự nổi, nhà Nguyễn chấp nhận trao trả lại nền độc lập cho Champa vào năm 1694 với điều kiện là Panduranga phải công nhân sự hiện diện của phủ Bình Thuận ở tiểu vương quốc này nhằm quản lý các cư dân Việt sống ở Champa thời đó (Po Dharma, 1987, I: 67-71). Phủ Bình Thuận là đơn vị hành chánh trực thuộc nhà Nguyễn tập trung các làng xã người Việt nằm rải rác trong lãnh thổ Champa. Sự ra đời của phủ Bình Thuận đã thay đổi hoàn toàn địa bàn dân cư Panduranga thời đó. Vì lãnh thổ này không dành riêng cho dân tộc Champa nữa mà là cả cư dân Việt. Mô hình dân cư quá phức tạp này đã đưa hai cộng đồng Chăm và cư dân Việt đến sự xung đột thường xuyên trong những năm kế tiếp (Po Dharma, 1987, I: 70-71). Vào thập niên của cuối thế kỷ thứ 18, Panduranga lại trở thành một bãi chiến trường đẫm máu giữa hai thế lực thù địch người Việt, đó là chiến tranh giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Thế thì sự sống còn của Panduranga hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của chiến tranh này. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Ðể đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nhung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này (Po Dharma (1987, I: 83-99). Và Po Saong Nhung Ceng cũng là vị vua cuối cùng nằm trong danh sách của Sakkaray Dak Rai Patao. Những biến cố mà chúng tôi đã nêu ra đã cho độc giả thấy rằng Panduranga có một quy chế chính trị và quân sự rất là đặc biệt trong quá trình lịch sử của Champa. Dù rằng đã mấy lần vùng dậy chống triều đình trung ương để đòi nền tự trị ở miền nam, xuất quân đánh đuổi kẻ xâm lược Cao Miên ra khỏi Vijaya ở miền bắc, gởi cả phái đoàn ngoại giao sang triều cống Trung Hoa như một quốc gia độc lập, có vua chúa và quân đội riêng, Panduranga vẫn là một đơn vị hành chánh của Champa. Nhưng đơn vị hành chánh này không thể hiểu là một “Tỉnh” của Champa như một số người thường hiểu lầm từ ngày ra đời tác phẩm của Dorohiêm và Dohamide vào năm 1965, mà là một tiểu vương quốc nằm trong liên bang Champa. Dựa vào yếu tố chính trị và hành chánh này, các nhà khoa học thường định nghĩa rằng Champa không phải là một quốc gia thống nhất và tập quyền như thể chế Việt Nam, mà một vương quốc liên bang. Ðây là một thể chế thông dụng mà người ta còn thấy ở liên bang Mã Lai hôm nay tập trung 9 tiểu vương quốc (Dupuis, 1972) hay liên bang Lào trong thời phong kiến tập trung 4 tiểu vương quốc như Luang Prabang, Vientian, Xieng Khoang và Champasak (Saveng Phinith, 1987: 6). Kể từ năm 1905, thể chế liên bang Champa đã trở thành một yếu tố lịch sử mà không ai có thể chối cãi được, ngoại trừ ba nhà nghiên cứu duy nhất trên thế giới đó là Lương Ninh, Dohamide và Dorohiêm. Trong bài viết của Lương Ninh xuất bản vào năm 2004, tác giả cho rằng «nếu đem lý thuyết Mandala (liên bang) áp dụng ở Champa, thì tác giả chỉ đồng ý một nữa›› mà thôi. Ðây là lối lý luận khập khiễng. Ngược lại, Dohamide và Dorohiêm thì phủ nhận hoàn toàn thể chế liên bang Champa trong tác phẩm Bangsa Champa xuất bản vào năm 2004. Không cần đưa ra một nguồn tư liệu nào để minh chứng cho quan điểm của mình, Dohamide và Dorohiêm tự phỏng đoán rằng vương quốc Champa hợp thành một cơ cấu quốc gia thống nhất. Chúng tôi khỏi bàn quan điểm này, vì đây chỉ là lối suy diễn dựa vào cảm hứng riêng tư và lý luận phi khoa học của Dohamide và Dorohiem mà thôi. Một khi đã công nhận Panduranga không phải là một “Tỉnh” của Champa như Dohamide và Dorohiem đã hiểu lầm từ năm 1965, mà là một tiểu vương quốc trong liên bang Champa, thế thì Panduranga cũng có quyền hưởng được quy chế pháp lý để có một biên niên sử riêng của mình, đó Sakkarai Dak Rai Patao.  Nội dung của biên niên sử  Trong thư viện của Pháp hiện còn lưu trữ 12 dị bản khác nhau của tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao. Trong tổng số này, có 10 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Việt Nam và 2 dị bản viết bằng tiếng Chăm ở Cao Miên. Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Cao Miên cho rằng đây là biên niên sử của Nagar Panang-Panik, tức là biên niên sử của tiểu vương quốc nằm trong khu vực Phan Rang và Phan Rí, hay là  Panduranga. Ngược lai, Sakkaray Dak Rai Patao viết bằng chữ Chăm Việt Nam chỉ ghi rằng đây là biên niên sử Patao Chăm (vua chúa Chăm), nhưng không cho biết rõ Patao Chăm này thuộc về Panduranga hay vua chúa Champa đóng đô ở Vijaya. Nếu nói rằng Sakkaray Dak Rai Patao là biên niên sử của liên bang Champa thì không thể chấp nhận được. Vì rằng, hầu hết các lai lịch, “nghĩa trang” thuộc dòng thân mẫu (Kút) và đền tháp của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều nằm ở khu vực Phan Rang và Phan Rí hôm nay. Ðiều đáng chú ý nữa đó là các thủ đô như Bal Sri Banây, Bal Hanguw, Bal Anguai, Bal Batsinâng, Bal Pangdarang đều nằm trong lãnh thổ của Panduranga. Các danh xưng của vua chúa trong Sakkaray Dak Rai Patao đều khởi đầu bằng cụm từ «Po», như Po Romé, Po Klaong Haluw, v.v. chứ không phải khởi đầu bằng cụm từ «Jaya, Sri›› như Jaya Indravarman, Sri Sinhavarman, v.v. được sử dụng bởi các vua chúa liên bang Champa đóng đô ở Vijaya. Thêm vào đó, người ta chưa bao giờ tìm thấy một bản văn nào viết bằng Akhar Thrah Chăm phát xuất từ khu vực Panduranga lại nhắc đến một số kỷ niệm xa xưa ở khu vực Champa miền bắc (từ Bình Định cho đến Quảng Bình), ngoại trừ vài danh từ địa phương như Huê (tức là Huế), Mbin Ngai (tức là Quảng Ngãi), v. v., vì rằng các địa danh này chỉ xuất hiện trong văn chương Chăm vào thời Nguyễn mà thôi. Chính vì thế, một số người Chăm cho rằng Harek Kah Harek Dhei dùng trong bản văn Chăm nằm ở Quảng Bình là hoàn toàn phi khoa học, vì địa danh này chỉ nằm ở khu vực Aia Ru (tỉnh Phú Yên) tức là địa đầu của tiểu vương quốc Panduranga. Càng không thể được nếu cho rằng công chúa Bia Mih Ai trong tác  phẩm Nai Mai Mang Makah là công chúa Mị E, vợ của Jaya Sinhavarman II,  tức là Sạ Ðẩu (1044-), v.v., vì tác phẩm Nai Mai Mang Makah chỉ viết vào thế kỷ thứ XVIII (Po Dharma, 2000). Tác phẩm Sakkaray Dak Rai Patao có tổng số 38 vị vua và được chia làm hai phần rõ rệt.  Thời kỳ tiền sử
0 Rating 433 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 25, 2017
Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa @ U.S.A.P.O Box 62061, Sunnyvale, CA 94088 USAEmail: ccpaoffice@ilimochampa.orgWebsite: www.ilimochampa.orgPhone: 408-206-4619 or 408-674-4099——-***——California, Hoa Kỳ Ngày 24 tháng 3 năm 2017THÀNH KÍNH PHÂN ƯU Nhận được tin hội viên của Hội, Ông: Báo Văn Trọng vừa từ trần, toàn thể hội viên, toàn thể Ban Chấp Hành, và toàn thể Hội Đồng Lãnh Đạo của Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa tại Hoa Kỳ, xin Thành Kính Phân Ưu cùng tang gia, nguyện cầu cho linh hồn ông Trọng sớm siêu thoát, sớm được đoàn tụ với Ông Bà Tổ Tiên, và cũng xin Ơn trên an ủi và nâng đỡ tang quyến trong lúc đau buồn này.Ông: Báo Văn TrọngSinh ngày 05 tháng 8 năm 1944Tại thôn Văn Lâm, xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam.Đã từ trần lúc 13:00 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2017Tại thôn Văn Lâm, xã Phước Nam, huyệnThuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam, hưởng thọ 73 tuổi.Tang lễ sẽ được tổ chức vào ngày 25 tháng 3 năm 2017 tại thôn Văn Lâm, xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Thay mặt Ban Chấp Hành Hội BTVH Champa tại Hoa KỳChủ Tịch (Đã ký)Đặng Chánh LinhXin Thành Kính Phân Ưu!——————————-Hội BTVH Champa USA.Sáng lập Viên:Yassin Bá, William Đắc, Jimmy ĐắcHội Đồng Lãnh Đạo (2014-2018)Chủ Tịch: Yassin BáPhó Chủ Tịch: Đặng Chánh Anh Thành viên: Bá Đại LongThành viên: Đắc Jimmy Thiên Thành viên: Bích Văn MườiBan Điều Hành (2014-2018)Chủ Tịch: Đặng Chánh LinhPhó Chủ Tịch: Dương Tấn An Phó Chủ Tịch: Đắc N. KhiêmTổng Thư Ký: Bá Trung Thiệu Trưởng Ban Tài Chánh: Đắc N. KhiêmKế Toán: Bá Văn DưBan Thanh Niên Trưởng Ban: Bá Văn TưPhó Ban: Đồng Thanh TríBan Văn Nghệ:Trưởng Ban: Kiều Hạ KhánhPhó Ban: Miêu Như YếnPhó Ban: Valerie BaBan Biên Tập Vijaya:Trưởng Ban: Lâm Gia TânPhó Ban: Chế Mỹ LanPhó Ban: Bá Trung TuyênThành viên: Bá Văn DưBan Truyền thông & Báo chí:Trưởng Ban: Bá Trung Tuyên,  Phó Ban: Bá Văn DưPhó Ban : Đạt Xuân HiệpBan Cố Vấn:Bá Đại LongĐắc William KiếtYklong AdrongDavid SoxLuật sư Nguyễn Ngọc Diệp
0 Rating 324 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 24, 2017
  Thời gian gần đây trong cộng động mạng xã hội của người Chăm đã lan truyền đi lá thư của Thầy Nguyễn Văn Tỷ gởi cho Hội Đồng Sư Cả Hồi Giáo Bani, dấy lên làn sóng bình luận xôn xao trái chiều, gây ảnh hưởng thật tai hại làm mất hoà khí giữa người Chăm với nhau trong cùng tập thể. Tôi đã đọc qua thư của Thầy Nguyễn Văn Tỷ viết, Biên Bản của Hội Đồng Sư Cả Hồi Giáo Bani làm và xem hết video cuộc họp của Hội Đồng Sư Cả phần 1. Đang chờ thêm video của phần tiếp theo, cũng có đọc nhiều bài bình luận của nhiều người khác nhau viết liên quan đến vấn đề này. Theo tình mà xét thì Thầy Nguyễn Văn Tỷ không nên viết thư như vậy, vì Tiến sĩ Thành Phần cũng là người anh em cùng dòng tộc Champa. Có gì thì tốt nhất anh em nên đóng cửa lại mà nói chuyện, trình bày cho nhau nghe ngọn ngành của câu chuyện một cách rõ ràng trong tình thân. Bất cứ một cộng đồng nào, hễ làm việc chung với nhau thì sẽ không thể nào tránh khỏi những bất đồng, những ý kiến trái ngược và ngay cả những việc làm không cùng một cách như nhau. Trong những trường hợp như thế, nếu như xảy ra, tốt hơn hết là chúng ta hãy đến và ngồi lại với nhau. Khi đến với nhau chúng ta cũng phải có tấm lòng cởi mở để có thể chịu khó lắng nghe, dù là phải nghe những điều thật khó nghe chăng nữa! Vì thường những điều khó nghe ấy lại là những điều mấu chốt nhất, gây ra cớ sự bất hoà giữa mình với nhau khi làm việc, dù có chung một mục đích. Nên đã là người có tâm huyết muốn làm việc cho cộng đồng, nhất là cộng đồng Champa. Chúng ta hãy cố bình tâm, ngay cả kiên nhẫn chịu khó lắng nghe nhau. Trao đổi với nhau một cách chân thành, nói cho nhau nghe những điều mình muốn nói, nhưng trong sự hoà nhã đầy tình yêu thương. Xét về lý thì trên nguyên tắc đáng lẽ ra lá thư của Thầy Nguyễn Văn Tỷ chỉ Hội Đồng Sư Cả Hồi Giáo Bani là nơi nhận trước hết, để trong tình anh em cùng trách nhiệm đối với giáo dân trong cộng đồng, mà liệu cách giải quyết sự cố bất hoà giữa mình với nhau sao cho được ổn thoả tốt đẹp. Trừ khi Hội Đồng Sư Cả không thể giải quyết được, thì lúc ấy những ý kiến dư luận bên ngoài mới xen lẫn vào. Tiếc thay là lá thư kia đã lọt ra ngoài cho nhiều người biết, trong khi Hội Đồng Sư Cả chưa kịp mời anh chị em lại để cùng bàn bạc với nhau hầu có thể tìm ra phương cách nào. Nay sự việc đã được người ngoài biết, mà một khi vài người ngoài biết thì sẽ thêm có nhiều người hơn nữa biết. Nhất là trong thời đại công nghệ thông tin đại chúng bây giờ, nó chẳng khác nào như con dao hai lưỡi. Khi chuyện tốt mau có nhiều người biết, thì chuyện xấu cũng sẽ nhanh như vậy. Dĩ nhiên chúng ta không thể lấy lại được những gì đã vừa xảy ra trong tầm mắt, nhưng điều chúng ta có thể làm là học cái kinh nghiệm đau thương ấy để có thể làm tốt hơn ở tương lai. Chúng ta không thể làm đầy lại bát nước đã đổ, nhưng có thể làm nó ngưng không phải đổ thêm ra nhiều. Cách tốt nhất để làm được việc ấy, là hãy cố tạo cơ hội tốt đẹp để anh em mình ngồi lại với nhau. Nếu Thầy Nguyễn Văn Tỷ và Tiến sĩ Thành Phần là những người bình thường như bao nhiêu người khác thì không nói gì, đàng này hai người đều là những khuôn mặt được nhiều người biết. Xin Thầy Nguyễn Văn Tỷ và Tiến sĩ Thành Phần nên cho nhau cơ hội. Đến để giải bày cho nhau những bức xúc mà anh em không thể, hoặc chưa thể nói ra. Ngay cả lá thư được viết ra cũng có cái nguyên do của nó, do đó hai vị cần đến và nên nói chuyện với nhau như anh em của ngày nào. Làm việc cho cộng đồng đúng nghĩa là người phục vụ vô vụ lợi, là người của quần chúng thì không thể tránh được những sự cố ngoài ý muốn xảy ra cho mình. Nên xin hai vị chớ lấy làm nặng lòng mà hãy chấp nhận nó, như là một phần không thể thiếu trên hành trình của một người phục vụ. Hãy vì sự đoàn kết của cộng đồng Chăm mà gạt bỏ đi cái riêng tư của chính mình, làm được như vậy hai vị sẽ đánh tan đi bao dư luận không mấy tốt đẹp của những ngày vừa qua. Có thế thì thế hệ đàn em của chúng ta sau này mới noi theo và cộng đồng người Chăm hôm nay mới nể phục. CHÂN THÀNH   bài gởi qua info@nguoicham.com
0 Rating 196 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 23, 2017
  1. Trung tuần tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, người Việt có tục cúng đất, từ Đèo Ngang đổ ra gọi là cúng Thổ công và từ Đèo Ngang vô trong gọi là cúng Tá thổ. Cũng là cúng đất, nhưng người xứ Bắc Đèo Ngang cúng Thần Đất của chính họ, nên gọi là cúng Thổ công. Ngược lại, người miền Nam Đèo Ngang cúng Thần Đất của người Chăm nên gọi là cúng Tá thổ (借 土, mượn đất), ai cúng thì được "kỳ yên" (an lành), ai quên cúng thì chịu quả báo. Nói thêm, cúng Tá thổ tức là nghi lễ của những lưu dân người Việt xin mượn đất người Chăm, dẫu rằng mượn hơn 700 năm mà vẫn chưa trả! Vì mượn nhưng chẳng bao giờ trả nên Tổ tiên của những lưu dân người Việt đến từ miền Thanh Nghệ Tĩnh đã có một thái độ hết sức khiêm nhường, bởi họ luôn tâm niệm rằng những linh hồn Chăm mới là chủ nhân của miền đất mà họ đang "tá túc". Vị Thần Đất của người Chăm, thường được hóa thân thành Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Ngọc, Bà Hời, Bà Vú ... được những lưu dân người Việt mời về "đồng lai cộng hưởng" bằng những lễ vật rất Chăm như củ khoai lang, chén mắm cái, đĩa đậu phộng, bát cơm nấu từ gạo Chiêm ... và đặc biệt phải có tam sinh, tức là một con cua cái sống, một tợ thịt heo sống và một hột vịt sống. Bái tất, lễ vật được đem treo ở những cây đa hay giữa ngã ba làng cho các linh hồn Chăm thụ hưởng. Tính độc đáo của lễ cúng "Tá thổ", cúng cho chủ đất cũ, chính là lối ứng xử hết sức nhân văn của người chiến thắng (Việt) đối với người chiến bại (Chăm). 2. Gần đây, đọc bài "Khóc ở Mỹ Sơn" trên tường của chị Kiều Kiều Maily, rồi đọc thêm bài "Không khóc ở Mỹ Sơn" của anh Inra Sara mà mình khóc òa. Lẽ nào con cháu của những người "mượn đất" lại đối xử với con cháu của "chủ đất" tệ đến thế sao? Người Việt đã "mượn" hết tất cả đất của người Chăm rồi, bây giờ con cháu người Chăm về hành hương đất tổ Mỹ Sơn thì bị người Việt bắt trả tiền mua vé! Cái cảm giác "uất nghẹn" này thì tôi đã nếm. Bà cố nội của tôi là người tộc Trần ở Hội An. Cách đây 5 năm, tôi về nhà thờ tộc Trần (21 Lê Lợi, Hội An) để thắp ba cây nhang thì bị chặn ở ngoài cổng. Người ta bắt tôi phải mua vé mới được vào. Ô hô, con cháu đi cúng bái ông bà tổ tiên mà còn phải mua vé hay sao? 3. Ngày Cồn Dầu bị san ủi cũng là ngày núi Phước Tường bị sạt lở. Có tâm linh gì không, hay là người ta phá núi quá nhiều nên chỉ sau mấy trận mưa mà Phước Tường sạt lở? Cách đây hơn ngàn năm, thời Champa (vương triều Đồng Dương), trên mảnh đất Đà Nẵng ngày nay, đã có một tòa thành gọi là Rudrapura उत्तरकाण्ड, thành phố Thần Bão tố (*). Núi thiêng của thành là ngọn Phước Tường, sông Thiêng của thành là dòng Cẩm Lệ, đất Thiêng của thành là Cồn Dầu. Thành Rudrapura có nội cảng Nại Hiên Tây và có tiền cảng Nại Hiên Đông, ngay bãi Tiên Sa, dưới chân núi Sơn Trà. Đất Quảng Đà vốn là đất Chăm, thiêng lắm. Cách đây vài năm, có ông lãnh đạo thành Đà ăn đất vô hậu, phá núi tàn canh nên bị quả báo, ung thư tủy sống. Ổng tốn hơn 3 triệu USD sang Mỹ chữa bệnh mà có mua được mạng sống đâu? Cái đó gọi là quả báo nhãn tiền. Nay, có bọn lãnh đạo khốn nạn nào đó đan tâm phá nát bãi Tiên Sa, băm sạch núi Sơn Trà cho thỏa lòng tham. Coi chừng có ngày bị ung thư ... Houston, 22/3/17ĐBT theo facebook.com
0 Rating 1.1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On March 18, 2017
Để điều trị bệnh thoái hóa khớp không phải chỉ ngày một ngày hai mà nó là cả một quá trình tập luyện điều trị lâu dài. Bạn không những chỉ dùng thuốc mà còn phải kết hợp cả chế độ ăn uống và tập luyện phù hợp, như thế mới có thể giảm khả năng thoái hóa khớp phát triển .1. Thực phẩm có lợi cho thoái hóa khớpThoái hóa khớp là tình trạng các khớp bị lão hóa do vậy ta cần bổ sung canxi cho xương bằng các thực phẩm giàu canxi đó là các loại thịt : thịt heo, thịt bò, thịt gia cầm, cá biển, tôm , sò.Ngoài ra cần bổ sung thêm vitamin D, B, K, acid folic, calcium, sắt có chứa trong các loại rau.Thoái hóa khớp nên ăn gì? Nên dùng các loại dầu chứa acid béo omega 3 như: dầu đậu nành, dầu hạnh nhân, dầu ôliu…Thêm vào đó cần tăng cường các loại trái cây như: đu đủ, dứa, chanh, bưởi vì các loại trái này là nguồn cung ứng men kháng viêm và sinh tố C, 2 hoạt chất có tác dụng kháng viêm.Việc sử dụng các sản phẩm bổ sung có chứa Glucosamin, Chodroitin là rất cần thiết trong việc phòng ngừa và hỗ trợ điều trị bệnh thoái hóa khớp.Chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt cho người bệnh thoái hóa khớp2. Chế độ sinh hoạtĐể phòng ngừa và hạn chế các cơn đau do thoái hóa khớp trong sinh hoạt cũng như ăn uống, nên lưu ý những điều sau đây:Giảm cân, cải tạo cơ địa, thay đổi các thói quen xấu làm tăng chịu lực của khớp (ngồi xổm, xách nặng…). Giảm cân là yếu tố quan trọng hàng đầu, bởi nó sẽ giúp giảm áp lực cho khớp. Xem thêm thoái hóa khớp gối có chữa được không?Người béo phì thường kèm thoái hóa khớp, cho nên người béo phì cần cân bằng chế độ ăn kiêng từ từ để làm giảm tối đa những chấn động trên khớp.Tập luyện: Tập thể dục nhẹ nhàng, nghỉ ngơi khi đau, đi với gậy chống nếu cần, các động tác nhẹ nhàng có tác dụng thư giãn các khớp, tránh tình trạng để cho các khớp bị “ì”, ít hoạt động.Vật lý trị liệu: Mục đích tránh teo cơ, duy trì độ vận động của khớp. Cường độ tập luyện cần điều chỉnh tùy từng bệnh nhân, tùy từng vị trí của thoái hóa mà có các bài tập khác nhauTóm lại, nếu chúng ta biết cách lựa chọn các thực phẩm bổ dưỡng và phối hợp sử dụng chúng thường xuyên thì có thể nấu được những món ăn rất ngon miệng mà lại có tác dụng phòng chống bệnh THK.
0 Rating 56 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 15, 2017
  Kính thưa:  Quý đồng hương, quý doanh nhân và bà con, Sau hơn một tháng BVĐ Cứu Trợ Palei Ram Hải Ngoại phát động phong trào cứu trợ lũ lụt cho bà con Cham Palei Ram ở quê nhà và số tiền do những đứa con Cham xa xứ và doanh nhân ủng hộ đươc đến thời điểm này là 10,160 dollars. Hiện nay BVĐ đang kết họp với Ban Phân Phát gạo (xem hình đinh kèm để biết thêm chi tiết) ở quê nhà lên kế hoạch ký hộp đồng mua gạo tốt nhất để gởi đến bà con Cham Palei Ram với 1,910 hộ. Mỗi hộ sẽ nhận được một bao gạo 10kg. Ngày phân phát gạo: Ngày 18 và 19 tháng 02 năm 2017. BVĐ Cứu Trợ Palei Ram Hải Ngoại sẽ cập nhật những thông tin, hình ảnh và video clip của khoảnh khắc phát gạo để chia sẽ đến doanh nhân, quý đồng hương và bà con sau này. Lần nữa, BVĐ Cứu Trợ Palei Ram Hải Ngoại xin chân thành cảm ơn đến những bà con và doanh nhân đã cùng đồng hành với BVĐ giúp đỡ và đóng góp với số tiền trên để gọi là " Một miếng khi đói bằng một gói khi no" đến bà con Cham Palei Ram ở quê nhà. Bên cạnh đó BVĐ cũng không quên công lao đóng góp không nhỏ của Ban Phân Phát Gạo ở quê nhà. BVĐ Cứu Trợ Palei Ram Hải Ngoại xin chúc bà con, doanh nhân và quý Đổng Hương sức khoẻ, bình an và thịnh vượng. Chào thân ái.TM: BVĐ Cứu Trợ Palei Ram Hải NgoạiThư Ký, Sarif Chau  
0 Rating 599 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 10, 2017
Người Chăm ở Việt Nam và Campuchia. Nguyễn Văn Huy*  I. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè Chăm là một trong 54 nhóm chủng tộc bất khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân số người Chăm hiện nay khoảng 100.000 người, trong đó hơn 2/3 định cư tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và Bình Tuy ; số còn lại sinh sống tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.  Cũng nên biết, trong thực tế, có khoảng 400.000 người Chăm sinh sống tại khắp nơi trên thế giới, đông nhất là tại Kampuchia (270.000 người), kế đến mới tới Việt Nam (100.000 người), sau là Thái Lan (15.000 người) và cuối cùng là Liên Bang Mã Lai, năm 1979 đã  tiếp nhận khoảng 10.000 người Chăm đến từ Kampuchia. Hải ngoại có khoảng 200 người Việt gốc Chăm (hơn 50 gia đình), đa số định cư tại Hoa Kỳ.  Tài liệu nói về nhóm dân cư này tuy có nhiều nhưng cũng rất thiếu. Đa số các tài liệu viết về các sinh hoạt có tính văn hóa và xã hội trong khi phần lịch sử và sinh hoạt chính trị của nhóm dân cư này hoàn toàn thiếu vắng, nếu có chăng thì nội dung cũng bị bóp méo để phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của các chế độ đương quyền. Chính vì thế mỗi khi đề cập tới cộng đồng người Chăm, người Việt thường có một nhận thức rất mơ hồ, chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu số ở miền Trung và Châu Đốc có nước da ngăm đen, phong tục tập quán, tín ngưỡng và văn hóa khác với người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn những người lãnh đạo đất nước cũng không nắm rõ nguồn gốc những cộng đồng chủng tộc đã góp phần tạo thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có thể xây dựng một chính sách dân tộc phù hợp với ước vọng của từng cộng đồng. Chính vì thế nội dung loạt bài viết về người Chăm này nhằm khai thông bế tắc đó. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè là chặng đường cần thiết trước khi cùng nhau xây dựng một tương lai chung.   Người Chăm và các danh xưng   Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia là thần dân vương quốc Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã có mặt từ lâu đời tại miền Trung trước khi người Kinh đến đây lập nghiệp.  Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên phân biệt người Chăm và người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống trên những vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Chămpa là toàn thể các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm Thành cũ gồm cả người Chăm đồng bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dãy Trường Sơn, hay Tây Nguyên.  Champa là tên một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương thơm ngào ngạt có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung. Người Việt gọi là hoa sứ, tên khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết người Champa đã chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã được tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành (Tchan-tcheng).  Trước kia người Việt gọi cộng đồng người Chăm là Chiêm, Chàm, Hời… Những danh xưng này được đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo cách phát âm của người miền Trung, do đó không phản ánh trung thực danh xưng chính xác của người Chăm hiện nay.  – Chiêm là tên gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm Thành ; danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói tới.  – Chàm là cách đọc trại đi từ chữ Champa ; danh xưng Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận… Trong nước, những nhà dân tộc học đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu ; điều này đã làm hài lòng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa.  – Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng là người Chămpa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những sinh hoạt thường nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v…, tất cả đều là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn tại đây. Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng trong những thời điểm khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng người Việt ít biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm người, dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.  Chữ Hời mang một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên đi cướp bóc, vì trong quá khứ người Hroi đã nhiều lần tiến công vào các làng xã người Kinh cướp bóc lương thực, trong những giai đoạn khó khăn, dưới thời các chúa Nguyễn. Sau này người Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời Nguyễn gọi chung là Mọi Đá Vách.  Ngoài ra cũng có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn hay Yun có nghĩa là người Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng này rất ít người biết đến vì người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã lập gia đình với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.  Về ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ Nam Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn minh, văn hóa của người Chăm với văn minh, văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của người Chăm tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn yếu tố văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước.  Trong thực tế không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ là tên gọi của nhiều nhóm dân cư sau này chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương quốc Champa hay Chiêm Thành cũ, gọi chung là người Chămpa, chứ không phải tên riêng của một nhóm chủng tộc. Sau này cộng đồng người Chăm đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành cũ, để phân biệt với các nhóm Chămpa khác xuất phát từ nhiều nguồn gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau. Có thể nói vương quốc Chiêm Thành xưa kia là một liên bang đa chủng và đa văn hóa.   Nền văn hóa cổ Champa  Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài: xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.  Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.  Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.  Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.  Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi là Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống.  Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.  Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái: phái Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn. Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác định. Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính của người Chăm.  Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit, tức chữ Phạn cổ.  Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi. Người Chăm pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng “Chăm mới”, nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ “Chăm mới” và còn áp dụng cho đến ngày nay. Chữ “Chăm mới” có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.  Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người “Java” (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó: không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa. Khi các “hải tặc Java” (cách gọi những ngư phủ không hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.  Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7 và 9, nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.  Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm Thành.  Trong các thế kỷ sau mới có thêm các giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.  Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo đạo Bani).  Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.  Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống: tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.  Truyền thuyết về các dòng vương tôn  Theo truyền thuyết, các dòng vương tôn cầm quyền t
0 Rating 425 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 22, 2017
  NC- Các bài viết liên quan đến "Nữ sinh Chăm bị bạn đánh dã man ở ninh thuận ngày 15-1-2017" trên facebook.com. Xem video clip củ nữ sinh Cham bị đánh dã man ở Ninh Thuân  Đồng Chuông Tử-  NỮ SINH ĐÁNH BẠN HỌC TÀN BẠO, THỰC TRẠNG ĐÁNG BÁO ĐỘNG Ở VIỆT NAM Sáng nay, 16.01.2017, cộng đồng mạng xã hội lại "nổi sóng" lên với clip nữ sinh đánh bạn học tàn bạo ở Ninh Thuận. Clip dài hơn 1 phút, được tung lên mạng trước đó một ngày. Và đến thời điểm này, clip vừa mới bị xóa.Được biết, nữ sinh bị đánh là học sinh lớp 8, người dân tộc Chăm, ngụ ở làng Hữu Đức, huyện Ninh Phước. Người đánh là bạn Kinh, làng Ma Ram, hai làng gần gũi nhau. Chung xã.Sau khi clip gây phẫn nộ dư luận, Ban giám hiệu trường Huỳnh Phước, nơi học tập của hai bạn nữ sinh này và cơ quan chức năng lập tức vào cuộc.Vấn đề là cách giải quyết làm sao để tránh xảy ra những sự cố trong tương lai gần. Bởi không khéo, nó sẽ không còn là chuyện cá nhân, gia đình và nhà trường nữa.Nó sẽ có khả năng bị đẩy lên rất cao. Rất nguy hiểm. Đó là chuyện mâu thuẫn sắc tộc. Mà chuyện đụng chạm sắc tộc ở địa phương Ninh Thuận, đã có nhiều tiền lệ rồi.Nếu cứ đụng chuyện, cơ quan chức năng cho người đánh nghỉ học là không nên. Đó chỉ là cách xử lí tình thế tồi tệ.Vì sao? Vì người đánh đã không có cơ hội được học hành thêm, bồi dưỡng văn hóa và nhân cách cho chính mình. Cái tầm nhận thức của người đánh bị chững lại, dừng lại và có khi suy thoái, biến tướng hãi hùng. Gây phức tạp cho cộng đồng.Xã hội cần người lớn và cơ quan chức năng biết ứng xử nhân văn trong trường hợp này. Cần thiết xây dựng và ban hành bộ quy chuẩn ứng xử đẹp và những hành vi đáng lên án trong nhà trường. Phù hợp luật Hiến Pháp và các luật liên quan quyền con người.Mặt khác, chúng ta thật đau lòng khi nhìn thấy tần suất và mức độ ứng xử tàn bạo của các nữ sinh, ngày càng lan rộng và trở thành căn bệnh trầm kha. Với vụ việc đánh bạn mới đây của nữ sinh ở Ninh Thuận, phản ánh một thực trạng đáng báo động trong môi trường giáo dục nước nhà. Cứ vài ba tháng, chúng ta lại phải nhìn thấy những sản phẩm đau đớn, xấu hổ "xổ chuồng". Chúng ta lại la làng. Rồi sau đó chìm đi. Rồi lại nổi sóng ở địa phương khác. Rồi lại ứng xử tiếp tục như vậy ư?Phải có một giải pháp vĩ mô từ các nhà giáo dục, chuyên gia tâm lí và chuyên gia pháp luật để chấm dứt vấn nạn này, càng nhanh càng tốt. Không để những sản phẩm đang trong giai đoạn giáo dục lại đi "tô son trét phấn" lên nền giáo dục, vốn dĩ đã để xảy ra quá nhiều tai tiếng, trong thời gian dài vừa qua.   -----------   Đồng Chuông Tử- THĂM NHÀ CHÁU HỌC SINH BỊ BẠO HÀNH Cháu tên là Hán Nữ Ngọc Hưởng, học sinh lớp 8, Trường Trung học cơ sở Huỳnh Phước, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Cháu là người bị bạn học lớp 9 tên B.Q, cùng trường đánh dã man, bạn bè dự khán quay clip và tung lên mạng bốn ngày qua.Clip đánh bạn tàn bạo này, sau khi được tung lên mạng, nó nhanh chóng thu hút dư luận cả nước, với hàng ngàn lượt chia sẻ và chục ngàn lượt like biểu tượng phẫn nộ, cũng như vô vàn bình luận thể hiện nỗi bất bình đối với người đánh.Liền sau đó, cơ quan chức năng địa phương và Ban giám hiệu trường trên vào cuộc, mở cuộc họp lắng nghe tâm tư của học sinh và phụ huynh. Báo Pháp Luật Tp.HCM có bài phản ánh nội dung clip sớm nhất và cho biết công an đang làm việc về nội dung clip gây sóng cư dân mạng. Chiều nay, ngày 17.01.2017, Đồng Chuông Tử và thầy giáo, nhà thơ trẻ Lưu Anh Tặng đã ghé thăm gia đình cháu Hưởng, ở thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu.Qua trao đổi từ chính cháu cho hay, cháu đi học nghề trở về thì một nhóm người nữ lạ đã gọi cháu lại đánh. Clip trên chỉ kéo dài 1 phút 25 giây, nhưng thực tế cháu bị đánh hơn 20 phút, kể cả dùng mũ bảo hiểm đập vào đầu.Cháu nói không quen biết và có thù hằn gì với nhóm người đánh mình.Theo gia đình kể lại, trưa hôm qua nhà trường tổ chức họp, có gia đình hai bên và cơ quan công an, khi được hỏi lí do đánh bạn, thì nữ sinh B.Q trả lời cách thản nhiên "thích thì đánh thôi".Gia đình cũng cho biết, công an có về nhà hỏi thăm tình hình cháu và hỏi han có người lạ nhà báo nào ghé về tìm hiểu không. Người nhà lập tức mở trang báo đã đăng tin clip cháu Hưởng bị đánh.Trong chiều nay, gia đình có đưa cháu Hưởng đi bệnh viện công siêu âm lấy tỉ lệ thương tật. Bác sĩ hỏi cháu bị làm sao, gia đình thành thật trả lời nguyên trạng, thì bác sĩ hướng dẫn lên công an xã lấy giấy tờ thêm để đúng quy trình.Khi Đồng Chuông Tử trực tiếp hỏi thăm sức khỏe, nhận thấy tâm trạng cháu vẫn còn hoang mang, lo sợ thất thường. Cháu kể cháu bị mũ bảo hiểm đánh vào đầu đang đau đầu lắm và ê ẩm khắp người. Hỏi về nguyện vọng đi học thì cháu hốt hoảng bảo không dám đi học ở trường cũ nữa và muốn chuyển trường qua Đổng Dậu học.Riêng nữ sinh B.Q, người đánh bạn dã man trong clip, đã bị nhà trường đuổi học. B.Q là học sinh cá biệt, vi phạm kỉ luật rất nhiều, và không thể hiện sự tiến bộ trong sinh hoạt và học tập thời gian dài. ---------- Trà VigiaCHUYỆN PHIM BUỒN Hôm qua mấy đứa cháu có đưa cho tôi xem một video clip trên smart fone. Đó không phải là một video ca nhạc giựt gân của một ca sĩ trẻ nào mới nổi, cũng không là một cảnh trong phim hành động Mỹ với nhiều pha đua xe đọ súng kinh hồn! Cảnh quay một cô bé to con mặc áo rằn ri đang đánh một con bé mặc áo vàng nhỏ thó. Người trên thì ra sức đánh đấm đạp đá vào người nạn nhân còn miệng thì luôn mồm chửi bới dọa nạt, kẻ dưới thì ôm đầu co quắp khóc lóc rên la… Hỏi ra mới biết cảnh quay trong phim Bạo lực học đường mà chưa biết rõ đạo diễn quay phim là ai, kịch bản cũng không rõ ràng lắm vì một đoạn phim cắt ngang cũng không nói lên được điều gì để có thể kết luận! Chỉ biết diễn viên chính đóng vai thủ ác là một học sinh lớp 9 ở Mông Nhuận xã Phước Hữu huyện Ninh Phước, diễn viên phụ đóng vai nạn nhân là học sinh lớp 8 ở Hữu Đức cùng xã cùng huyện cùng tỉnh Ninh Thuận mến yêu! Cả hai cùng học cùng trường trung học cơ sở Huỳnh Phước, tên một danh nhân kháng chiến của xã nhà và là niềm tự hào chung của địa phương để con em noi gương phấn đấu. Có lẽ các em không được phụ huynh cùng thầy cô hướng dẫn đúng cách nên thay vì chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước, các em lại đi ngược truyền thống đó như một hệ quả tất yếu mà thế hệ sau phải cưu mang… Mấy đứa cháu hỏi tôi cảm giác thế nào, tôi chỉ rùng mình bảo ghê rợn mà man rợ còn hơn thời chiến vì hôm nay chúng ta đang sống hòa bình! Bạo lực học đường không còn là sản phẩm độc quyền diễn ra trên các thành phố lớn mà đã lan tràn đến các ngõ ngách làng quê và đó là điều cần báo động nghiêm túc. Một câu hỏi đặt ra là trách nhiệm thuộc về ai và phương hướng giải quyết ra sao cho thỏa đáng mang tính căn cơ lâu dài? Sự mâu thuẫn bất đồng giữa các em học sinh là điều không thể tránh khỏi, nhưng để sự việc dẫn đến bạo lực để giải quyết vấn đề là một sự kiện không thể xem thường! Vì nó vận hành theo quy luật ỷ mạnh hiếp yếu, cậy đông hiếp kẻ thế cô mà bài học công dân giáo dục vẫn thường xuyên nhắc nhở. Là phụ huynh ai cũng bức xúc đau đớn khi thấy con em mình bị đánh đập ngược đãi một cách công khai và vô lý, tất yếu phải nẩy sinh ý định trả thù với nhiều hệ lụy đáng tiếc khác có thể xảy ra! Ở đây nghiêm trọng hơn kẻ bị hại lại là người Chăm, một dân tộc đã chịu quá nhiều đau thương mất mát trên chính mảnh đất cha ông của họ. Bởi vậy cần phải có giải pháp rốt ráo để làm sáng tỏ vấn đề, giải tỏa mọi nghi ngờ hiềm khích trong tương lai gần và xa để trường hợp đó không còn xảy ra một cách đáng tiếc! Cần phải có sự quan tâm tháo gỡ không chỉ của nhà trường mà cần có sự vào cuộc của các cấp chính quyền để hố ngăn chia rẽ được lấp đầy và sự thù hận dân tộc vĩnh viễn đi vào quá vãng. Nhà trường phải lấy lại niềm tin của phụ huynh học sinh khi gửi gắm con em mình với tất cả niềm hy vọng bởi họ còn phải bươn chải mưu sinh. Sự sang chấn tâm lý của em học sinh bị hại cũng cần được giúp đỡ phục hồi một cách chu đáo cụ thể. Đã xa rồi lời cảm ơn xin lỗi muộn màng bởi liều thuốc đó từ lâu không còn hiệu nghiệm! Cuộc sống với bao nhiêu lo toan cần phải trang trải và thế hệ sau mới là rường cột của nước nhà, tương lai của đất nước. Người lớn chúng ta quá bận rộn với chuyện vĩ mô nên lơ là yếu tố vi mô là một sai lầm không thể thoái thác! Tôi chỉ muốn làm thơ viết văn ca ngợi tổ quốc như một con tàu vươn khơi ra biển, rất tiếc xem chuyện phim buồn buồn ơi! -------------- Lưu Tặng - ĐẰNG SAU VỤ VIỆC HỌC SINH ĐÁNH NHAU Ở TRƯỜNG THCS HUỲNH PHƯỚC-NINH THUẬN Trong thời gian vừa qua, dân mạng nói chung và cộng đồng sống tại tỉnh Ninh Thuận nói riêng đã thể hiện sự xót đau cho em học sinh bị đánh (là em H học sinh lớp 8, dân tộc Chăm) và lên án hành động tàn bạo dã man của em học sinh đánh bạn (là em Bích Quy học sinh lớp 9, dân tộc Kinh), cả hai đều đang theo học tại trường THCS Huỳnh Phước (Phước Hữu-Ninh Phước-Ninh Thuận). Hẳn chúng ta luôn mong muốn những giải pháp hợp lí hợp tình của pháp luật tránh những khả năng có thể đẩy lên đỉnh điểm và gây ra những sự mâu thuẫn không đáng có. Hôm nay có đến thăm em H chia sẻ nỗi đau thể xác cùng tinh thần. Hẳn nhiên em vẫn còn có vẻ mất tinh thần với một bộ dạng hốc hác chứng tỏ cho sự mất ngủ nhiều đêm. Như trong đoạn video clip chúng ta thấy, em là một người chịu đựng trước một cảnh hãi hùng được gây ra bởi một bạn học sinh cùng trường. Em chia sẻ trước đây em với B.Quy chưa một lần quen biết cũng như chuyện trò gì cả, trong một buổi học nghề tại trường TTHNDN (trung tâm hướng nghiệp dạy nghề) Ninh Phước, Bích Quy cùng 4 người bạn nữa (trong đó 2 em cũng học tại Huỳnh Phước và 2 khác không biết học ở đâu, sau tìm hiểu tôi mới biết 2 em này học tại trường Trương Định-Phú Quý-Ninh Phước-Ninh Thuận) rủ em với lời đe dọa rất sợ hãi, vì sự ngây thơ và thẳng thắng em đã đi theo với mong muốn không có việc gì xảy ra. Nhưng nhũng gì đến với em như một trận động đất khôn lường hậu quả. Em sẵn sàng làm tất cả mọi thứ họ yêu cầu cho dù có tồi tệ cỡ nào. Như những lời em H hứa với em B.Quy, về nhà em nằm bỏ cơm trùm mền, khi mẹ hỏi cơ sự em nói “mặt xưng to vì va vào cổng trường lúc tai nạn xe với mấy bạn”. Cho tới khi công an đến nhà ba mẹ em mới vỡ òa sự thật. Riêng em H thì không muốn đi học ở trường cũ và muốn chuyển trường. Cho đến bây giờ em vẫn đau khắp người và nhất là phần đầu vì tổn thương quá nặng với những cú đấm, em còn cho biết em bị hành hạ đánh đập hơn 20 phút, trước đó em B.Quy còn dùng cả nón bảo hiểm đánh vào đầu em rất lâu. Nhưng Clip mà chúng ta xem chỉ vỏn vẹn 1,20 phút, mà thấy rả rời cả ruột gan. Ba mẹ em H chia sẻ, khi đến trường trước mặt thầy cô giáo, ba mẹ 2 bên và có cả cơ quan ban ngành em trả lời “thích thì đánh” với một vẻ mặt rất ư hống hách lạnh lùng. Nhưng lúc đấy gia đình em H vẫn chưa xem clip nên không biết cảnh tượng xảy ra ngoài sức tưởng tượng. Nay mong ban ngành cùng BGH nhà trường có cách giải quyết dứt khoát và nhanh chóng để không trở ngại biến chứng có thể cũng gây ra từ đối tượng là em Bích Quy. Với tính cách ứng sử trước mặt cán bộ người lớn cùng với thầy cô giáo dạy dỗ và ba mẹ mình. Em bích Quy thể hiện một hành động như trên thì chứng tỏ em có thể làm nhiều việc “ghê tởm” hơn. Ngoài ra nhà trường giờ đã đuổi học em vì đã phạm quá nhiều tội khi ngồi ghế nhà trường. Theo quan điểm cá nhân, tôi mong các ban ngành nhảy vào cuộc xử lý đến nơi đến chốn đối tượng em B.Quy, cho em thôi học là một quan điểm sai lầm vì em có thể tự do và chắc chắn sẽ có nhiều hành động ngoài sức tưởng tượng. Cần có giải pháp giáo dưỡng em này đúng quy cách với những phương thức đạo đức cùng cách ứng sử nhân văn. Hồng mong em có thể quay về với cuộc sống xã hội lành mạnh và văn minh.   -----------------------   QUAN ĐIỂM VỀ VỤ CLIP "NỮ SINH ĐÁNH BẠN DÃ MAN Ở NINH THUẬN " Tác giả LƯU QUANG TUẤN HUY Bạo hành lứa tuổi vị thành niên, một thực trạng của xã hội hiện tại mà mỗi ngày đang diễn ra trên toàn quốc. Nó nhan nhản trên mạng xã hội, đã gióng lên hồi chuông báo động về sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức và sự vô cảm của một bộ phận người.  Vấn đề là cô bé bị bạo hành trước mặt bao người vô cảm, họ dửng dưng như không có gì xảy ra, rồi thay vì phải can ngăn và giúp đỡ người bị hại thì lại quay clip tung lên mạng. Theo tôi, cái chúng ta cần quan tâm là sự giáo dục của gia đình cô gái bạo hành, cái tâm của cha mẹ cô gái ấy trước sự việc xảy ra, cái quan tâm của nhà trường và pháp luật, chính quyền địa phương mang lại công bằng cho người bị hại.  Còn nói về cô gái gây ra sự việc này, tôi nghĩ khó mà có thể mong cô ấy có ý thức suy nghĩ lại, cô ấy đang nằm trong trạng thái vô cảm, bất cần đời,... Và thậm chí như đang trả thù một cái gì đó mà cô ấy đang chịu đựng trong cuộc sống riêng tư.  Cần phải xem xét một cách nghiêm túc sự nguy hiểm của dạng người này đối với xã hội và môi trường học tập của các em. Đây cũng có thể là một sự nông nổi theo trào lưu bạo lực ở lứa tuổi trẻ em, thiếu sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ và người thân, nên cần lắm sự giáo dục của gia đình và cộng đồng, mà quan trọng nhất là sự vào cuộc của pháp luật, các tổ chức xã hội và sự giúp đỡ của mọi người.  Chúng ta nên ngăn chặn một bạo lực kế tiếp, sẽ diễn ra cho một nạn nhân mới, mà chưa thể biết một cháu bé tội nghiệp của bất cứ gia đình nào.  Tôi thiết nghĩ, lứa tuổi các em chỉ đơn thuần là thỏa mãn mình, chưa đủ khả năng nghĩ đến vấn đề dân tộc hay chính trị, nên cần lắm sự sáng suốt của người lớn, đừng đẩy vấn đề này lên thành sự nhạy cảm bất lợi cho ổn định xã hội và chia rẽ dân tộc.  Mong thay!!!        
0 Rating 770 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 21, 2017
Tổng thống Mỹ Donald Trump đọc diễn văn sau khi tuyên thệ nhậm chức tại Điện Capitol ở Thủ đô Washington, Hoa Kỳ, 20/1/2017. Thưa Chánh án Roberts, Tổng thống Carter, Tổng thống Clinton, Tổng thống Bush, Tổng thống Obama, thưa đồng bào Mỹ, và mọi người trên thế giới: Xin cảm ơn. Chúng ta, những công dân của nước Mỹ, hiện cùng tham gia một nỗ lực lớn của dân tộc để xây dựng lại đất nước và khôi phục những hứa hẹn của đất nước cho cả nhân dân Mỹ chúng ta. Cùng nhau, chúng ta sẽ quyết định hướng đi tương lai của nước Mỹ và thế giới trong nhiều năm tới. Chúng ta sẽ đối mặt với nhiều thách thức. Chúng ta sẽ đối đầu với nhiều khó khăn. Nhưng chúng ta sẽ hoàn thành nhiệm vụ. Cứ mỗi 4 năm, chúng ta lại tụ tập trên những bậc thềm này để thực hiện tiến trình chuyển giao quyền lực trong trật tự và hòa bình, và chúng tôi xin đa tạ Tổng thống Obama và Đệ nhất phu nhân Michelle Obama về sự giúp đỡ niềm nở của họ trong suốt quá trình chuyển giao. Tổng thống và phu nhân Obama thật vô cùng tuyệt vời. Tuy nhiên, buổi lễ hôm nay mang ý nghĩa rất đặc biệt. Bởi vì ngày hôm nay chúng ta không chỉ đơn thuần chuyển giao quyền lực từ chính quyền này sang chính quyền khác, hay từ đảng này sang đảng khác – mà chúng ta chuyển giao quyền lực từ thủ đô Washington, trở lại với quý vị, nhân dân Mỹ. Trong thời gian quá lâu, một nhóm nhỏ ở thủ đô của đất nước chúng ta đã thu về những lợi lộc từ chính quyền trong khi người dân phải trả giá. Washington nở rộ - nhưng người dân không được chia phần trong sự phồn vinh đó. Các chính trị gia trở nên giàu có - nhưng chúng ta đã mất nhiều việc làm, nhiều nhà máy bị đóng cửa. Giới quyền thế bảo vệ chính họ, chứ không phục vụ các công dân của đất nước chúng ta. Chiến thắng của họ không phải là chiến thắng của quý vị; trong khi họ hân hoan ăn mừng ở thủ đô của đất nước chúng ta, thì nhiều gia đình gặp khó khăn trên khắp đất nước không có gì để ăn mừng. Tất cả những điều đó sẽ thay đổi - bắt đầu tại đây và ngay trong lúc này, bởi vì thời điểm này là thời điểm của quý vị: nó thuộc về quý vị. Thời điểm này thuộc về tất cả mọi người đang có mặt ở đây ngày hôm nay và tất cả mọi người đang theo dõi trên khắp nước Mỹ. Đây là ngày của quý vị. Đây là lễ ăn mừng của quý vị. Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ này là đất nước của quý vị. Điều thực sự quan trọng không phải là đảng nào kiểm soát chính phủ của chúng ta, mà liệu chính phủ của chúng ta có phải do người dân kiểm soát hay không. Ngày 20 tháng 1 năm 2017 sẽ được ghi nhớ là ngày mà người dân Mỹ một lần nữa nắm quyền cai trị đất nước này. Tất cả những người, nam cũng như nữ bị quên lãng ở đất nước này, từ giờ sẽ không còn bị bỏ quên. Lúc này mọi người đang lắng nghe quý vị. Quý vị, hàng chục triệu người tập hợp với nhau để trở thành một phần trong một phong trào lịch sử mà thế giới chưa bao giờ từng chứng kiến trước đây. Ở tâm điểm phong trào này là một niềm tin thiết yếu: rằng lý do tồn tại của một quốc gia chính là để phục vụ công dân. Người Mỹ muốn có các trường học tốt cho con cái, khu dân cư an toàn cho gia đình, và công ăn việc làm tốt cho bản thân. Đây là những đòi hỏi chính đáng và hợp lý. Nhưng đối với rất nhiều công dân chúng ta, lại tồn tại một thực tế khác: nhiều bà mẹ và con cái lâm vào cảnh nghèo túng ở các khu nội đô; nhiều nhà máy hoang tàn nằm rải rác như những ngôi mộ trên khắp đất nước chúng ta; một hệ thống giáo dục với túi tiền đầy ắp, nhưng lại không giúp được cho giới trẻ và thành phần sinh viên tươi đẹp của chúng ta thâu thập kiến thức; tội phạm, băng đảng và ma túy đã cướp đi quá nhiều sinh mạng làm mai một biết bao là tiềm năng của quốc gia. Thảm trạng đó sẽ chấm dứt tại đây và ngay lúc này. Chúng ta là một quốc gia - và nỗi đau của họ là nỗi đau của chúng ta. Ước mơ của họ là ước mơ của chúng ta; thành công của họ sẽ là thành công của chúng ta. Chúng ta có chung một trái tim, một quê hương, và chia sẻ chung một vận mệnh vinh quang. Lời tuyên thệ nhậm chức của tôi ngày hôm nay là lời tuyên thệ trung thành với tất cả mọi người dân Mỹ. Trong nhiều thập niên, chúng ta đã làm giàu cho công nghiệp nước ngoài trong khi công nghiệp Mỹ bị thua thiệt; Trợ cấp cho quân đội các nước khác trong khi để mặc cho quân đội của chúng ta suy yếu một cách đáng buồn; Chúng ta đã bảo vệ biên giới các quốc gia khác trong khi không bảo vệ biên giới của chính đất nước mình; Chúng ta đã chi hàng nghìn tỷ đôla ở nước ngoài trong khi cơ sở hạ tầng của Mỹ rơi vào tình trạng hư hại, mục nát. Chúng ta đã giúp các nước khác trở nên giàu có trong khi sự thịnh vượng, sức mạnh và niềm tự tin của đất nước chúng ta mai một dần. Lần lượt, các nhà máy đóng cửa và rời lãnh thổ của chúng ta, mà không mảy may nghĩ đến hàng triệu, hàng triệu công nhân Mỹ bị bỏ lại phía sau. Tầng lớp trung lưu của chúng ta đã bị tước mất tài sản, nhà cửa, để chia lại trên khắp thế giới. Nhưng đó là quá khứ. Bây giờ chúng ta sẽ chỉ hướng đến tương lai. Chúng ta tập trung ở đây hôm nay và đưa ra một thông điệp gửi đến khắp mọi nơi, mọi thành phố, mọi thủ đô nước ngoài, và tại mọi trung tâm quyền lực. Từ ngày hôm nay về sau, một tầm nhìn mới sẽ ngự trị tại đất nước chúng ta. Từ thời điểm này trở đi, nước Mỹ sẽ được đặt lên trên hết. Mỗi quyết định về thương mại, về thuế, về xuất nhập cảnh, về chính sách đối ngoại, sẽ được làm dựa trên những lợi ích cho người lao động Mỹ và các gia đình Mỹ. Chúng ta phải bảo vệ biên giới của chúng ta khỏi sự tàn phá của các nước khác đang sản xuất các sản phẩm của chúng ta, cướp các công ty của chúng ta, và hủy hoại công ăn việc làm của chúng ta. Các biện pháp bảo hộ sẽ dẫn đến thịnh vượng và sức mạnh. Tôi sẽ đấu tranh cho quý vị cho tới hơi thở cuối cùng - và tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ làm quý vị thất vọng. Hoa Kỳ sẽ chiến thắng trở lại, như chưa từng bao giờ chiến thắng. Chúng ta sẽ mang về công ăn việc làm cho chúng ta. Chúng ta sẽ giành lại biên giới của chúng ta. Chúng ta sẽ giành lại sự giàu có của chúng ta. Và chúng ta sẽ khôi phục lại những ước mơ của chúng ta. Chúng ta sẽ xây những con đường, đường cao tốc, cầu cống, sân bay, và đường hầm, và đường sắt mới trên khắp đất nước tuyệt vời của chúng ta. Chúng ta sẽ giúp cho người dân không còn cần đến những trợ cấp và quay trở lại làm việc - xây dựng lại đất nước chúng ta với bàn tay người Mỹ và sức lao động Mỹ. Chúng ta sẽ tuân theo hai quy định đơn giản: Mua hàng Mỹ và mướn nhân công Mỹ. Chúng ta sẽ xây dựng tình hữu nghị và thiện chí với các quốc gia trên thế giới - nhưng chúng ta làm như vậy với ý thức rằng tất cả các quốc gia có quyền đặt lợi ích của chính họ lên trên hết. Chúng ta không tìm cách áp đặt lối sống của chúng ta lên bất cứ ai, mà thay vào đó là tự mình thể hiện như một tấm gương cho mọi người noi theo. Chúng ta sẽ củng cố các liên minh cũ và hình thành các liên minh mới - và đoàn kết thế giới văn minh chống chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan, chúng ta sẽ hoàn toàn tiêu diệt chúng ra khỏi Trái Đất. Nền tảng của nền chính trị của chúng ta sẽ là lòng trung thành tuyệt đối với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, và qua sự trung thành của chúng ta với đất nước, chúng ta sẽ khám phá lại lòng trung thành của chúng ta với nhau. Khi quý vị mở lòng mình ra với lòng ái quốc, thì không còn chỗ cho thành kiến. Kinh Thánh dạy chúng ta "thật tốt đẹp và dễ chịu khi con dân của Chúa trời sống với nhau trong sự hiệp nhất". Chúng ta phải nói ra những gì mình nghĩ một cách cởi mở, tranh luận những quan điểm bất đồng một cách thành thực, nhưng luôn luôn mưu cầu tinh thần đoàn kết. Khi nước Mỹ đoàn kết, không có thế lực nào có thể ngăn cản nước Mỹ. Không nên sợ hãi - chúng ta được bảo vệ, và chúng ta sẽ luôn luôn được bảo vệ. Chúng ta sẽ được bảo vệ bởi những nam nữ quân nhân tuyệt vời phục vụ trong quân đội và các lực lượng chấp pháp của chúng ta, và quan trọng hơn cả, chúng ta được Thượng Đế bảo vệ. Cuối cùng, chúng ta phải cởi trói suy nghĩ và mơ những giấc mơ lớn hơn nữa. Ở nước Mỹ, chúng ta hiểu rằng một quốc gia chỉ tồn tại chừng nào đất nước đó còn phấn đấu. Chúng ta sẽ không tiếp tục chấp nhận các chính trị gia chỉ nói suông mà không hành động - phàn nàn mà không làm bất cứ điều gì về điều đó. Giờ đã hết lúc nói những điều trống rỗng. Bây giờ đã đến giờ hành động. Đừng cho phép bất cứ ai nói với quý vị rằng việc này việc kia là không thể thực hiện. Không có thách thức nào có thể đánh bại trái tim, sự đấu tranh và tinh thần của nước Mỹ. Chúng ta sẽ không thất bại. Đất nước chúng ta sẽ phát triển mạnh và thịnh vượng trở lại. Chúng ta đang ở giai đoạn đầu của một thiên niên kỷ mới, sẵn sàng mở khóa những điều bí ẩn trong vũ trụ, giải thoát trái đất khỏi những khổ đau do bệnh dịch, và khai thác các nguồn năng lượng, các ngành công nghiệp và công nghệ của ngày mai. Một niềm tự hào quốc gia mới sẽ làm rung động tâm hồn chúng ta, nâng cao tầm nhìn của chúng ta, và chữa lành những chia rẽ giữa chúng ta. Giờ là lúc nhắc lại những lời khôn ngoan từ xưa mà các quân nhân của chúng ta sẽ không bao giờ quên: cho dù chúng ta là da đen hay nâu hay trắng, tất cả chúng ta đều chung dòng máu đỏ của những người ái quốc, tất cả chúng ta đều hưởng các quyền tự do vinh quang, và tất cả chúng ta đều cùng chào lá cờ Mỹ vĩ đại. Cho dù một em bé được sinh ra ở vùng đô thị rộng lớn ở Detroit hay ở vùng đồng bằng lộng gió của Nebraska, các em đều nhìn lên cùng một bầu trời đêm, với trái tim đầy những ước mơ như nhau, và đều được Đấng Tạo hóa truyền hơi thở cuộc sống. Vì vậy, thưa tất cả đồng bào Mỹ, ở mọi thành phố gần xa, lớn nhỏ, trên những ngọn núi, từ bờ đại dương này đến bờ bên kia, hãy lắng nghe những lời này: Quý vị sẽ không bao giờ bị bỏ lơ nữa. Tiếng nói, niềm hy vọng, và ước mơ của quý vị sẽ xác định vận mệnh nước Mỹ chúng ta. Và lòng quả cảm, lòng tốt và tình yêu của quý vị mãi mãi sẽ dẫn đường chúng ta. Cùng nhau, chúng ta sẽ làm cho nước Mỹ hùng mạnh trở lại. Chúng ta sẽ làm cho nước Mỹ giàu có trở lại. Chúng ta sẽ làm cho nước Mỹ tự hào trở lại. Chúng ta sẽ làm cho nước Mỹ an toàn trở lại. Và đúng vậy, cùng nhau, chúng ta sẽ làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại. Xin cảm ơn, Chúa ban phước lành cho quý vị, và Chúa ban phước lành cho nước Mỹ.   Source: http://www.voatiengviet.com  
0 Rating 337 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 18, 2017
    San Jose: ngày 17 tháng 01 năm 2017  THƯ KÊU GỌI (V/v Ủng hộ đồng bào Cham Plei Ram bị lũ lụt) Kính gửi:  - Quý Đồng Hương - Quý công ty, các tổ chức Hội Đoàn, Doanh Nhân và nhà Hảo Tâm Thưa Quý vi, Như Quý vị đã biết về cơn bão và lũ lụt lớn ở Miền Trung Việt Nam cuối năm 2016 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề về mùa màng và nhà cửa. Làng Cham Plei Ram (Văn Lâm) thuộc Huyện Thuận Nam, Tỉnh Ninh Thuận cũng không ngoại lệ. Lũ lụt lịch sử này đã cuốn trôi đi những hạt lúa chin, khu chân nuôi gia cầm, cây ăn trái và hoa màu đang trong mùa thu hoạch. Sự mất mát do thiên tai gây ra đã làm cho cuộc sống bà con Cham Plei Ram phải lâm vào hoàn cảnh đói nghèo, cơ cực và khốn khổ. Trước tình cảnh thương tâm này và với tình thần “ Lá lành đùm lá rách. Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Ban vận động cứu trợ Plei Ram Hải Ngoại hiện đang phát động phong trào kêu gọi những đứa con xa xứ cùng chung tay giúp đỡ về vật chất, tinh thần để giảm bớt những khó khăn, sớm ổn định cuộc sống của bà con Cham chúng ta ở quê nhà. Thời gian ủng hộ:  Đến cuối tháng 01 năm 2017. Chúng tôi rất mong và đón nhận lòng bao dung đóng góp từ Quý vị. Chúc Quý vị và ba con một năm mới sức khỏe và thành đạt. Lời chào thân ái, T.M Ban vận động Cứu trợ Plei Ram Trưởng ban   Thiên Sanh Thêu   Đại diện khu vực: San Jose, CA:                                                               Los Angeles, CA Não Thành Đon (408) 805-6864                                   Từ Công Nhường (949) 351-8234 Châu Sarif         (408) 821-4708  Seattle, WA                                                                    Sacramento, CA Châu Văn Triển (206) 334-3753                                   Từ Công Ánh (916) 878-8670 Mọi sự đóng góp và ủng hộ Check hay Money Order xin gởi vể địa chỉ: THEU THIEN 1537 Thornbriar Dr San Jose, CA 95131 (408) 452-0957   Danh Sách ủng hộ cho cứu trợ Lũ Lụt Plei Ram 2017 <colgroup><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 1848; width: 39pt;" width="52" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 1450; width: 31pt;" width="41" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 12288; width: 259pt;" width="346" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 455; width: 10pt;" width="13" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 6456; width: 136pt;" width="182" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 1991; width: 42pt;" width="56" /><col style="mso-width-source: userset; mso-width-alt: 9898; width: 209pt;" width="278" /></colgroup> STT   HỌ VÀ TÊN   SỐ TIỀN (USD)   GHI  CHÚ               1   Ô.Bà   Victor Wang ( Chủ Tịch Kim Hoàn)       1000   San Jose 2   Nhóm thiện nguyện " VÌ TÂM " Plei Ram   800   Việt Nam 3   Thiên Sanh Thêu   100   San Jose 4   Yassin   Bá   100   San Jose 5   Châu văn Ninh   100   San Jose 6   Từ Hữu Tý   100   San Jose 7   Từ Hữu Lợi   50   San Jose 8   Não Thành Đơn (Cổng)   50   San Jose 9   Trượng Thanh An   50   San Jose 10   Bạch Thanh Thoảng   50   San Jose 11   Báo thị Rằng   50   San Jose 12   Thập Danh Đắng   50   San Jose 13   Bá    Ibraham   100   San Jose 14   Thập Văn Lô   20   San Jose 15   Tuôn    SaRi   100   San Jose 16   Bá Văn Việnk   50   San Jose 17   Châu    Sarif   100   San Jose 18   Văn Phương Thành (Zamin)   100   San Jose 19   Đạt Xuân Hiệp   60   San Jose 20   Bá Trung Tuyên (Bryan)   100   San Jose 21   Bá Trung Thiệu (Brandon)   100   San Jose 22   Báo văn Cân   100   San Jose 23   Báo Văn Đon   100   San Jose 24   Bá     Aly   100   San Jose 25   Bá    Kathy (Mộng Huy)   100   San Jose 26   Bá Anh Tâm   50   San Jose 27   Châu Thành Đạt (Rossi)   50   San Jose 28   Châu   Emily     (Dona)   50   San Jose 29   Châu   David  (Aman)   50   San Jose 30   Bá văn Dư   100   San Jose 31   Soriya   Từ   40   San Jose 32   Văn Hồng Kỳ  (Muosta)   50   San Jose 33   Bá   IMâm   50   San Jose 34   Từ Hữu Nuh   50   San Jose 35   Văn H.Phương Thư ( Vich )   50   San Jose 36   Văn T.Phương Châm   50   San Jose 37   Thập Danh Đức   50   San Jose 38   Qua Anh Dũng + Hoa    50   San Jose 39   Trương Thanh Lệ ( Tuệ )   50   San Jose 40   Kiều    Thiên   50   San Jose 41   La Hoài Công   50   San Jose 42   Nguyễn Văn Dậu   50   San Jose 43   Vicky Trang  ( Friend Levy )                50   San Jose 44   Uyên chi Nguyễn ( friend Levy )   50   San Jose 45   Lâm  SanI  ( Friend Levy )   50   Sacramento 46   Từ Công Ánh   100   Sacramento 47   Thiên Sanh Thử   100   Sacramento 48   Kiều Văn Quang   100   Sacramento 49   Từ Công Nhường   100   Los Angeles 50   Bá thị Kim Loan + Kiệt    100    Lousiana 51   Bá   Sami   ( Mộng Hoàng  + Hà )   100   Texas 52   Đạt Xuân Mong   50   San Jose 53   Đạt Xuân Điện   20   San Jose 54   Đạt thị Vân ( Nak )   50   San Jose 55   Đạt Nguyên    20   San Jose 56   Ngư    Nhẹ   50   San Jose 57   Ngư    Lập   20   San Jose 58   Ngư    Đô   20   San Jose 59   Ngư    Phương   20   San Jose 60   Ngư    Tính   20   San Jose 61   Nguyễn    Sao   50   San Jose 62   Nguyễn    Bảo   20   San Jose 63   Micheal Lê Minh Hải (Dịch vụ Di Trú Bảo Lãnh)   250   San Jose 64   Ysa Cosiem   100   Maryland 65   Kevin Champa   200   San Jose 66   Văn Phương Trình    50   San Jose 67   Lưu Hoàng Dzư    50   Tenessee 68   Báo Ysa (Đại)    50   Sacramento 68   Bá thị Mai (Mák)   50   San Jose 69   Miêu Văn Tuấn   50   San Jose 70   Bá Trung Dung   50   Seattle 71   Phú Minh Thánh   50   Seattle 72   Báo Văn Khoảnh   100   Oregon 73   Hứa Đại Ninh + Saro   50   San Jose  74   Abdullah Châu (Châu Văn Triển)   100   Seattle 75   v/c Imana Châu   100   Seattle 76   Ali Châu (Châu VănTrở)   50   Seattle 77   Châu Văn Mách   50   Seattle 78    Anh chị em và các cháu mỗi người $20   470   Seattle 79    v/c Karim Abdul Rahman   100
0 Rating 972 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 16, 2017
(PLO)- 21 giờ tối qua (15-1) trên mạng xã hội lan truyền một clip. Trong đó, một nữ sinh to cao đánh đập dã man một em gái nhỏ con bằng cách đá vào bụng, đạp vào mặt, đè xuống đất và dùng giày giậm liên tục lên mặt. (Ảnh cắt từ clip)  Em gái bị đánh liên tục xin tha và hứa sẽ không dám mách thầy. Nữ sinh đánh bạn nói: "Tao đ. sợ thầy đâu, tao đánh rồi tao nghỉ học" nhưng vẫn đe dọa: "Nếu mách thầy thì lên trường ăn một dao". Các bình luận cho biết nữ sinh đánh bạn là học sinh của Trường THCS Huỳnh Phước (xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận). Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, cô Văn Hồng Điệp, Phó Hiệu trưởng Trường THCS Huỳnh Phước, cho biết ngay trong sáng nay nhà trường đã nhận được thông tin và đã xác minh bước đầu. Theo đó, nạn nhân là một nữ sinh tên H., học lớp 8 của trường, nhà ở thôn Hữu Đức, còn nữ sinh đánh bạn tên Q., ở Ma Ram, cùng xã Phước Hữu. Cô Điệp cho biết sáng nay hiệu trưởng nhà trường đang làm việc với cơ quan công an để làm rõ và xử lý nghiêm trường hợp đánh bạn dã man này.  NHẬT HÒA  theo po.vn Nữ sinh Chăm bị bạn đánh dã man ở ninh thuận ngày 15-1-2017  và bài bình luận ở dưới đây.    
0 Rating 305 views 0 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On December 29, 2016
  Written by BBT Champaka.info     Năm 2016 đánh dấu cho một số biến chuyển quan trọng trong xã hội Chăm tại hải ngoại. Ngày 18-12-2016, cựu dân biểu Lưu Quang Sang, thay mặt cho 18 nhân sĩ Chăm, đứng ra tổ chức buổi họp mặt giữa người Chăm đồng hương tại San Jose (Hoa Kỳ) hầu hàn gắn lại vết thương của cộng đồng sau 2 thập niên chia cách, nhất là đi tìm những giải pháp làm thế nào để dân tộc Chăm hải ngoại hôm nay chấp nhận cùng nhau sinh hoạt trong mái nhà Champa chung vào những thập niên sắp tới.     Thành phần tham dự   Buổi họp mặt ngày 18-12-2016 tập trung khoảng 100 người tham dự. Đa số là thành viên của Hội Văn Hoá Truyền thống Champa có trụ sở ở Sacramento và số còn lại là thành viên của Hội Bảo Tồn Văn Hoá Champa có trụ sở ở San Jose. Điều đáng chú ý nhất đó là các thành viên của tổ chức IOC-Champa và Hội Đồng Phát Triển Champa không tham tham gia buổi họp mặt này, ngoại trừ Ts. Po Dharma, Thành Phú Bá, Châu Thủ và Kiều Đại Vinh, nhưng họ tham dự với tính cách cá nhân.   Từ Công Thu, nhân sĩ Chăm đứng tên trên giấp mời, có đến San Jose để tham dự, nhưng sau cùng ông từ chối tham gia, vì không chấp nhận buổi họp mặt ngày 18-12-2012 có chủ đề bàn đến chương trình hình thành Cộng Đồng Champa Hải Ngoại. Đắc Văn Kiết là người nằm trong ban tổ chức, có đến mở cửa hội trường, nhưng sau đó trở về nhà, không có mặt trong buổi họp mặt này.   Chương trình nghị sự của buổi họp mặt   Buổi họp mặt ngày 18-12-2016 đặt dưới sự khai mạc của cựu dân biểu Lưu Quang Sang, người đề xuất chương trình. Bá Văn Đông và Nguỵ Văn Cứng là người điều hợp chương trình, trong khi đó, Lưu Quang Sáng và Chau Sarip là người đặc trách ban thư ký để ghi chép. Buổi họp mặt này đặc dưới sự điều hành của một chủ toạ đoàn, gồm có 3 người: Lưu Quang Sang, Thành Phú Bá và Bá Trung Xin.     Khởi đầu cho chương trình là lời phát biểu của các nhân sĩ Chăm và sau đó là quan điểm của thành phần thanh niên và thanh nữ. Hai chủ đề mà buổi họp mặt quan tâm nhất, đó là:   1). Từ bỏ dự án Cộng Đồng Champa Hải Ngoại   Cộng Đồng Champa Hải Ngoại là chủ đề nóng bỏng trong ngày 18-12-2016. Nhân dịp này, có rất nhiều thành viên nhất là phái nữ Chăm, yêu cầu phải tổ chức ngay trong buổi họp mặt này một tổ chức mang tên là Cộng Đồng Champa Hải Ngoại để đại diện cho dân tộc Chăm trên diễn đàn quốc tế. Sau những cuộc tranh luận vô cùng sôi nổi, đa số thành viên của ngày họp mặt từ chối bàn về Cộng Đồng Champa Hải Ngoại, vì đây là đề tài quan trọng đòi hỏi có sự đồng ý của tất cả hội đoàn Chăm ở nước ngoài và cần có nhiều thời gian để nghiên cứu và chuẩn bị trước khi đi đến kết luận thế nào là mô hình tổ chức và mục tiêu của Cộng Đồng Champa Hải Ngoại trong tương lai.   2). Kêu gọi hoà giải dân tộc   Dân tộc Chăm tại hải ngạoi là cộng đồng đã gánh chịu bao sự chia cách, vì hiểu lầm và nghi kỵ lẫn nhau kéo dài gần 2 thập niên qua, đã gây bao trở ngại cho những sinh hoạt của cộng đồng và tàn phá đi ý chí đoàn kết giữa những người Chăm đồng hương cùng chung máu mũ Champa. Chính vì nguyên nhân đó, cựu dân biểu Lưu Quang Sang (người đề xuất chương trình) cùng với tất cả thành viên có mặt trong buổi họp mặt ngày 18-12-2016 đã nêu ra nguyện vọng vô cùng long trọng kêu gọi tất cả người Chăm đồng hương và các tổ chức hội đoàn Chăm ở hải ngạoi nên xoá bỏ đi những quá khứ buồn phiền, cố gắng tha thứ cho nhau để cùng nhau trở lại chung sống trong mái nhà Champa chung, sẳn sáng yểm trợ và hổ trợ cho nhau một khi danh dự, quyền lợi và di sản văn hoá Champa bị đe doạ, dựa trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau và không chen lấn vào nội bộ của hội đoàn bạn.     Bước đầu thành công của buổi họp mặt   Mặc dù chỉ tập trung những thành viên của Hội Văn Hoá Truyền Thống Champa và Hội Bảo Tồn Văn Hoá Champa, nhưng buổi họp mặt ngày 18-12-2016 đã mang lại ba bước đầu thành công đáng ghi nhận, đó là   1). Các hội đoàn Chăm không còn là đối tượng thù địch nữa   Hoà giải dân tộc là chủ đề chính yếu của buổi họp mặt. Tất cả thành viên tham gia trong buổi họp mặt ngày 18-12-2016 đều đề cao nguyện vọng yêu cầu 4 tổ chức Chăm ở hải ngoại:   • IOC-Champa • Hội Đồng Phát Triển Champa • Hội Văn Hoá Truyền Thống Champa • Hội Bảo Tồn Văn Hoá Champa   không còn là những đối tượng thù địch nữa, mà là những tổ chức hội đoàn anh em, nên chung vai sát cánh với nhau, tương thân tương trợ lẫn nhau, dựa trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, trong mọi sinh hoạt của cộng đồng hay hay yểm trợ cho nhau trong cuộc vận động đấu tranh bảo vệ quyền lợi chung của dân tộc.   Trong tương lai, Hội Văn Hoá Truyền Thống Champa và Hội Bảo Tồn Văn Hoá Champa sẽ có mặt trong những sinh hoạt cộng đồng do IOC-Champa và Hội Đồng Phát Triển Champa tổ chức và ngược lại.   Đây là lời kêu gọi thiết tha và chân thành nhất. Hy vọng các tổ chức hội đoàn Chăm ở hải ngoại không thể làm ngơ trước lời yêu cầu của họ.       2). Chuyển giao trách nhiệm cho thế hệ trẻ   Thế hệ trẻ là tầng lớp thanh niên đã từng đóng vai trò quan trọng trong mọi sinh hoạt của xã hội Chăm tại hải ngoại gần 2 thập niên qua. Chính vỉ nguyên nhân đó, buổi họp mặt ngày 18-12-2016 đã đưa ra nguyên vọng kêu gọi tất cả hội đoàn Chăm nên chuyển giao vai trò điều hành cộng đồng Chăm cho giới trẻ thanh niên và tìm mọi cách để hình thành một Tổ Chức Thanh Niên Champa tại hải ngạoi, có Bylaws, hiến chương đấu tranh và trụ sở sinh hoạt một cách chính thức.   3). Hình thành Ban Liên Lạc Hội Đoàn Chăm ở Hải Ngoại   Hoà giải dân tộc là chủ đề mà tất cả người Chăm trong và ngoài nước đều mong ước. Nhưng hoà giải dân tộc là chủ đề vô cùng nhạy cảm, tế nhị và phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian để nghiên cứu, trao đổi và thăm dò quan điểm trước khi đưa ra kết luận chung. Bằng chứng cụ thể, tất cả hội đoàn Chăm luôn luôn kêu gọi nhau đoàn kết, nhưng không phài vì thế mà họ phải tham gia ngày họp mặt 18-12-2016 do Lưu Quang Sang đề xuất.   Để tìm những giải pháp thiết thực hầu hoà giải dân tộc sau 2 thập niên xa cách, buổi họp mặt ngày 18-12-2016 đề nghị hình thành một Ban Liên Lạc Hội Đoàn Champa Hải Ngoại có mục tiêu sau đây:   • Tiếp xúc với nhân sĩ Chăm tiêu biểu và trao đổi các hội đoàn Chăm tại hải ngạoi để ghi nhận những quan điểm và nguyện vọng chính đáng của họ liên quan đến vấn đề đoàn kết dân tộc.   • Nghiên cứu và phân tích một cách khách quan thực trạng của xã hội Chăm hầu đề ra những dự án thiết thực trong cuộc vận động đấu tranh để bảo vệ danh dự, quyền lợi và di sản văn hoá của dân tộc Chăm trong những thập niên sắp đến.   • Vận động và quảng bá ý thức hệ cùng nhau chung sống trong mái nhà Champa chung, không phân biệt tôn giáo, địa phương và giai cấp xã hội.   Để tiến hành công tác một cách thiết thực, buổi họp mặt yêu cầu Ts. Po Dharma đứng ra điều hành trực tiếp Ban Liên Lạc Hội Đoàn Champa Hải Ngoại và đề nghị Bá Trung Tuyên và Kiều Đại Vinh giữ chức Phó Ban và Lưu Quang Sang, thư ký.   Theo tinh thần của buổi họp mặt, Ban Liên Lạc là một tổ chức có nhiều thành viên. Số lượng của những thành viên này sẽ do Ban Chấp Hành của Ban Liên Lạc ấn định trong những khoá hợp sau.       4). Câu Lạc Bộ Champa   Cũng theo tinh thần của buổi họp mặt ngày 18-12-2016, cộng đồng Chăm tại hải ngạoi chấp nhận hình thành một Câu Lạc Bộ Champa. Đây là một tổ chức thiện nguyện dành cho những thân hào và nhân sĩ Chăm cao niên, tức là những ai đã đến tuổi về hưu, chấp nhận sinh hoạt chung trong mái nhà Câu Lạc Bộ Champa để thực thi những mục tiêu sau đây:   • Tổ chức những cuộc gặp mặt để trao đổi quan điểm qua các buổi tiệc trà-café hay chén cơm thân mặt giữa những thân hào và nhân sĩ Chăm cao niên   • Hình thành những dự án thăm quan một số quốc gia nơi có di sản văn hoá rất gần gủi với nền văn minh Champa, như Bali (Indonesia), Angkor War (Campuchia), Ayuthaya (Thái Lan), Pagan (Miến Điện), v.v   • Bảo trợ cho những chương trình sinh hoạt do các hội đoàn Chăm tại hải ngạoi tổ chức.   • Yểm trợ cho chương trình đấu tranh đòi quyền dân tộc Chăm bản địa phù hợp với Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc.   Theo biểu quyết của buổi họp mặt ngày 18-12-2016, Câu Lạc Bộ Champa là tổ chức có ban chấp hành như sau:   Trưởng ban: Lưu Quang Sang Phó trưởng ban: Thành Phú B Thư ký: Po Dharma Phó thư ký: Bá Văn Đông   Thành viên của Câu Lạc Bộ Champa tập trung những nhân sĩ Chăm (Nam hay Nữ) đã có qui chế về hưu, tình nguyện vào tổ chức và chấp nhận sinh hoạt chung dưa trên tinh thần hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau. Mỗi thành viên có quyền xin ra khỏi Câu Lạc Bộ Champa bất cứ lúc nào mà không cần nêu ra lý do tại sao.   Xin bấm vào đây để xem: Biên Bản buổi họp mặt ngày 18-12-2016   Kết Luận   Buổi họp mặt ngày 18-12-2016 là bước đầu thành công của dự án hoà giải dân tộc sau 2 thập niên chia cách do cựu dân biểu Lưu Quang Sang đề xuất. Hy vọng rằng, tất cả thành viên có mặt trong buổi họp mặt ngày 18-12-2016 luôn luôn tôn trọng lời thề của mình, đó là sẳn sàng tha thứ cho nhau và chấp nhận bỏ qua những quá khứ buồn phiền để cùng nhau chung sống trong mái nhà Champa chung hầu làm một chút gì cho quê hương Champa đổ nát.   Buổi họp mặt ngày 18-12-2016 còn là buổi lễ của niềm tin mới qua các lời kêu gọi long trọng yêu cầu 4 hội đoàn Chăm ở hải ngoại (Hội Truyền Thống, Hội Bảo Tồn, IOC và Hội Đồng Phát Triển) không còn là những đối tượng thù địch nữa mà là những tổ chức hội đoàn anh em, sẳn sàng yểm trợ và bảo trợ cho nhau để cùng nhau bảo vệ quyền lợi chung của dân tộc. Qua tiếng nói của cựu dân biểu Lưu Quang Sang cho biết, Hội Truyền Thống Champa sẽ tham gia thường xuyên với những sinh hoạt cộng đồng do IOC hay Hội Đồng Phát Triển tổ chức. Và trong tương lai, Hội Truyền Thống Champa sẽ mời IOC và Hội Đồng Phát Triển đến dự buổi cơm thân mặt nhân dịp mùa Kate, một ngày lễ mang tính văn hoá của dân tộc Chăm.   Và buổi họp mặt ngày 18-12-2016 còn là ngày khơi động các tầng lớp thanh niên Chăm nên đứng ra đảm trách và điều hành mọi sinh hoạt của cộng đồng trong tương lai. Chính vì nguyên nhân đó, thanh niên Chăm phải dồn mọi nỗ lực vào dự án hình thành một Đại Hội Thanh Niên Champa vào dịp hè 2017 để biểu quyết hiến chương Thanh Niên Champa Hải Ngoại và bầu ban chấp hành chính thức của tổ chức này. Hy vọng Trại Hè Champa 2017 sẽ là ngày vàng ngọc và hoành tráng báo hiệu cho sự ra đời của Tổ Chức Thanh Niên Champa Hải Ngạoi.     Theo Champaka.info    
0 Rating 356 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 20, 2016
  [Phản biện sách] Văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á (phần 1) Isvan   PHẢN BIỆN VỀ SÁCH NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HOÁ SA HUỲNH Khảo cổ học Sa Huỳnh là một mảng nghiên cứu thu hút rất nhiều sự quan tâm của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước. Sau hơn 100 năm nghiên cứu với 3 giai đoạn chính: giai đoạn 1909 – 1960, giai đoạn 1975 đến đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, những năm 90 của thế kỷ 20 đến thập niên đầu thế kỷ 21.Cho đến nay nghiên cứu về Sa Huỳnh đã đạt nhiều thành tựu quan trọng. Bên cạnh đó nhiều nhà khảo cổ học cũng đã có nhiều nhà khoa học tên tuổi tham gia vào nghiên cứu này nhưM.Vinet, Madeleine Colani, H. Parmentier, Cabarre, nhà khảo cổ học Thụy Điển Olov Janse, Wilhelm G. Solheim, Saurin, H. Fontaine,Cố GS Trần Quốc Vượng, GS Hà Văn Tấn, PGS. TS Po Dharma, PGS. TS Lâm Thị Mỹ Dung, GS Trần Kì Phương, Cao Xuân Phổ, Ngô Văn Doanh, Lê Đình Phụng, Lương Ninh…v.v… Trong các chương trình đào tạo Khảo cổ học ở Mỹ về Đông Nam Á, khảo cổ học Sa Huỳnh cùng với nhiều nền văn hoá khảo cổ ở Việt Nam được đưa vào nội dung giảng dạy. Tôi cũng may mắn được học môn học này và được tiếp xúc với nhiều nghiên cứu về khảo cổ học ở Đông Nam Á.Chính vì vậy, khi được biết có một nghiên cứu về Sa Huỳnh vớitiêu đề “Văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á” của nhóm tác giả Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh, Lê Quốc Ân, và Nguyễn Quốc Chiến xuất bản tại nhà xuất bản Hồng Đức năm 2015thì tôi rất kỳ vọng sẽ được cập nhật và học hỏi thêm những phát hiện mới về nghiên cứu Sa Huỳnh. Nội dung của quyển sách “giới thiệu” về 100 năm nghiên cứu Sa Huỳnh, các đặc điểm của văn hoá Sa Huỳnh, mối liên hệ với văn hoá Đông Sơn, và bàn về nước Việt Thường Thị và Champa trong lịch sử. Theo quan điểm của các tác giả này, dải đất của vương quốc Champa chỉ tồn tại trong khu vực Khauthara và Panduranga (Khánh Hoà – Ninh Thuận – Bình Thuận). Các phần đất từ núi Thạch Bi (Phú Yên) cho đến Nghệ An thuộc lãnh thổ của vương quốc Đại Việt vốn bị Champa chiếm đóng và phải đến thời Lê Thánh Tông mới thu hồi lại được. Bên cạnh đó, các tác giả khẳng định lãnh thổ của “nước ta” từ thời Hai Bà Trưng kéo dài từ Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân đến Nhật Nam. Cụ thể là từ tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) cho đến ranh giới Phú Yên – Khánh Hoà. Tuy nhiên, các nội dung tranh luận của các tác giả có rất nhiều vấn đề sai lầm và cần được đính chính. Xin trao đổi một số vấn đề trong nghiên cứu này: Vấn đề 1: Nhầm lẫn cơ bản giữa các thuật ngữ – giai đoạn – Hai Bà Trưng – Lâm Ấp: tác giả đang chứng minh là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng có tầm ảnh hưởng trong 4 vùng Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân đến Nhật Nam nhưng sau đó người Tượng Lâm nổi dậy chiếm vùng đất này. – Sa Huỳnh và Champa là hai giai đoạn khác nhau. Giai đoạn của Sa Huỳnh và Champa là hai đoạn khác nhau rõ rệt. Văn hóa Sa Huỳnh có niên đại khoảng 3500 TCN và kéo dài dài tới những thế kỉ 1, 2 SCN.[1] Riêng vương quốc Champa, dựa vào những thư tịch cổ Trung Hoa đã khẳng định mốc thời gian thành lập là từ thế kỷ 2 SCN đến 1832[2]. Ấy vậy mà tiêu đề có vẻ là hướng đến tìm hiểu Sa Huỳnh, các tác giả lại chỉ xoay quanh về lịch sử vương quốc Champa. Các nội dung về Sa Huỳnh dường như mất hút trong nội dung sách này. – Nhầm lẫn giữa nước Đại Việt trong lịch sử và Việt Nam ngày nay. Việt Nam là quốc gia hiện đại với 54 dân tộc và có lịch sử của nhiều quốc gia cổ đại như Champa và Funan chứ không riêng lịch sử của Đại Việt. Vấn đề 2: Lạc đề – bố cục lộn xộn Ngay từ tiêu đề bài viết “Văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á”, người đọc sẽ hình dung rằng tác giả sẽ trao đổi về vị trí của văn hoá Sa Huỳnh trong không gian văn hoá ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, dựa vào mục lục và nội dung trong sách không thể hiện được bức tranh Sa Huỳnh trong mối quan hệ trong văn hoá Đông Nam Á. Sự lạc đề này có thể chứng minh rõ qua bố cục của quyển sách. Quyển sách gồm bốn chương: Chương 1: Những vương quốc hùng mạnh đã từng tồn tại trên dải đất Việt Nam trong quá khứ. Tác giả nói về ba vương quốc Phù Nam/Chân Lạp, Champa và Đại Việt. Chương 2: Tác giả giới thiệu về ba trung tâm văn hoá thời cổ bao gồm : Đông Sơn, Sa Huỳnh và Óc Eo. Chỉ duy nhất chương 3 là tập trung giới thiệu về văn hoá Sa Huỳnh: địa điểm khảo cổ, đặc trưng… tuy nhiên dường như các tác giả chưa thể hiện được bức tranh tổng quan của văn hoá Sa Huỳnh trong bản đồ khảo cổ học Việt Nam và Đông Nam Á. Tác giả cũng không đi sâu phân tích đặc trưng,chiều kích, con người và văn hoá Sa Huỳnh trong mối tương quan với các nền văn hoá khác ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, các thông tin mà tác giả cung cấp không có gì mới kể từ hội thảo hơn 100 năm nghiên cứu Sa Huỳnh diễn ra từ 22/7 đến 24/7/2009. Trong hội thảo này, các nhà khoa học đã phân tích, đánh giá và so sánh giữa Văn hoá Sa Huỳnh với các khu vực văn hoá khác trong vùng lãnh thổ Việt Nam như Văn hoá Đông Sơn ở phía Bắc, Văn hoá Óc Eo ở phía Nam; xem xét văn hoá Sa Huỳnh trong mối tương quan với các văn hoá khác ở Đông Nam Á như sự tương quan giữa gốm Sa Huỳnh và loại hình gốm Kanalay (Philippines). Rộng hơn nữa, các chuyên gia đã dựa trên các hiện vật để tìm hiểu những mối giao lưu văn hoá, thương mại với các văn hoá khác trong vùng Đông Nam Á như Philippines, Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Lào… Các nhà khoa học cũng hướng sự chú ý đến những hiện vật thu được từ các mộ táng (mộ đất, mộ nồi, mộ vò và đồ tuỳ táng) một minh chứng quan trọng để tìm hiểu sự phân hoá giàu nghèo, tiền đề của sự phân hoá xã hội dẫn đến sự ra đời của một nhà nước sơ khai. Một công trình nghiên cứu chỉ hơn 200 trang mà tài liệu phụ lục lên đến 100 trang bao gồm bài dịch và bản gốc. Điều này chưa bao giờ thấy trong nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài. Những phụ lục đó theo đúng khoa học thì chỉ là tài liệu tham khảo để các tác giả phục vụ cho việc tham khảo – chứng minh cho luận điểm của mình.   Vấn đề 3: Sử dụng nguồn tư liệu chính phục vụ cho bài viết quá lỗi thời và không cập nhật những nghiên cứu mới Thứ nhất: Về nghiên cứu lịch sử Champa, từ sau công trình của Maspero, nhiều công trình khác đã ra đời cũng giành sự quan tâm đến chủ đề này với nhiều nội dung và quan điểm mới, như các công trình của R. Stein, G. Coedes. Po Dharma, Lafont[3], chưa kể đến hàng trăm công trình, bài viết nghiên cứu về Champa khác… với số lượng các nghiên cứu như vậy, nhưng xuyên suốt tác phẩm các tác giả chỉ dựa chủ yếu vào công trình nghiên cứu lịch sử của tác giả Maspero đã lỗi thời và chứa nhiều thiếu sót. Thứ 2: về nghiên cứu Sa Huỳnh: có ba giai đoạn nghiên cứu về văn hoá Sa Huỳnh… hiện nay nhiều nghiên cứu về Sa Huỳnh vẫn đang tiếp diễn và có nhiều công bố trước tác phẩm của nhóm tác giả này xuất bản. Cụ thể như Văn hóa Sa Huỳnh của Vũ Công Quý (1991), Những phát hiện mới về văn hoá Sa Huỳnh của nhóm tác giả Andreas Reinecke, Nguyễn Chiều, Lâm Thị Mỹ Dung (2002), Người Sa Huỳnh của Nguyễn Lân Cường (2007), đề tài Nghiên cứu cấp DHQG của Lâm Thị Mỹ Dung, mang tựaMột số vấn đề khảo cổ học ven biển miền trung Việt Nam giai đoạn chuyển tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Champa (2005),… Tại sao các tác giả không cập nhật? Vấn đề 4: Nội dung mang tính chủ quan, cảm tính, và không có chứng cứ rõ ràng Dẫu biết các tác giả đã đi lạc đề trong nghiên cứu của mình nhưng luận điểm chính mà tác giả đang cố chứng minh là lãnh thổ Đại Việt kéo dài từ ngoài bắc cho đến Phú Yên (núi Thạch Bi). Tác giả đã phủ nhận toàn bộ công trình nghiên cứu dày đặc về Champa trên thế giới với những chứng cứ và lập luận rõ ràng. Có lẽ các tác giả không có cơ hội tiếp cận hoặc không đủ khả năng để tiếp cận những dữ liệu dày đặc về Champa thông qua các công trình nghiên cứu về sử học, khảo cổ, nghệ thuật, ngôn ngữ… Điều rất nguy hiểm trong luận điểm của các tác giả này đã “kích động sự thù hằn” và “gây tổn thương thêm cho người Champa”. Champa là một quốc gia đã từng tồn tại trong lịch sử từ thế kỷ 2 TCN cho đến năm 1834 là điều không thể phủ nhận. Lãnh thổ của Champa cũng đã vẽ rõ ràng từ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị cho đến tận giáp ranh Biên Hoà.Ấy vậy mà, từ một chủ nhân của vùng đất này, người Chăm lại trở thành kẻ cướp đất. Champa đã mất, người Cham giờ cùng tạm gác những quá khứ đau buồn và cùng 53 dân tộc anh em xây dựng một đất nước Việt Nam đa dạng và tôn trọng nhau kể cả quá khứ. Thế mà nhóm tác giả này lại phát ngôn ra được những từ khó coi của kẻ bề trên và tư tưởng ĐẠI KINH như vậy. Với nghiên cứu này, những nghiên cứu về khảo cổ học và lịch sử bấy lâu nay của giới khoa học trong nước và quốc tế coi như là không có giá trị. Bởi những “phát hiện LẠ” vô lý và vô căn cứ dựa trên sự võ đoán xằng bậy. Xin dẫn chứng cụ thể từng nhận định sai của nhóm nghiên cứu này: Trang 9: Lời nói đầu Đoạn 5: tư liệu nào để tác giả chứng mình? Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước ta trước khi bị quân Chàm xâm chiếm. Miền Trung Bộ (từ đèo Hải Vân đến đèo Cả) chỉ thuộc vào chính quyền Champa từ tiền bán thế kỷ III CN đến cuối thế kỷ XV CN. Đó là thời cực thịnh của vương quốc Champa. Trước khi vua Lê Thánh Tông phục hồi được miền đất này thì suốt gần mười ba thế kỷ, miền Trung Trung bộ là thuộc địa của chính quyền Champa. Miền Trung Trung Bộ, từ đèo Cả đến đèo Hải Vân không hề là bản địa của dân tộc Cham như nhiều người lầm tưởng. Đoạn 15: Minh chứng cụ thể là gì? Từ “nước ta” là nước nào trong giai đoạn lịch sử này? « Sa Huỳnh không phải là đất bản địa của dân tộc Chàm mà là thuộc địa của chính quyền Chàm trong một thời kỳ lâu dài gần mười ba thế kỷ dễ khiến cho nhiều nhà nghiên cứu có cái nhìn hạn chế. Xác định núi Thạch Bi là ranh giới phía nam ta thời Hai Bà Trưng là một đóng góp mới. Khảo cổ học củng cố cho phát hiện ấy ». Lê Thánh Tông phục hồi lại mảnh đất Việt? Quan điểm của tác giả: đang cố gạt bỏ vai trò của Champa trong lịch sử. Nhầm lẫn giữa Sa Huỳnh và Champa Một số nhà khảo cổ học cho rằng Văn hóa Sa Huỳnh thuộc ven biển miền trung Việt Nam chính là bằng chứng vật chất đầu tiên của người Chăm, mặc dù những nghiên cứu tới sẽ thay đổi quan điểm này, và có thể không phải chỉ có một cuộc đổ bộ duy nhất của những người Chăm có nguồn gốc biển đầu tiên 26. Tuy nhiên không nghi ngờ gì rằng tiếng Chăm là một ngôn ngữ Nam Đảo, có mối quan hệ gần gũi với ngôn ngữ Ache, Malay và xa hơn với các ngôn ngữ của người Indonesia, Philippines, Polynesia và Madagascar.   Trang 23: Giai đoạn Sa Huỳnh: có người Champa, người Việt và Thượng…??? “ Văn hoá Sa Huỳnh Sắt, bản thân nó còn có một đặc trưng quan trọng rất cơ bản, khác với văn hoá Tiền Sa Huỳnh. Đó là sự xuất hiện phổ biến các loại công cụ và vũ khí bằng sắt. ……. Những đồ dùng công cụ độc đáo nhất là dao quắm, thuổng, xà beng đều có hình dáng và kích cỡ thích hợp để khai phá đất rừng, đất đồi gò khô rắn của người Việt, người Champa ở đồng bằng, kể cả người Thượng ở miền núi”. Nhóm tác giả này lại nhầm lẫn giữa niên đại và tên gọi Trang 24-26: Trích dẫn không có phân tích luận cứ. Các tác giả muốn nói điều gì khi sử dụng các trích dẫn này? Những nghiên cứu đã lỗi thời được sử dụng để chứng mình cho luận điểm sai của mình có đúng là một nghiên cứu? Trang 30: “ Campâ theo nghĩa chữ Phạn là tên một loại cây cho hoa màu trắng rất thơm. Trong nước Ấn Độ cổ đại, Campâ là tên một nước nhỏ nay thuộc quận Bhagalpur, không phải nước Champa mà chúng ta đang nghiên cứu”. Thuật ngữ Champa  hay Campâ? Điều tối thiểu nhất với nhà nghiên cứu về Champa là phân biệt được rõ ràng giữa thuật ngữ Chăm – Champa. Tên gọi Campâ không biết xuất phát từ đâu mà những tác giả này lại dùng? Sai lầm tối thiểu nhất như vậy cũng đủ để đánh giá sự thiếu hiểu biết của nhóm tác giả này khi đưa ra những nhận định của mình. P31: Dựa vào nghiên cứu của Codes để khẳng định mảnh đất của vương quốc Champa vốn thuộc Đại Việt. “Ở phía Nam, vào 192 CN, nhà nước Champa được hình thành trong vùng các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay, lệ thuộc vương quốc Phù Nam… Theo Coedes, thì người Chàm tiến hành cuộc tấn công này (miền Trung trung bộ) vào 193, có thể là người Chàm Hidou hoá. Vào năm 248, họ chiếm miền đất thuộc xứ Huế ngày nay” (Bourotte). Trang 31: Qua bia ký đã khai quật được có thể xác định kinh đô thời lập quốc của nhà nước Champa, vào thế kỷ 2 là vùng Kauthara (Khánh Hoà ngày nay), cho thấy nơi hình thành vương quốc Chàm là Nam Trung bộ. Đoạn 4: Nơi hình hành Champa chỉ gói gọn trong vùng Nam Trung Bộ. Champa là quốc gia tập quyền? Phán đoán cảm tính Trang 32: Nhóm tác giả tự hư cấu những dữ kiện lịch sử mà không dựa trên bất cứ một tài liệu nghiên cứu nào trước đó. Đoạn 1: Từ địa bàn ban đầu là nam trung bộ, quân Champa đã từng bành trướng về phía nam và phía tây, nhưng ở nam bộ và tây nguyên, họ đụng phải vương quốc Phù Nam rồi vương quốc Khmer hùng mạnh nên không lâu sau là quân Champa bị đẩy lùi. Thế là họ dồn sức mở rộng về phía Bắc, nơi người Việt đang bị đế quốc Hán thống trị. Người Việt bấy giờ bị tước hết quyền tự vệ, còn quân đội thống trị trú đóng nơi vùng sâu xa thì rất yếu kém. Trang 32: Funan – Champa – Đại Việt -> thế kỷ nào? Thời đại giữa các quốc gia này là thời đại nào? Đang tự mâu thuẫn với luận điểm của mình các tác giả có nắm được niên đại của mỗi quốc gia giai đoạn này không? Lâu nay, công luận chỉ nói nhiều về việc quân Việt đánh đuổi, chiếm đất của người Chàm mà không biết rằng trước đó quân Chàm thừa thế người Việt tay không vũ khí đã cướp phá, chiếm đất của người Việt suốt gần một nghìn năm [chứng cứ lịch sử nào để chứng minh sự kiện này và ở giai đoạn nào trong lịch sử?]. Đến đầu thế kỷ thứ III CN thì quân Chàm đã chiếm hết miền Trung Trung bộ. Quân Chàm tiếp tục đánh lên phía Bắc, đã lấn chiếm nước ta từ núi Thạch Bi đến Nghệ An [Giai đoạn này người Việt đã có quốc gia hay chưa? Quốc gia này có ranh giới lãnh thổ như thế nào? Những bằng chứng nào để chứng minh cho luận điểm này của các  tác giả?]. Quân Hán chỉ đẩy lùi quân Chàm về phía Hoành Sơn mà thôi, cho đến khi bị vua ngôi Quyền đánh đuổi về Tàu. Vua Ngô Quyền chưa giải phóng được phần đất phía Nam bị quân Chàm xâm chiếm [Giai đoạn lịch sử này có sự hiện diện của quốc gia nào với ranh giới lãnh thổ ra sao? Có sự kiện lịch sử nào đề cập vấn đề này không hay các tác giả tự bịa ra? ]. Các vua Lê Hoàn, các vua Triều Lý, các vua triều Trần đều tìm cách lấy lại phần đất phía Nam [Các vị vua Lê Hoàn là các vị vua nào?. Rõ ràng ngay cả lịch sử Đại Việt, nhóm tác giả cũng không nắm vững. Trong giới khoa học, người ta gọi là nhà Tiền Lê còn trong tác phẩm của nhóm tác giả lại sử dựng danh xưng mới là “Các vị vua Lê Hoàn” ], nhưng phải đến thời vua Lê Thánh Tông, quân ta mới đẩy lùi hết quân Chàm, khôi phục hoàn toàn phần đất nước phía Nam tức là miền Trung Trung Bộ [Ngay cả lịch sử Đại Việt cũng không hề nói đến việc khôi phục hoàn toàn lãnh thổ Đại Việt ở phía Nam. Các sử liệu chỉ ghi chép là tấn công thành Vijaya và sát nhập lãnh thổ này vào đất Đại Việt. Các tác giả chắc đọc sự kiện lịch sử năm 1471 sau khi Quân Đại Việt tấn công, chiếm thành Đồ Bàn và tiêu diệt hơn 60 ngàn dân Chàm và sau đó bang Vijaya bị sát nhập vào lãnh thổ Đại Việt ] (Đoạn 2 trang 32). Trong hơn một nghìn năm, người Việt không có quân đội của riêng mình, quân Hán trú đóng nơi xa xôi thì yếu kém, quân Chàm lại đang sung sức, đã thừa thế từ phía nam núi Thạch Bi tiến đến gần hết miền bắc Trung Bộ. Thế rồi, khi nước Đại Việt độc lập, quân Việt đã từng bước đẩy lùi họ về tận miền cực nam Trung Bộ cho đến khi nước họ bị tiêu vong hoàn toàn.  Champa từ một quốc gia có lãnh thổ chủ quyền rõ ràng và được ghi chép trong lịch sử lại trở thành một kẻ đi xâm chiếm đN
0 Rating 418 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 20, 2016
[Phản biện sách] Văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á (phần 2) Chamstudies.net xin trân trọng giới thiệu phần tiếp theo về phản biện văn hoá Sa Huỳnh với Đông Nam Á của một nhà nghiên cứu trẻ. Đổng Thành Danh  Trung tâm Nghiên Cứu Văn Hoá Chăm tỉnh Ninh Thuận   Sách Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á của nhóm tác giả Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh, Lê Quốc Ân, Nguyễn Quốc Chiến được ấn hành bởi nhà xuất bản Hồng Đức (Hà Nội) vào năm 2015. Cuốn sách có 283 trang, ngoài lời giới thiệu (của Pgs. Ts. Phan An thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), lời nói đầu của Ts. Lê Sơn (thuộc nhóm tác giả), mục lục và phụ lục thì có 4 chương chính: Chương 1: Những vương quốc hùng mạnh đã từng tồn tại trên dãi đất Việt Nam trong quá khứ. Chương 2: Ba trung tâm văn hóa thời cổ Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo. Chương 3: Người Sa Huỳnh. Chương 4: Nước Việt Thường Thị, nước Lâm Ấp. Cuốn sách là một công trình chuyên khảo của nhóm tác giả về nền văn hóa Sa Huỳnh và lịch sử miền Trung Trung Bộ trong các thế kỷ đầu thiên niên kỷ I sau Công nguyên. Trong đó, các tác giả tổng hợp các nguồn tư liệu về khảo cổ học, sử học để chứng minh rằng văn hóa Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước Việt (trang 9) và lãnh thổ của người Việt cho đến thế kỷ thứ III sau Công nguyên kéo dài đến tận đèo Cả (hoặc núi Thạch Bi) (trang 10 – 11). Tuy nhiên, công trình của nhóm tác giả chứa đựng nhiều hạn chế và sai lệch về mặt học thuật cần được chỉnh sửa và bổ sung, bài viết này sẽ trình bày một số những sai lầm và thiếu sót về khoa học của cuốn sách hầu cung cấp một cách nhìn chân xác về lịch sử. Tiêu chí của một công trình nghiên cứu khoa học Xét về tiêu chí của một công trình khoa học mang tính hàn lâm, đủ khả năng đứng vững trước các phản biện khoa học, tôi nhận thấy cuốn sách này vấp phải một số các nhược điểm sau đây: Về bố cục và nội dung của cuốn sách Như đã nói, cuốn sách có 283 trang, nhưng bố cục phân chia không đồng đều, chương thì quá nhiều (chương 3 có đến 48 trang), chương thì quá ít (chương 4 chỉ có 11 trang), hai chương còn lại (chương 1, 2) mỗi chương có khoảng 20 trang. Thêm vào đó, phần nội dung chính (gồm 4 chương) chỉ có 103 trang (từ trang 27 đến trang 130), nhưng phần phụ lục lại chiếm đến 147 trang (từ trang 131 đến trang 278). Thông thường trong một bài nghiên cứu khoa học nghiêm túc phần phụ lục không thể có số lượng lớn hơn phần nội dung chính của công trình được. Đây chính là nhược điểm lớn nhất của cuốn sách khi so sánh với các công trình khoa học thực thụ. Về mặt nội dung, cuộc sách này chỉ là một công trình khảo cứu mang tính tổng hợp, tập hợp lại các nguồn tư liệu đã có trước đó về Sa Huỳnh. Trong phần Sa Huỳnh một thế kỷ phát hiện và nghiên cứu (từ trang 15 – 26), nhóm tác giả chỉ tiến hành công tác tổng hợp các quan điểm của một số các học giả, nhà nghiên cứu về Sa Huỳnh như một bài tường thuật về Hội thảo 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh chứ chưa đi vào nghiên cứu. Trong chương 1, nhóm tác giả chủ yếu sao chép lại bài viết về Phù Nam – Chân Lạp của Phạm Đức Mạnh (trang 27 – 30) và G. Maspero về Champa (trang 30 – 48). Riêng phần nội dung chính về Sa Huỳnh được trình bày trong các chương 2 – 3 cũng có vấn đề, cụ thể phần II của chương 2 có mụcNhững tương đồng và dị biệt giữa văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh (trang 57 – 66) mà nội dung hoàn toàn giống với bài viết của Ts. Dương Văn Sáu trước đó[1]? Tương tự,mục tiếp theo làGiao lưu giữa văn hóa Đông Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh (từ trang 66 – 69) cũng có nội dung sao y nguyên bản từ bài viết Giao lưu giữa văn hóa Đông Sơn và văn hóa Sa Huỳnh qua tư liệu khảo cổ học của tác giả Nguyễn Văn Tiến đăng trên trang mạng của Đại học văn hóa[2]. Chương 3 mang tựa Người Sa Huỳnh, chiếm khối lượng lớn trong phần nội dung, tuy nhiên chủ yếu tổng kết lại các kết quả khai quật và nghiên cứu trước đó, chủ yếu trình bày khái quát quá trình phát hiện và nghiên cứu Sa Huỳnh cũng như khảo tả một số di tích Sa Huỳnh ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (Trung Trung Bộ). Ở chương 4, các tác giả đề cập đến Việt Thường Thị và Lâm Ấp có 11 trang, là phần tác giả trình bày quan điểm của mình rằng chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh không phải là Champa (trang 120) và biên giới nước ta thời Hai Bà Trưng đến tận núi Thạch Bi (trang 123), nhưng đến một nửa nội dung là trích dẫn và sao lục nguyên văn các công trình của Maspero, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hán Thư, Nam sử, ngoài ra còn trích dẫn một đoạn ngắn trong Tấn thư (trang 128)… Tuy nhiên, điều đáng nói là ở phần cuối chương lại đặt thêm một phần phụ lục (dịch tư liệu tiếng Hán và tiếng Pháp của B. Boroutte) thay vì đặt ở phần phụ lục lớn ở cuối sách, như vậy cuốn sách có hai phần phụ lục: phụ lục của chương 4 và phụ lục của toàn bộ cuốn sách, chúng tôi chưa hề thấy một cuốn sách nào có phần đặt bố cục kỳ lạ như vậy! Cònriêng về phần phụ lục (của toàn bộ sách) dù chiếm số lượng nhiều, nhưng đó lại không phải là phần do các tác giả tự nghiên cứu hay phân tích mà chủ yếu lại là phần dịch toàn văn các bài viết của một số các học giả nước ngoài về văn hóa Sa Huỳnh (trừ phụ lục 6 là bài giới thiệu ngắn về bảo tàng Sa huỳnh ở Hội An). Cuối cùng là phần Giới thiệuThư mục tham khảo về văn hóa Sa huỳnh (trang 279 – 282) với 48 danh mục tài liệu, chúng tôi không hề biết các giả nêu danh mục này ra để làm gì vì nhóm tác giả không hề tham khảo hay có một trích dẫn nào đối với hầu hết các bài viết ấy. Về nguồn tư liệu tham khảo và trích dẫn Cuốn sách viết về nền văn hóa Sa Huỳnh và khảo cổ học miền Trung, nhưng chủ yếu sử dụng các nguồn tư liệu đã cũ của các học giả phương Tây đầu thế kỷ XX Như L. Malleret, L. Colani,H. Parmentier, W. Solheim II, O. Jansé, J. Chidanel… mà không tham khảo hay có một trích dẫn nào với các bài viết, các phát hiện mới về Sa Huỳnh[3]. Trong chương 2 và 3 là chương chủ yếu viết về Sa Huỳnh và khảo cổ miền Trung, nhưng tác giả không hề có một trích dẫn các sách, tạp chí hay các công trình nghiên cứu khoa học kể trên, mà chủ yếu sao lại một số bài viết của Colani, Malleret (trang 82), của nhóm tác giả Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (trang 115 – 118),còn lại hầu hết đều viết chay, không thấy có trích dẫn nguồn nào. Ngoài Sa Huỳnh và khảo cổ học miền Trung các tác giả còn giành sự quan tâm đến chủ đề vương quốc Lâm Ấp và Champa (chương 1 và chương 4), chính vì thế các tác giả chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu sơ cấp như Hán Thư, Tấn Thư, Nam sử, Đại Việt Sử Ký Toàn thư, thứ cấp như Le RoyaumeChampa của G. Maspero, Essaid’Histoire des Populations Mongtagnardes du Sud-Indochinois của B. Bourotte, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim. Tuy nhiên, đây chỉ là mục danh mục tài liệu rất hạn chế và chứa đựng nhiều sai sót về Lâm Ấp và Champa mà các tác giả sử dụng làm nguồn tham khảo. Xét về các nguồn tài liệu sơ cấp là Hán Thư, Nam sử và Đại Việt Sử ký Toàn thư, Tấn thư ta thấy đây chỉ là một vài trong số rất nhiều sử liệu cổ mà nội dung liên quan đến Lâm Ấp – Champa, bản thân nội dung hay tính xác thực của các nguồn tư liệu sơ cấp (của Trung Hoa và Đại Việt) luôn cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, chính bản thân các tác giả của cuốn sách này cũng thừa nhận điều đó: “Tuy nhiên, nên biết là các tư liệu cổ sử đều thiếu các tư liệu xác thực và thường ghi chép rất khái lược, có khi thiếu mạch lạc” (trang 119). Như vậy, thay vì sử dụng thêm nhiều tư liệu sơ cấp khác của cổ sử Trung Hoa như Thủy Kinh Chú, Hải Ngoại ký sự, Tống Thư, Nam Tề Thư, Lương Thư, Trần thư, Tùy Thư, Cựu Đường Thư, Tân Đường thư[4]… hay các cổ sử Việt như Việt sử lược, Lĩnh Nam chích quái,…. để cùng đối chiếu, so sánh nhận diện đúng bản chất lịch sử thì các tác giả chỉ sử dụng bốn văn bản trên để chứng minh cho các luận điểm của mình. Đối với các nguồn tư liệu thứ cấp, nhóm tác giả này lại sử dụng các nguồn tư liệu ít ỏi, bản thân các công trình đó lại rất cũ, chứa đựng nhiều sai lệch và thiếu sót về Lâm Ấp và Champa, nhất là cuốn sách về Champa của Maspero đã được L. Aurousseau và L. Finot phê bình[5]. Mặt khác từ sau công trình của Maspero, nhiều công trình khác đã ra đời cũng giành sự quan tâm đến chủ đề này với nhiều nội dung và quan điểm mới, như các cuốn sách của R. Stein, G. Coedes. Po Dharma, Lafont[6], chưa kể đến hàng trăm công trình, bài viết nghiên cứu về Champa khác… Trong cuốn sách mà chúng tôi đang phản biện, tên tuổi và tác phẩm của các nhà nghiên cứu ở trên hầu như không được nhắc đến, điều đó cho thấy, các tác giả không cập nhật các nghiên cứu mới nhất về lịch sử Lâm Ấp và Champa trong mấy chục năm gần đây, từ đó tác giả sử dụng các quan điểm rất lạc hậu của Maspero, Bourotte hầu chứng minh các lập luận của mình. Tiểu kết Từ việc phân chia bố cục không đồng đều, phi khoa học, nội dung mang tính tường thuật, khái quát, chủ yếu tổng hợp, sao chép các tư liệu, bài viết đi trước cho đến cách thức sử dụng và trích dẫn các nguồn tư liệu một cách thiếu chuyên môn, nhiều chương (như chương 2, 3) không hề có tư liệu tham khảo, phần lớn viết chay, nhiều chương có trích dẫn nhưng sử dụng ít nguồn tư liệu, trong đó nhiều tư liệu đã lỗi thời, hàm chứa nhiều sai sót về học thuật, mà không hề có sự phân tích, đánh giá. Chính vì vậy, tôi cho rằng, cuốn sách Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á không thể được xem là một tác phẩm khoa học nghiêm túc, càng không thể được sử dụng để làm nguồn tham khảo cho các nghiên cứu sau này. Các quan điểm và nhận định của nhóm tác giả Dù không thể hội đủ các tiêu chuẩn cơ bản của một tác phẩm nghiên cứu khoa học, từ cách phân chia bố cục, nội dung cho đến cách sử dụng và trích dẫn nguồn tài liệu, nhưng các tác giả của cuốn sách vẫn đưa ra nhiều quan điểm về khảo cổ và lịch sử Sa Huỳnh, Champa và Trung Trung bộ. Cho nên, chắc hẳn rằng các quan điểm và nhận định của các tác giả đưa ra sẽ có nhiều thiên kiến, chủ quan thậm chí thiếu tính đúng đắn về khoa học, gây hậu quả tiêu cực cho nhận thức lịch sử trong tương lai. Trong phần này tôi sẽ phản bác và đính chính một số quan điểm ý kiến như vậy trong cuốn sách. Như đã nói, ngay từ lời nói đầu các tác giả muốn chứng minh rằng: “Vào thời Hai Bà Trưng, địa giới phía Nam nước ta… là núi Thạch Bi, ranh giới hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa ngày nay” và “Sa Huỳnh nằm trong địa phận nước ta trước khi bị quân Chàm xâm chiếm” (trang 9). Nhóm tác giả chủ yếu giành chương 1 (phần về Champa) và chương 4 để chứng minh cho luận điểm trên của mình, chính vì vậy phản biện của chúng tôi sẽ chủ yếu phân tích hai chương này. Trước hết để chứng minh quan điểm của mình các tác giả tiến hành các bước: 1. Xác định chủ nhân, phạm vi của văn hóa Sa huỳnh; 2. Xác định ranh giới Việt cổ và Champa cổ (Lâm Ấp) dưới thời Hai Bà Trưng (tức thế kỷ I SCN). Chủ nhân và phạm vi (không – thời gian) của văn hóa Sa Huỳnh Để chứng minh cho quan điểm thứ nhất nhóm tác giả giành nhiều quan tâm đến nền văn hóa Sa Huỳnh, một nền văn hóa thời tiền nhà nước (tiền sử, sơ sử) ở miền Trung Việt Nam. Theo đó, các tác giả tìm lập luận chứng minh rằng chủ nhân của nền văn hóa Sa huỳnh ở Trung Trung Bộ (từ Quảng Nam đến Phú Yên) là người Việt, chứ không phải là người tiền Champa (những người đã lập nên nhà nước Champa sau này). Tức là họ cũng đồng thời phủ nhận sự chuyển biến liên tục từ Tiền Sa huỳnh – Sa Huỳnh – tiền Champa (Lâm Ấp và các chính thể tương đương) – Champa đã được nhiều nhà khảo cổ thừa nhận. Quan điểm này được thể hiện ở các câu văn sau: “… Miền Trung Trung Bộ, từ đèo Cả đến đèo Hải Vân không hề là đất bản địa của dân tộc Chàm như nhiều người lầm tưởng. Chính ngành khảo cổ đã khẳng định điều đó. Tác giả John G. Chidainel trong bài viết “một số đồ gốm Sa Huỳnh và những mối liên quan với các di chỉ khảo cổ khác ở Đông Nam Á cho rằng: ‘Nền văn hóa này không chia sẽ những ảnh hưởng của Trung Quốc và Ấn Độ, thường thấy tại bản đảo Ấn Trung vào thời đầu của kỷ nguyên Kitôgiáo. Mặc dù không xác định được những mối liên hệ bản chất giữa người Sa Huỳnh với người Chàm nguyên thủy nhưng những phương thức chôn cất của họ hướng tới một điểm sẽ kết nối với những người chủ của mộ cự thạch Thượng Lào’.(Xem Phụ lục 5) Nhà khảo cổ trứ danh thế giới, làm Trưởng Ban Khảo cổ của Viện Viễn Đông Bác Cổ, ngài Henri Parmentier trong bài viết “Những hố chum ở Sa Huỳnh”, Parmentier nhấn mạnh: ‘Qua các di vật tìm được ở Sa Huỳnh thiếu tất cả các chứng tích về nền văn minh Chàm’ và ‘Sự độc lập hoàn toàn của các trang trí với nghệ thuật xa xưa, xưa hơn nghệ thuật Chàm, không cho phép gắn các hố khảo cổ này với người Chàm’”(trang 10). Ở chương 4, các tác giả cũng viết: “…Ngày nay dưới ánh sáng của Khảo cổ học đang phát triển thì những năm vào thế kỷ III trước CN cho biết vùng này đã hình thành một loại nhà nước sơ khai. Nhà nước ấy nhất định không phải là tổ tiên của người Champa, vì theo Parmentier thì: ‘Qua các di vật tìm được ở Sa Huỳnh thiếu tất cả các chứng tích về nền văn minh Chàm’ và ‘Sự độc lập hoàn toàn của các trang trí với nghệ thuật xa xưa, xưa hơn nghệ thuật Chàm, không cho phép gắn các hố khảo cổ này với người Chàm’…” (Trang 120). Chỉ có ngần ấy tư liệu, chỉ viện dẫn hai nhà nghiên cứu phương Tây (chưa tính là lập lại hai lần bài viết của Parmentier) nhưng tác giả muôn phủ nhận người tiền Champa là chủ nhân của nền văn hóa Sa Huỳnh.Như chúng tôi đã đề cập, những nghiên cứu của J. Chidainel và H. Parmentier là những nghiên cứu rất xưa, trong thời điểm mà các phát hiện về Sa Huỳnh vẫn còn ở giai đoạn đầu tiên, hàng chục năm sau khi các bài viết này ra đời, nhiều phát hiện mới về Sa Huỳnh cũng xuất hiện, thay đổi nhiều nhận thức về nền văn hóa ấy, và từng ấy thời gian nhiều bài viết, công trình nghiên cứu mới đã ra đời. Tuy nhiên, nhóm tác giả dường như không cập nhật chúng, đây là lỗi nghiêm trọng nhất của một công trình khoa học. Trong thực tế, những phát hiện mới đã làm thay đổi các nhận thức cơ bản về chủ nhân và phạm vi của văn hóa Sa huỳnh của các học giả phương Tây trước đây. Theo các nghiên cứu mới, chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh chính là người bản địa,chính họ đã đóng góp vào sự chuyển biến từ Sa Huỳnh sang giai đoạn hình thành các nhà nước sơ khai ở miền Trung như Lâm Ấp và sau này là Champa, phạm vi của nền văn hóa này không chỉ bó hẹp ở Trung Trung Bộ (Quảng Nam đến Phú Yên) mà còn đến tận Nam Trung Bộ (Khánh Hòa đến Bình Thuận)[7]. Quá trình chuyển biến từ Sa Huỳnh – Lâm Ấp – Champa là một quá trình liên tục, chủ yếu chuyển biến từ tác động nội sinh hơn là các tác nhân cơ học bên ngoài, tức từ Sa huỳnh sang tiền Champa không hề có sự can thiệp từ bên ngoài, do đó chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh là những người tiền Champa[8]. Ranh giới và địa giới của hai nước Việt cổ và Champa đầu công nguyên. Một khi đã phủ nhận vai trò hậu duệ của người Champa đối với nên văn hóa cổ Sa Huỳnh, nhất là ở miền Trung Trung Bộ (mà theo các tác giả là từ Quảng Nam đến Phú Yên),các tác giả tìm cách chứng minh lãnh thổ của người Việt, trước thế kỷ II – III SCN, kéo dài đến núi Thạch Bi, trong khi nước Champa được hình thành ở phía Nam Thạch Bi, chỉ từ sau khi lập quốc họ mới mở rộng cương vực lên phía Bắc đến dãy Hoành Sơn (Quảng Bình) và xác lập cương vực hai nước ở đó cho đến khi nhà nước Đại Cồ Việt hình thành (thế kỷ X). Quan điểm này của các tác giả được thể hiện rõ nhất qua các đoạn sau: “…Vào thời Hai Bà Trưng, địa giới phía Nam nước ta ở đâu? Trước đây chưa ai xác định được. Chúng tôi nghiên cứu tư liệu chữ Hán cổ và tiếng Pháp, đã chứng minh ranh giới ấy là núi Thạch Bi, ranh giới của hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay…” (trang 9). “…Xác định núi Thạch Bi là ranh giới phía Nam nước ta thời Hai Bà Trưng là một đóng góp mới. khảo cổ học củng cố cho phát hiện ấy…” (trang 11). “
0 Rating 999 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 20, 2016
THƯ KIẾN NGHỊ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ****** Ninh Thuận, ngày 30/11/2016 THƯ KIẾN NGHỊV/v: Đề nghị thu hồi để xem xét lại những nội dung trong cuốn sách mang tên “ Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á” của nhóm tác giả là cựu học sinh trường Trần Quốc Toản ở Quảng Ngãi bao gồm Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn, Nguyễn Văn Thanh, Lê Quốc Ân, Nguyễn Quốc Chiến Kính gửi:- Bộ Thông tin và Truyền Thông- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch- Nhà xuất bản Hồng ĐứcChúng tôi những người đồng kí tên sau đây, là những con dân của dân tộc Chăm đang sinh sống và học tập ở trong và ngoài nước, là một trong những hậu duệ của vương quốc Champa cổ đã từng tồn tại ở dọc duyên hải Miền Trung và khu vực Tây Nguyên có niên đại được sử sách xác nhận bắt đầu từ năm 192 SCN, có biên giới được các nhà khoa học trong và ngoài nước xác định trải dài từ dãy núi Hoành Sơn thuộc tỉnh Quảng Bình ở phía Bắc cho đến Bình Thuận phía Nam và bao gồm cả các tỉnh Tây Nguyên. Những chứng cứ khảo cổ học xuyên suốt ở các tỉnh Miền Trung và Tây Nguyên đã minh chứng cho những nhận định của các nhà nghiên cứu về sự hiện diện của Champa trong những vùng đất trên. Nhưng nhóm tác giả mà chúng tôi vừa nêu tên ở trên đã phủ nhận vai trò của lịch sử Champa với sự hình thành nên đất nước Việt Nam ngày hôm nay. Không những phủ nhận những sử liệu chứng minh Champa từng là chủ nhân của những vùng đất trên mà còn phủ nhận luôn những công lao đóng góp nghiên cứu to lớn của các nhà khoa học thế hệ trước, bao gồm những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Chúng tôi không biết chuyên môn của nhóm tác giả này là gì? Và, việc họ viết tác phẩm này với mục đích gì? Vấn đề này chúng tôi cần một câu trả lời từ nhóm tác giả cũng như nhà xuất bản. Tác phẩm không chỉ gây nên sự phẫn nộ trong giới trí thức Chăm và những người am hiểu về lịch sử Champa mà còn mang tính xuyên tạc và kích động thù hận giữa hai dân tộc Chăm –Việt. Đồng thời, đó còn là những hành động phi khoa học đã xúc phạm lịch sử, xúc phạm người Cham và các dân tộc khác kể cả người Kinh. Những luận điểm của nhóm tác giả đã bóp méo đi quá nhiều những sự thật lịch sử đã được thế giới công nhận. Đồng thời, tác phẩm “ Văn hóa Sa Huỳnh với Đông Nam Á” đã phạm quá nhiều lỗi căn bản của một tác phẩm khoa học. Từ bố cục trình bày, cách đặt vấn đề, đến phần phụ lục và tài liệu tham khảo đều không thể gọi là một công trình nghiên cứu khoa học. Chính Vì vậy, chúng tôi viết thư kiến nghị này trình lên Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền Thông và NXB Hồng Đức với hai đề nghị: 1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng Bộ Thông tin và Truyền Thông cần có văn bản để xem xét những điều chúng tôi đã nêu trong kiến nghị thư. 2. Nhà xuất bản Hồng Đức và nhóm tác giả cần đứng ra đính chính và xin lỗi về những luận điểm sai lệch trong cuốn sách và nếu cần thiết tổ chức một buổi nói chuyện phản biện với các trí thức Chăm. Những lỗi mà nhóm tác giả đã mắc phải trong “công trình” của họ sẽ được chúng tôi gửi đính kèm theo thư kiến nghị Trân trọng cảm ơn!P/S: XIN QUÝ VỊ KÝ TÊN ĐỂ CHÚNG TÔI KIẾN NGHỊ LÊN BỘ VĂN HOÁ THỂ THAO VÀ DU LỊCH CHO VIỆC THU HỒI SÁCH NÀY. Source" https://docs.google.com/forms/d/1In4qhv8RiNGigirjBkVDkExxu17X270GSB8-qCLIjIY/viewform?edit_requested=true    
0 Rating 793 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 20, 2016
ĐỔNG THÀNH DANH Tóm tắt: Bài viết này muốn gây sự chú ý đến một thời kỳ lịch sử ít được biết đến của vương quốc Champa, từ sau thế kỷ thứ XVI, tức là sau sự sụp đổ của Vijaya. Mà trọng tâm của của nó là tìm hiểu và phân tích về những chuyển biến quan trọng của Champa trong giai đoạn này dẫn đến một thời kỳ được gọi là bản địa hóa trong tiến trình lịch sử sử của vương quốc ấy. Trong đó, tác giả giành sự quan tâm vào các yếu tố bản đại hóa trên nhiều khía cạnh như tín ngưỡng – tôn giáo, chính trị – xã hội, văn hóa – văn minh. Hầu từ đó có thể phần nào làm sáng tỏ một giai đoạn lịch sử của Champa trong thời kỳ hậu vương quốc. Từ khóa: Champa, lịch sử, thời kỳ hậu kỳ, yếu tố bản địa, bản địa hóa. Đặt vấn đề Thế kỷ thứ XV (cụ thể là năm 1471) là một cột mốc quan trọng của lịch sử Champa nói riêng và lịch sử các nước ở Đông Nam Á nói chung. Đây là thời điểm đánh dấu sự cáo chung của nển văn minh Ấn giáo ở Champa, để chuyển sang một nền văn minh mới, mang nhiều yếu tố bản địa, pha trộn với nền văn minh Hồi giáo, được du nhập từ Mã Lai, bên cạnh đó là sự tồn tại của một ít tàn dư Ấn Độ giáo. Sự hình thành nền văn minh mới ở Champa trong giai đoạn này, biểu hiện trên những sự biến đổi về ý thức hệ, niềm tin, hệ thống giáo lý và tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo, cách thức vận hành và cấu trúc của các thiết chế chính trị – xã hội, kéo theo đó là những thay đổi về văn hóa, nghệ thuật, phong tục, tập quán… của vương quốc Champa. Hệ quả của những sự thay đổi này ngày nay còn tồn tại và thể hiện rõ nét qua tổ chức tôn giáo, xã hội, văn hóa, phong tục của cộng đồng người Chăm ở miền Trung Việt Nam, vốn là thần dân của vương quốc Champa trước đây. Dựa vào các văn bản cổ viết bằng Akhar thrah (tiếng Chăm hiện đại hay phổ thông), mà ngày nay còn lưu giữ các bản chép tay trong giới chức sắc và một số hộ gia đình người Chăm ở Ninh – Bình Thuận, từ cuối thế kỷ XX, các nhà khoa học như P.Y. Manguin, Po Dharma, P-B. Lafont[1]… đã phát hiện ra sự tồn tại của một nền văn minh mới ở miền Nam Champa sau thế kỷ XV, mà Lafont gọi nền văn minh này là một nước “Champa mới”[2]. Tuy nhiên, những công trình này mới dừng lại việc phát hiện và tìm ra nền văn minh này, mà chưa đi sâu vào công việc phục dựng, hay tái hiện quá trình bản địa hóa ấy, cũng như miêu tả chi tiết những đặc trưng, biểu hiện khác biệt của nền văn minh mới này so với nền văn minh Ấn giáo trước đó. Chính đó, là lý do mà chúng tôi thực hiện bài viết này, với mục đích đóng góp thêm và làm rõ về quá trình hình thành nền văn minh mới ở Champa sau thế kỷ XV. Dù vậy, những công trình đã kể trên, của các học giả đi trước, sẽ là một nguồn tham khảo bổ ích cho chúng tôi khi thực hiện bài viết này. Cũng cần nói thêm, trong quá trình hình thành của nền văn minh mới này, một mặt là sự suy tàn của nền văn minh Ấn giáo, mặt khác là sự du nhập của nền văn minh Hồi giáo vào đất nước Champa, nhưng trong quá trình đó, giới tinh hoa (các tầng lớp đứng đầu) của vương quốc Champa không tiếp nhận niềm tin, hệ thống tổ chức của Hồi giáo một cách thụ động, mà tiếp biến, sáng tạo nó cho phù hợp với các đặc tính bản địa. Do đó, trong giai đoạn này, quá trình bản địa hóa mới là diễn trình chủ đạo, góp phần tạo nên “hình thù” đầy đủ của nền văn minh mới ở Champa, sau thế kỷ XV. Chính vì thế, mà chúng tôi chọn tựa đề và chủ đề chính của bài viết là quá trình bản địa hóa, thay vì Hồi giáo hóa hay Mã Lai hóa. Bối cảnh lịch sử Từ thế kỷ thứ XIII, vương quốc Champa bước vào thời kỳ suy yếu và khủng hoảng, những cuộc xung đột liên tục giữa Champa với các nước làng giềng như Khmer, Trung Quốc (nhà Nguyên), Đại Việt, cũng như các cuộc xung đột nội bộ giữa chính quyền liên bang ở Vijaya (phía Bắc) với tiểu quốc Panduranga ở phía Nam… ngày càng làm cho thực lực của vương quốc trở nên yếu nhược. Thêm vào đó, sự xâm nhập và thống trị của Hồi giáo ở Ấn Độ, rồi sau đó là khu vực Đông Nam Á cũng làm cho niềm tin của những người lãnh đạo Champa ngày càng phai nhạt đối với nền văn minh Ấn giáo, một nền văn minh mà họ đã vay mượn từ triết lý, tổ chức tôn giáo, cách thức tổ chức, điều hành các hoạt động chính trị – xã hội cho đến ngôn ngữ, nghệ thuật… từ khi mới lập quốc đến nay (thế kỷ II). Chỉ dấu cho sự suy tàn của nền văn minh Ấn giáo tại Champa trong thời gian này chính là sự suy tàn của nghệ thuật Champa, mang ảnh hưởng Ấn Độ, sự ít dần của những công trình bằng gạch được xây dựng để thờ cúng thần Shiva, mà trong suốt hàng ngàn năm là biểu hiện sự sùng tín của nhà vua và giới quý tộc với Thượng đế của mình. Mặt khác, sự suy tàn của văn minh Ấn giáo cũng thể hiện qua sự suy tàn của văn hóa Phạn ngữ, các bia ký Phạn ngữ cuối cùng được tìm thấy ở miền Bắc Champa có niên đại vào khoảng thế kỷ thứ XIII và ở Biên Hòa khoảng thế kỷ XV[3], cho thấy ảnh hưởng của Phạn ngữ đã không được duy trì ở Champa phổ biến như trước đây nữa… Những điều đó cũng cho thấy sự phai nhạt và khủng hoảng về niềm tin của giai cấp lãnh đạo với giáo lý Ấn Độ giáo hay Phật giáo Đại thừa. Bước sang thế kỷ XV, một biến cố chính trị vô cùng quan trọng dẫn đến sự cáo chung của nền văn minh Ấn giáo ở Champa. Năm 1471, kinh đô Vijaya và toàn bộ phần lãnh thổ phía Bắc Champa (ranh giới đến đào Cù Mông ngày nay) thất thủ, bởi cuộc chinh phạt của vua Đại Việt, Lê Thánh Tông. Sau sự kiện này, trung tâm chính trị của vương quốc Champa chuyển về phía Nam ở tiểu quốc Panduranga, nơi mà một hàng tướng của Champa là Bồ Trì Trì lên làm vua của vương quốc[4]. Cũng từ đây, những nhà lãnh đạo mới của Champa hoàn toàn đánh mất niềm tin của mình vào Ấn Độ giáo, một cuộc khủng hoảng sâu sắc về ý thức hệ, cách thức tổ chức và vận hành các thiết chế chính trị, xã hội… Đòi hỏi giới tinh hoa phải đi tìm một hướng đi mới, một ý thức hệ tôn giáo, một thiết chế chính trị – xã hội mới để tiếp tục duy trì sự tồn tại của quốc gia. Trong bối cảnh ấy, từ phía Bắc, Champa luôn phải chịu áp lực từ Đại Việt (một mẫu hình của văn minh Trung Hoa) hoàn toàn xa lạ với triết lý tôn giáo và tổ chức chính trị – xã hội của Champa. Trong khi ở phía Nam đế chế Khmer đã suy tàn, đang phải chịu áp lực từ Xiêm La và Đại Việt (Đàng Trong) không thể là đồng minh để Champa tìm chổ dựa. Champa chỉ còn cách hướng ra biển, nơi những đế chế Hồi giáo đang hình thành ở Đông Nam Á hải đảo, và chính từ thời điểm này Champa bắt đầu tiếp thu văn minh Hồi giáo, thông qua các tiểu quốc ở Mã Lai, nhưng trên hết vẫn là sự quay về với những yếu tố bản địa, để tạo một nền văn minh mới là sự pha trộn giữa các đặc tính nội tại với các đặc tính ngoại lai. Có những bằng chứng lịch sử cho thấy, từ sau thế kỷ thứ XV, Champa đã có mối liên hệ thường xuyên và rất mật thiết với các quốc gia Hồi giáo ở vùng hải đảo như Kelantan, Johor, Malayu… Theo đó, vào thế kỷ thứ XV, vua Champa là Po Kabrah có đến viếng thăm Malayu[5], trong thế kỷ XVI, vua Champa còn gửi quân giúp đỡ một vị Sultan chống quân Bồ Đầu Nha[6], hay trong thế kỷ XVII, Champa vẫn còn liên hệ thường xuyên với tiểu quốc Johor[7]. Điều đó giải thích tại sao trong thời kỳ này, các thương thuyền Champa thường có mặt ở tiểu quốc Pattani (Bắc Mã Lai), Johor, mà các nhật trình phương Tây thường nhắc đến, ngược lại, các thuyền thương của Nam Dương (Inđônêxia) và Mã Lai cũng có mặt thường xuyên ở các cảng Malithit (Phan Thiết), Parik (Phan Rí), Kam-ran (Cam Ranh)… của Champa[8]. Cũng vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào thời Po Rome (1627 – 1651), các văn bản Chăm như damnay Po Rome, damnay Po Tang Ahaok, damnasy Po Rayak (tiểu sử vua Po Rome, Po Tang Ahaok, Po Rayak)…ghi nhận các sự kiện quan trọng như sự kiện vua Po Rome sang viếng thăm Kelantan, kết hôn với công chúa Malai và học đạo Islam, ngoài ra Po Tang Ahaok, Po Rayak cũng được cử sang Mã Lai để học về tôn giáo, bùa phép, quân sự… Bên cạnh đó, cũng trong thời điểm này, thông qua các biên niên sử hoàng gia, các gia phả hoàng tộc ở Mã Lai như Hikayat Seri Kelentan (gia phả dòng họ tiểu vương Kelentan), Riwayat Kelentan Sejarah Melayu (lịch sử Malayu)… ghi nhận rằng nhiều vị tướng Mã Lai cũng đến Champa như Ungku Omar, Abdul Hmid, tại đây, họ đã dạy giáo lý Hồi giáo cho dân chúng địa phương[9]… Chính trong bối cảnh này, Champa đã hấp thụ các yếu tố của tư tưởng Hồi giáo và văn hóa Mã Lai để tổ chức và xây dựng lại các hệ thống tôn giáo, chính trị – xã hội và văn hóa – văn minh của đất nước. Vì lẽ đó, thế kỷ XV – XVI và nhất là thế kỷ XVII chính là thời kỳ tìm kiếm, định hình và hoàn thiện các sắc thái của nền văn minh Champa “mới”, một nền văn minh dù ảnh hưởng Hồi giáo, duy trì chút ít tàn dư Ấn giáo, nhưng trên toàn cảnh và nổi bật vẫn là sự quay về với các đặc tính địa phương trên mọi bình diện, hầu tạo nên một nền văn minh bản địa. Bản địa hóa trong tổ chức và thực hành tín ngưỡng – tôn giáo Thông qua những mối quan hệ với các tiểu quốc ở hải đảo, Champa đã tiếp thu và tiếp biến đạo Hồi, cũng như tôn giáo Mã Lai để thay thế cho Hindu giáo và Phật giáo Đại thừa. Trong quá trình ấy, giai cấp cầm quyền đã khéo léo dung hòa, kết hợp giữa những tàn dư Ấn giáo và các yếu tố Hồi giáo mới du nhập, đồng thời “phủ lên” các tôn giáo này nhiều đặc tính bản địa, khiến cho Ấn giáo không còn nhiều dấu vết Ấn Độ, Hồi giáo không còn nhiều dấu ấn Mã Lai, mà mang những đặc trưng riêng có. Trước thế kỷ thứ XV, Champa là một quốc gia theo Hindu giáo và Phật giáo Đại thừa, với một loạt những công trình thờ thần Shiva ở Mỹ Sơn hay thờ Phật ở Đồng Dương. Thế nhưng, những tôn giáo này chỉ được phổ biến trong hoàng gia và giới quý tộc, đại bộ phận dân chúng vẫn duy trì các tín ngưỡng bản địa, những yếu tố Ấn giáo chỉ được tiếp thu một cách hạn chế trong giới bình dân. Khi Hồi giáo mới được du nhập và tiếp thu ở Champa, tôn giáo này đã tạo nên những xung đột giữa hai tín ngưỡng, tôn giáo mới với cũ mà văn chương Chăm thường ghi nhận như sử thi Um Mưrup hay trường ca Bini – Cam (Nai Mai Mang Makah), Cam – Bini…[10] Chính từ đây, để tránh tạo nên những xung đột lớn giữa hai cộng đồng tôn giáo, các vị lãnh đạo của Champa, nhất là vua Po Rome (1627 – 1651) đã kết hợp hai tôn giáo này với nhau, đồng thời đưa những yếu tố bản địa vào trong cách thức tổ chức, thực hành văn hóa tâm linh, cũng như nâng những yếu tố này trở thành chủ đạo để hình thành nên hai cộng đồng Chăm Ahier (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo) và Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo), dù đối lập nhưng luôn thống nhất với nhau trong đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Chăm. Thông qua sự sáng tạo và kết hợp này, người Champa đã tạo nên những cộng đồng Chăm theo Ấn giáo và Hồi giáo nhưng đã bị bản địa hóa thành một tôn giáo địa phương chỉ mang ít yếu tố chính thống, mà vẫn duy trì các tín ngưỡng bản địa như tục thờ đa thần (trong dó có thồ vật tổ, vạn vật và thần địa phương), thờ cúng ông bà tổ tiên, thực hiện các lễ nghi mang tính nông nghiệp… Đặc biệt là sự kết hợp giữa Ahier và Awal, dù đối lập nhưng vẫn thống nhất, luôn tồn tại trong sự phụ thuộc lẫn nhau, biểu hiện qua sự phân công và phối hợp trong việc thực hiện các lễ tục của cả cộng đồng[11]… Dấu ấn bản địa, được biểu hiện trong tín ngưỡng thờ đa thần, thông qua hệ thống thần linh của người Champa sau thế kỷ XV. Nếu như trước thế kỷ XV, ở Champa chỉ tôn thờ các vị thần Ấn giáo, mà nổi bật là thần Shiva, với vai trò như Thượng đế duy nhất, thì sau thế kỷ XV, hình ảnh của thần Shiva bị phai nhạt, ý niệm về một Thượng đế duy nhất cũng không còn. Mặt khác, dù tiếp nhận Hồi giáo, nhưng người Champa không xem Allah (mà họ gọi là Po Awloah) như một Thượng đế duy nhất, thay vào đó là một hệ thống đa thần giáo, mà Po Awloah chỉ là một vị thần đứng đầu… Trong hệ thống này, họ không tôn sùng riêng lẽ bất cứ một vị thần nào như Shiva trong Ấn giáo hay Allah trong Hồi giáo, mà tôn thờ nhiều vị thần, trong đó có các thần linh mà nguồn gốc từ Hồi giáo như Po Awloah (Allah), Po Nưbi Mohamad (thiên sứ Mohamad) cũng như những vị vua, tướng có công được thần thánh hóa, thần đất đai, thần sông, biển, thần canh giữ mương, đập… mà họ gọi chung là Yang. Hệ thống thần linh của Champa cũng được phân ra làm hai nhóm thần linh chính, tướng ứng với thần của Awal và thần của Ahier, lần lược được gọi là yang Biruw (thần linh mới) là những vị thần có nguồn gốc xuất phát từ Mã Lai thường mang yếu tố Hồi Giáo, như Nai Mah Ghang, Nai Tang Ya Bia Tapah, Po Riyak, Po Tang Ahaok, Po Haniimper, Po Baruw, v.v. Yang klak (thần linh cũ) thì có nguồn gốc xuất phát từ văn hoá bản địa pha trộn với tín ngưỡng Ấn Giáo, như Po Rome, Po Binthuer, Po Klaong Garai, Po Ina Nagar, Po Sah, v.v. Ứng với mỗi nhóm thần linh lại có một nơi thờ tự và cách thức thờ cúng khác nhau, nếu như trước đây mọi nghi lễ tôn giáo đều được tổ chức ở tháp, và tháp chỉ là nơi thờ thần Shiva, thì sau này các yang klak cũng được thờ ở tháp, ngoài ra các đền, miếu cũng trở thành nơi thờ tự và thực hiện các nghi lễ cho yang klak, những nghi lễ này do người Ahier phụ trách thực hiện, trong lúc thực hiện các nghi lễ chiếu lễ phải trải úp, đồ lễ phải là món mặn (thịt, trứng, rượu…). Trong khi đó, các yang biruw thì được thờ tự hay dâng lễ trong nhà, hoặc các nhà lễ tạm thời (kajang), do người Chăm Awal thực hiện nhiệm vụ thờ cúng, mâm lễ phải là các món chay (xôi, chè, bánh, trái…). Ngoài ra, để tạo sự gắn kết giữa hai cộng đồng Ahier và Awal, một số các nghi lễ như Rija Nagar (lễ đầu năm), palao sah (lễ cầu đảo)… cả hai cộng đồng phải cùng thực hiện, trong đó cả yang biruw hay yang klak đều được dâng cúng[12]. Về hệ thống chức sắc, nếu như trước đây các nghi lễ tôn giáo trong nước đều do các vị Brahman thực hiện, thì trong thời kỳ bản địa hóa, tầng lớp tu sĩ được gọi chung là Hahlau Janang hay aw koak (áo trắng), để phân biệt với tầng lớp dân thường gọi là Giheh hay aw juk (áo đen). Tầng lớp Hahlau Janang cũng được phân ra làm hai hệ phái chính: Basaih (gồm 5 cấp từ cao đến thấp là Po Adhia – Cả sư ,Ndung akoak, Liah, Pauh, Tapah) các tu sĩ của cộng đồng Chăm Ahier, có nghĩa vụ tổ chức các nghi lễ cho yang klak; Các Po Acar (gồm 5 cấp: Po Gru – Cả sư, Iman, Katip, Madin, Acar), tu sĩ của cộng đồng Chăm Awal, thường thực hiện các nghi lễ cúng yang biruw…Ngoài ra còn có các vị Ka-ing, Maduen, Kadhar…, thực hiện các nghi lễ chung cho cả hai cộng đồng[13]. Bản địa hóa trong cách thức tổ chức chính trị – xã hội Không chỉ bản địa hóa và tiếp thu các yếu tố Hồi giáo trong cách thức tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo, trong thời kỳ này, Champa còn đơn giản hóa, dựa vào các giá trị bản địa và vay mượn một số yếu tố từ Mã Lai để tổ chức lại cơ cấu chính trị – xã hội của mình. Trước hết, về chính trị, nếu trước đây nhà vua thường tự thần thánh hóa mình, thường cho mình là đại diện của Thượng đế, hay là hiện thân của thần Shiva, hay nói cách khác là luôn đồng hoá thần quyền với vương quyền để cai trị đất nước, vì thế mà, các vị vua thời Ấn giáo thường tạc tượng đầu mình vào các Linga (Mukhalinga) hay thường đặt cho mình những danh xưng thần thánh mà các bia ký vẫn ghi lại[14]. Thì nay, nhà vua chỉ là một nhà chính trị đơn thuần trong nghĩa rộng của nó, ông lên ngôi và duy trì quyền lực dựa vào tài năng và đức hạnh của mình, hơn là từ một mệnh lệnh hay sự phó thác của đấng vô hình nào đó[15]. Nền chính trị cũng đơn giản hóa và mang tính đại chúng ngày càng phổ biến hơn, trước hết là việc những vị vua hay quan lại, nếu như trước đây phải xuất thân từ giai cấp thống trị, thì nay lại có nguồn gốc bình dân và nhiều khi rất nghèo khổ như vua Po Rome chẳng hạn, những điều này được ghi lại rõ ràng trong tiểu sử cùa các vua, quan của Champa, được viết sau thế kỷ XV[16]. Bên cạnh đó, nếu như trước đây, vua Champa thường sử dụng những người trong gia tộc, đẳng cấp hay bộ tộc của mình (trước đây hai tộc họ vẫn nắm quyền lãnh đạo ở Bắc và Nam Champa là Narikela – thị tộc Dừa và Krammuka – dòng tộc Cau). Nhưng trong giai đoạn này hệ thống cố vấn và quan lại bắt đầu có sự tham dự của mọi giới tầng, mọi tôn giáo (Ahier và Awal), mọi sắc tộc (bên cạnh người Chăm có người Churu, Êđê, Raglai…)[17]. Về tổ chức xã hội, trong thời kỳ Ấn Hóa, cơ cấu xã hội của Champa có nhiều yếu tố tương đồng với Ấn Độ. Trong đó, xã hội chia ra làm bốn đẳng cấp (theo quy luật cha truyền con nối) cao quý nhất là Brahman (tu sĩ Bàlamôn), sau đến ksatriya (thượng lưu quý tộc, những người lãnh đạo quốc gia), vaisya (nông dân, những người buôn bán…), sudra (có thể là nô lệ?)[18]. Nhưng từ sau thế kỷ XV, chế độ đẳng cấp của Ấn Độ cũng tan rã, kéo theo đó là sự xuất hiện chế độ giai cấp, với hai tầng lớp chính là thar patao bamao mah, bao gồm vua chúa, quan lại, quý tộc và người thân của họ, thứ hai là bal li-ua hua hawei, bao gồm nông dân, những người buôn bán và cuối cùng là các người làm công hay nô lệ được gọi là halun. Ngoài ra, khác với chế độ đẳng cấp trước đây, các giai cấp này có tính chất mở, không còn vai trò thế tập, một người có thể từ giai cấp thấp vươn lên giai cấp trên nếu có thể[19]. Cũng trong giai đoạn này, dù tiếp thu các quan niệm của Hồi giáo, nhưng chế độ hôn nhân và gia đình của người Champa vẫn duy trì các đặc tính địa phương, nếu như ở các quốc gia Hồi giáo họ luôn theo phụ hệ, vai trò của người đàn ông trong xã hội luôn được đề cao. Thì ở Champa, dù tiếp thu Hồi giáo, nhưng người ta vẫn thấy sự duy trì truyền thống mẫu hệ trong một số nhóm dân tộc như Chăm, Jarai, Churu, Êđê, Raglai… Theo chế độ này, từ dòng dõi vua, chúa, quan lại, quý tộc đến hạng thứ dân hay nô lệ đều phải tuân thủ quy luật người con gái phải theo tộc họ mẹ, con gái đi cưới chồng và thừa kế tài sản, con trai phải ở rễ nhà vợ, không có tài sản thừa kế… Ngày nay, người Chăm, dù là Ahier hay Awal, đều theo chế độ mẫu hệ, mẫu cư, nhưng phụ quyền, tức là trong gia đình, tộc họ thì phụ nữ nắm quyền, trong công tác chính trị, hoạt động xã hội thì đàn ông đảm trách. Bản địa hóa trong các lĩnh vực văn hóa, văn minh Ngoài việc bản địa hóa và tiếp thu một số yếu tố Hồi giáo trong tổ chức tín ngưỡng – tôn giáo, cũng như chính trị – xã hội, từ sau thế kỷ XV, Champa còn bản địa hóa và hấp thụ từ thế giới hải đảo nhiều giá trị văn hóa, văn minh. Quá trình ấy, đã góp phần tạo ra những giá trị tinh thần mới của Champa, từ các giá trị về ngôn ngữ, văn chương, nghệ thuật, đến lịch pháp… tổng thể những giá trị ấy đã góp phần tạo nên một diện mạo mới của nền văn minh Champa thời kỳ bản địa hóa. Trước hết, khi bước vào thế kỷ thứ XVI, Phạn ngữ và chữ viết Champa cổ điển (được sáng tạo trên cơ sở tiếp thu Phạn ngữ và chứa đựng nhiều điểm gần gủi với chữ viết Ấn Độ) bước vào giai đoạn thoái hóa và mất đi. Thay vào đó, tiếng Chăm phổ thông (akhar thrah) xuất hiện, mà những ghi chép đầu tiên của nó được khắc lên bia ký ở tháp Po Rome (Ninh Thuận). Hệ chữ viết này, một mặt thừa hưởng các quy luật của chữ Chăm cổ điển, mặt khác lại hấp thụ một số từ vựng gốc Mã Lai, để tạo nên những nét đặc thù của mình. Đặc điểm của hệ thống chữ viết này là có nhiều nét đơn giản, dể nhận biết, dễ tiếp cận hơn chữ Phạn và chữ Chăm cổ điển, vì vậy nó nhanh chóng được hoàn thiện, thống nhất và cố định, để rồi kể từ thế kỷ XVII, trở thành chữ viết chính thức được sử dụng trong mọi lĩnh vực hành chính, văn học, tôn giáo[20]… Cùng với sự thay đổi về chữ viết, là sự biến đổi về cách thức lưu giữ và truyền tải hệ thống văn tự mới này. Trước thế kỷ XV, khi Phạn ngữ và chữ viết Chăm cổ điển còn thịnh hành, loại chữ này thường được khắc hay viết lên các bia đá rải rác ở miền Trung. Từ thế kỷ XVI, cùng với sự xuất hiện của akhar thrah, ngoài bia ký Po Rome, việc viết chữ lên lá buông hay sau này là giấy trở nên phổ biến để thay thế cho chữ được viết trê
0 Rating 681 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On December 13, 2016
  Ở Quảng Nam, có một làng gần như 100% là người gốc Chăm. Đó là làng Đồng Dương nằm trên địa bàn xã Bình Định, huyện Thăng Bình. Từ thời xa xưa, trong cộng đồng người Chăm Đồng Dương đã lưu truyền truyền thuyết khá hấp dẫn và lý thú về nguồn gốc của làng Chăm độc nhất ở Quảng Nam này! Những di tích còn sót lại của người Chăm ở xứ Quảng. Truyền thuyết thuật lại rằng thời xa xưa, không biết vì lý do gì giữa hai nước Chiêm và Việt nổ ra chiến tranh. Vua Việt tiến đánh quân Chiêm ở tận Đồng Dương. Ở vào thế chống đỡ, không còn cách nào khác, tướng Chiêm mới huy động cả thảy tám mươi con ngựa chiến. Đuôi ngựa được cột thêm vào một tàu lá cau. Bốn chân cột thêm bốn cái lục lạc. Khi hai bên lâm trận, mùa tháng Sáu, trời nắng chang chang nên khói bụi bay mù trời. Rồi lục lạc cũng huyên náo. Sau ba ngày ba đêm, thấy khó có thể cầm cự, quân Chiêm phải kéo cờ trắng đầu hàng. Đặc biệt, trong đám hàng binh, vua Việt phát hiện có một nàng công chúa xinh đẹp. Ngài bèn bắt về để làm vợ cho một vị hoàng tử. Nhưng, ngài hoàn toàn không biết nàng công chúa này đã có thai. Tương truyền rằng vì thế cho nên mới có dòng họ Trà nối nghiệp ở Đồng Dương bây giờ. Người ta kể rằng, sau đó, công chúa về Nghệ An làm vợ hoàng tử và sinh ra một đứa con trai. Tất nhiên, đó là một người Chiêm. "Chim có tổ người có tông", lớn lên, có lẽ do mẹ là công chúa Chiêm cho biết nguồn gốc nên người con mới lần vào Điện Bàn, coi như tìm về quê cha đất tổ. Đầu tiên, ông đến làng La Huân, nay thuộc xã Điện Thọ. Nghề nghiệp chính của ông là làm thầy... phù thuỷ. Tức pháp sư. Tên nôm na của pháp sư là ông Hai Lánh. Đã là pháp sư, dĩ nhiên, theo truyền thuyết ông rất giỏi pháp thuật, có thể kêu mây gọi gió. Làng La Huân bấy giờ nghèo lắm. Dân nghèo nên không có tiền đóng góp. Tất nhiên, đình làng chỉ là đình tranh. Mỗi năm có chuyện họp hội, làm lễ ở đình làng, người dân thường kêu ca về sự nghèo khó, khốn khổ của mình, rằng "Khổ quá, coi cái làng La Qua bên cạnh, họ giàu, đình là đình ngói. Còn mình chỉ đình tranh. Trời mưa gặp cúng lễ thì biết tránh mô cho khỏi ướt". Cứ mỗi lần có chuyện cúng, ông Hai Lánh thường nghe bà con than thở. Thấy vậy, ông mới buột miệng nói "Muốn có đình ngói thì ta đổi đình ngói". Tưởng nói chơi, hoá ra ông lại làm thật. Tối hôm ấy, ông lấy đậu xanh ngâm cho ra mộng. Mộng từ hạt nứt ra, nên còn gọi là cựa. Đến tối, ông đứng trước bàn thờ, khói hương nghi ngút, mới lầm rầm trong miệng làm phép. Tức thì, bao nhiêu hạt đậu đều biến thành âm binh. Ông bèn sai âm binh đi khiêng đình tranh La Huân sang làng La Qua để đổi đình ngói La Qua. Mọi việc diễn ra gần như hoàn hảo. Sáng ra, dân hai làng thức dậy, nghe bảo có chuyện lạ ở đình, kéo nhau rần rần đi coi. "Quái, răng lại thế ni?". Ở La Huân, đình tranh trở thành đình ngói còn ở La Qua đình ngói lại biến thành đình tranh. Lý trưởng và các vị chức sắc trong làng tức lắm, mới nhìn kỹ và phát hiện đình tranh có một dây bầu. "Đình ni đích thị là đình của làng La Huân rồi". Họ bèn đi kiện lên trên. Với chứng cứ rành rành, ông Hai Lánh bị vua bắt giam vào ngục. Các nghệ nhân dân gian người Chăm. Ảnh tư liệu. Không biết ông bị giam bao lâu thì đến ngày lễ quốc khánh năm nọ, triều đình cần làm "phường môn", tức cổng ngõ, sao cho đẹp. Biết ông là thầy phù thuỷ có tài, vua bèn sai quân lính lôi ông từ ngục ra, bảo "Nghe nói nhà ngươi có tài, ngươi phải trổ tài để trẫm xem thử". Ông thưa vua xin thắt hai con rồng gọi là "lưỡng long tranh nguyệt". Vua sai người đem lụa để ông thắt. Thoáng chốc, ông đã thắt xong một con rồng rất đẹp. Ông bảo rồng này chưa làm mắt, làm mũi. Vua thấy ông tài quá, bèn cho ông tự do đi lại, không phải giam vào ngục. Nhưng ngay tối hôm đó, ông lẻn ngồi lên lưng con rồng vừa thắt xong, hô biến. Tức thì con rồng biến thành con rồng thật. Rồng bay lên, đưa ông về đất Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đến Bình Trung, ông thả chiếc giày bên trái để báo tin. Rồi ông vào Đồng Dương. Cũng từ đây, ông Hai Lánh bắt đầu cuộc đời lang bạt để trốn tránh sự truy lùng của triều đình. Đặc biệt, khi đến Đồng Dương, ông lấy vợ và sinh ra hai người con đặt tên là Trà Huyền An và Trà Huyền Chơn, tên tục gọi là ông Chóng và ông Đụn. Sau đó, ông tiếp tục đến khu vực Hòn Tàu, nay thuộc địa phận huyện Quế Sơn để gầy dựng sự nghiệp. Không ngờ, ông gặp một con cọp dữ. Thế là ông đánh nhau với cọp. Điều trớ trêu là sức người sức cọp gần như ngang bằng với nhau nên hai bên cứ giằng co. Cọp thua thế hơn, chạy lên Trà Linh. Ông đuổi theo. Lần này, ông đánh đến ba ngày ba đêm. Cọp ra máu nhiều, đâm khát nước, mới mò ra bờ suối để uống một hơi dài rồi chết ngay tại chỗ. Ông Hai Lánh bấy giờ cũng sức cùng lực cạn và chết theo. Dân làng Trà Linh tiếc thương, mới chôn thi thể ông. Từ sự tích này mà hiện nay ở Trà Linh còn hai mả, mả ông Hai Lánh và mả... cọp. Tương truyền, mả ông rất thiêng. Đàn bà, con gái không dám đi ngang. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là họ Trà dù chiếm hơn 90% dân số toàn thôn, tức trên 130 hộ nhưng trong văn tế cùng tiền hiền làng hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những ông này lại đứng sau hai người Kinh có công lập làng. Nguyên văn văn cúng, theo trí nhớ của ông Trà Díu là "... Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh/ Tiền tổ, hậu tổ/ Tiền năng sư bách nhãn, hậu năng sư bách nhãn/ Tiền quế công chi vị, hậu quế công chi vị/ Châu Văn Tuý, Trịnh Khắc Thiệt, Trà tộc, ông Chóng, ông Đụn, Trà Huyền An, Trà Huyền Chơn, các chư tộc phái...". Trong đó, Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt là hai người đứng đầu đơn lập làng. Càng đặc biệt hơn khi hai ông tiền hiền làng là Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt đều không có con cháu nối nghiệp. Có thể nói, truyền thuyết nói trên là một trong những truyền thuyết suy nguyên (mythologie étiologique) nhằm suy đoán, giải thích nguồn gốc họ Trà ở làng Đồng Dương hiện nay. Ngay cái tên nhân vật Hai Lánh, thiển nghĩ, đó cũng chỉ là một cách gọi đầy ngụ ý, thể hiện rõ cuộc đời lang bạt của một người có lai lịch đầy bí hiểm mà thôi! Theo news.zing.vn  
0 Rating 534 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 30, 2016
  VÌ CON KHÁC HỌ “Đồ dân tộc, tránh xa nó ra, bẩn thỉu”. Vâng! Tôi là một đứa dân tộc- là sản phẩm của một cuộc hôn nhân không tình yêu bởi phong tục tập quán củ dân tộc.Hồi nhỏ tôi đã nghe những câu nói như vậy cả trăm nghìn lần chỉ vì tôi là người dân tộc thiểu số. Khi nghe vâỵ tôi hỏi mẹ : “ Tại sao mấy bạn người Kinh lại nói con bẩn hả mẹ?” Mẹ chỉ cười bảo : “ VÌ CON KHÁC HỌ.” Khi lớn lên một chút tôi hiểu đó là sự miệt thị của một số người dành cho người dân tộc thiểu số như tôi. Sự xa lánh với tôi không có gì xa lạ, tôi sống cách biệt bạn bè, nói đúng hơn là không ai chơi với tôi-một đứa dân tộc. Ý thức được bản thân tôi vẫn âm ỉ ngọn lửa nghị lực trong mình. Những bữa ăn sắn, ăn ngô, củ mài mẹ đào trong rừng khiến tôi càng có động lực mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Mẹ tôi bị bệnh tim từ hồi mẹ còn trẻ, đã mấy chục năm mẹ phải sống với nó, mẹ ngất đi, tỉnh lại, đi bệnh viện như cơm bữa, tôi thương mẹ, nhưng nhà không có tiền chữa bệnh cho mẹ nên xin bệnh viện về nhà.Tiền mua thuốc cũng không có nên mẹ chỉ uống thuốc tự mẹ lấy về cất, hoặc ai cho thuốc gì về bệnh tim thì mẹ uống. Thế nhưng, khi khỏe lại, vì muốn có tiền cho bốn anh em tôi ăn học, mẹ lại đi làm thuê, đi bộ cả ngày trời vào rừng sâu hái nấm để bán, mẹ làm đủ nghề chỉ một điều duy nhất để chúng tôi có tiền học. Ba tôi thì bị bệnh đau lưng, những hôm đi cày thuê về ba lại đau nhức không làm được gì nặng. Lên cấp 2, mẹ tôi ốm nặng hơn, không chỉ những cơn đau vì bệnh tim hành hạ mẹ mà còn cả những dấu hiệu về thần kinh không ổn định. Mẹ tự nói, tự cười, mẹ đi lang thang khắp xóm,hết nói hết cười lại ngất đi. Có lẽ vì tình yêu của mẹ dành cho anh em chúng tôi quá lớn nên mẹ không cho phép mình ốm lâu như vậy, sức khỏe của mẹ dần ổn định hơn. Tôi đi học một buổi, một buổi chăn bò và đi mót mì, mót lúa, đi làm thuê để có tiền mua quần áo, bút thước.Tôi không có tiền để học thêm như các bạn người Kinh nên tôi tự mượn số sách ít ỏi của thư viện trường và hỏi mượn thêm của thầy cô để học.Tôi tự hứa với bản thân mình sẽ nỗ lực hết sức, sẽ “ KHÁC” họ như chính lời mẹ tôi nói.Và rồi tôi đã dùng lời hứa của mình để đạt được món quà dành tặng ba mẹ là Tấm giấy chứng nhận giải ba học sinh giỏi cấp huyện, giải nhì học sinh giỏi cấp tỉnh môn Ngữ Văn và giải khuyến khích môn Giải toán trên máy tính cầm tay hồi lớp 9.Thật hạnh phúc vì đó là món quà lớn nhất tôi làm được để dành tặng ba mẹ từ nhỏ đến giờ. Lên cấp ba, mỗi lần nghỉ hè, tôi lại lắng xắng tìm việc làm thêm, tôi bắt đầu kì nghỉ hè đầu tiên của mình ở cấp 3 là trông em bé, sau đó là chạy bàn cà phê, rửa chén trong quán ăn,bán tạp hóa… Vất vả nhưng tôi thấy thật vui vì đỡ được ba mẹ,lại có tiền trang trải học tập. Lên 12, tôi lại ôn thi học sinh giỏi môn Địa Lí, tôi đạt giải ba cấp tỉnh khối 12, và 12 năm liền tôi là học sinh khá, giỏi. Tôi đăng kí thi Đại học khối C, tôi chọn nhành Sư phạm Văn của Đại học sư phạm Huế. Ngày tôi chuẩn bị đi thi Đại Học là ngày ba tôi phải đi cày thuê nhiều hơn để có tiền cho tôi đi. Cũng bởi vậy mà lưng ba lại đau nặng hơn. Cầm 1 triệu đồng mồ hôi nước mắt của ba một mình từ Kon Tum ra Huế tôi đã khóc, khóc vì thương ba,vì sự vất vả hi sinh của ba,khóc vì tủi thân khi chúng bạn cùng thi có ba mẹ, người thân bên cạnh.Tôi tự đi, tự thuê trọ, tự lo ăn uống,tự thi, tự về.Và rồi tôi cầm trên tay mình tờ giấy báo nhập học của trường Đại Học Sư Phạm Huế với 23 điểm cả điểm cộng niềm hạnh phúc như vỡ òa. Vừa vui vừa lo lắng, vì sợ không có tiền đi học. Lẽ nào mình phải kết thúc ước mơ ở đây sao? Không, không thể!Nhưng mà học thì lấy đâu ra tiền để học nhỉ? Hàng ngàn câu hỏi cứ chạy trong tâm trí tôi,ám ảnh tôi.Nhưng rồi tôi nghĩ mọi chuyện sẽ có cách giải quyết, ba mẹ tôi an ủi, động viên tôi cố gắng.Tôi xuống thành phố Huế học, tôi vừa học vừa làm thêm. Lên năm 2, anh trai tôi mất, khó khăn lại chồng chất khó khăn, mẹ tôi vì thế mà sức khỏe kém đi nhiều. Đã nhiều lần tôi có ý định nghỉ học nhưng tôi biết có rất nhiều trẻ em người dân tộc thiểu số như tôi muốn đi học mà không được đi học,không được học thêm nên tôi không thể bỏ và vì tôi có ước mơ, tôi đam mê và muốn trở thành một giáo viên thực sự.Tôi muốn làm chút gì đó cho trẻ em nghèo vùng sâu, vùng xa. Tôi sẽ dạy học cho các em miễn phí để tiếp tục đánh thức ước mơ của các em, giúp các em sống tốt.Tôi tin mình sẽ làm được, tôi không cho phép mình gục ngã trước bất kì điều gì, tôi sẽ đứng vững trên đôi chân của mình. Tôi không thể từ bỏ ước mơ của mình chỉ vì khó khăn. Mẹ tôi nói tôi khác họ vì tôi là người dân tộc thiểu số. Vâng, tôi tự hào về điều đó và tự hào về những gì tôi làm được, những gì tôi cố gắng. Từ tận sâu trong đáy lòng tôi muốn cảm ơn mẹ đã mang đến cho con nhận thức, thông điệp : “ VÌ CON KHÁC HỌ” để con biết con phải làm gì và nên làm gì,cảm ơn ba đã yêu thương, ủng hộ con, cảm ơn sự nghiệt ngã của cuộc sống đã giúp tôi có được “tôi” hiện tại.Cảm ơn những người bạn chê tôi là người dân tộc đã cho tôi nghị lực, niềm tin, ý chí.Và tôi tự hào vì “TÔI LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ”. Theo moreyou.com.vn
0 Rating 136 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2016
Andrew Hardy Nguyễn Thị Hồng Hạnh dịch Tại kinh đô ở Nam Kinh, ngày 25 tháng 7 năm Hồng Vũ thứ tư (1371), hoàng đế nhà Minh của Trung Hoa tiếp nhận một tấu văn cỡ lớn làm bằng vàng lá, trên khắc chữ ngoại quốc. Sau khi dịch, hoàng đế biết rằng những hàng đầu tiên của tấu văn này được đọc như sau: “Hoàng đế Đại Minh đã lên ngôi vỗ yên bốn bể. Bệ hạ như bầu trời và mặt đất bao phủ và chứa đựng muôn loài, như mặt trời và mặt trăng chiếu sáng vạn vật. Sánh với bệ hạ, A-da-a-zhe chỉ như một cọng cỏ. Bệ hạ thương kẻ hạ thần đã sai sứ ban cho thần ấn vàng và sắc phong cho thần làm vua xứ này. Thần rất biết ơn và tự hào, và sẽ như vậy mãi mãi”(1). Tác giả của tấu văn này, A-da-a-zhe, được biết đến trong lịch sử là vua Chămpa Chế Bồng Nga. Trong sắc phong 1 năm trước đó, hoàng đế đã giải thích những nguyên tắc trong mối quan hệ của họ ở tương lai: “Rõ ràng là đứng giữa thiên hạ, vỗ về bên ngoài, ta coi tất cả là như nhau. Ngươi phải chú tâm vào nhiệm vụ bảo vệ biên cương và chăm sóc dân chúng một cách cẩn trọng và nhất quán, mãi duy trì là một chư hầu”. Với tấu văn trên, Chế Bồng Nga bắt đầu việc trao đổi thư từ với hoàng đế, kéo dài trên một phần tư thế kỷ. Đọc chúng trong biên niên sử nhà Minh, chúng ta có thể thấy Chế Bồng Nga ngày càng tăng cường thử độ nhẫn nại của hoàng đế như thế nào qua việc phá vỡ luật lệ đã được giải thích từ những năm đầu của triều đại. Một thế kỷ sau, cũng biên niên sử đó mô tả việc trao đổi thư từ khác thử độ nhẫn nại của hoàng đế, thậm chí còn căng thẳng hơn. Trong trường hợp này, không phải vua Chămpa đã phá vỡ luật lệ mà là hàng xóm của ông ở phía bắc, vua Việt Nam Lê Thánh Tông. Nguyên nhân khiến cho cả hai vị hoàng đế bực tức là những câu chuyện lịch sử nổi tiếng và có một điểm chung: cả hai đều có kết quả là quân đội của nước kia phá hủy kinh đô của một nước. Chế Bồng Nga chiếm Thăng Long trong những năm 1370; Lê Thánh Tông chiếm Vijaya (nay là Đồ Bàn, tỉnh Bình Định) năm 1471. Từ nhãn quan của triều đình Trung Hoa, bài viết này xem xét sâu hơn bối cảnh lịch sử của hai câu chuyện với mục đích đề ra một cuộc tranh luận về sự trường tồn khác thường của Thăng Long trong vai trò là thủ đô chính trị của Việt Nam, điều mà tôi coi là vấn đề quan trọng nhất đối với các nhà sử học nghiên cứu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu. Chế Bồng Nga Trong tấu văn năm 1371, sau phần thăm hỏi được trích dẫn ở trên, Chế Bồng Nga đi thẳng vào vấn đề. Ông kêu rằng Việt Nam “đang sử dụng quân đội tấn công biên cương” và đề nghị giúp đỡ dưới dạng “vũ khí, nhạc cụ và nhạc công”. Hoàng đế đã từ chối can thiệp; với đề nghị về âm nhạc, ông khuyên Chế Bồng Nga chọn người của mình “và gửi họ tới kinh đô để học hỏi”(2). Hai năm sau, hoàng đế thiết triều cùng các quan cận thần quyết định cách xử lý liên quan đến chiến tranh giữa Việt Nam và Chămpa: “Năm trước, An Nam dâng biểu tâu rằng Chămpa đã xâm phạm biên cương. Năm nay, Chămpa hiện quả quyết rằng An Nam đã quấy rối cương vực của mình. Cả hai nước này đều phụng sự triều đình, nhưng ta chưa xác minh được bên nào đúng và bên nào sai. Hãy cử sứ thần tới hai nước này lệnh cho họ chấm dứt chiến tranh và để cho dân chúng nghỉ ngơi”(3). Năm 1377, biên niên sử ghi lại thất bại và cái chết của vua Việt Nam trong cuộc tấn công vào kinh đô Chămpa(4). Hai năm sau đó, hoàng đế vẫn tiếp tục duy trì cách tiếp cận không thiên vị đối với chiến tranh, răn đe Chế Bồng Nga bằng những lời lẽ sau: “Các ngươi phải bảo vệ biên cương và chăm sóc dân chúng. Không được đề cập đến chuyện tranh cãi. Ngươi phải được răn rằng Hoàng thiên có thể hài lòng lẫn không hài lòng”(5). Năm 1380, thái độ căng thẳng của hoàng đế bộc lộ trong chiếu chỉ gửi vua Việt Nam: “Ai đúng ai sai ta không biết. Nếu oán giận không được xoa dịu và thù địch không được hóa giải, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai? Nếu ngươi nghe theo lệnh ta, chấm dứt chiến tranh và nuôi dưỡng dân chúng, điều đó sẽ được phản ảnh lên Thiên kính và ngươi rõ ràng sẽ chứng kiến sự thịnh vượng lâu dài. Nếu ngươi không theo lệnh ta và khăng khăng tiếp tục theo cách của mình, ta e rằng nó sẽ giống như đã xảy ra trong thời Xuân Thu và ngươi sẽ mang tai họa đến cho mình”(6). Vài tháng sau, chiếu chỉ của hoàng đế gửi cho Chế Bồng Nga cũng chứa đựng sự răn dạy: “Một số nước rõ ràng có khả năng hành động một cách nhân đức và do đó họ phù hợp với Thiên đạo. Những nước này sao mà không tồn tại lâu dài, con cháu kẻ cai trị sao mà không thịnh vượng? […] Nếu ngươi không làm như vậy và vẫn muốn tiến hành tấn công, năm này qua năm khác sẽ trở thành cuộc chiến tranh cay đắng. Không có cách nào để xác định ai thắng ai bại. Trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi”(7). Khoảng năm 1388, sự nhẫn nại của hoàng đế bị cạn kiệt. Chế Bồng Nga phái con trai của mình tới Nam Kinh với một thái độ kính trọng, đồng thời ra lệnh cho người đóng giả cướp biển để trộm đồ cống nạp cho thiên triều trên đường đến từ Campuchia. Hoàng đế hỏi: “Sao ngươi đứng đầu một nước vẫn có thể xúc phạm tàn bạo đối với Thiên tử?”(8). Sứ thần Chămpa sau đó “đã dâng cống sản phẩm địa phương để thú tội”(9). Tiếp theo, chúng ta thấy Chămpa trong biên niên sử ở mục ngày 2 tháng 12 năm 1391: Quốc sư Tao-bao Jia-zhi được phái đến từ nước Chămpa đã trình biểu chương bằng vàng và dâng cống sừng tê, nô lệ và vải vóc. Hoàng đế nói với Thượng thư Bộ Lễ rằng: “Tất cả những vật này là đồ cướp bóc. Chúng sẽ không được thu nhận!”. Trước đó, Thái sư Chămpa là Ge-sheng đã giết vua và tự lập mình làm vua. Vì vậy mà hoàng đế ra lệnh từ chối đồ cống nạp(10). Đó là quan điểm về triều đại Chế Bồng Nga từ hoàng cung đế chế Trung Hoa ở Nam Kinh. Lê Quý Đôn đưa ra một nhãn quan thẳng thắn và Việt Nam hơn về những sự kiện trong chiến dịch quân sự đầu tiên của Chế Bồng Nga: Năm Thiệu Khánh thứ 10, vua Trần Nghệ Tông (năm Tân Hợi) [tức 1371 sau CN.], tháng 3 nhuận, người nước Chiêm Thành vào cướp phá nước ta. Thuyền họ vào cửa biển Đại An [thuộc địa phận tỉnh Nam Định], rồi thẳng đến xâm phạm Kinh kỳ, đốt phá, cướp bóc rồi trở về(11). Các sự kiện vào cuối những năm 1370 và đầu những năm 1380 được tóm tắt lại như sau: Trần Phế Đế (1377 – 1388) lên ngôi thay Duệ Tông. Chỉ 6 tháng sau khi Duệ Tông tử trận, quân Chiêm “vào cửa Thần Phù (Yên Mô, Ninh Bình) rồi lên cướp phá kinh thành Thăng Long”. Không ai chống giữ được. Năm 1378, quân Chiêm lại sang đánh Nghệ An rồi ngược sông Hồng lên đánh phá Thăng Long. Từ năm ấy đến 1383, nhiều trận giằng co Chiêm – Việt trên đất Nghệ An – Hà Tĩnh. Giữa năm 1383, Chế Bồng Nga lại đem quân đánh phá Thăng Long, vua ra vào Việt Nam như đi vào chỗ không người, chỉ trong mấy năm đến phá kinh đô 3 lần, làm cho vua tôi phải kinh hoàng”(12). Lê Quý Đôn cung cấp một phiên bản súc tích về kết thúc ngoạn mục của triều đại Chế Bồng Nga. Năm 1390, khi cua Chămpa bị giết trên chiến trường trong lần cuối của hàng loạt các cuộc tấn công vào kinh đô Việt Nam: “Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khắc Chân đánh phá và bị đại bại, chết ở sông Hải Triều. Còn bao nhiêu quân lính đều trở về nước họ”(13). Đọc điều này, chúng ta không ngạc nhiên về lời lẽ bực dọc của hoàng đế Trung Hoa trong những chiếu thư khác nhau gửi Chế Bồng Nga và các vua nhà Trần của Việt Nam. Trong các cuộc chiến tranh chiếm phần lớn thời gian của hai thập kỷ, kinh đô Việt Nam đã bị phá hủy nhiều lần, một vua Việt Nam bị giết tại cổng kinh đô Chămpa, và cuối cùng là vua Chămpa bị giết tại cổng của kinh đô Việt Nam. Vài năm sau đó, từ hậu quả không trực tiếp của những sự kiện này, Việt Nam học được sự thật cay đắng trong thành ngữ của hoàng đế về “trai và cò”. Nhà Trần nhanh chóng kết thúc và ít lâu sau, “ngư ông” triều Minh thiết lập sự cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Lê Thánh Tông Biên niên sử ghi lại rằng ngày 15 tháng 6 năm 1471 – đúng một trăm năm sau khi việc trao đổi thư từ với Chế Bồng Nga bắt đầu – hoàng đế Trung Hoa tiếp nhận sứ thần từ vua Việt Nam là Lê Thánh Tông, được biết dưới cái tên Lê Hạo. Thông điệp của vua rất thẳng thắn: “Nước của thần rất gần với Chămpa và trong một thời gian dài, chúng thần bị nước này tấn công và hăm dọa. (…) Thần muốn tập hợp binh lính để chiến đấu, nhưng sợ rằng điều này sẽ vi phạm chỉ dụ của Thiên triều. Thần cũng muốn nhẫn nại chịu đựng sự đau khổ (…). Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, thần quyết định nhẫn nại và gửi sứ kèm theo tới triều đình để kiến nghị điều này”. Tại kinh đô Trung Hoa, Thượng thư Bộ Binh không tin một câu nào trong thông điệp đó, tâu với hoàng đế rằng Lê Hạo “tham lam vô độ và trong khi ngấm ngầm lên kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ, hắn công khai kiến nghị yêu cầu này”. Hoàng đế viết răn đe vua Việt Nam: “Sao ngươi có thể kích động sự thù hằn, tăng cường quân đội và tham gia tấn công chống lại nhau và dành toàn bộ thời gian để khiển trách người đáng kính. […] Người phải rất, rất cẩn trọng”(14). Một năm sau, biên niên sử ghi lại thông điệp được sứ thần chămpa mang tới triều đình Trung Hoa: “Trong tháng hai năm Thành Hóa thứ bảy (tháng 2-3 năm 1471), quân đội An Nam đã tới và tấn công kinh đô của chúng thần, bắt nhà vua Bàn La Trà Toàn và gia quyến đem đi, tổng cộng hơn 50 người. Họ còn thu giữ ấn, đốt nhà cửa, giết hoặc đem đi vô số binh lính và dân thường, cả đàn ông lẫn đàn bà. Hiện nay, em trai của nhà vua Bàn La Trà Toại tạm thời nắm giữ việc quản lý các công việc của đất nước và khiêm nhường đón đợi sắc phong”. Biểu chương này được gửi tới Bộ Binh. Thượng thư Bộ Binh Bai Gui và những người khác tâu rằng: “Vào năm Thành Hóa thứ bảy (1471-72), An Nam tâu rằng Chămpa đã vượt biên giới tấn công họ, và yêu cầu triều đình rủ lòng thương bằng cách kiểm soát sự áp bức. Khi đó chúng thần cảm thấy rằng Lê Hạo đã ngấm ngầm lên kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ nhưng lại công khai tâu rằng hắn bị tấn công. Nay hắn đã tàn phá đất nước đó và đem vua của họ đi. Nếu hắn không bị trừng phạt, không chỉ Chămpa sẽ đánh mất lòng trung thành với Trung Hoa mà nó còn có thể khiến An Nam trở thành ngoan cố. Chúng ta cần phái người mang lệnh dụ của triều đình đến cho Hạo, đòi hắn trả vua, gia quyến và ấn tín mà họ đã cướp cho Chămpa, để hành động của hắn không gây nên thảm họa quân sự”. Lệnh của triều đình ban rằng: “Không cần phải phái người tới An Nam. Hãy đợi khi sứ thần từ An Nam đến và ban lệnh của triều đình cho hắn”(15). Vài tháng sau đó, khi sứ thần của Lê Thánh Tông đến, hoàng đế khẳng định mô tả của Việt Nam và Chămpa về các sự kiện là rất “mâu thuẫn”, dụ rằng nhà vua phải ứng xử một cách chính trực và “ngày càng tôn trọng các chuẩn mực đạo đức”(16). Tuy nhiên vào năm 1475, sứ thần Trung Hoa tới triều đình Chămpa, khi đến cảng đã bị từ chối không cho vào và phát hiện ra rằng “toàn bộ gia đình cua Chămpa đã bị An Nam đem đi và lãnh thổ Chămpa đã được đổi tên là thừa tuyên Quảng Nam”(17). Trường nhiều năm, Lê Thánh Tông tiếp tục gửi các tấu biểu không chính xác tới hoàng đế; hoàng đế tiếp tục khuyên ông “tự sửa mình” (18), cho tới ngày hoàng đế nhận được văn bản sau đây trong năm 1478. “Thủ lĩnh Chămpa Bo-long-a-ma trước đây giao hảo với đất nước của chúng thần. Vào năm thứ 11 thời Thành Hóa (1475-1476), hắn thu nhận lực lượng hải thuyền của nước Lưu Cầu bị gió đánh dạt tới đó, sai họ xâm chiếm và cướp bóc. Họ đã bị lính sơn phòng của chúng thần đánh bại. Sứ thần họ Lý nay vừa từ Thiên triều trở về và thần kính cẩn nhận chỉ dụ của triều đình, trách mắng thần đã chiếm đất Chămpa và biến nó thành như quận huyện. Thần phải trình bày nghiêm túc thực tế một cách chi tiết để chứng tỏ rằng tại sao chúng thần rõ ràng không thể đã làm điều đó. Vùng đất mà Chămpa được phong không có đất đai màu mỡ. Nhà cửa ở đó có vài gia súc và ít lương thực dự trữ, làng quê thiếu dâu và đay, núi non không có vàng và đá quý, trong khi biển thiếu cá và muối. Họ chỉ có ngà voi, sừng tê, gỗ mun. Tuy nhiên, đất nước của chúng thần sản xuất ra những thứ đó nhiều hơn nhiều so với nhu cầu. Làm sao mà chúng thần có thể coi đó là những vật có giá trị? Nếu chúng thần lấy đất của họ, chúng thần không thể sống ở đó; nếu chúng thần lấy người của họ, chúng thần không thể dùng họ; nếu chúng thần lấy hàng hóa của họ, chúng thần sẽ không thể giàu hơn bởi những thứ đó; nếu chúng thần lấy quyền lực của họ, chúng thần sẽ không thể mạnh hơn. Cũng sẽ rất khó khăn cho chúng thần để canh giữ vùng đất này và chúng thần sẽ nhận được rất ít ích lợi từ đó. Sự mất mát sẽ rất lớn và lợi lộc thì ít, tai họa là rõ ràng và danh tiếng giành được là không có. Đó là những lý do khiến chúng thần không chiếm Chămpa và biến nó thành như quận huyện. Nay triều đình lại dụ thần trả đất cho họ, để dòng dõi cai trị không bị tuyệt diệt. Thần kính cẩn cho rằng sứ thần của triều đình do vội vàng khó có thể tiến hành những yêu cầu chi tiết, và người Chămpa, trốn tránh loạn lạc và căm ghét đất nước của chúng thần, đã nói với sứ thần tin tức này. Lời của họ không thể tin được. Thần khiêm nhường mong rằng sứ thần của triều đình sẽ được đặc biệt gửi tới để sắp đặt lãnh thổ và phục hồi dòng họ bị đứt đoạn, để Chămpa được yên bình cả trên lẫn dưới, biên cương đất nước thần được hưởng sự nghỉ ngơi. Chămpa từ đó sẽ là bình phong của Trung Hoa và sự sắp đặt sẽ ích lợi cho các dân tộc xa xôi. Đó là mong ước lớn của thần và thần kính cẩn gửi sứ thần Nguyễn Đức Trinh tới tâu lên điều này”(19). Tiếp theo vài tháng sau là tin tức từ Zhai-ya-ma-wa-an đề nghị sắc phong là vua của Chămpa. Sứ thần của ông tâu lên hoàng đế rằng “Người An Nam đã trả cho thần vùng đất ở biên giới phía nam của nước họ để thần cai quản. Thần đã tái lập đất nước, nhưng e sợ quyền lực của Hoàng thiên, không muốn nhận vương hiệu cho chính mình, đặc biệt phái sứ thần dâng biểu xin sắc phong”. Hoàng đế nhà Minh đồng ý với đề nghị này, chấp nhận thực tế tình trạng mới của Chămpa. Tuy nhiên vào năm 1481, một lần nữa, chúng ta lại thấy ông phản đối Lê Thánh Tông về sự chiếm đoạt của Việt Nam: “Việc này như thể ngươi không biết hay không thấy điều gì đã xảy ra sau khi cha ông ngươi tham gia vào các cuộc tấn công trả thù chống Chămpa” (20). Quan thanh tra của các tỉnh miền Nam Trung Hoa gợi ý phái quân đội triều đình đến chống Lê Thánh Tông để “trừng phạt tội lỗi”: tuy nhiên, quan thanh tra này bị nghi là hành động vì tham vọng cá nhân và sau đó đã bị trừng phạt (21). Vào năm 1481, sự quở trách nặng hơn từ kinh đô Trung Hoa đến Thăng Long: “Trong những năm trước, ngươi kiến nghị rằng tất cả đất đai của Chămpa bị các thủ lĩnh địa phương của nước này tranh giành chia ra và chiếm cứ. Nay xem xét cáo buộc của Gu-lai, rõ ràng là nước của ngươi đã chiếm đất và đẩy họ đi chỗ khác. […] Sao ngươi có thể muốn che đậy sự xấu xa và tỏ vẻ có đạo đức, che giấu tội lỗi của chính mình, ở trên thất bại trong việc duy trì lòng trung thành của một người phụng sự bề trên, ở dưới thất bại trong việc duy trì mối quan hệ tốt với các nước láng giềng. […] Nếu ngươi tiếp tục giả dối và bất lương, răn rằng Thiên đạo mang lại thịnh vượng cho người tốt và tai họa cho kẻ xấu” (22). Răn đe cuối cùng được ban bằng miệng cho sứ thần năm 1490: nếu cương giới không được tôn trọng, “Triều đình sẽ lập tức nổi giận và binh lính Thiên triều sẽ phá hủy lãnh thổ của người giống như những sự kiện trong thời Vĩnh Lạc (1403 – 1424). Liệu ngươi có thể không hối lỗi” (23). Trong khi biên niên sử ghi lại khởi hành của một sứ thần “vô cùng sợ hãi”, không chắc rằng cảm xúc như vậy đã được cảm thấy tại hoàng thành ở Thăng Long khi sứ thần trở về. Hai thập kỷ đã trôi qua kể từ khi kinh đô Chămpa sụp đổ và gần 3 thập kỷ sẽ qua trước khi cái chết của lê Thánh Tông được ghi trong biên niên sử Trung Hoa năm 1498” (24). Tại một thời điểm trong giai đoạn này, biên niên sử ghi lại tuyên bố quan trọng sau đây của hoàng đế: Xem xét An Nam, ta coi nó cũng giống như ngoại quốc. Mỗi khi nó phạm luật hay kháng lệnh, ta khoan dung tha thứ nó. Công khai, chứng tỏ vẻ trung thành và kính trọng, nhưng ngấm ngầm chúng xảo quyệt và khôn lỏi. Tuy nhiên, hành động của chúng không thể che giấu được. Binh pháp có nói: “Không được giả định rằng kẻ địch sẽ không tới. Dựa vào phòng thủ của mình để bảo vệ chống lại chúng” (25). Sự phòng thủ của Trung Hoa được tăng cường thích đáng dọc biên giới phía nam. Nhưng không có đội quân Trung Hoa nào từng có ý định vượt biên giới vào Việt Nam. Thảo luận Vào cuối thế kỷ XIII, kinh đô Việt Nam bị quân đội từ phía nam cướp phá. Cuối thế kỷ XIV, kinh đô này không bị quân đội từ phía bắc cướp phá. Từ cuối thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XIV, kinh đô Việt Nam đã nhiều lần rơi vào tay quân xâm lược nước ngoài. Mặc dù vậy, nó vẫn là kinh đô của đất nước trong nhiều thế kỷ sau. Trái lại, vào cuối thế kỷ XIV, sự sụp đổ của kinh đô Chămpa đã dẫn đến sự chấm dứt của vương quốc Chămpa. Có thể thấy khá rõ về những sự kiện lịch sử khá nổi tiếng. Nhưng chúng ta học được điều gì của Chế Bồng Nga và Lê Thánh Tông, về lịch sử của Thăng Long? Theo quan điểm của tôi, chúng ta có thể vạch hai đường tìm hiểu từ các câu chuyện trên để định hướng suy nghĩ của chúng ta về Thăng Long. Cả hai đều được dẫn dắt bởi một câu hỏi lịch sử quan trọng nêu ra từ di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội. Câu hỏi này có thể được nêu ra theo hai cách. Thứ nhất, tại sao kinh đô của Việt Nam lại duy trì ở đúng một chỗ trong một giai đoạn dài như vậy? Thứ hai, tại sao kinh đô của Việt Nam lại chuyển vào miền Trung ở cuối giai đoạn này (đến Huế vào đầu thế kỷ XIX)? Giúp chúng ta nghĩ về câu hỏi này, các nhân tố tổ chức hành chính, bối cảnh khu vực và sự phát triển kinh tế – xã hội là rất quan trọng. Thăng Long không thể được hiểu chỉ đơn giản bằng việc nghiên cứu riêng Thăng Long. Bối cảnh mà tôi muốn nêu ra để chúng ta xem xét ở đâu là bối cảnh nổi lên từ mối quan hệ lâu dài giữa Chămpa và Việt Nam. Khác biệt chủ yếu giữa Chế Bồng Nga và Lê Thánh Tông là mục đích tấn công của người này vào kinh đô của người kia. Một mặt, chúng ta không có cứ liệu cho thấy rằng Chế Bồng Nga có ý định chiếm cứ Thăng Long: mục tiêu của ông trước tiên là quân sự, thứ đến là cướp bóc, là giả thuyết có khả năng nhất. Nếu ông thực sự có tham vọng chiếm cứ, ông thiếu mô hình chính trị và cấu trúc hành chính cần thiết để đảm bảo sự lâu bền của lãnh thổ chiếm được. Mặt khác, mục tiêu của Lê Thánh Tông là rõ ràng trong thư từ của ông với hoàng đế Trung Hoa. Chúng ta hãy xem xét đoạn văn sau trong biểu chương của ông năm 1475, nhớ đọc nó với nhận thức về phong cách hoàn toàn không trung thực trong trao đổi thư từ của ông với Thiên triều trên danh nghĩa: “Nếu chúng thần lấy đất của họ, chúng thần không thể sống ở đó; nếu chúng thần lấy người của họ, chúng thần không thể dùng họ; nếu chúng thần lấy hàng hóa của họ, chúng thần sẽ không thể giàu hơn bởi những thứ đó; nếu chúng thần lấy quyền lực của họ, chúng thần sẽ không thể mạnh hơn”. Những tuyên bố này không chính xác – lịch sử đã chứng minh điều đó – vừa dường như vua Việt Nam biết rằng chúng không trung thực. Văn bản này quả thật ẩn chứa giải thích rằng vua Việt Nam bị thúc đẩy bởi ham muốn chiếm đoạt những thứ đắt giá mà ông tỏ ra coi thường: ngà voi, sừng tê, gỗ mun trong hệ thống buôn bán mà nền kinh tế liên quốc thời đó dựa vào. Và ông biết rõ răng trong tay nông dân Việt Nam, ngay cả đất đai bạc màu của Chămpa cũng có thể sản xuất ra lúa gạo. Xét như vậy, ta không thể bỏ qua cấu trúc kinh tế – xã hội tương ứng của Chămpa vận hành một hệ thống kinh tế – xã hội theo hướng đông – tây mang tính dịch chuyển cao qua các địa hình khác nhau, dựa rên buôn bán được thực hiện trên một phạm vi trải dài: điều này cũng cung cấp nền tảng kinh tế cho hệ thống chính trị mang tính liên kết của nó. Hệ thống kinh tế – xã hội Việt Nam kém dịch chuyển hơn, dựa trên nông nghiệp trồng lúa, ủng hộ hệ thống chính trị có cấu trúc trung tâm và phân cấp: định hướng địa lý bắc – nam là một chức năng của khả năng tái tạo mô hình kinh tế và hành chính, thực hiện bởi những cuộc di dân vừa là binh lính vừa là nông dân trên một địa hình duy nhất: vùng đất thấp phù hợp với canh tác ruộng nước. Những cấu trúc đối lập này có các hệ quả sau: sự dịch chuyển và đa dạng của mô hình Chămpa đã tạo nên sự giàu có, được đầu tư vào việc phát triển một loạt các trung tâm cố định mang tính biểu tượng về chính trị (các đô thị lớn, tất nhiên và cả Mỹ Sơn, khu thánh địa của triều đình). Tuy nhiên, mô hình này không đòi hỏi sự mở rộng lãnh thổ thống nhất. Sự không dịch chuyển và thống nhất của mô hình Việt Nam tạo ra ít của cải hơn: không có các đô thị mà là xã hội của các l&a
0 Rating 565 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2016
  Tác giả: Nguyễn Duy Chính MỞ ĐẦU Thanh sơn y cựu tại Kỷ độ tịch dương hồng1 青山依舊 在 幾度夕 陽紅 Núi xanh như cũ còn đây, Chiều buông ráng đỏ đã thay bao lần. Nhìn vào cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam, những vương quốc bị xâm lấn không hẳn đã vì kém văn minh, mà trái lại có những thời đại huy hoàng sớm sủa hơn chúng ta nhiều. Những công trình gần đây nghiên cứu về người Chiêm Thành (Chăm) và người Chân Lạp (Khmer) đã chứng tỏ điều đó. Riêng về người Chăm, những di tích của vương quốc này cho thấy họ đã hình thành được một xã hội qui mô khá sớm sủa. Vào thế kỷ 17, 18 khi quốc sử coi như đã đặt một dấu chấm hết cho vương quốc Chiêm Thành thì trong các tài liệu của những nhà nghiên cứu ngoại quốc, người ta vẫn còn ghi nhận một khu vực được coi như giang sơn riêng của người Chăm – ít ra cũng bán độc lập với giang sơn của chúa Nguyễn được gọi là Đàng Trong. Một điều chắc chắn, sự tan biến của quốc gia này không đơn giản chỉ là xoá sổ một chính quyền như nhiều trường hợp trong quá khứ, cũng không phải chỉ là thay tên đổi họ của một triều đại. Tuy ngày nay cái tên Chiêm Thành chỉ còn trong sách vở, ảnh hưởng của văn hoá Champa còn tồn tại hầu như khắp mọi sinh hoạt, hiển hiện cũng có, lẩn khuất cũng có nơi một phần lớn văn hoá miền trung và miền nam. Ảnh hưởng đó ít ai để ý vì trong các nghiên cứu, chúng ta đặt nặng việc khai thác các tài liệu của người Việt (thường gọi là người Kinh) mà ít quan tâm đến văn minh và di sản của các dân tộc khác đã một thời sống chung trên cùng một mảnh đất. Có tác giả cho rằng mặc dầu người Việt đã đồng hoá được nhiều dân tộc khác bằng tiếng nói nhưng ngược lại, trong khía cạnh sinh hoạt và văn hoá chúng ta lại thu nhập khá rộng rãi tập quán của nơi quê hương mới đến cư ngụ, biến đổi cho phù hợp thành tài sản của mình. Gần đây, một số học giả trong nước cũng như ngoài nước đã bắt đầu những khảo sát tương đối khoa học hơn về vương quốc Champa, không chỉ giới hạn vào những công trình mỹ thuật còn tồn tại mà đào sâu vào văn hoá đặc thù của người Chăm để lượng định lại những đóng góp trong hơn 1000 năm lịch sử của họ. LỊCH SỬ Nghiên cứu về Chiêm Thành bị nhiều giới hạn. Tuy đế quốc Champa đã tồn tại trong một thời gian dài để lại nhiều công trình qui mô đáng chú ý nhưng phần lớn đã bị hủy hoại theo thời gian và cả những triệt hạ cố ý của nhiều triều đại người Việt nên ngày nay tài liệu về họ còn rất ít. Tổng hợp những ghi chép trong sử nước ta, Campuchia, Trung Hoa và một số văn bia bằng tiếng Sanskrit còn sót lại chỉ cho chúng ta một khái lược về lịch sử dân tộc Chăm, nhiều thời kỳ bị đứt quãng chưa có câu trả lời thoả đáng. Tuy chưa đầy đủ mọi chi tiết nhưng những công trình nghiên cứu gần đây cũng giúp chúng ta cũng hình dung được phần nào thời oanh liệt của một dân tộc nay chỉ còn là thiểu số trên chính quê hương họ.2 Đế quốc Champa trước nay vẫn được coi là một quốc gia trong khối bị Ấn hóa (Indianized states) ở Nam Á bao gồm một khu vực rộng từ Miến Điện sang Vân Nam dọc xuống Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Java, Cambodia, và Champa. Khu vực đó có nhiều đặc tính chung, về mỹ nghệ cũng như văn học. Nhìn một các tổng quát, ngay cả khu vực miền Bắc Việt Nam thời thái sơ cũng có chung một mẫu số và có lẽ chỉ biến dạng sau khi khu vực này bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa trong hơn 1000 năm và liên tiếp bị pha trộn bởi nhiều đợt di cư của người Hán tràn xuống nảy sinh nhiều xung đột giữa dân bản địa với dân di cư. Trong một thời gian dài, các sắc dân vùng Đông Nam Á liên tục nổi lên chống lại, đáng kể nhất là các dân tộc ở tây và nam Trung Hoa khiến các triều đình đời Hán, Đường phải hao binh tổn tướng rất nhiều. Các dân tộc ở miền nam cũng thường tấn công lên vùng đất mới của Trung Quốc – tức miền Bắc nước ta ngày nay – để giành đất và người Trung Hoa ghi lại như những đám giặc bể “vào cướp pháGiao Chau” được nhắc đến trong sử nước ta thời Bắc thuộc.3 Thời kỳ đó, dọc theo duyên hải Việt Nam có rất nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm cả những nhóm thiểu số trên một vùng cao nguyên rộng lớn phía tây giáp tới sông Mékong, nên khi tập hợp được để hình thành một quốc gia đã mang vẻ dáng của một cộng đồng hợp chủng. Ưu điểm của cơ chế này là khi một chính quyền sử dụng được sức mạnh tổng hợp thì rất mạnh nhưng nếu chia rẽ đánh lẫn nhau thì lại dễ dàng bị người ngoài thôn tính. Những sinh hoạt cơ bản của họ cũng gần gũi hơn với văn hoá hải đảo chứ không bị ảnh hưởng nặng từ phương bắc. Trong nhiều thế kỷ nội thuộc nước Tàu, Việt Nam bị giam hãm trong vai trò phụ thuộc về địa lý và chính trị, một khu vực để khai thác tài nguyên cung ứng cho chính quốc nên tuy trên danh nghĩa là một quận huyện của Trung Hoa nhưng vẫn bị coi là man di chứ không bình đẳng với họ. Trái lại, bên kia “cot đong Ma Vien”4 ở biên giới cực nam, những dân tộc sống ngoài vòng cương toả của người Tàu đã có cơ hội phát triển khá cao về thương mại và kinh tế. Nhiều chứng tích cho thấy ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên thương nhân Nam Á đã qua lại buôn bán dọn đường cho ảnh hưởng Ấn Độ về chính trị, tôn giáo và sinh hoạt xã hội. Sự thịnh vượng vật chất cũng giúp cho họ có điều kiện phát triển trên lãnh vực tinh thần trong đó mỹ nghệ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc có nhiều nét nổi bật.   Carte du Royaume de Siam (bo phan) (Placide de Sainte Hélène, 1649-1734) Bản đồ vương quốc Xiêm La do Placide, một giáo sĩ dòng Augustine hoạ tại Paris năm 1686 (hiện tàng trữ tại Paris) Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 108 Insulae Mollucae (bo phan) (Petrus Plancius, 1552-1622) Bản đồ Quần đảo Molucca do Plancius, một chuyên gia bản đồ ở Amsterdam hoạ tại Hoà Lan năm 1594 (hiện tàng trữ tại Amsterdam) Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 88 India quae Orientalis dictitur et Insulae Adiacentes (bo phan) (Willem Gianszoon Blaeu, 1571-1638) Bản đồ Ấn Độ và các đảo lân cận vùng Viễn Đông của Blaeu, thuộc Công Ty Đông Ấn Hà Lan vẽ năm 1635, hiện tàng trữ tại Amsterdam. Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 96 Partie Meridonale de l’Inde (bo phan) (Nicolas Sanson d’Abbeville, ?-1667) Bản đồ Miền Nam Ấn Độ do Nicholas Sanson, một chuyên gia về bản đồ người Pháp vẽ năm 1654 (hiện tàng trữ tại Paris) Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 101 LẬP QUỐC Các sử gia đã nhận thấy tất cả khu vực là một quần thể giữa đất, núi và biển với hàng chục ngàn đảo lớn nhỏ mà nhiều nơi thổ dân còn giữ được những sinh hoạt cổ xưa khắc trên các trống đồng ở khắp vùng Đông Nam Á 5. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa đưa ra một nhận định rõ rệt về sự chuyển biến từ sinh hoạt bộ lạc sang một xã hội qui mô hơn, điển hình là vương quốc Champa đã hình thành ra sao, vào thời kỳ nào. Nhiều người cho rằng dân tộc Chăm là một giống người thuộc nhóm Austronesian và Champa là hậu thân của vương quốc Phù Nam6. Champa cũng là một trong những nước ảnh hưởng văn minh Ấn Độ rất sớm của vùng Viễn Đông. Việc Ấn hoá đó có thể coi như một cuộc canh tân vĩ đại vì vào đầu công nguyên, thời đại Gupta (Gupta Era 320-550 CE) được coi là thời kỳ hoàng kim (Golden Age) của văn minh, đứng đầu thế giới trong nhiều mặt kể cả khoa học, kỹ thuật và tổ chức chính trị, là khuôn mẫu cho các dân tộc vùng Đông Nam Á vừa thoát khỏi thời kỳ bộ lạc.7 Ngay từ thời cổ, người ta đã ghi nhận rằng vương quốc Champa bao gồm hai hạng người, người Chăm và người mọi (savages), tuy về nhân chủng đều là một giống Austronesian nhưng người mọi bị coi rẻ, được gọi dưới những tên như Mlecchas hay Kiratas.8 Việc phân chia giai cấp đó là một thường tình trong mọi xã hội nhưng cũng có thể do ảnh hưởng của Ấn Độ, nền văn minh đề cao những người lãnh đạo thần thánh, những vua chúa có sức mạnh siêu nhiên (supernatural god-kings) và thứ bậc trong xã hội là ý nguyện và sắp đặt của thần linh. Vị trí các khu vưc Champa cổ Tâm Quách-Langlet: “The Geographical Setting of Ancient Champa” (Proceedings of the Seminar on Champa, 1994) tr. 25 Theo nghiên cứu của Tâm Quách-Langlet, Champa cổ bao gồm 5 phần, mỗi phần có một trung tâm văn hóa. – Ở phía bắc có Indrapura, nay thuộc Bình Trị Thiên tức là các châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính mà Chế Củ đã nhượng cho vua Lý Thánh Tông để xin chuộc mạng. Ngoài ra còn phải kể thêm hai châu Ô, Rí là phần đất Chế Mân dùng làm sính lễ để xin cưới công chúa Huyền Trân đời Trần. – Kế đó là Amaravati, nay là Quảng Nam và Quảng Ngãi, có trung tâm văn hóalà Trà Kiệu (Simhapura hay Indrapura). – Khu vực thứ ba là Vijaya, tức Bình Định ngày nay, thủ đô là Chà Bàn9, có cửa bể Cri-Bonei (Thị Nại), phía nam chấm dứt ở đèo Cù Mông. – Khu vực thứ tư là Kauthara, nay thuộc Khánh Hòa, có hai con sông chính là sông Cái và sông Đà Rằng. Nơi đây có đền Po Ngar tượng trưng cho vương quyền Chiêm quốc. – Vùng đất cuối cùng là Panduranga, nay là Bình Thuận, Ninh Thuận.10 Y phục của miền Nam khi đó ảnh hưởng của người Chăm rất nhiều Ngoài khu vực dọc theo duyên hải, vùng ảnh hưởng của vương quốc Champa còn bao gồm cả vùng cao nguyên trong đó nhiều giống dân khác sinh sống như Chru, Roglai, Stieng, Rhadé, Jarai … trước đây rất gần gũi với người ở miệt dưới (lowland people). Nhiều tác giả đã đề cập đến những di tích còn sót lại ở bắc Cambodge và Nam Lào và cho rằng vùng đất này trước đây cũng thuộc vương quốc Champa11. Một điểm quan trọng là ngày xưa ranh giới quốc gia không rõ rệt, ngoài những khu vực có mốc thiên nhiên như sông, biển, phần lớn người ta miêu tả lãnh thổ theo định nghĩa một vùng ảnh hưởng (sphere of influence), co dãn, linh động tuỳ từng thời kỳ và khi Champa mạnh, các bộ lạc hay tiểu quốc ở đông bộ sông Mékong cũng thần phục và biên giới phía tây của Champa kéo dài tới Xiêm La. Nói chung ra họ là một vương quốc đa chủng trên phương diện nhân văn và là một tập hợp nhiều vương quốc nhỏ trên phương diện hành chánh. Tuy các tiểu quốc đó đều nằm dưới quyền một triều đình nhưng mỗi khu vực có tổ chức xã hội, kinh tế, tín ngưỡng và văn hoá ít nhiều khác biệt. Po Dharma khẳng định rằng “Champa khong phải là mot quoc gia duy nhat mà là mot lien hơp của nam địa khu Indrapura, Ameravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga, moi khu vưc có mot thủ đo rieng”.12 Người Chăm sống dọc theo bờ bể thường trao đổi buôn bán, một mặt các sản phẩm núi rừng với người thượng du, một mặt với các thương nhân đi thuyền ngang qua đó. Đã có những thời kỳ vùng biển miền Trung nước ta là một khu vực sầm uất mà nhiều thương nhân Âu Châu đã có ý định dùng làm một đầu cầu thay thế cho các sản phẩm họ vẫn lệ thuộc vào Trung Hoa như gia vị, đồ gốm, tơ lụa … Chiến tranh và loạn lạc đã khiến cho họ phải từ bỏ ý định đó. Vì đất đai nhỏ hẹp không sản xuất đủ gạo lúa cho nhu cầu nên muốn sinh tồn, cả ba mặt, nông nghiệp, thương mại và ngư nghiệp phải phát triển đồng bộ. Những năm mất mùa, người Chăm thường tổ chức những đoàn thuyền sang mua, đổi hay có khi ăn cướp thực phẩm của lân bang. Chính vì thế, đời sống và sinh hoạt của họ đa dạng hơn, có máu phiêu lưu hơn và họ đã giao thiệp với nhiều quốc gia Nam Á ngay từ thời thượng cổ. Người Chăm cũng nằm trong những thương nhân đầu tiên mạo hiểm đi thuyền đến những vùng đất xa xôi như Úc Châu và Đông Phi. Thổ dân sống trên đảo Madagascar được xác định có gốc từ Đông Nam Á. Theo tài liệu của Trung Hoa, những thương nhân này được gọi dưới cái tên “k’un lun”, da đen, tóc quăn đã dùng thuyền buôn bán khắp vùng biển đông. Điều đáng chú ý nhất là theo miêu tả, người k’un lun chỉ thoải mái khi ở trên núi hay ở dưới biển mà thường đau ốm khi ở vùng đồng bằng, rất phù hợp với địa lý miền Trung nước ta là nơi đất hẹp, núi chạy dài ra sát biển.13 Theo Maspéro, người Chăm có 14 triều đại. Triều đại thứ nhất từ thế kỷ thứ 2 tới thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch. Những vua Chăm thường được ghi lại trong sử Tàu (rồi ta chép lại) họ Phạm mà Majumdar cho là dịch từ chữ Varman là đế hiệu của các vì vua Champa, cũng như chữ Shri (Sovereign Lord) người Việt dịch ra thành Chế. Người Trung Hoa đặt cho tiểu quốc này cái tên Lâm Ấp, Chiêm Thành và là một trong số rất ít các vương quốc hình thành sớm nhất trong vùng Đông Nam Á. Để giảm thiểu áp lực từ Trung Hoa, người Việt dần dần lấn xuống đất đai của Chiêm Thành, khi thì bằng võ lực, lúc bằng ngoại giao và hai bên đã có nhiều cuộc giao tranh đẫm máu. Theo Việt sử, người Chăm thường hay tràn lên cướp phá chủ động tạo ra những xung đột giữa hai vương quốc nhưng rất có thể đó chỉ là cái cớ để biện minh cho những cuộc Nam chinh và Nam tiến là lối thoát duy nhất để người Việt có thể sinh tồn – hiểu nôm na là “dùi đanh đuc, đuc đanh sang”. Khi so sánh với Nam Chiếu, một quốc gia khác mặc dù hùng mạnh hơn nhưng vì không có đường lùi nên đã bị xâm lăng và tiêu diệt, C. P. Fitzgerald đã nhận định một các chua chát như sau: Lịch sử Viet Nam và Nam Chiếu chạy theo hai con đường song song nhưng rồi đổi hướng. Cả hai quốc gia đều vì bị nước Tàu thôn tính nên chịu ảnh hưởng văn hoá của họ; cả hai đều thành công trong việc đánh đuổi đươc chính quyền đô hộ kia đi mà vẫn giữ đươc bản sắc; Nam Chiếu thu hoi đoc lap trước Viet Nam đen hai tram nam. The nhưng ngay khi vừa đươc thoát cui so long, người Viet lap tức “tien ve phương Nam”, mởrong bờcoi với muc tieu lau dài làcho dan định cư và thuoc địa hoá, mac dau viec thong nhat chính trị van còn long leo. Ho khong chiem đat của Trung Hoa, trong lịch sử chưa có mot vì vua Viet Nam nào lai lơi dung khi nước Tàu suy yếu để xâm lăng họ. Còn Nam Chiếu thì ngươc hẳn. Họ không the Nam Tiến vì chỉ có mot khoang đat trong đe chiem. Banh trương ve phía Trung Hoa có nghĩa là phải đoi phó với mot cương quoc ngay cảkhi suy thoái cung van rat là ghe gớm và mot khi ho thong nhat đươc thì khong sao chống nổi.14 Cũng vì dân Việt quen sinh nhai bằng nghề nông nên chỉ thẩm nhập được những khu vực đồng bằng, đẩy lùi những người sống dọc theo duyên hải lên vùng cao chứ không chiếm lĩnh được toàn bộ lãnh thổ phụ thuộc vương quốc này. Những sắc dân địa phương bị triệt đường ra biển suy tàn dần để trở thành thiểu số, trở thành những đơn vị hành chánh của triều đình Đại Việt nhưng vẫn sống biệt lập và tự trị trong một số qui mô nhất định, không bị câu thúc một cách triệt để. Mãi đến khi người Pháp chiếm được toàn bộ Đông Dương, các khu vực cao nguyên mới dần dần có thêm người Kinh di cư lên sinh sống.
0 Rating 371 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 31, 2016
Vua Chế Bồng Nga tài ba của Champa đã bảy lần chiếm thành Thăng Long, bị chết như thế nào?----------------------------" VUA CHẾ BỒNG NGA TỬ TRẬN "(Nguồn: facebook Pham Vinh Loc) -Chúng giết con tôi, xin bệ hạ báo thù! -Được rồi, bà hãy yên tâm. Chế Bồng Nga ôn tồn phủ dụ người đàn bà đang vật vã gào khóc dưới ngai vàng. Vua Chăm cho gọi Mục Bà Ma vào nghe tâu trình. -Lúc trước ngươi đi đòi lại đất Hoá Châu thì nhà Trần thái độ ra sao? -Cương quyết không trả. -Đã bắt Huyền Trân công chúa đem về, lại không trả của hồi môn, ngang ngược! Chế Bồng Nga quát lớn. Nay nhân dịp mẹ của Dương Nhật Lễ sang méc việc Trần Nghệ Tông cướp ngôi con trai và báo cáo sự rệu rã của quân đội Đại Việt, Chế Bồng Nga quyết ý xuất quân bình định thiên hạ. Chăm Pa là một nước lớn và có nền văn hiến lâu đời. Họ là những kiến trúc sư xuất sắc và thuỷ thủ lành nghề với những chiến thuyền hải tặc hoành hành suốt biển Đông. Một giống dân quật cường, phản kháng mạnh mẽ ách đô hộ của Trung Quốc nhưng cuối cùng lại bị Đại Nam tiêu diệt, thật là đáng tiếc. Nhưng bài này đang nói đến thời kỳ hoàng kim của họ dưới sự thống lĩnh của đại vương Chế Bồng Nga. -Cướp hết, thẳng tay cướp, ta cho phép! Quân Chăm rẽ sóng vượt biển tiến vào địa phận nước Việt, cập bến cửa Đại An và binh lính đổ bộ, tràn về kinh thành. Chế Bồng Nga cười lớn khi bước vào Thăng Long, thì ra vua quan nhà Trần bỏ chạy sạch sẽ cả rồi. Lính Chăm toả ra khắp vương đô như đàn kiến, kẻ khuân vàng người vác bạc, phóng hoả đốt cung điện lẫn sách vở. Chán chê thì hốt đàn bà con nít đem về nước. Sau vụ đó Chế Bồng Nga thấy dễ ăn quá nên tiếp tục lặp lại và lần này cũng y như cũ, khoắng được một mẻ đem về. Nhà Trần sợ hãi gần như tê liệt. -Ngày nay người An Nam lại đem binh sang chiếm đất chúng tôi, cướp bóc nhân dân tôi. Vì thế thần xin bệ hạ giúp cho vũ khí, nhạc khí và nhạc sư để người An Nam thấy Chiêm Thành là phiên thuộc của bệ hạ mà không quấy nhiễu nữa. Chế Bồng Nga vu khống cho vua Minh nghe và tiếp tục chinh phạt lần thứ ba. Trần Duệ Tông nổi giận: -Lần này ta phải đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông! Khống chế Chiêm Thành mãi mãi. Ông vua mới này anh hùng nhưng nóng máu, muốn dẹp yên một lần này cho xong chuyện luôn. Quân Trần 12 vạn người hùng hậu vượt biển tới cửa Thị Nại ở Quy Nhơn, nơi 400 năm sau Nguyễn Phúc Ánh huỷ diệt đoàn thuyền lừng danh của Tây Sơn. Mục Bà Ma giả đầu hàng, đến cấp báo: -Thưa hoàng thượng, Chế Bồng Nga đã bỏ chạy khỏi Đồ Bàn! Nay thành trống rỗng, đánh gấp ắt lấy được. Duệ Tông cười: -Nó sợ ta đây mà, chuẩn bị chiếm thủ đô Đồ Bàn. Đại tướng Đỗ Lễ can: -Nó hàng là vì muốn bảo toàn đất nước. Quân ta đi vào sâu để đánh phá thành là việc bất đắc dĩ, vậy xin hãy sai một người mang thư đến hỏi tội để xem thật giả ra sao, cũng như kế của Hàn Tín phá nước Yên thuở xưa, không phải khó nhọc mà vẫn thành công. Cổ nhân nói lòng giặc khó lường, thần xin bệ hạ hãy xét kĩ lại. Duệ Tông gắt: -Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại thì đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói "Dụng binh quý ở nhanh chóng". Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác thì hối không kịp! Đỗ Lễ cay đắng bỏ ra ngoài ngửa mặt lên trời than rằng: -Nhà Trần nguy mất. Duệ Tông bực mình liền phát áo đàn bà cho Đỗ Lễ mặc, rồi tiếp tục tiến binh. Vua mặc áo đen, cưỡi ngựa hắc bạch, tự mình xung phong dẫn tất cả vào Đồ Bàn. Kinh thành Chăm Pa yên ắng, tựa hồ một thành phố chết. Vua ngạc nhiên: -Chúng nó đâu cả rồi? Bỗng pháo lệnh nổ vang lên, từ bốn phương tám hướng phục binh đổ ra, cắt quân Trần thành từng đoạn như xâu cá. Máu phun đầy một bãi đất. Đội vệ vương đổ xô lại hộ giá, vua Duệ Tông hoảng hốt khi chiến sự đổi chiều. Chế Bồng Nga tay xách đại đao, mình mặc chiến phục sặc sỡ hăng hái xông lên. Duệ Tông rút gươm sẵn sàng nghênh chiến thì bỗng tuấn mã hí vang, lồng lên hất vua té lăn. Tướng Đỗ Lễ xoay tít cây thương rồi quát: -Bồng Nga dừng tay! Duệ Tông khóc to: -Thứ lỗi vì trẫm đã làm nhục ngươi trước ba quân. -Chuyện đó không quan trọng, hoàng thượng chạy khỏi thành Đồ Bàn đi, chạy mau, bên ngoài có quân của Quý Ly đấy! Đỗ Lễ gầm lớn rồi đâm mạnh cây thương, ác chiến cùng Chế Bồng Nga mười hiệp không phân thắng bại. Quân Trần bấy giờ hoàn toàn tan vỡ, không còn ra một đội hình nào cả. Bất ngờ hàng loạt mũi dao đâm xối xả vào lưng Lễ, quốc vương Chăm Pa chém mạnh thêm nhát nữa kết liễu người anh hùng. Duệ Tông được đội vệ vương mở đường máu cho chạy về cổng thành. Chế Bồng Nga nói lớn: -Chạy đâu cho thoát? Rồi ông rút cây cung quý trên vai ra, nheo mắt nhắm. Một, hai, ba, Bồng Nga lẩm nhẩm đếm rồi buông dây. Mũi tên vẽ thành một đường cầu vồng vọt lên không trung rồi xé gió lao vùn vụt xuống trong ánh nắng cuối ngày. -Hự! Ngạnh sắc đâm thẳng vào lưng vua Trần, xuyên từ trước ra sau xé toạc lá phổi. Duệ Tông gục xuống, mắt mở lớn, lệ chảy ướt má, phun ra một đấu máu, lát sau thì tắt thở. Kết cục bi thảm như Bàng Thống bị bắn chết ở đồi Lạc Phụng ngày xưa. Đội vệ vương cũng bị bao vây và không còn người nào sống sót. 12 vạn quân bị phục kích trong thành Đồ Bàn, chết hết 10 vạn người. Một bước ngoặt cực lớn cho nhà Trần và cả lịch sử Việt Nam. Hồ Quý Ly nghe tin dữ liền bỏ chạy, tuy nhiên được Trần Nghệ Tông xá tội cho. Lại nói Chu Nguyên Chương tuy đoạt được cả thiên hạ từ tay giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nhưng vẫn muốn mở rộng thêm về phương nam nhân nước ta có đại tang. -Thấy em chết vì việc nước, anh lại lập con của em lên ngôi, xem nhân sự đối xử tốt với nhau như thế, thì đủ biết lòng trời hãy còn tựa nước người ta. Thái sư Lý Thiên Trường can ngăn nên Chu Nguyên Chương tạm gác việc đó lại. Chế Bồng Nga sau đại thắng Đồ Bàn thì không còn ngán Đại Việt một chút nào nữa. Lập tức bắc tiến lần thứ tư, Thăng Long thất thủ và mất sạch của cải. Tuy năm đó đi về gặp bão và đắm thuyền, nhưng ít ra họ Chế đã lấy lại toàn bộ đất cũ, thu thêm Nghệ An, và vàng ngọc đủ để tiến cống Minh triều năm đó. Lần thứ năm bắc tiến, tiếp tục Bồng Nga vào được Thăng Long, lần này ông ta muốn sỉ nhục Đại Việt: -Quỳ xuống lạy rồi ta tha cho! Quan kinh doãn Lê Giốc cương quyết không quỳ và bị chém chết ngay. Bồng Nga lại được dịp tham quan "Hà Nội ba sáu phố phường", đồng thời không quên xin đểu thêm tiền bạc. Bị cướp quá nhiều lần khiến Trần Nghệ Tông cực kỳ stress, ông buộc phải sai người đem tiền bạc của mình vào núi Thiên Kiến và động Khả Lăng để giấu bớt. Lần thứ sáu bắc tiến, Chế Bồng Nga bị Hồ Quý Ly đẩy lui, nhưng vẫn giữ được các phần đất đã chiếm của Đại Việt. Quan quân nhà Trần vội vàng đem cất giấu bài vị và tượng thờ các tiên đế để phòng người Chăm phá lăng mộ trong những lần tấn công sau. Chế Bồng Nga đi Đại Việt như đi chợ, ra vào như chỗ không người, không cần visa passport gì cả, nên chuyện này sớm muộn cũng có thể xảy đến. Lần thứ bảy bắc tiến, Hồ Quý Ly giằng co với Chế Bồng Nga được tầm 20 ngày thì Bồng Nga bỏ đi. Quý Ly phấn khởi truy kích thì bất ngờ gặp phục binh, bị đánh cho tan tác ôm đầu máu bỏ chạy. Trần Nguyên Diệu đem quân ra đầu hàng. Trần Nghệ Tông khóc vì khiếp hãi: -Nguy to rồi! Ông vội vàng bỏ Thăng Long lại như mọi lần và như một thói quen. Riêng Trần Khát Chân vẫn bình tĩnh ở lại cự địch. Nếu thua lần này nữa là mất trắng, nhà Trần sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Bồng Nga cùng 100 chiến thuyền hùng hậu tiến đến sông Luộc ở tỉnh Thái Bình bây giờ: -Nhà Trần tới đây là kết thúc. Bồng Nga cười và dùng bữa. Thế nhưng ông lập tức phun ra, quát: -Thằng nào nấu món này? Dở không chấp nhận được. Tên đầu bếp sợ hãi rúm người, Bồng Nga thét lôi ra đánh đòn. Toác da rách thịt, hắn khóc lóc đau đớn. Sau trận đòn thừa sống thiếu chết, tay đầu bếp bi phẫn. Đêm hôm đó hắn lẻn ra khỏi thuỷ trại Chăm Pa, rẽ thuyền nhỏ đến xin hàng quân Việt và yết kiến Trần Khát Chân. -Thuyền của Chế vương màu xanh lục, xin ông chớ nghi ngờ. -Nếu đúng là như thế thì ngươi phú quý vinh hoa cả đời hưởng không hết. Trần Khát Chân được chỉ điểm, sáng hôm sau khi Chế Bồng Nga kéo thuyền đến, lập tức ông tập trung toàn bộ hoả lực và bắn. Sau một loạt tiếng nổ long trời lở đất, con thuyền ngự nát bươm như tàu lá chuối. Chế Bồng Nga lảo đảo bước lên đầu thuyền, mình mẩy nhuộm máu, rồi ngã sấp xuống, chấm dứt cuộc đời bi tráng của vị vua giỏi nhất Chăm Pa từng có. Trần Nguyên Diệu cắt lấy đầu và trở về Đại Việt. Lại nói Nghệ Tông đang ngủ thì bị đánh thức, ông hét lên vì tưởng quân Chăm tới bắt. Trấn an mãi mới nguôi, thấy đầu Chế Bồng Nga thì cười toe toét: -Ta với Bồng Nga cầm cự đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi! Tổng kết lại quá trình tiêu diệt Chăm Pa: 1. Lê Đại Hành san phẳng kinh đô Indrapura. 2. Lý Thánh Tông hạ Chế Ma Na, sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị. Sau đó Chiêm Thành chịu thần phục nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất. 3. Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và được tặng Huế. 4. Cha con Hồ Quý Ly chiếm lấy Đà Nẵng - Quảng Nam và Quảng Ngãi. 5. Lê Thánh Tông thân chinh hạ kinh đô Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, lấy đất tới Phú Yên. 6. Nguyễn Phúc Tần tiến sâu vào Nam đến Nha Trang - Khánh Hoà. 7. Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang. Từ nay kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ. 8. Minh Mạng xoá sổ Thuận Thành Trấn, chấm dứt lịch sử Chăm Pa. "Ðây, những tháp gầy mòn vì mong đợiNhững đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên than Ðây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọnMuôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui."        
0 Rating 3.5k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 30, 2016
  ĐỔNG THÀNH DANH Tóm tắt: Bài viết này sẽ điểm lại các quan điểm chủ yếu liên quan đến vấn đề thời điểm và nguồn gốc du nhập của Hồi giáo ở Champa trước đây và của người Chăm ở Việt Nam ngày nay. Trong đó, chúng tôi sẽ xem xét và đánh giá về cơ sở khoa học và tính xác đáng của các quan điểm trên, hầu từ đó đưa ra quan điểm nhìn nhận của tác giả và đóng góp thêm các thông tin nhằm làm rõ vấn đề sự du nhập của đạo Hồi ở Champa.  Từ khóa: Hồi giáo, du nhập, Đông Nam Á, Champa, người Chăm.  Đặt vấn đề Do một số các yếu tố lịch sử, ngày nay cộng động Hồi giáo ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung trong cộng đồng người Chăm ở miền Trung và Nam bộ, tương ứng với hai vùng định cư này, người Chăm theo Hồi giáo cũng được phân chia ra làm hai nhóm rõ rệt dựa vào: Chăm Awal (hay thường gọi là Chăm Bàni) tập trung chủ yếu ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận; Chăm Islam ở vùng Nam bộ (tập trung chủ yếu ở An Giang và một bộ phận nhỏ ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh... Sự phân loại hai nhóm Hồi giáo này không đơn thuần chỉ dựa trên yếu tố địa lý mà còn dựa trên bối cảnh hình thành, mức độ tiếp thu, ảnh hưởng và cách thức thực hành tín ngưỡng – tôn giáo ở hai cộng đồng.  Trong khi, cộng đồng người Chăm Islam ở Nam Bộ là cộng đồng theo Hồi giáo chính thống dòng Suni, tuân thủ theo các quy định, giáo luật của Hồi giáo như các cộng đồng Hồi giáo toàn thế giới. Thì cộng đồng Chăm Awal lại có một cách thực hành tín ngưỡng theo một cách riêng, mất đi tính chính thống và chứa đựng nhiều dấu ấn tâm linh bản địa như không tôn sùng Allah như là một Thượng đế duy nhất, duy trì phong tục thờ cúng thần linh, thờ cúng tổ tiên, trong đời sống họ không phải cầu nguyện 5 lần, không nhịn ăn vào tháng chay niệm Ramadan, mà phó thác nhiệm vụ đó cho giới tu sĩ... Do đó giới nghiên cứu còn nhấn mạnh rằng đây là cộng đồng ảnh hưởng Hồi giáo chứ không phải Hồi giáo hay là một dạng thức Hồi giáo bản địa.  Hồi giáo được du nhập vào cộng đồng người Chăm ở Việt Nam từ thời người Chăm còn là thần dân của vương quốc Champa, cộng đồng Hồi giáo ấy còn để lại những hậu duệ của mình là người Chăm Awal ngày nay. Theo những biến cố lịch sử, một bộ phận người Chăm di cư đến Campuchia và Nam bộ (lúc ấy thuộc Chân Lạp) và bắt đầu tiếp thu và chuyển hóa theo Hồi giáo chính thống mà ngày nay chính là cộng đồng Chăm Islam. Chính vì vậy, trong bài viết này chúng tôi tập trung nghiên cứu về cộng đồng Chăm Awal chứ không phải là Chăm Islam (Nam Bộ). Cho đến nay, vẫn có hai nhóm xu hướng khác nhau nhận định về thời điểm du nhập của Hồi giáo vào cộng đồng Chăm thời kỳ Champa cổ: một nhóm cho rằng Hồi giáo hình thành ở Champa từ khoảng giai đoạn thế kỷ X – XIII, thông qua các hoạt động giao thương và buôn bán với các thương nhân Hồi giáo Trung Đông đến từ Arap hay Ba Tư... Một nhóm khác khẳng định Hồi giáo có mặt muộn hơn (khoảng thế kỷ XV – XVII) và thiên về xu hướng cho rằng Hồi giáo hình thành thông qua hoạt động buôn bán với các tiểu quốc hải đảo trong khu vực như Mã Lai, Java... Ngoài ra cũng có những xu hướng nghiên về cả hai giả thuyết này.    Những xu hướng trái chiều này đã tạo nên những bất đồng, mà hệ lụy là những mù mờ hoặc thậm chí ngộ nhận về nguồn gốc, thời điểm du nhập của Hồi giáo. Trong bài viết này chúng tôi sẽ điểm qua và đánh giá lại tính khoa học của hai xu hướng về sự du nhập của Hồi giáo, đồng thời cung cấp thêm những nguồn tư liệu mới, nhất là tư liệu dân tộc học, để cũng cố cho quan điểm của chúng tôi về nguồn gốc và thời điểm du nhập của Hồi giáo ở Champa.   Hai hướng nhận định về sự du nhập Hồi giáo vào Champa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, nhóm các nhà nghiên cứu ủng hộ ước thuyết thứ nhất gồm Ed. Huber, P. Ravaisse, G. Maspero… Trước hết, theo Aymonier, từ khoảng thế kỷ IX – X, đã có một bộ phận đông đảo người Hồi giáo xuất hiện ở Champa, sau này do các biến cố lịch sử người Chăm Hồi giáo lần lượt di cư sang Campuchia, Xiêm (Thái Lan)... Có thể những nhận định này bắt nguồn từ sự xuất hiện của một nhân vật trong Biên niên sử Chăm mà Aymonier đã giành nhiều sự nghiên cứu, đó là Po Awloah (tức Allah – Thượng đế của Hồi giáo), vị vua mở đầu danh sách các vị vủa của người Chăm, trị vì Champa trong thế kỷ XI.  Tiếp đến E. Huber khẳng định về đời Tống (Trung Hoa), khoảng thế kỷ X – XII, ở Champa đã có những người Chàm theo đạo Hồi. Bằng chứng mà ông viện dẫn là ra là một chi tiết trong Tống sử có đề cập đến một tục lệ tế trâu của người Chăm, mà trong đó có một đoạn khấn lễ nhắc đến từ: “Allah akhar”, mà ông tin chắc rằng đó là một nghi lễ liên quan đến Hồi giáo. Khoảng năm 1922, P. Ravaisse lại cho công bố hai bia ký chữ Arab, được một sĩ quan Pháp khai quật được ở miền Trung. Bản thứ nhất là một ngôi mộ của một người tên Abu Kamil có niên đại 1039. Tấm bia thứ hai, có niên đại khoảng 1025 – 1035, đó là một thông báo cho cộng đồng Hồi giáo ở đây phải đối xử như thế nào với dân bản xứ khi tiếp xúc với họ. Từ kết quả này tác giả cũng nhận định, khoảng thế kỷ XI, đã có một cộng đồng Hồi giáo ở Champa.  Cho đến nay, hai nguồn tư liệu của Huber và Ravaisse được các nhà nghiên cứu thuộc nhóm thứ nhất xem như là chi tiết quan trọng, thường được dẫn ra để chứng minh Hồi giáo đã có mặt ở Champa từ thế kỷ X – XIII. Trước hết, hai nguồn tư liệu này được dẫn lại trong tác phẩm Le Royaume de Champa (Vương quốc Champa) của G. Maspero, để rồi ông cho rằng Hồi giáo đã du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ X. Giáo sư Lương Ninh cũng cho rằng, trong giai đoạn này có một số tài liệu cho thấy Hồi giáo đã phổ biến trong một số người ở hoàng tộc rồi mới truyền lại sang Java, nhưng ông không nêu hay trích dẫn các nguồn gốc của các tài liệu ấy (?). Gần đây, Ts. Bá Trung Phụ cũng dẫn lại hai nguồn tư liệu này để đưa ra nhận định rằng Hồi giáo đã có mặt ở Champa từ thế kỷ IX?.    Nhưng sau đó, lại xuất hiện một nhóm ý kiến khác cho rằng, chỉ từ thế kỷ XV – XVII, Hồi giáo mới du nhập mạnh mẽ vào Champa, và nó là kết quả của sự giao lưu tiếp xúc của người Champa với Thế giới Mã Lai, chứ không phải từ Trung Đông như trước đây.  Đầu tiên năm 1979, P.Y.Manguin đã giành riêng một bài viết để đánh giá lại các thông tin của Ravaisse, theo đó ông chứng mình hai bia ký liên quan đến Hồi giáo xuất hiện ở Champa, thế kỷ XI, có nguồn gốc ngoại lai do một cộng đồng Hồi giáo ngoại quốc hoặc một đoàn sứ giả Trung Đông đến và để lại ở Champa. Nhưng cũng trong bài viết này, Manguin cũng lập luận rằng sự có mặt của cộng đồng Hồi giáo ngoại quốc ở Champa không có nghĩa là Hồi giáo đã ảnh hưởng đến Champa, để có thể hình thành một cộng đồng tín đồ Hồi giáo gốc Chăm. Ngược lại ông đưa ra nhiều tư liệu khác hầu chứng mình rằng một cộng đồng gồm các tín đồ Hồi giáo bản xứ chỉ được hình thành từ thế kỷ XV - XVII, và đó là hệ quả của sự giao lưu với các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.  Sau đó, trong luận án Tiến sĩ của mình năm 1987, được dịch sang tiếng Việt năm 2012, Po Dharma cho rằng Hồi giáo chỉ chính thức du nhập vào Champa ở thế kỷ thứ XVI. Lafont cũng đưa ra quan điểm tương tự về thời gian du nhập của Hồi giáo ở Champa, ông cũng cho rằng Hồi giáo Champa là hệ quả của mối gia thương với Mã Lai và kết quả là sự hình thành cộng đồng Chăm Awal (Bàni). Trong một hội thảo về bia ký Đông Nam Á do Viện Viễn Đông Pháp và Hội Khảo cổ học Malaysia tổ chức tại Kuala Lumpur (11/2011), Gs. Ludvik Kalus lại góp thêm những tư liệu và lập luận mới phát triển, làm rõ thêm ý tưởng nghiên cứu của P.Y. Manguin trước đó về hai tấm bia ký Hồi giáo ở Champa, từ đó các nhà khoa học thống nhất rằng Hồi giáo chỉ được du nhập vào Champa và Đông Nam Á từ thế kỷ XVI. Nhìn nhận và đánh giá về hướng nhận định thứ nhất  Về phía chúng tôi, trong quá trình nghiên cứu, nhận thấy một số điểm sau: theo nhóm nhận định thứ nhất thì từ thế kỷ X –XIII, Hồi giáo đã bắt đầu du nhập vào Champa, và đó là kết quả của cuộc tiếp xúc với các thương thuyền buôn bán của người Ảrập từ Trung Đông. Nhưng những cứ liệu đó rất tản mạn, không có nhiều căn cứ và chưa cho thấy rằng trong thời kỳ này đã hình thành một cộng đồng Hồi giáo bản địa ở Champa, chưa đủ để tạo nên một cộng đồng người Chăm Awal/ Bani như ngày nay. Trước hết, sự xuất hiện Po Awloah trong biên niên sử hoàng gia Champa là một yếu tố quan trọng cho thấy sự liện hệ với Hồi giáo. Vì ai cũng biết rằng Po Awloah cũng là tên một vị thần quan trọng trong tín ngưỡng của người Chăm, nhất là Chăm Awal, bên cạnh đó Po Awloah chính là các gọi Allah của người Chăm, mà Allah lại là Thượng đế của Hồi giáo. Rất có thể từ chi tiết này mà E. Aymonier cho rằng Hồi giáo xuất hiện ở Champa vào khoảng thể kỷ thứ IX - X, nhưng việc dẫn chứng này có lẽ không thuyết phục cho lắm! Vì rằng biên niên sử Chăm chỉ ra đời vào thời cận đại (tức là khoảng thế kỷ XV – XVII), bởi nó được viết bằng chữ Chăm hiện đại, một văn tự chỉ xuất hiện ở Champa từ sau thế kỷ XV, do đó rất có thể sự xuất hiện của Po Awloah trong biên niên sử chỉ là một yếu tố được thêm vào sau này, khi mà Champa đã tiếp nhận Hồi giáo.  Tiếp đến, hai văn bia được tìm thấy vào năm 1922, có niên đại khoảng thế kỷ XI, chỉ cho thấy sự tồn tại rải rác của một cộng đồng Hồi giáo ngoại lai đến từ Trung Đông và tạm dừng ở Champa, mà Manguin chỉ rõ đây là những phái đoàn ngoại giao trên đường đến Trung Quốc ghé lại ở Champa. Mặt khác, gần đây, dựa vào nội dung và văn phong, Ludvik Kalus đã chứng minh hai tấm bia này không xuất phát từ Champa mà từ thị trấn Kairouan thuộc Tunisia, một quốc gia nằm ở Trung Đông. Sự hiện diện của những người Hồi giáo gốc Trung Đông ở Champa thế kỷ XI là một chỉ dấu cho thấy mối quan hệ giao thương với các nước Trung Đông của Champa, nhưng không phải là một bằng chứng để lập luận rằng người Champa đã theo Hồi giáo từ thế kỷ XI.  Giả thuyết của Huber về một nghi lễ tế trâu kèm với lời khấn “Allah akhar”, mà ông tin rằng nó có liên quan đến Hồi giáo cũng chưa đủ là bằng chứng để ta kết luận có Hồi giáo ở Champa thời Tống. Trước hết, Huber chỉ dẫn lại chi tiết này từ Tống sử, bản thân tài liệu này chỉ viết rất sơ lược về Champa, người viết văn bản sử này là người Trung Hoa không am hiểu nhiều về phong tục và rất có thể họ chỉ được nghe kể về nghi lễ tế, mà không trực tiếp chứng kiến và nghe lời khấn. Mặt khác, ngày nay các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và người Chăm ảnh hưởng Bàlamôn cũng tổ chức các nghi lễ tế trâu kèm với các lời khấn vái mang ý nghĩa tương tự nhưng hoàn toàn không liên quan đến nghi lễ tế trâu của Hồi giáo. Do đó, việc sử dụng chi tiết này hầu chứng minh đạo Hồi đã xuất hiện vào thời Tống là chưa đầy đủ và thuyết phục.   Trong thực tế, những chi tiết trên vẫn còn gây nhiều tranh cải và hàm chứa nhiều mâu thuẫn, một số nhà nghiên cứu như Maspero, Nguyễn Văn Luận dù trích dẫn các chi tiết này nhưng luôn đặt nghi vấn với nó. G. Maspero viết rằng: “...dù sao mặc lòng..., cũng khó tin rằng đạo của Mohamet đã được người Chàm theo trước năm 1470...”. Trong khi Nguyễn Văn Luận, cũng dẫn ra 3 chi tiết trên nhưng lại đặt câu hỏi: “...việc tìm được dấu tích Hồi giáo và vấn đề người Chàm cải đạo theo tôn giáo mới là hai sự việc khác hẳn nhau...”. Sau này, khi đánh giá về những cứ liệu này, các tác giả của cuốn Văn hóa Chăm cũng có cùng quan điểm như vậy, theo họ “...thoạt đầu Hồi giáo đến với người Chăm bằng sự hiện diện của một cộng đồng Hồi giáo gốc Trung Đông ngay trên đất Champa... Nhưng bởi vì cộng đồng Hồi giáo ấy do những điều kiện không thuận lợi ở Champa lúc bấy giờ... mà họ không truyền bá đức tin Hồi giáo một cách tích cực được...”.   Tóm lại, bản thân tính thuyết phục của các bằng chứng trên vẫn còn để ngỏ, nhưng chi tiết này chưa đủ để cấu thành các yếu tố hầu khẳng định Hồi giáo đã du nhập vào Champa trong khoảng giai đoạn thế kỷ X - XIII. Bởi vì, chỉ khi nào ở Champa xuất hiện bản xứ theo đức tin Hồi giáo hay ít ra ảnh hưởng Hồi giáo, thì khi ấy chúng ta mới có thể kết luận Hồi giáo đã chính thức du nhập vào Champa.  Đánh giá và góp thêm tư liệu cho hướng nhận định thứ hai  Ngược lại, những quan điểm nhận định của P.Y.Manguin, Po Dharma và Lafont lại có nhiều cơ sở thuyết phục hơn, nhất là khi đa số các nhà khoa học tán đồng rằng Hồi giáo chỉ du nhập chính thức từ thế kỷ XVI. Trong thực tế, cho đến tận thế kỷ XIII, các vua, chúa, quý tộc Champa vẫn tôn sùng Hindu giáo và thực hiện thờ cúng thần Shiva mà hầu hết các bia ký Champa còn ghi nhận, cho dù từ sau thế kỷ XIII, tín ngưỡng này đang trên đà suy thoái. Nhưng sự suy thoái của Champa Ấn giáo không đồng nghĩa là Hồi giáo đã du nhập vào Champa, cho đến tận thế kỷ thứ XV, người ta không tìm được thêm một bằng chứng nào cho thấy ở Champa đã có người theo Hồi giáo, ngoài chi tiết về một cuộc hôn nhân giữa vua Champa Sinhavarman III (Chế Mân) với một công chúa đến từ Mã Lai là Bia Tapasi và thế kỷ XIII. Tuy nhiên chi tiết này không chứng minh người Champa (nhất là hoàng tộc) theo Hồi giáo, mà chỉ cho thấy lúc này Champa đã bắt đầu thiết lập mối bang giao thân thiện với các tiểu quốc Mã Lai.   Người ta cũng không có một bằng chứng nào cho thấy hoàng tộc Champa đã có người theo Hồi giáo trước đó, vua Sinhavarman III dù lấy vợ gốc Jawa, nhưng vẫn xây tháp thờ Shiva và khi mất vẫn làm lễ hỏa thiêu như một tín đồ Ấn giáo thuận thành. Sau ngày sụp đổ của Vijaya, một số quý tộc Champa đến lánh nạn ở vùng Melaka và Pasai Hồi giáo vẫn là những người theo Ấn Độ Giáo. Cuối thế kỷ XV, vua Champa là Po Kabrah, dù đã kết hôn với một phụ nữ Hồi Giáo tên là Po Batlija, nhưng sau đó cả ông và vợ đều thiêu khi chết cho thấy vua vẫn theo Ấn giáo và vợ ông bỏ Hồi giáo theo đạo chồng. Cho đến tận năm 1607, một đô đốc người Hòa Lan vẫn xác nhận rằng vua Champa lúc ấy vẫn theo Hồi giáo, trong khi đó, các văn bản Chăm cho thấy Po Soat (1660-1692) là quốc vương Champa đầu tiên chấp nhận Hồi Giáo là một đức tin, mặc dù ngài vẫn tiếp tục thực thi những nghi lễ truyền thống của Bà La Môn Giáo.  Các quan điểm này cũng trùng với quan điểm của các nhà khoa học về sự du nhập của Hồi giáo ở Đông Nam Á nói chung. Theo J-P. Roux, Hồi giáo được du nhập vào Ấn Độ từ thế kỷ VIII, nhưng mãi đến thế kỷ XII mới giữ vai trò quan trọng, từ đây, đạo Hồi mới được truyền vào Mã Lai và Jawa, nhưng sự du nhập này cũng rất hạn chế, mãi đến thế kỷ XIV mới xuất hiện một vương triều Hồi giáo đầu tiên trong khu vực rồi từ đó mới truyền đi các nơi khác. Các tư liệu khác cho biết Hồi giáo chỉ du nhập mạnh mẽ ở Mã Lai từ thế kỷ XIII, sau đó mới truyền sang Brunei, Inđônisia, và đến Philippin vào cuốn thế kỷ XV. Chính vì vậy, Hồi giáo không thể du nhập vào Champa sớm hơn ở các quốc gia này.  Thật vậy, sự tồn tại của Hồi giáo, như là một đức tin của người bản xứ là kết quả của sự giao thương giữa Champa với các đế chế Hồi giáo trong khu vực chứ không phải là nguyên nhân. Từ thế kỷ XIII, Champa đã xúc tiến các mối quan hệ đầu tiên với các nước ở hải đảo, như cuộc hôn nhân giữa vua Sihavarman III với công chúa Tapasi của Jawa và sau đó là sự kiện vua Chế Năng đã chọn Java làm chỗ nương náu của ông ta khỏi áp lực của Việt Nam vào năm 1318. Nhưng phải từ sau thế kỷ XV, tức là sau sự sụp đổ của Vijaya, mối quan hệ này mới phát triển mạnh mẽ, mà một loạt các nguồn tư liệu đáng tin cậy đã mô tả.  Theo các nhà nghiên cứu, trong thời điểm này, các tài liệu thường đề cập đến cuộc viếng thăm của vua Po Kabrah (cuối thế kỷ XV) đến viếng thăm Malayu, và cuộc hôn nhân của với một phụ nữ Hồi Giáo tên là Po Batlija. Hay sự kiện năm 1594 vua Champa còn giúp đỡ một tiểu quốc là Sultan chống quân Bồ Đầu Nha. Cũng vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào thời Po Rome (1627 – 1651), các văn bản Chăm như Damnay Po Rome, Damnay Po Tang Ahaok, Damnay Po Rayak (tiểu sử vua Po Rome, Po Tang Ahaok, Po Rayak)…ghi nhận các sự kiện quan trọng như việc vua Po Rome sang viếng thăm Kelantan, kết hôn với công chúa Malai và học đạo Islam, ngoài ra Po Tang Ahaok, Po Rayak cũng được cử sang Mã Lai để học về tôn giáo, bùa phép, quân sự….  Bên cạnh đó, người ta cũng tìm thấy trong các câu truyện của các nước đa đảo, những chi tiết về những vị công chúa Champa kết hôn với các quý tộc hay kể cả vua của một tiểu quốc Hồi giáo là Majahapit. Cũng trong thời điểm này, thông qua các biên niên sử hoàng gia, các gia phả hoàng tộc của Mã Lai như Hikayat Seri Kelentan (gia phả dòng họ tiểu vương Kelentan), Riwayat Kelentan Sejarah Melayu (lịch sử Malayu)… người ta biết rằng nhiều vị tướng Mã Lai cũng đến Champa như Ungku Omar, Abdul Hmid, tại đây, họ đã dạy giáo lý Hồi giáo cho dân chúng địa phương…. Từ đây Hồi giáo được du nhập mạnh mẽ vào Champa hơn bao giờ hết, mà các nhà khoa học đã không ngừng tìm ra các dữ kiện để minh chứng điều đó. Manguin dẫn tư liệu của người Bồ Đầu Nha rằng, từ năm 1595, người Chăm rất ngưỡng mộ Hồi giáo, các nhà truyền giáo rất được ưu đãi và nhiều thánh đường Hồi giáo đã được dụng nên trong nước. Còn theo Po Dharma, vua Champa Po Saot (1660-1692) là quốc vương Champa đầu tiên chấp nhận Hồi Giáo, ông đã xin các nhà truyền đạo một cuốn kinh Hồi giáo để nghiên cứu. Trong bức thư của vua Po Saot gửi cho thống đốc Hòa Lan ở Batavia (Indonesia) vào nằm 1680, ngài mang chức phong “Paducca Siry Sulthan” tức là Paduka Seri Sultan mà dân tộc Mã vẩn còn sử dụng hôm nay.  Chính vì thế, người Chăm thường cho rằng mình tiếp nhận đạo Hồi từ Mã Lai và các nước Hồi giáo khác trong khu vực, mà họ gọi chung là người Jawa, chứ không hề được tiếp nhận Hồi giáo từ Trung Đông. Trong thực tế người Chăm không hề sử dụng các thuật ngữ như tamư Asulam (vào đạo) để chỉ cho sự theo đạo Islam mà là tamư Jawa (vào đạo của người Jawa), lịch hỗn hợp của người Chăm là lịch Sakawi (Saka của Ấn Độ kết hợp Jawi của Mã Lai) thay vì là lịch Hồi giáo, họ cũng không sử dụng các văn bản Hồi giáo của Ả Rập như Coran, hadith, mà sử dụng các văn bản chép lại từ Mã Lai mà họ cho là akhar Jawa, ngoài ra người Chăm Awal vẫn thường gọi mình là Chăm amal adat Jawa hay amal ilmu Jawa (tức là người Chăm theo phong tục, văn hóa Mã Lai). Cũng đối với người Chăm, thuật ngữ Makah, thường xuất hiện trong văn chương, tức là nơi mà người Chăm cho rằng là thánh địa linh thiêng của Hồi giáo (nơi mà nhiều nhà truyền giáo đã đến Champa và người Chăm đến đấy để học đạo) là ở Kelantan (Mã Lai) chứ không phải là Mecca (Ả Rập) như người Hồi giáo chính thống quan niệm.  Giai đoạn thế kỷ XV – XVII, cũng là một giai đoạn xuất hiện biết bao nhiêu sự xung đột, mâu thuẫn tôn giáo trong xã hội, mà các tác phẩm văn học sử Champa không ngừng nhắc đến. Hai tác phẩm Um Marup (sử thi) và Nai Mai Mang Makah (thơ ca), mà chắc rằng chỉ có niên đại từ sau thế kỷ XVI, phản ánh cuộc xung đột giữa tôn giáo cũ và mới, ngay trong chính tầng lớp tinh hoa (hoàng gia, quý tộc) đang lãnh đạo đất nước lúc bấy giờ. Bản thân văn chương không hoàn toàn biểu đạt lịch sử, nhưng nó chứa đựng giá trị lịch sử, nó phản ánh cách nhìn của người viết với bối cảnh mà họ đang sống hay chứng kiến. Nội dung của các tác phẩm này, nhất là bài thơ Nai Mai Mang Makah, càng làm cho tôi tin rằng chúng diễn tả lại bối cảnh Champa trong thời kỳ mà người Mã Lai truyền, và người Chăm đang tiếp nhận Hồi giáo trong khoảng thế kỷ XV – XVII.   Điều đó cũng giải thích tại sao Hồi giáo ở Champa với Mã Lai có nhiều nét tương đồng trong thực hành tín ngưỡng – tôn giáo. Ngày nay, các nghi lễ như Rija Proang, Palao Sah (lễ cúng ở cúng ở cửa biển) của người Chăm là những nghi lễ mang ít nhiều dấu ấn Hồi giáo có nhiều tương đồng với lễ Mak Yong và puji pantai của người Mã. Mặt khác, trong các Rija, thầy chủ lễ (Maduen) thường đọc kinh hành lễ bằng tiếng Mã Lai, mà họ gọi là Jawa hoak. Ngoài ra, người Chăm Awal và người Mã Lai vẫn cùng chia sẽ một Hồi giáo thần bí (Sufi), theo đó hai dân tộc cùng lưu giữ niềm tin với linh hồn và ma quĩ, cho nên vẫn lưu trữ các văn chương, bùa chú cúng thần linh và đuổi tà ma, trong khi ở các xứ Hồi giáo Trung Đông ngoài Thượng đế thì họ không tôn thờ ai hết, việc thờ cúng thần linh hay người chết là tối kỵ.    Tất cả những dữ kiện lịch sử, văn chương và dân tộc học đó cho thấy đạo Hồi chỉ bắt đầu xuất hiện sớm nhất ở Champa từ sau thế kỷ thứ XV, chính thức du nhập khoảng thế kỷ XVI và phát triển mạnh mẽ nhất từ sau thế kỷ XVII. Như vậy, Hồi giáo được du nhập vào Champa, có nguốn gốc từ Mã Lai và các đế chế Hồi giáo từ trong khu vực Đông Nam Á, chứ không phải từ Trung Đông, như một số nhà nghiên cứu thường hiểu lầm. Tuy nhiên, Hồi giáo không được tiếp nhận một cách máy móc mà đã được tiếp biến, bản địa hóa đi rất nhiều, người Chăm Awal ở miền Trung ngày nay chính là hậu duệ của cộng đồng Chăm bản địa ấy! Kết luận Cho đến tận gần đây, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm và nguồn gốc du nhập của Hồi giáo vào Champa. Tuy nhiên theo thời gian việc sử dụng các nguồn tư liệu ít ỏi và tản mạn để cho rằng Hồi giáo du nhập ở Champa từ khoảng thế kỷ X – XIII từ Trung Đông ngày càng tỏ ra yếu thế và bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Thay vào đó, hướng quan điểm cho rằng Hồi giáo du nhập vào Champa từ khoảng thế kỷ XV – XVII, từ Mã Lai, ngày càng được nhiều nguồn tư liệu kiểm chứng, nhiều nhà khoa học tán đồng và tỏ ra là một giả thuyết đáng tin cậy, được ủng hộ rộng rãi.  Tuy nhiên, những nguồn tư liệu và thông tin này vẫn ít được thừa nhận và tiếp cận, nhất là ở nước ta. Bởi vì hầu hết chúng được viết bằng tiếng Chăm, tiếng Mã, nhưng ngôn ngữ xa lạ với hầu hết người nghiên cứu. Chính vì thế, trong bài viết này, đồng thời với việc đánh giá lại hướng nhận định thứ nhất, chúng tôi cũng góp thêm một số chi tiết hầu chứng minh Champa chỉ xuất hiện một cộng đồng Hồi giáo bản xứ từ sau thế kỷ XV, và có nguồn gốc từ Mã Lai, nơi mà người Chăm vẫn xem là thánh địa của Hồi giáo. Bài viết này, hy vọng đóng góp thêm những ý kiến phê bình, phản biện và bổ sung thêm các thông tin về chủ đề lịch sử Hồi giáo ở Champa trước đây và Việt Nam ngày nay.  Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 3 (53) 2016, tr. 80 – 93.  TÀI LIỆU THAM KHẢO   Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003), “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay”, trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur, pp. 167 - 188. Aymonier. E (1890), “Légendes historiques des Chams”, in Excursions et Reconnais­sances XIV32, pp. 145206.  Aymonier. E (1891), Les Tchampa et leurs religions, Ernest Leroux, Paris.  Anthoni Reid (2000), “Champa in the Southeast Asian Maritime System”, trong Charting the shape of early modern Southeast Asian, O.S. Printing House, Bangkok, pp. 39 - 45.  Phan Xuân Biên – Phan An – Phan Văn Dốp (1992), Văn hóa Chăm, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.  Durand. R-P (1903), “Les Cham Bani”, BEFEO III, pp. 54 - 62.  Inrasara (2006), Ariya Chăm, Nxb. Văn nghệ, TP. HCM.  Inrasara (2011), Văn học Chăm khái luận, Nxb. Tri thức, Hà Nội.  Nguyễn Văn Luận (1974), Người Chàm Hồi giáo miền Tây Nam Phần, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên, Saigon.   Lombard, Denys (1981), “Campa Dipandang dari Selatan”, trong Kerajaan Campa, EFEO, Jakarta, pp. 286 – 297. Lafont. P-B (1988), “On relations between Champa and Southeast Asia”, trong Proceedings of the Seminar On Champa, Paris, pp. 65 – 75. Lafont. P-B (2011), Vương quốc Champa: địa dư - dân cư - lịch sử, IOC Champa ấn hành, San Jose.  Maspero. G (1928), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris.  Manguin. P-Y (1979), “L’Introduction de l’Islam au Campa”, BEFEO LXVI, pp. 255 – 287.  Mak Phoeun (1988), “La communaté Cam au Cambodge du Xve au XIXe siècle”, trong Actes du séminaire sur le Campa organisé à l’Université de Copenhague, CHCPI (Trung tâm Lịch sử và nền Văn minh Bán đảo Đông Dương), Pa
0 Rating 629 views 0 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On July 5, 2016
Không cần biết bạn kết hôn vì điều gì, một khi bạn đã có con, bạn cần phải yêu gia đình này, bất kể nó tẻ nhạt và lạnh lẽo đến mức nào.... 1. Trong thương trường, đừng mong đợi sự giúp đỡ của người khác dành cho bạn, bởi đối với bất cứ ai, tiền không bao giờ đủ. (Học cách cho đi) 2. Những người giúp đỡ bạn là những người bạn tốt có đạo nghĩa, những người không giúp bạn cũng không có gì đáng trách cứ, không nên nuôi dưỡng thù hận, bởi họ đâu nợ bạn! (Học cách hiểu lý lẽ) 3. Hãy hiểu rằng không một ai nhất thiết phải giúp bạn khi bạn cần. Nếu có, người đó chỉ có thể là chính bạn. Vì vậy làm cho bản thân tự lập, mạnh mẽ, vui vẻ, hạnh phúc, mới là những việc bạn cần phải làm, dẫu sao cũng chỉ có bản thân mới nhất thiết cùng bạn vào sinh ra tử, hoạn nạn có nhau. (Học cách kiên cường) 5. Đừng vì những người bạn giàu có mà xa lánh những người bạn tinh thần, dần dần bạn sẽ hiểu ra sự giàu có của bạn bè có thể đưa bạn đi ăn uống vui chơi và cũng có thể mang lại đủ thứ phiền não thế tục, phức tạp và rắc rối. Những người bạn tinh thần chỉ có thể đưa bạn ra đồng ruộng, bờ suối, không có cao lương mỹ tửu, không sâm banh, cà phê, không có sàn nhảy, nhưng họ có thể cùng bạn chạy nhảy, cùng bạn cười đùa như một thằng hề. (Học cách tự trọng)4. Kết bạn không phân biệt giàu nghèo, họ có gia tài hàng tỷ với bạn một xu cũng không liên quan, đừng để bản thân biến thành người đầy tớ, họ có lẽ không có gì cả nhưng vẫn nhường miếng bánh mì duy nhất cho bạn. (Học cách phân biệt) 6. Có thể tin rằng trên thế giới quả thực có tình yêu chung thủy, nhưng nó chỉ là thuộc về Ngưu lan Chức nữ, Lưu Sơn Bá, Chúc Anh Đài, bên Âu Mỹ còn có Romeo và Juliet, bởi họ đều có cuộc sống ngắn ngủi. Còn chúng ta thì phải sống thật lâu. (Học cách trân trọng) 7. Không cần biết bạn kết hôn vì điều gì, một khi bạn đã có con, bạn cần phải yêu gia đình này, bất kể nó tẻ nhạt và lạnh lẽo đến mức nào, bạn đều có nghĩa vụ phải sưởi ấm nó lên, bởi vì bạn là người cha! (Học cách trách nhiệm) 8. Chớp mắt tuổi thanh xuân của chúng ta sẽ không còn nữa, nếp nhăn dày lên từng ngày bên khóe mắt, chúng ta không thể ngăn sự tàn phá của năm tháng lên dung nhan, nhưng chúng ta có thể để cho trái tim làm chậm dần sự mài dũa của năm tháng như ngọc trong cát, dần dần bóng lên.Chờ đến khi chúng ta râu bạc, răng sụn, bước đi lảo đảo, bạn vẫn có thể giữ được vầng đỏ rực rỡ trên ánh ngọc trai đến cuối cùng, không phải sao? (Học cách trưởng thành) 9. Đừng nên quá cố chấp, cuộc sống có rất nhiều điều không như ý, thế giới không thể hoan hợp cho riêng bạn, trái đất không phải vì bạn mà xoay chuyển, do đó, đừng ôm mãi sự cố chấp, chúng ta cũng chỉ là những kẻ qua đường ở chốn hồng trần này, được sinh ra trần truồng,khi chết đi cũng chẳng thể mang theo được gì ? (Học cách buông tay) Những câu nói đều thật là chân lý! Sưu tầm Nguồn: Baomoi.com
0 Rating 141 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On July 1, 2016
 Chính quyền cho rằng cái tên người dân muốn đặt cho con mình là tên nước ngoài nên từ chối làm thủ tục đặt tên cho bé. Trong khi đó, bố mẹ đứa bé khẳng định đó không phải là tên nước ngoài mà là tên của người Chăm. Mâu thuẫn trên cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận bức xúc vì cảm thấy quyền công dân của mình không được chính quyền tôn trọng. Tờ khai đăng ký khai sinh cho con của anh Lưu Trường Vinh Đó là trường hợp của gia đình anh Lưu Trường Vinh (28 tuổi, người Chăm), cư ngụ ở xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Tên tiếng Chăm của anh Vinh là Jabraok Hamutanran. Ngày 27-6-2016, anh Vinh mang hồ sơ đến trụ sở UBND xã Phước Hữu làm thủ tục đặt tên, đăng ký khai sinh cho đứa con của mình. Anh và gia đình muốn đặt tên con là Lưu Haniim nhưng đại diện chính quyền từ chối làm thủ tục vì lý do “người Việt Nam không được đặt tên nước ngoài”. Anh Vinh thắc mắc về quy định này và muốn cán bộ trích dẫn quy định của pháp luật nói về lý do vị cán bộ vừa trình bày nhưng không được đáp ứng. Sau đó, anh cố giải thích với cán bộ rằng Lưu Haniim không phải là tên nước ngoài mà là tên theo tiếng gọi của người Chăm. Hơn nữa, Chăm là một trong 54 dân tộc anh em của đất nước, được pháp luật công nhận ngôn ngữ và chữ viết riêng. Mặc dù vậy, cán bộ xã vẫn không đồng ý làm thủ tục vì cho rằng đó là tên gọi không thuần Việt. Một trường hợp đặt tên con theo tiếng Chăm khác của người dân ở  phường Phước Hải, thành phố Phan Rang được chính quyền công nhận Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch không đưa ra quy định cụ thể nào về vấn đề đặt tên cho con trong trường hợp đăng ký khai sinh trong nước. Khoản 4, điều 50 nghị định 158/2005 quy định về việc đặt tên có yếu tố nước ngoài như sau: “Tên của trẻ em là tên Việt Nam hoặc tên nước ngoài theo sự lựa chọn của cha mẹ”.  Tiếp đó, Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 2-6-2008 Hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP như sau: - Khi đăng ký khai sinh, họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người cha hoặc họ và quê quán của người mẹ theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ. -Trong trường hợp đăng ký khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không có quyết định công nhận việc nhận cha cho con, thì họ và quê quán của con được xác định theo họ và quê quán của người mẹ. - Nếu cha, mẹ chọn quốc tịch Việt Nam cho con, thì tên của trẻ em là tên Việt Nam (Ví dụ: Đỗ Nhật Thành) hoặc tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài (Ví dụ: Đỗ Nhật Randy Thành) theo sự lựa chọn của cha, mẹ. Những quy định trên cho thấy pháp luật nước ta chưa có quy định cụ thể nào về giới hạn độ dài, yếu tố dân tộc, vùng miền hoặc tên nước ngoài của đứa trẻ. Vì vậy, khi thực hiện trách nhiệm đi đăng ký khai sinh, việc đặt tên cho con như thế nào chủ yếu phụ thuộc vào sự lựa chọn của cha, mẹ và theo tập quán của một số địa phương. KHÁNH HÒA (Tin8, Ảnh: nhân vật cung cấp)  theo http://tin8.co/
0 Rating 309 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 23, 2016
Ngô Viết Trọng Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng được hình thành với một quá trình gần giống nhau. Bắt đầu là những bộ lạc nhỏ ở kề cận nhau, vì nhu cầu nào đó mà hợp lại với nhau hoặc thôn tính lẫn nhau. Dần dần các bộ lạc nhỏ yếu biến mất và các bộ lạc mạnh trở thành những tập thể xã hội lớn hơn gọi là “nước”. Các xã hội ngày xưa cứ thế mà diễn tiến như là một việc tất nhiên. Điển hình như nước Trung Hoa ngày nay là một tập hợp của hàng vạn nước nhỏ tạo nên! Xã hội Việt Nam cũng là một quần thể gồm nhiều dân tộc có tiếng nói, phong tục tập quán khác nhau hợp lại. Trong đó Việt tộc (người Kinh) chiếm đa số. Về lãnh thổ, Việt Nam là một dải đất hình chữ S nằm ven Biển Đông, chạy dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Để tạo dựng được một giang sơn như thế, Việt Nam không thể tránh khỏi việc phải thôn tính hoặc xâm lấn đất cát của một số nước láng giềng! Đó là công việc của người xưa đã phải làm để tồn tại.Trên dải đất hình chữ S Việt Nam hiện nay vẫn tồn tại nhiều chùa miếu, lăng mộ, đền tháp lâu đời của các dân tộc thiểu số nằm rải rác khắp nơi. Nổi bật là những dấu tích thành trì, những ngôi tháp cổ biểu tượng cho nền văn minh cổ của dân tộc Chiêm Thành ở miền Trung. Đặc biệt là khu Thánh địa Mỹ Sơn ở Quảng Nam đã được tổ chức quốc tế UNESCO chọn là một trong các di sản văn hóa thế giới.Khu Thánh địa Mỹ Sơn đã ghi lại dấu tích một thời vàng son của dân tộc Chiêm Thành. Thời Việt Nam còn nằm dưới ách Bắc thuộc, Chiêm Thành – tên cũ là Lâm Ấp rồi Hoàn Vương – đã nhiều phen gây bối rối cho Trung Hoa qua những vụ tranh chấp lãnh thổ, ngăn cản bước bành trướng của đế quốc to lớn này. Rất nhiều viên thứ sử, thái thú, huyện lệnh tàn ác của Trung Hoa đã mất đầu dưới tay người Chiêm. Người Chiêm cũng từng đánh vào các nước Mã Lai, Java, Chân Lạp, có lần còn đột kích luôn vào cả đảo Hải Nam để cướp ngựa nữa. Nói chung dân tộc Chiêm Thành đã có một quá khứ oanh liệt chẳng kém ai!Ngày nay thì người Chiêm đã trở thành thiểu số trong cộng đồng Việt Nam. Trong bài “Tìm Hiểu Cộng Đồng Người Chăm Tại Việt Nam”, Tiến sĩ Dân tộc học Nguyễn Văn Huy có đoạn viết:“Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ họ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số 100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật không?Câu trả lời là dân chúng gốc Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào sống lâu đời tại miền Trung mà không mang ít nhiều dòng máu Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước, với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên để chứng minh một điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng đồng người Việt tại miền Trung nói chung.”Lời nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy chắc không xa thực tế mấy. Những cuốn Việt sử xưa nhất đều có chép vụ tháng giêng năm Ất Tị (1365) quân Chiêm đã bắt hàng trăm thanh thiếu niên nam nữ của Đại Việt đang vui chơi Hội Xuân ở đất Bà Dương (Hóa Châu) đem về nước! Bắt về để làm gì? Nếu muốn giết đám trẻ đó, người Chiêm đủ khả năng để giết tại chỗ mà! Tiếp theo, mỗi lần Chế Bồng Nga sang đánh Đại Việt thắng trận lại bắt về không biết bao nhiêu thiếu nữ và đàn bà trẻ để làm gì nếu không phải là làm quà ban thưởng cho các quan quyền làm thê thiếp hay nô lệ? Tới năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ chiếm được xứ Động Chiêm và Cổ Lũy của Chiêm Thành, đưa lính tráng vào trước để khai khẩn đất đai tính chuyện ăn ở lâu dài. Thế nhưng năm sau, khi đưa vợ con những người này vào để đoàn tụ gia đình bằng thủy lộ, không may lại gặp bão đánh chìm thuyền bè, hầu hết số người này đều bị chết đuối. Vậy, những người lính làm di dân không may ấy sẽ tìm vợ ở đâu nếu không phải là những đàn bà Chiêm Thành? Tới thời Trịnh Nguyễn phân tranh, các chúa Nguyễn còn đưa bao nhiêu đợt tù binh bắt được của họ Trịnh vào khai khẩn đất Chiêm Thành nữa, họ cũng phải lập gia đình chứ? Nhưng họ dễ gì kiếm được đàn bà Đại Việt khi đang ở trên đất Chiêm!Thực tế như ở Thừa Thiên – Huế, chỉ điểm sơ ở các làng Vân Thê (xã Thủy Thanh), La Vân (La Chữ), An Mỹ (Thế Lại Thượng) đã có nhiều cư dân mang họ Chế. Hỏi dân địa phương họ ước tính người họ Chế trong ba làng đó đã lên tới vài ngàn người. Đó là chưa nói đến các họ khác mà vua Minh Mạng đã ban cho những người Chiêm trên toàn quốc: Bá, Đàng, Hứa, Lưu, Hán, Lộ, Mã, Châu, Ngụy, Từ, Tạ, Thiên, Ức v.v…Đến đây thiết tưởng cũng nên nói sơ về vấn đề “Họ” của người Chiêm một chút:Ngày xưa người Chiêm chưa có họ. Những người đã đạt được một địa vị quan trọng trong xã hội thường tự chọn tên một vị thần, một vị thánh, một vị vua danh tiếng, một đấng anh hùng mình tôn sùng ghép vào tên mình để tăng thêm vẻ tôn quí. Như chữ “Chế”, chữ “Trà” đứng trước tên người mang ý nghĩa như một biểu tượng về một tước vị, một giai cấp cao sang hoặc để “thiên mệnh hóa” cái địa vị đương thời của người ấy. Sau này một số người Chiêm đầu hàng các vua Việt mới được các vị vua ấy ban “họ chính thức” theo ý nghĩa Việt Nam.Đến đời vua Minh Mạng thì nước Chiêm bị sát nhập hẳn vào Việt Nam. Vua Minh Mạng đã bắt buộc những người Chiêm chưa có họ đều phải nhận cho mình một họ trong danh sách các họ do vua chỉ định để triều đình tiện việc thống kê hộ tịch.Ngày nay dân tộc Chiêm đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam, lãnh thổ cũ của Chiêm Thành cũng đã trở thành một phần lãnh thổ Việt Nam. Vậy ta có thể coi lịch sử Chiêm Thành như một phần của lịch sử Việt Nam không? Sao lại không được nhỉ? Làm sao phủ nhận được sự liên can lịch sử của triều đại Chế Bồng Nga nước Chiêm Thành với lịch sử thời Trần mạt của Đại Việt? Người viết nghĩ cộng đồng Việt Nam cũng có thể hãnh diện với lòng chung thủy, dám hi sinh mạng sống của mình để giữ tròn trinh tiết với chồng của một vương phi Mỵ Ê, hãnh diện với những công trình văn hóa mà dân tộc Chiêm đã để lại cho đất nước Việt Nam lắm chứ!Còn nữa, nói tới dân tộc Chiêm mà quên nói tới vị vua anh hùng Chế Bồng Nga là một điều thiếu sót! Đó là một vị anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu!Sở dĩ người viết phải nhấn mạnh điểm anh hùng đúng nghĩa, anh hùng chính hiệu vì ngày nay người ta hay lạm dụng danh hiệu anh hùng quá đáng như anh hùng diệt tăng, anh hùng sản xuất phân xanh, anh hùng lao động v.v…! Danh hiệu này được dùng như một phần thưởng để ban phát một cách vô tội vạ! Điều mỉa mai là vẫn có lắm kẻ mê say nó đến quên mạng! Người viết còn nhớ hồi ở tù cải tạo, có một số bạn tù đói thắt ruột nhưng khi ra lao động vẫn cố gắng cuốc đất tối đa để cuối tuần được bầu làm “anh hùng lao động”! Lạm dụng đến nỗi có người phải than ngày nay là thời đại “ra ngõ gặp anh hùng”!Vậy, phải như thế nào mới xứng đáng là anh hùng chính hiệu?Theo nghĩa nguyên gốc thì anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Ngay chữ “anh” đã tự nó xác định cái ý nghĩa đẹp đẽ, thơm tho, tinh khiết của chính nó! Chữ “hùng” thì mang ý nghĩa sức mạnh, khả năng, lòng quả cảm, sự khôn khéo, sự chiến thắng…Hai chữ này đi chung với nhau nó trở thành tiếng kép để chỉ hạng người vượt trội những người khác về mặt tài năng hay đức độ, tạo nên được những thành tích phi thường có lợi cho nhân quần xã hội, ít nhất họ cũng để lại được một tấm gương sáng đẹp cho người đời soi chung.Từ ngữ anh hùng thường chỉ dùng giới hạn trong phạm vi một dân tộc, một đất nước, một liên bang thôi. Không nghe ai nói tới anh hùng quốc tế bao giờ! Để được gọi là anh hùng chính hiệu, nhân vật đó phải được dư luận quốc dân gạn lọc qua một thời gian dài mới định được!Trong bộ sách “Tam Quốc Chí” của văn hào La Quán Trung, ở hồi thứ 21, có đoạn Tào Tháo uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị nghe rất lý thú, xin lược lại như sau:Trong khi uống rượu, Tào Tháo hỏi Lưu Bị có biết anh hùng trong thiên hạ đời nay là ai không? Lưu Bị đã nêu lên một số người đang có danh vọng, đang cát cứ một phần lãnh thổ của nước Trung Hoa đương thời, nhưng tất cả đều bị Tào Tháo bác đi. Tào Tháo cho Viên Thuật là nắm xương khô trong mả, Viên Thiệu thì mặt bạo mà gan non, thấy của thì quên mệnh, Lưu Biểu chỉ có hư danh mà không có thực tài, Tôn Sách thì dựa vào uy danh của cha, Lưu Chương là chó giữ nhà, Trương Tú, Trương Lỗ, Hàn Toại… là đám tiểu nhân lúc nhúc không đáng đếm xỉa. Tiếp đó Tào Tháo dõng dạc nói: “Người anh hùng ấy à? Anh hùng phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy Vũ Trụ trong lòng, có chí nuốt Trời mửa Đất, ấy mới đáng mặt anh hùng chứ!”. Lưu Bị hỏi lại: “Ai là người đáng mặt như thế?”. Tào Tháo không còn úp mở nữa, chỉ thẳng vào Lưu Bị rồi lại chỉ vào mình mà nói: “Anh hùng trong thiên hạ đời nay chỉ có sứ quân và Tháo!”. Lưu Bị nghe rụng rời cả chân tay, đôi đũa ông đang cầm cũng rơi xuống đất…Theo cách luận này thì muốn làm anh hùng quả thật là khó!Mạc Đăng Dung là một tướng có tài, khi triều Lê suy yếu, loạn lạc khắp nơi, ông ra công đánh Nam dẹp Bắc rồi cướp ngôi nhà Lê dựng nên triều nhà Mạc. Công nghiệp như thế nhưng chưa thấy sử sách nào khen ông ta là anh hùng cả! Vì sao? Vì Mạc Đăng Dung chỉ có “hùng” mà không có “anh”! Vì ông đã cam tâm dâng hiến một phần lãnh thổ của Đại Việt cho Trung Hoa để cầu chước bảo vệ ngai vàng, phản lại quyền lợi của dân tộc!Nguyễn Thân, một đại thần triều Nguyễn thời Pháp thuộc là người nhiều mưu lắm kế, giúp Pháp dẹp được rất nhiều cuộc khởi nghĩa, nhất là diệt được phong trào Văn Thân của Phan Đình Phùng. Ông là một vị tướng bách chiến bách thắng, đã được chính phủ Pháp tặng Bắc Đẩu bội tinh đệ ngũ hạng rồi Bắc Đẩu bội tinh đệ tứ hạng. Với triều Nguyễn, ông được phong Cần chính điện Đại học sĩ, Túc liệt tướng Diên Lộc quận công. Bước đường công danh như vậy là đã tột đỉnh. Thế nhưng cuối cùng ông chỉ để lại trong lòng người dân Việt vỏn vẹn cái danh hiệu “Việt gian”! Vì ông cũng chỉ có “hùng” mà không hề có “anh”, cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, giết hại những người dân tranh đấu cho quyền lợi dân tộc!Ngược lại, các nhân vật như Triệu Thị Trinh, Trần Bình Trọng, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Đề Thám, Trương Định, Nguyễn Thái Học v.v… là những người không chịu khuất phục trước bọn giặc cướp nước, quyết kháng chiến tới cùng, dù thất bại họ vẫn được quốc dân nhớ ơn thờ kính, xưng tụng là những bậc anh hùng. Tên tuổi họ ngàn năm vẫn sáng ngời trong sử sách!Trở lại chuyện vua Chế Bồng Nga: Khi ông lên ngôi vua thì nước Chiêm vừa trải qua một trận dịch hạch khủng khiếp. Ông vừa lo việc hàn gắn vết thương cũ vừa lo việc phát triển quân đội để tái chiếm những vùng đất cũ của Chiêm Thành đã bị Đại Việt xâm chiếm. Trong bước đầu ông đã thành công rất vẻ vang. Nhờ mưu trí tuyệt vời, quân đội hùng mạnh, ông đã chiến thắng Đại Việt nhiều trận oanh liệt. Nhưng ông không hề nuôi ý định thôn tính Đại Việt. Ông đã sáng suốt nhận ra được những mối nguy sẽ xảy đến nếu Chiêm Thành thôn tính Đại Việt: Thứ nhất, dân Đại Việt sẽ quật cường vùng dậy như nhiều lần trước họ đã làm với người Trung Hoa. Thứ hai, nếu Đại Việt không vùng dậy nổi thì Chiêm Thành sẽ thành ở sát cạnh Trung Hoa, chẳng khác chi con dê phải ở sát cạnh một con báo! Ông đã cố thực hiện một giải pháp khác giữ được an toàn cho nước Chiêm hơn. Ông chủ trương duy trì sự tồn tại của một nước Đại Việt để làm bình phong che chắn thế lực Trung Hoa! Dùng Trần Húc con vua Nghệ Tôn không thành, ông lại định dùng Trần Nguyên Diệu, con thứ vua Duệ Tôn làm con bài chủ cho giải pháp này! Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên! Không ngờ cuộc đời của một vị vua anh hùng ngang dọc một thời lại bị kết thúc đau đớn chỉ vì một sơ suất nhỏ! Ông đã không thực hiện được ước nguyện. Nếu Chế Bồng Nga cẩn thận hơn một chút, không biết cục diện khu vực Đông Nam Á ngày nay sẽ ra thế nào! Phải chăng đó là sự dàn xếp của định mệnh?Người viết vốn thích đọc lịch sử nước nhà, đã từng gặp nhiều đoạn sử oái oăm. Đôi khi chỉ cần một sự rủi may nhỏ nhoi cũng đủ làm thay đổi cả một cục diện lớn. Khi đọc qua đoạn sử này người viết không thể không suy nghĩ băn khoăn. Rõ ràng nhân vật Chế Bồng Nga, về nhiều mặt không thể tách rời dòng sử Việt được. Vì thế nên người viết mạo muội gom góp một ít tài liệu viết nên thiên tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga: Anh hùng Chiêm quốc.Có một điều người viết xin thưa trước với quí độc giả: Tuy viết tiểu thuyết lịch sử chứ không phải khảo cứu lịch sử, nhưng người viết luôn chủ trương xây dựng tác phẩm của mình không đi quá xa nguồn chính sử! Tiếc rằng tài liệu về nhân vật Chế Bồng Nga trong chính sử quá hiếm và quá ngắn gọn. Về dã sử tuy có nhiều hơn nhưng thường rất mơ hồ, hoang đường nên sự gạn lọc khá khó khăn. Vì vậy, thiên tiểu thuyết lịch sử này có thể vấp nhiều lầm lỗi dễ gây sự hiểu biết sai lạc cho độc giả như nhà văn tiền bối Lan Khai từng vấp phải. Theo chính sử, nhân vật Đỗ Tử Bình là một viên quan tham lam, gian dối, sự gian dối của y đã tạo thành ngòi nổ cho trận chiến Việt – Chiêm năm 1377 mà kết quả là quân Việt đại bại, vua Trần Duệ Tôn bị giết. Thế mà trong tập tiểu thuyết lịch sử Chế Bồng Nga của nhà văn Lan Khai, nhân vật Đỗ Tử Bình lại được biến thành người giết được Chế Bồng Nga, là vị cứu tinh của nhà Trần! Thật sự người bắn hạ được Chế Bồng Nga chính là Đô tướng Trần Khát Chân, lúc đó Đỗ Tử Bình qua đời đã lâu.Hi vọng với sự tiến triển của ngành nghiên cứu sử học, trong tương lai người ta sẽ tìm thêm được những tài liệu lịch sử về nước Chiêm chính xác hơn. Mong quí độc giả ai thấy những thiếu sót trong tập sách này xin chỉ giáo cho. Người viết lúc nào cũng sẵn sàng lắng nghe và xét lại để bổ chính khi sách được tái bản.Sacramento, tháng 3 năm 2011Trân trọng kính chào quí độc giả! Sau khi quân Mông Cổ bị thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, hai dân tộc này đã trải qua một thời gian sống hòa bình, thân thiện bên nhau ngót hai mươi năm. Vua Đại Việt Trần Nhân Tôn cũng như vua Chiêm Chế Mân đều rất cảm kích lòng dũng cảm, ý chí bất khuất của nhau trước lũ giặc lớn Mông Cổ. Khi vua Nhân Tôn đã xuất gia, trong một lần vân du sang Chiêm Thành, ngài đã hứa gả người con gái út của ngài là Huyền Trân công chúa cho vua Chế Mân. Thế nhưng khi vua Chế Mân xin thực hiện lời hứa đó, triều đình Đại Việt lúc bấy giờ đã do vua Anh Tôn lãnh đạo lại dùng dằng không muốn chịu. Bất đắc dĩ vua Chế Mân phải dâng hai châu Ô và Rí cho Đại Việt để làm sính lễ. Việc này đã làm cả triều đình lẫn dân chúng nước Chiêm bất mãn.Năm Bính Ngọ*, Huyền Trân công chúa được vua Chế Mân phong làm hoàng hậu. Nhưng cuộc tình duyên này không được lâu dài. Vua Chế Mân sống với Huyền Trân công chúa chưa được một năm thì mất. Hoàng tộc Chiêm Thành tôn hoàng tử trưởng Chế Chí lên kế vị vua cha.Vua Anh Tôn thương em, sợ Huyền Trân sẽ bị hỏa thiêu với chồng theo tục lệ Chiêm Thành – vua mất thì các hậu, phi của vua cũng phải hỏa thiêu theo vua(?) nên sai Đại hành khiển Trần Khắc Chung lập mưu cướp bà đem về Đại Việt.Vụ cướp lại công chúa đã làm người Chiêm càng thêm bất bình. Vua Chế Chí quá tức giận, đã tìm cách chiếm lại hai châu đất cũ. Thế là tình hình giao thiệp giữa hai nước bấy giờ càng ngày càng trở nên căng thẳng. Năm Nhâm Tý*, vua Anh Tôn thân hành đem quân đánh Chiêm Thành. Vua Chế Chí thấy quân Trần quá mạnh, có ý muốn đầu hàng. Ngặt nỗi quân dân Chiêm vì quá phẫn uất, thúc ép ông phải kháng cự. Kết quả vua Chế Chí đã bị bắt sống. Vua Anh Tôn bèn hội các quan ở Đồ Bàn để bàn định việc cai trị nước Chiêm. Vua hỏi:-Nay vua Chiêm đã bị bắt, quân Chiêm đã tan rã, ta có nên nhân dịp này đặt quan lại để cai trị nước Chiêm không?Thiên tử chiêu dụ sứ Đoàn Nhữ Hài thưa:-Đánh bại quân đội một nước có thể dễ nhưng cai trị một nước thì rất khó! Muốn cai trị nước Chiêm không phải bệ hạ chỉ để lại một số quan lại là đủ! Tuy rằng có thể tuyển mộ những binh lính tại địa phương nhưng làm sao tin tưởng chúng được? Còn nếu để lại nhiều binh lính của ta thì rất bất tiện: nào giải quyết vấn đề lương thực, vấn đề tình cảm gia đình, làm sao cho lớp binh lính xa nhà ấy được yên tâm để phục vụ? Chưa hết, nếu lỡ quân Bắc lại sang xâm lấn, lực lượng ta đã bị xé mỏng, bấy giờ tính sao? Theo thiển ý của thần, bệ hạ nên lựa chọn một người nào đó trong hoàng tộc nước Chiêm, phong cho y làm chúa rồi bắt y triều cống hàng năm thì vẫn lợi hơn là cai trị nước Chiêm để rồi gánh thêm bao nhiêu mối lo âu, xin bệ hạ xét định!Các quan đều tán thành ý kiến ấy. Vua Anh Tôn nghe lời, phong cho người em Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm Á hầu để cai quản nước Chiêm, lấy hiệu là Chế Năng. Ổn định tình hình nước Chiêm xong, vua Anh Tôn cho rút quân về nước.Nhưng Chiêm Thành thần phục Đại Việt chưa bao lâu lại trở chứng. Do tinh thần phẫn nộ của dân Chiêm về mối hận Ô Rí thúc đẩy, Chế Năng lại bước theo con đường Chế Chí đã đi. Năm Mậu Ngọ* Chế Năng kéo quân xâm phạm hai châu Ô và Rí. Lúc bấy giờ ở Đại Việt vua Trần Minh Tôn đã lên thay vua Anh Tôn, ông cử Huệ Vũ vương Trần Quốc Chẩn đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Trước khi xuất quân, vua Minh Tôn nói với Huệ Vũ:-Với uy vũ của thúc phụ, chuyến đi này nhất định phải thành công. Tuy thế, trẫm chưa biết phải xử trí thế nào khi đã chiến thắng. Thúc phụ có cao kiến gì không?Huệ Vũ đáp:-Trước đây Thượng hoàng đã chinh phạt Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm. Thượng hoàng có hỏi ý các quan có nên chiếm đất Chiêm không, các quan đều bàn chưa nên. Lý do là sợ phải xé mỏng lực lượng của ta trong khi mối đe dọa của phương Bắc vẫn còn đó. Thượng hoàng bèn lựa một người trong hoàng tộc Chiêm phong làm chúa để y cai quản lấy nước Chiêm, buộc hàng năm triều cống Đại Việt. Lần phạt Chiêm này cũng chẳng xa cách lần trước mấy, tình hình cũng chẳng khác nhau, tôi nghĩ ta cũng nên bắt chước kế hoạch của Thượng hoàng là hơn!Vua Minh Tôn nói:-Nếu thúc phụ cũng có ý ấy, xin thúc phụ cứ tùy tiện!Huệ Vũ bèn cử Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến đi tiên phong. Trong trận đụng độ đầu tiên, quân Chiêm đã kháng cự rất mãnh liệt. Quân Đại Việt thua lớn, Hiếu Túc hầu Lý Tất Kiến bị tử trận. May có Điện súy Phạm Ngũ Lão tiếp ứng kịp thời quân Đại Việt mới chuyển bại thành thắng. Quân Chiêm lại tan tác chạy. Huệ Vũ thừa thế tiến thẳng vào tới Đồ Bàn. Chế Năng hoảng sợ phải dẫn cả hoàng gia chạy sang nương náu ở Java là quê mẹ của ông ta. Triều đình Chiêm Thành như rắn mất đầu, các quan lại, các lãnh chúa người đầu hàng, kẻ chạy trốn hết.Chiếm xong Đồ Bàn, Huệ Vũ bèn cho yết bảng phủ dụ chiêu an dân Chiêm. Ông kêu gọi ai làm công việc gì nay trở về với công việc nấy. Ông cũng ra lệnh cấm tuyệt quan quân Đại Việt quấy nhiễu dân Chiêm. Ai phạm tội nặng như giết người, hiếp dâm đều bị xử chém. Tội vừa như cướp bóc, trộm cắp thì phải chịu đánh đòn, trường hợp nghiêm trọng có thể bị tước quân tịch và bắt làm nô lệ. Nhờ lệnh đó, dân Chiêm có phần yên lòng, dần trở lại làm ăn như cũ.Một hôm Huệ Vũ cho đòi tất cả các quan chức lớn nhỏ cũ của nước Chiêm đã đầu hàng tập trung tại nhà hội Vĩnh Xương trong thành Đồ Bàn rồi tuyên bố:-Trước đây Trần đế đã đánh bại Chế Chí, đáng lẽ ngài đã sát nhập nước Chiêm vào lãnh thổ Đại Việt! Thế nhưng vì lòng nhân ái, ngài đã phong Chế Năng làm Á hầu để cùng các ngươi cai quản nước Chiêm! Không hiểu sao Chế Năng và các ngươi lại ôm lòng phản trắc, gây hấn tạo tình trạng bất an cho dân cả hai nước. Trần triều bất đắc dĩ lại phải ra tay trừng phạt. Nay nước Chiêm thêm một lần nữa coi như đã mất! Với quyền lực trong tay, ta sẽ đặt các quan Đại Việt cai trị dân Chiêm! Còn các ngươi, ta có thể giam vào ngục thất hoặc đày ải làm nô lệ suốt đời cho biết thân, các ngươi nghĩ thế nào?Nghe Huệ Vũ hỏi thế, các quan chức Chiêm Thành đều lộ rõ nét mặt buồn bã lo âu nhưng chẳng ai dám hé môi. Huệ Vũ nhìn khắp bọn họ một lượt rồi nói tiếp:-Ta nói như thế có phải không? Tại sao triều đình Đại Việt đã dung dưỡng các ngươi, trả quyền chức cho các ngươi, cho các ngươi tự cai trị lấy nhau, thế mà các ngươi lại a tòng với kẻ phản bội chống lại Trần triều như các ngươi đã hành động vừa rồi? Tại sao các ngươi không biết khuyên Chế Năng bỏ cái thói ăn cháo đá bát ấy? Một người khuyên y có thể không nghe nhưng nhiều người khuyên lẽ nào y lại chẳng nghe? Cũng bởi các ngươi không tốt nên y mới dễ dàng thuyết phục cùng nhau làm cái việc vong ân bội nghĩa ấy! Kinh nghiệm xương máu đã rành rành trước mắt, Đại Việt ta đâu còn dám để các ngươi tự trị? Chính các ngươi đã tự đưa dân tộc các ngươi đến chỗ diệt vong! Các ngươi còn có lời gì để nói nữa không?Không khí im lặng ngột ngạt bao trùm cả sân hội. Đám cựu quan chức Chiêm Thành hầu hết gục mặt âu sầu tuyệt vọng. Bỗng một cụ già khoảng ngoài bảy mươi lấy can đảm đứng dậy tiến lên quì lạy Huệ Vũ rồi nói với giọng tha thiết:-Bẩm Đại vương, chúng tôi đã lỡ dại phạm tội với thiên triều! Cúi xin thượng quốc mở lượng hải hà bỏ qua lỗi lầm cho lũ mán mọi lạc hậu này! Nếu Đại vương cho nước Chiêm chúng tôi được tự trị một lần nữa, dân Chiêm chúng tôi xin thề chẳng bao giờ còn dám phản bội! Nếu chúng tôi còn phạm lời thề xin trời tru đất diệt!Nghe vị cựu quan già làm thế, nhiều người khác cũng bắt chước nhau cúi lạy Huệ Vũ:-Cúi xin Đại vương mở lượng hải hà tha thứ cho dân Chiêm chúng tôi một lần nữa! Chúng tôi sẽ tuân phục thờ kính thiên triều như thờ cha mẹ, chẳng bao giờ còn dám ăn ở hai lòng!Huệ Vũ đợi đám cựu quan chức Chiêm Thành van lạy một hồi rồi mới hỏi:-Có chắc các ngươi thề không bao giờ còn phản bội thiên triều nữa không?Một thoáng hi vọng lóe lên, đám cựu quan chức Chiêm Thành đồng loạt hô lớn:-Chúng tôi xin thề! Chúng tôi xin thề! Kẻ nào sai lời xin trời tru đất diệt!Huệ Vũ lại nhìn khắp đám người Chiêm sa cơ thất thế một lượt rồi tiếp:-Thề với trời đất không phải là chuyện chơi đâu! Khi được phong tước Á hầu để cai quản dân Chiêm, Chế Năng đã long trọng thề sẽ tuyệt đối trung thành với thiên triều, thế nhưng rồi y lại phản bội lời thề! Kết quả y đã làm được cái gì? Chỉ thấy cảnh xương tan máu đổ giáng lên đầu dân Chiêm! Chính bản thân Chế Năng đã trở thành kẻ vong gia thất thổ khốn đốn ở quê người! Các ngươi phải nhớ bài học đó! May là thiên tử lòng nhân bao la nên cử ta đánh dẹp! Nếu việc này giao cho một tướng khác, chưa chắc các ngươi còn được yên lành như hôm nay! Thấy các nguơi đã biết hối hận về sự phản bội của mình ta cũng động lòng. Ta biết các ngươi chỉ vì ngây ngô dại dột nên bị Chế Năng dụ dỗ hoặc ép buộc phải làm việc quấy thôi! Vốn tình thiên tử thương dân Chiêm chẳng khác gì dân Đại Việt! Ngài đâu muốn để dân Chiêm phải buồn khổ, đau lòng! Khi ta xuất chinh, ngài đã cho phép ta được quyền tùy tình hình mà giải quyết. Để thể hiện lượng khoan hồng của thiên tử, ta sẽ cho nước Chiêm được tự trị một lần nữa, các ngươi nghĩ thế nào?Đám dân Chiêm đang âu sầu ủ rũ như vừa chợt tỉnh ngủ, họ ngơ ngác nhìn nhau như dò hỏi. Nhưng cũng chẳng có một ai lên tiếng. Huệ Vũ lại tiếp:-Quân bất hí ngôn, ta thay mặt thiên tử cho dựng lại nước Chiêm thật đấy! Triều đình Đại Việt muốn có một nước Chiêm mới mẻ biết sống thuận hòa với Đại Việt để dân chúng hai nước cùng được yên ổn làm ăn. Một nước Chiêm mới cần phải có một triều đình mới để cai trị muôn dân. Nhưng muốn có một triều đình vững mạnh phải kết hợp được thật nhiều nhân tài. Các ngươi tất biết rõ những ai hiện ở trong nước đáng mặt nhân tài. Các ngươi hãy thăm dò, vận động, tiến cử những người có tài có đức ấy đứng ra giúp nước. Nước Chiêm có lập lại được hay không là do chính các ngươi! Ta hứa khi nước Chiêm đã được tái lập quân Đại Việt sẽ rút về nước!Nghe đến đây quan dân Chiêm đồng loạt reo vui:-Đội ơn Thánh hoàng! Đội ơn Đại vương! Thánh hoàng vạn tuế, vạn vạn tuế!Huệ Vũ nở một nụ cười tươi tắn:-Đã đồng lòng như vậy, các ngươi phải gắng làm tròn bổn phận của mình! Ta sẽ tiếp tay cho các ngươi!Lúc bấy giờ có viên tù trưởng tên Hiệu cai quản vùng Nghĩa Sơn nổi tiếng là một tay anh kiệt ít người sánh kịp. Trước đây Hiệu đã cùng con là Thủ (Patalsor) từng làm tướng chỉ huy quân Chiêm đánh nhau với quân Đại Việt nhiều trận. Khi Chế Năng chạy trốn sang Java thì cha con Hiệu dẫn một số thuộc hạ ẩn thân vào chốn rừng núi để mưu đồ việc phục quốc. Nay nghe tin vua Trần cho tái lập nước Chiêm, Thủ bàn với cha:-Thưa cha, nay có tin Đại Việt cho gây dựng lại nước Chiêm, không biết có đúng không? Nghe nói họ đang kêu gọi nhân tài nước Chiêm ra lập triều đình mới, cha nghĩ mình có nên tham gia không?Tù trưởng Hiệu nói:-Tin ấy đã được thông báo nhiều nơi, tức là có thật. Chắc là họ sợ người Trung Hoa đánh vào phía Bắc nên muốn r&ua
0 Rating 629 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 8, 2016
+Văn hoá Sa Huỳnh Khu vực ven biển miền Trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình Thuận và một phần Tây Nguyên từ lâu đã là địa bàn sinh tụ của các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo - Polynesien, trong đó người Chăm là đông nhất.   Phát hiện khảo cổ học về các khu cư trú và mộ táng của người cổ ở vùng này cho thấy có một trung tâm nông nghiệp trồng lúa thuộc thời đại kim khí phát triển từ tiền Sa Huỳnh tới Sa Huỳnh với các giai đoạn văn hóa Xóm Cồn (Khánh Hòa), văn hóa Long Thạnh, văn hóa Bình Châu và văn hóa Sa Huỳnh liên tục cách ngày nay khoảng 3.500 - 2.200 năm. Thời tiền Sa Hùynh, cư dân cổ tại đây sở hữu những đồ đất nung gồm chum, vò hình trứng có nắp đậy trang trí hoa văn thừng, khắc vạch… được tô màu, miết láng. Thời Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) cư dân đã có nhiều nghề cơ bản: đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, dệt vải, nấu thủy tinh, chế tạo đồ trang sức và buôn bán thương mại mà di vật còn lại là các loại khuôn đúc đồng, xỉ đồng, công cụ và vũ khí bằng sắt, đồ trang sức bằng đá quý, thủy tinh trong đó có vật đeo hai đầu thú, các loại khuyên tai đa dạng: loại khối tròn phía ngoài có 3 mấu hình tam giác, loại tròn phình quăn như con đỉa… làm bằng đất nung, đá quý hoặc thủy tinh, kim loại đồng… và đồ gốm với các hình dạng, hoa văn đặc trưng: bát chân cao có hai lỗ dưới chân trang trí văn chấm dải, nồi miệng loe có hai lỗ trên cổ… đặc biệt là tục chôn người chết trong các loại vò gốm [51, tr.11] với đủ loại đồ tùy táng như đồ trang sức, đồ gốm, vũ khí… được chế tác tinh xảo. Văn hóa Sa Huỳnh được xem là tiền đề của văn hóa Champa. Bát chân cao:  Bát được tạo hình như một chiếc đĩa bồng chân cao hơi loe nhưng đường kính chân chỉ nhỏ bằng nửa so với miệng bát. Vành miệng có thành hơi xiên. Bát được nặn bằng tay, nung nhẹ lửa, văn chấm dải. + Văn hoá Chămpa (TK II- TK XVII) Năm 179 tr. CN, mảnh đất miền Trung - Sa Huỳnh cùng chung số phận với Âu Lạc - Đông Sơn khi Triệu Đà xâm lược. Năm 111 tr. CN, miền đất này thuộc nhà Hán, được gọi là quận Nhật Nam. Nhưng cùng với nhân dân Giao Chỉ và Cửu Chân ở phía Bắc, nhân dân Nhật Nam nhiều lần khởi nghĩa đòi quyền độc lập và đã trở thành bộ phận đầu tiên giành được độc lập: Năm 192, Khu Liên (Srimara?) lãnh đạo nhân dân huyện Tượng Lâm thuộc Nhật Nam đuổi được quân Hán thành lập nước với tên gọi là Lâm Ấp có nghĩa là xứ rừng. Đến TK VII, Sambhuvarman (Phạm Chí) khẳng định tên nước là Champa mà thủ đô trước đó ở Sinhapura (Trà Kiệu). Tuy nhiên người Trung Quốc lại gọi Champa là nước Hoàn Vương (758 - 859) và sau đó gọi là nước Chiêm Thành. Lịch sử Champa hiện nay còn nhiều điểm chưa rõ ràng nhưng về đại thể có thể chia làm các giai đoạn như sau:  - Giai đoạn Sinhapura - Trà Kiệu (192 - 750): bước đầu thống nhất.  - Giai đoạn Virapura (750 - 850): khẳng định vị thế.  - Giai đoạn Indrapura - Đồng Dương (850 - 982): bắt đầu phát triển  - Giai đoạn Vijaya - Bình Định (982 - 1471): thịnh đạt và đi vào khủng hoảng.  - Từ năm 1471, khi bị vua Lê Thánh Tông chia làm 3 nước nhỏ, vương quốc Champa chấm dứt sự tồn tại. Sau đó, các chúa Nguyễn Đàng Trong dần kiểm soát đất đai còn lại của Champa, năm 1693, kiểm soát miền đất cuối cùng Phan Rang - Bình Thuận. Tuy nhiên người Chăm vẫn được chúa Nguyễn và nhà Nguyễn phong vương kéo dài đến năm 1822 khi vua Chăm cuối cùng là Po Chơn Chan bỏ sang Campuchia thì vương triều Champa thật sự chấm dứt.  Dân tộc Chăm cơ bản được hình thành từ hai thị tộc: Cau (Caramukar) ở phương Nam và Dừa (Narikelanamsa) ở phương Bắc. Về không gian sinh tồn, vương quốc Champa có 5 vùng: Amaravati tương ứng với Quảng Bình - Huế, Indrapura (Quảng Nam – Đà Nẵng), Vijaya (Quy Nhơn – Bình Định) với kinh đô là thành Chà Bàn (Đồ Bàn), Kauthara (Khánh Hòa), Pandurangar (Bình Thuận – Đồng Nai).  Qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Champa đã xây dựng nên một nền văn hóa độc đáo mang đậm tính bản địa và chịu ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ trong đó chủ yếu là Bà la môn giáo và Phật giáo. Trong đạo Bà la môn, người Chăm tôn thờ Shiva trong tam vị nhất thể, Vishnu và Brahma ít quan trọng hơn. Từ khoảng thế kỷ XI đạo Hồi xuất hiện trong cộng đồng Champa.  Champa đã để lại một khối lượng di tích và di vật rất lớn về kiến trúc, điêu khắc đá, các loại đồ đồng, đồ gốm, đồ thờ cúng bằng vàng, bạc, các loại đồ trang sức… các loại hiện vật này phản ánh những nét sinh hoạt trong xã hội Champa xưa, từ đời thường đến tôn giáo và cung đình, chúng có giá trị về nhiều mặt, nhất là về nghệ thuật. Đặc biệt có một quần thể kiến trúc đền tháp thuộc tôn giáo của Chămpa ở Mỹ Sơn (Quảng Nam) còn gọi là “thánh địa Mỹ Sơn” được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới vào tháng 12 năm 1999. Ngoài ra, người Chămpa còn để lại các di sản ca múa nhạc thể hiện một phần trên điêu khắc đá: các tượng vũ công hoặc người chơi nhạc cụ.  - Kiến trúc Champa chủ yếu là các loại đền tháp (kalan) bằng gạch được xây dựng theo một kỹ thuật đặc biệt với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo trên gạch. Trong quá trình tồn tại, người Champa đã xây dựng hàng trăm đền tháp nhằm thờ cúng thần và các vị vua, tuy nhiên khi người Champa suy yếu các tháp đã bị bỏ hoang và bị phá hoại nghiêm trọng, hiện nay còn lại khoảng 70 tháp, rải rác ở Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Đaklak... tập trung nhiều ở Quảng Nam, nhất là Mỹ Sơn nơi được coi là vùng đất thánh dùng xây đền tháp thờ các vị vua đã qua đời mà mỗi vị vua được xây dựng một cụm kiến trúc gồm 4 tháp (tháp cổng, tháp nước, tháp lửa và tháp thờ). Tháp Chăm thường có mặt bằng vuông, dùng gạch làm vật liệu xây dựng chính, chỉ có một ít bộ phận bằng đá như mi cửa, trụ cửa, bậc cửa. Mỗi tháp có ba tầng, nhỏ dần khi lên cao theo dạng núi Meru - nơi trú ngụ cùa các thần Bà la môn, tháp chỉ mở một cửa chính hướng về phía Đông, 3 cửa còn lại đóng kín. Theo quan niệm của người Chăm thì hướng Đông là hướng của thần linh, Bắc là hướng của ma quỷ, Tây Nam là hướng của dân chúng nên nhà cửa của người Chăm thường mở cửa về hướng Tây Nam.  - Điêu khắc đá Champa là một bộ môn nổi tiếng được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX. Các nhà nghiên cứu đã định ra được các phong cách tạo hình của Champa từ giai đoạn trước TK VII (chịu ảnh hưởng nghệ thuật Amaravati của Ấn Độ) cho tới giai đoạn nửa sau TK VII trở đi, đã tạo ra được những nét riêng của điêu khắc đá Champa qua 8 loại phong cách: Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chánh Lộ, Tháp Mắm, Yang Mun, Pô Rô Mê. Hiện nay sưu tập điêu khắc Champa tập trung ở các Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, Bảo tàng Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Tổng hợp Huế, Bảo tàng Bình Định và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –Tp. HCM. Nghệ thuật điêu khắc Champa rất phong phú với nhiều tác phẩm phù điêu, tượng tròn gắn với sinh hoạt tôn giáo Bà la môn, trên những tác phẩm này thường bắt gặp nét chủng tộc, y phục, trang sức Chăm hòa trộn với hình ảnh các vị thần Bà la môn, hoặc những nét tả thực cũng như cách điệu thể hiện trong hình ảnh con người, loài vật… hết sức sinh động. - Nữ thần Devi: Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt mở to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên một cảm giác thánh thiện. Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija kula hara Devi, là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương, triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ, nên sau khi mất bà được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng tháp thờ.    - Thần Shiva: Shiva là thần Bà la môn giáo được người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao. Khoảng TK IV, sự tôn thờ Shiva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi vua Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Shiva gọi là Shiva giáo mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Shiva vừa mang tính hủy diệt vừa mang tính sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn loài vừa là phúc thần bảo vệ đời sống của cư dân Champa. Shiva thường thể hiện dưới dạng một nam nhân có ba con mắt với mắt thứ ba ở giữa trán, ba mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, ngọn lửa thế gian, và có thể nhìn thấy hết quá khứ, hiện tại, tương lai. Tay Shiva có khi cầm đinh ba biểu tượng cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu biểu hiện cho sự tuyệt đối hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một tay ban phúc lành. Shiva cũng là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó, khác nào như biển là nơi qui tụ tất cả mọi dòng nước trong, nước đục.  Biểu tượng của Shiva là Linga. Linga cũng là biểu hiện của tam vị nhất thể với chỏm đầu hình cầu tròn là Shiva, phần giữa là Vishnu có tám cạnh và phần cuối là Brahma có bốn cạnh. Chiếc Linga đầu tiên xuất hiện dưới triều vua Bhadravarman thế kỷ IV. Nhà vua cho xây tại thánh địa Mỹ Sơn một đền thờ thần Shiva Bradravarman, mà biểu tượng là một Linga. - Thần Ganesha: Là con của Shiva và Parvati, được thể hiện dạng đầu voi mình người với cái bụng to ăn quá no bị vỡ phải quấn con rắn Naduki bó lại. Theo thần thoại Ấn Độ, thần Ganesha có đầu voi là vì do trong một cơn nóng giận, Shiva lỡ chặt mất đầu Ganesha. Ngay sau đó Shiva sửa chữa sai lầm bằng cách lập lời nguyền sẽ lấy đầu kẻ nào gặp trước tiên để gắn vào thân hình Ganesha cho Ganesha sống lại, nhưng sinh vật mà Shiva gặp đầu tiên sau khi chém con mình lại là một chú voi nên Ganesha đành mang đầu voi mình người. Ganesha được coi là thần tài, thần hạnh phúc. Ở những quốc gia theo Ấn giáo, Ganesha rất được sùng kính. Ganesha Chăm được thể hiện như trong thần thoại với tư thế ngồi, đầu đội vương miện, có con mắt thứ ba giữa trán,bụng cuốn con rắn Naduki. Tượng bị mất cả 2 cánh tay.   - Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, TK X - XI) Sư tử, người Chăm gọi là “Rimon”, là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc biệt là ở kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử) - Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu. Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức.  - Đồ gốm: Nghề gốm ở Champa ít được biết đến. Khoảng nửa cuối TK XX mới có một số công trình đề cập về gốm Champa nhưng từ đó đến nay những hiểu biết về dòng gốm này vẫn còn ít ỏi so với lãnh vực kiến trúc và điêu khắc của vương quốc Chămpa. Tuy nhiên điều chắc chắn là đã từng tồn tại những lò gốm cổ trong địa bàn cư trú của người Chăm ở Bình Định như các lò Gò Sành, Gò Hời, Gò Trường Cửu, Gò Cây Me, Gò Ké… mà niên đại thuộc thời Vijaya. Điểm quan trọng khác là sản phẩm loại gốm này chủ yếu được phát hiện trong những công trình khảo cổ không những ở Hoa Lư, Thăng Long thuộc Đại Việt, Đại Làng, Đại Lào (Lâm Đồng) mà còn tìm thấy trên con tàu đắm ở Padanan (Philippine), ở cảng Altur thuộc bán đảo Sinai (Trung Cận Đông) [31, tr.236-242] … Điều đó cho thấy gốm Champa thực sự là một loại sản phẩm có chất lượng được tin tưởng sử dụng ở ngoài Champa. Đây có lẽ cũng là một dạng gốm xuất khẩu mà không sử dụng trong nội địa tương tự như gốm Chu Đậu Việt Nam thời Lê.   Sản phẩm gốm Champa rất đa dạng từ các loại gạch, ngói, vật trang trí phục vụ việc xây đền tháp, thành trì hoặc kiến trúc nhà ở cho đến các loại đồ đựng như bát đĩa hũ chóe, âu, bình, vò... Gốm đồ đựng Champa có nét riêng về dáng kiểu và đặc biệt là màu men với các loại men nâu ngả đen, da lươn, men ngọc, men sắt… mà bao giờ phần chân hiện vật cũng được để mộc. Gốm đồ đựng Champa được trang trí kiểu khuôn in, đắp nổi hoặc khắc vạch với những họa tiết hoa sen, dây lá, hình kỷ hà, sóng nước, mặt Kala… cho thấy đây là những thủ pháp trang trí đặc thù của các loại men độc sắc TK XIII - XIV trước khi xuất hiện gốm men xanh trắng. - Lokesvara (Thế tự tại Bồ tát) Người Champa xem Lokesvara là hình thức thể hiện sự kết hợp giữa Shiva (Bà la môn giáo) và Avalokitesvara (Phật giáo) với hình tượng nam nhân, được thờ phổ biến nhất tại vùng Indrapura (Đồng Dương - Quảng Nam), nơi đây tìm thấy nhiều tượng Lokesvara bằng kim loại (đồng, vàng, mạ vàng hoặc bạc) đa số được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM và Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Lokesvara được thể hiện trong tư thế đứng hoặc ngồi, ngực nở eo thon, mang nhiều trang sức ở tai, cổ, bắp tay, cổ tay, cổ chân… khuôn mặt đầy đặn. Đôi mắt mở, tóc búi cao có miện chạm Avalokitesvara. Tượng thường có hai tay, cầm hoa sen, chuỗi hạt hoặc bình nước cam lồ. Nghệ nhân Champa đã thể hiện Lokesvara với ý nghĩa thuần túy bằng trực giác, những biểu trưng của Phật giáo phù hợp với ước vọng và niềm tin của xã hội Champa xưa.   - Tượng Phật Đồng Dương - TK IV Người Chăm gọi Đức Phật là “phịh”. Tượng Đồng Dương mặc áo choàng hở vai trong tư thế đứng trên tòa sen, tóc hình bụt ốc, tai dài gần đến vai, đôi mắt mở, khuôn mặt thon và đầy đặn.  Tượng Phật được thể hiện khá vạm vỡ, mang đậm phong cách Ấn Độ đến nỗi có nhà nghiên cứu cho rằng tượng được mang từ Ấn Độ sang. Trong các công trình nghiên cứu về Champa, nghề đúc đồng ít được quan tâm nhưng có một điều đáng lưu ý là trong các di vật Champa hầu như không có tượng Phật bằng đá và ngược lại không thấy các loại tượng Bà la môn được đúc bằng đồng. Ảnh hưởng của Phật giáo với Champa thể hiện mạnh nhất vào thời kỳ Indrapura. Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn   Theo baotanglichsuvn.com  
0 Rating 802 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On May 5, 2016
Huỳnh Thiệu Phong Dẫn nhập Dân tộc Chăm – một trong số 54 dân tộc anh em đang sinh sống trên lãnh thổ dân tộc Việt Nam đã từng có một thời kỳ huy hoàng trong lịch sử dân tộc. Ngày nay, mặc dù Vương quốc Chăm Pa đã không còn nữa, người Chăm hiện diện với tư cách là một tộc người bộ phận trong đại gia đình các dân tộc anh em của Việt Nam; song, những giá trị cả về lịch sử lẫn văn hóa mà Vương quốc Chăm nói chung, con người Chăm nói riêng để lại vẫn còn nguyên vẹn. Có những giá trị đã được phơi bày trước ánh sáng khoa học; nhưng đồng thời cũng có những giá trị vẫn còn là một dấu chấm hỏi đặt ra để thử thách giới khoa học. Vương quốc Chăm Pa trong lịch sử là vương quốc được hình thành từ sự hợp nhất của bộ tộc Cau và bộ tộc Dừa. Sự hình thành của Vương quốc Chăm được đánh mốc từ năm 192, sau khi Khu Liên (Kurung) nổi lên chống lại phong kiến nhà Đông Hán và thành lập Vương quốc Lâm Ấp – tiền thân của Chăm Pa. Với việc hình thành nhà nước từ sớm, trải qua quá trình phát triển lâu dài, người Chăm có đời sống văn hóa rất phát triển, đặc biệt là đời sống tinh thần. Trong đó, vì nằm trên địa bàn thuận lợi về giao thông biển cho nên “… từ văn hóa Sa Huỳnh, cư dân nơi đây đã có mối liên hệ giao lưu trao đổi với văn hóa Ấn Độ…” [6: 147]. Cho đến hiện nay, về cơ bản thì các nhà nghiên cứu tạm chia người Chăm ra làm 4 nhóm: Chăm Ahier – Chăm Awal – Chăm Islam – Chăm H’roi. Văn hóa là một phạm trù rộng lớn vô cùng, bao gồm hai thành tố nhỏ hơn là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Trong đó, văn hóa tinh thần bao gồm những thành tố như: Tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, lễ hội, … Thực chất, tôn giáo và tín ngưỡng là hai nội hàm khái niệm hoàn toàn khác biệt nhau. Nếu tôn giáo là một tổ chức có hệ thống phân chia rõ ràng thì tín ngưỡng chỉ dừng lại ở mức là một niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên nào đó, chưa có một hệ thống rõ ràng để lý giải và chúng chủ yếu lưu truyền trong dân gian. Trong chừng mực nhất định, chúng tôi chỉ tập trung vào mảng tín ngưỡng Chăm, phân tích một hình thức tín ngưỡng đặc sắc trong văn hóa Chăm. Cũng như người Việt, bên cạnh việc ảnh hưởng từ yếu tố tôn giáo (cụ thể ở đây là Bàlamôn giáo), người Chăm cũng có tín ngưỡng bản địa của riêng mình. Một trong số đó là tín ngưỡng thờ Mẹ. Điều này được thể hiện qua hình tượng Yang Po Inâ Nâgar – vị Mẫu thần mà người Chăm tôn thờ và gọi bà là Mẹ Nữ thần Xứ sở. Thông qua bài viết, chúng tôi sẽ tập trung làm rõ cơ sở hình thành, các truyền thuyết liên quan đến vị Mẫu thần này, đồng thời cũng sẽ đưa ra mối quan hệ giữa hình tượng Yang Po Inư Nâgar của người Chăm và Thiên Yana Thánh Mẫu của người Việt. Theo thống kê của cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, dân số của tộc người Chăm hiện nay là khoảng 161. 729 người. Các nhà nghiên cứu nhận định: “Đây là cư dân bản địa thuộc loại hình nhân chủng Indonesien…” [1: 6]. Do các biến cố lịch sử, hiện nay người Chăm tập trung phân bố chủ yếu ở các tỉnh duyên hải miền Trung, và tập trung đông tại khu vực An Giang. Yang Po Inâ Nâgar: Cơ sở hình thành và các truyền thuyết liên quan Cơ sở hình thành hình tượng Yang Po Inâ Nâgar    Trong lịch sử loài người, chế độ Mẫu hệ (Matrilineality) là một hình thái tổ chức xã hội chủ đạo của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Nguyên nhân xuất phát từ tiến trình phát triển của loài người. Từ thuở xa xưa, đàn ông là người phụ trách công việc đi săn bắn, tìm kiếm nguồn lương thực chủ yếu trong mỗi gia đình. Song nguồn thực phẩm này rất bấp bênh vì không phải lần đi săn nào cũng thu được kết quả. Trong khi đó, người phụ nữ lại ở nhà phụ trách việc trồng tỉa chăn nuôi (hoặc đi hái lượm hoa quả trong thời tiền sử). Do đó, mặc dù nguồn lợi thực phẩm không dồi dào như đi săn, nhưng nó lại đảm bảo sự ổn định. Ta có thể xem đó là yếu tố tiên quyết, là nguồn gốc sâu xa của việc con người ngày trước chỉ biết có mẹ mà không biết đến cha vì vai trò của người đàn ông rất mờ nhạt.    Như vậy, có thể hiểu chế độ Mẫu hệ là hệ thống mà hậu duệ được tính theo người mẹ và họ mẹ. Song có một điều ta cần lưu ý đó là việc chế độ Mẫu hệ không đồng nhất với Mẫu quyền (Martriarchy). Trong phân tích về nguồn gốc chế độ Mẫu hệ của người Chăm, Phú Văn Hẳn đã căn cứ đến 4 yếu tố mà theo ông, chính đó là nguyên nhân lý giải cho việc người Chăm theo Mẫu hệ. Bốn yếu tố đó bao gồm: Nguồn gốc lịch sử, chính trị – kinh tế, nguồn gốc nhân chủng – yếu tố tình cảm [1: 34].Từ nhận thức và sự tư duy đơn giản lúc ban đầu, hình tượng người mẹ trong tâm thức của người Chăm (và rất nhiều tộc người khác, trong đó có người Việt) đã dần trở nên linh thiêng và mang tính cao cả. Chính đó là nguyên nhân cơ bản để việc tôn thờ người mẹ được đẩy lên và trở thành một tín ngưỡng dân gian độc đáo – tín ngưỡng thờ Mẫu.    Như vậy, một câu hỏi đặt ra là: “Tín ngưỡng thờ Mẫu là gì ?”.Trước hết, chữ “Mẫu”(母) là một từ Hán Việt, có nghĩa là “mẹ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu có nghĩa là tín ngưỡng thờ người mẹ, ý chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng hô của con đối với người sinh ra mình.Vai trò của người mẹ đã được giáo sư Vũ Ngọc Khánh đề cập trong công trìnhTục thờ Thánh – Mẫu ở Việt Nam: “Mẹ sáng tạo ra con, chăm sóc con từ ngày con ở trong nôi cho đến lúc mẹ từ giã cõi đời. Những ngày đầu tiên của lịch sử nhân loại, con người chỉ biết có mẹ, không biết có cha. Xã hội hình thành cũng phải trải qua chặng đường đầu tiên là thời kỳ mẫu hệ. Do đó trong quan niệm của loài người, không thể thiếu hình ảnh người mẹ” [4: 11]. Về sau, quan niệm ấy dần được mở rộng hơn về phạm vi. Con người ai cũng có mẹ, vậy thì ông Trời mặc dù là đấng tối cao, nhưng cũng phải có mẹ; rồi vạn vật trên trái đất này đều có mẹ, tất cả đều phải tuân theo quy luật đó. Và từ những quan niệm đó thì những yếu tố và hiện tượng tự nhiên như: Mây, mưa, nước, núi, đất, … cũng đã “có” mẹ. Và đó cũng chính là nguyên nhân lý giải cho sự ra đời của “nguyên lý Mẹ”.    Tộc người Chăm cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Sự bắt gặp của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Chăm và người Việt về sau đã tạo điều kiện cho một sự tiếp biến văn hóa diễn ra; kết tinh của sự giao thoa và tiếp biến văn hóa đó chính là hình tượng Thiên Yana Diễn Ngọc Phi mà phần sau cùa bài viết sẽ đề cập.    Vậy thì Yang Po Inâ Nâgar – người được mệnh danh là “Mẹ Nữ thần Xứ sở” của người Chăm đã được xây dựng như thế nào ? Và ẩn dưới lớp vỏ bọc bên ngoài đó còn có những điều kiện nào quy định hay không ? Các truyền thuyết liên quan Về nguồn gốc của vị nữ thần này, căn cứ vào các nguồn tư liệu, Ngô Đức Thịnh đã phân thành hai nhánh truyền thuyết: Một mang tính vũ trụ luận tôn giáo, một mang tính dân gian phi tôn giáo. Về truyền thuyết mang tính vũ trụ luận tôn giáo thì cho rằng: “… Bà là vị thần từ cõi trời xuống trần gian, Bà có 97 người chồng, 36 người con tượng trưng cho 37 màu máu, 37 màu máu biến thành 37 giống cây trồng, vật nuôi và các tục lệ cúng thần khác. Thân thể bà đồng nhất và tượng trưng cho các phần khác nhau của vũ trụ: Thân của bà chính là bầu trời, đầu của bà chính là mũ đội của các vị vua, của các sư cả Bàlamôn, cánh tay của bà tượng trưng cho Sao Cày, đôi chân bà là sao Bắc Đẩu, răng của bà rìu đá của thần Sấm Sét, …” [7: 203, 204]. Một dị bản khác thì cho rằng: “Theo người Chàm, nữ thần Pô Nagar với tên gọi đầy đủ là Pô Yang Ino Nagara được sinh ra từ mây trời và từ bọt biển, nữ thần đã hiện thân dưới hình dáng một khúc gỗ kỳ nam nổi trên mặt biển. Bà có 97 người chồng, trong đó Po Yang Amô là người yêu có nhiều mãnh lực nhứt, và bà đã sinh 38 người con gái, đều cũng đã trở thành nữ thần như mẹ. Bà đã tạo sinh ra đất đai, cây kỳ nam và lúa gạo, không khí chung quanh bà đượm mùi thơm của lúa và chính bà đã đem sinh khí cho cây sung thần” [2: 225, 226]. Như vậy, hai truyền thuyết về vị nữ thần này dù có sự khác nhau đôi chút về phương diện mô tả, song tất cả đều hướng đến một mục đích là khẳng định vai trò to lớn của Yang Po Inâ Nâgar trong việc lập quốc. Về một truyền thuyết khác mang tính dân gian, phi tôn giáo, nhà nghiên cứu Trương Văn Món (Sakaya) đã dẫn lại văn bản cổ của người Chăm có ghi lại sự tích của Mẫu thần Yang Po Inâ Nâgar, có thể tóm lượt như sau: Ngày xưa có hai vợ chồng già lấy nhau lâu năm nhưng không có con. Hai người làm rẫy và cho trồng dưa hấu tại chân núi Lang Liri (núi Đại An). Khi đó, ông Trời đã phái một cô gái còn trẻ xuống rẫy hái trộm dưa. Hằng đêm cô đều xuống phá dưa làm cho hai ông bà rất tức giận; và do vậy, hai người đã lập mưu rình bắt người đã hái trộm dưa. Quả nhiên cô gái bị hai ông bà bắt được nhưng vì còn trẻ nên được hai ông bà nhận làm con nuôi. Ở chung được vài năm, trong một lần tắm sông, cô đã hóa thân vào khúc trầm hương và trôi ra biển lớn. Khúc gỗ trôi lên biển Bắc và rơi vào tay hoàng tử của Trung Hoa. Hoàng tử cho vớt khúc gỗ đem về cung. Sau đó ít lâu thì khúc gỗ hóa thân thành một cô gái xinh đẹp và hai người nên duyên vợ chồng. Chung sống với nhau và có được hai người con (đặt tên là Hai và Tray), về sau hai người xảy ra sự bất đồng kết hợp với việc nhớ cha mẹ già, cô đã nhập vào thân trầm để trở về quê hương. Sau khi nhận tin cha mẹ đã mất, cô đã ở lại để chỉ người dân kiến thiết đất nước, cho dạy chữ, hướng dẫn người dân cày cấy, trồng bông, dệt vải, xây tháp, … Sau khi mất thì cô hiển linh. Để ghi nhớ công lao của cô nên người dân đã suy tôn cô thành Mẹ Nữ thần Xứ sở – tức Yang Po Inâ Nâgar và cho xây dựng đền tháp để thờ phụng [7: 205, 206]. Như chúng ta đã biết, thờ Yang Po Inâ Nâgar không phải là tín ngưỡng duy nhất trong văn hóa bản địa của cộng đồng người Chăm, mà bên cạnh đó, họ còn có một hình thức tín ngưỡng rất phổ biến chính là tín ngưỡng phồn thực. Nếu chỉ xét ở bề nổi của tín ngưỡng này, thoạt nhiên ta thấy có vẻ như hai tín ngưỡng này có sự tách biệt và phân chia rạch ròi. Song, nếu chú ý kỹ ta sẽ thấy mối liên hệ giữa hai hình thức tín ngưỡng này. Trong truyền thuyết về vị Mẫu thần này, Bà có đến hơn 30 người con. Và đây chính là minh chứng cho sự sinh sôi nảy nở, phù hợp với nội dung của tín ngưỡng phồn thực. Cũng cần nói thêm rằng, trong quan niệm của người Chăm, vị Mẫu thần này còn được biết đến là Nữ thần Trầm hương. Tất cả các hoạt động ngày trước liên quan đến việc vào rừng để tìm trầm (gọi bằng thuật ngữ của cư dân địa phương là “Đi điệu”) đều gắn với vị nữ thần này, vì họ tin rằng Bà chính là người quyết định đến việc “cho” ai tìm được trầm. Hiện nay, tại một số di tích đền tháp Chăm còn sót lại, ngoài các vị thần “ngoại lai” được du nhập vào tôn giáo của người Chăm từ việc tiếp nhận Bàlamôn giáo, Yang Po Inâ Nâgar vẫn là vị nữ thần được tôn thờ nhiều nhất trong các đền tháp. Những di tích đền tháp này tập trung chủ yếu ở khu vực Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên [7: 209]. Trong những di tích đó, đáng kể nhất là tại Nha Trang với quần thể di tích Tháp Bà. Một điểm khá thú vị mà Ngô Đức Thịnh đã rút ra được trong công trình Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1) chính là: “… các di tích thờ Pô Inư Nưgar từ Nha Trang trở ra đến Huế đã bị Việt hóa, thành nơi thờ phụng các nữ thần mang danh thần Việt, như Thiên Yana, Bà Chúa Ngọc…” [7: 209]. Sự giao thoa văn hóa Việt – Chăm trong tiến trình lịch sử “Hoành Sơn, một dãy núi ngang, ở vào 10 thế kỷ trước, nó chẳng những là ranh giới giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành mà còn là ranh giới giao tiếp của hai nền văn hóa lớn của nhân loại: phía Bắc là vùng ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán, phía nam chịu ành hưởng của văn hóa Ấn Độ giáo”[2: 225]. Tuy nhiên, những biến thiên của lịch sử đã biến vị thế của ngọn núi ấy, tưởng chừng như là rào cản lớn lao, trở nên vô nghĩa. Sự mở rộng lãnh thổ của Đại Việt và thu hẹp lãnh thổ của vương quốc Chăm về phương Nam đã tạo nên một hình tượng mới trong văn hóa tín ngưỡng dân gian của người Việt. Thiên Yana “ra đời” như một điều tất yếu ! Quá trình đi về phương Nam của người Việt đã đồng hành với quá trình Nho giáo hóa ở vùng đất mới; tuy nhiên, vốn là vùng đất từng tồn tại một nền văn hóa rực rỡ, không đơn giản cho những người chủ mới (người Việt) biến đổi tính bản địa của văn hóa khu vực này một cách nhanh chóng mà ngược lại, “… người Việt đã tiếp xúc với việc thờ cúng nguyên mẫu các thần Chăm, trong đó có thần Pô Yang Ino Nagar”[2: 230]. Thiên Yana là ai ? Nói như Ngô Văn Doanh, Bà là một nữ thần bản địa của người Chăm đã được Việt hóa, là một Thượng đẳng thần và được người dân địa phương tôn kính thờ phụng [5: 272]. Đây có lẽ là câu trả lời ngắn gọn nhất nhưng chưa phải là rõ ràng nhất, nhất là trong việc ta muốn làm rõ tính hỗn dung văn hóa Việt – Chăm. Hiện nay, đa phần các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng hình tượng Thiên Yana và Yang Po Inâ Nâgar chính là một chỉnh thể duy nhất, song là hai vị nữ thần của hai dân tộc khác nhau. Cơ sở của sự tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar của người Chăm thành nữ thần Thiên Yana theo chúng tôi bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính: (1) Sự trùng hợp về việc tôn trọng vai trò người phụ nữ trong văn hóa truyền thống – (2) Sự hỗn cư của hai tộc người Việt – Chăm trong lịch sử. Việt Nam vốn là quốc gia nông nghiệp, vai trò người phụ nữ luôn được đề cao. Sự ảnh hưởng của Nho giáo sau này mới làm cho vai trò và vị trí của người phụ nữ bị giảm sút. Trong khi đó, như đã đề cập, người phụ nữ trong văn hóa Chăm vốn dĩ đã trở nên vĩ đại với việc họ tôn sùng người khai sinh ra dân tộc là một vị nữ thần – Nữ thần Yang Po Inâ Nâgar. Sự hỗn cư của hai tộc người Việt – Chăm trong lịch sử đã tạo ra bước ngoặc trong việc giao lưu và tiếp biến văn hóa. “… Lâu nay, khi nói về quá trình Nam tiến đó, thì nhiều người nghĩ đơn giản là cứ mỗi lần mở rộng phạm vi lãnh thổ quốc gia Đại Việt, người Việt tiến sâu về phương nam thì người Chăm càng co dần rút về tụ cư ở vùng đất Ninh Thuận Bình Thuận ngày nay. Thực ra không hoàn toàn là như vậy, mà cơ bản người Chăm vẫn bám trụ đất cũ, cùng cộng cư với người Việt mới tới và diễn ra quá trình người Chăm đồng hóa người Việt…” [7: 227]. Còn một nguyên nhân phụ khác, theo chúng tôi cũng nên đề cập mặc dù nó không phải là nguyên nhân chính. Đó chính là việc tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar  lúc ban đầu của người Việt chính là biểu hiện của việc tôn trọng tổ tiên của vùng đất này trước đây. Hai nguyên nhân chính và một nguyên nhân phụ chính là tiền đề cho việc hình thành hình tượng “Thiên Yana Diễn Ngọc Phi”. Danh xưng đầy đủ của vị nữ thần này là “Thiên Yana Diễn Ngọc Phi”. Trong việc phân tích danh xưng đầy đủ của vị nữ thần người Việt này, Nguyễn Hữu Hiếu đã có những kiến giải rất hợp lý. Thiên Yana là sự Việt hóa từ khái niệm Devayana, trong đó Thiên = Yang = Deva = Trời; Yana = phần còn lại của Devayana. “Diễn Ngọc Phi” hay “Diễn Phi Chúa Ngọc” phản ánh sự kiện vào năm 1797, Tổng trấn Nguyễn Văn Thành cho xây dựng đền thờ Bà Chúa Ngọc trên núi Diễn (Khánh Hòa) để mong vùng đất này không bị cọp quấy nhiễu [2]. Như vậy, ngay trong danh xưng của hai vị nữ thần này ta đã thấy có sự trùng hợp về mặt ngôn ngữ. Sự tiếp nhận hình tượng Yang Po Inâ Nâgar của người Chăm và đưa vào hệ thống điện thờ của người Việt đã vấp phải những rào cản nhất định. Thực chất hiện nay, ở mỗi địa phương khác nhau, hình tượng Thiên Yana đã có sự biến đổi tương đối. Sự biến đổi ở đây có thể là biến đổi về danh xưng (Thiên Yana – Bà Chúa Ngọc – Bà Bô Bô – Bà Thu Bồn – Bà Mẹ Đất) hoặc có thể là biến đổi về chức năng thờ cúng (có thể Bà là Mẹ Đất, Mẹ Sông, …) [6, 7]. Theo chúng tôi, đặc điểm này được quy định bởi yếu tố địa – văn hóa. Bởi vì, ở một số địa phương, Thiên Yana được thờ phụng cạnh một số dòng sông và khi đó, danh xưng lẫn chức năng của vị nữ thần này cũng đồng thời bị biến đổi. Mặt khác, ở địa phương không có sông suối, bà lại trở lại thành Bà Chúa Ngọc hay Thiên Yana. Dấu ấn của sự giao thoa văn hóa được thể hiện rõ nét nhất chính là tại quần thể di tích Tháp Bà ở Nha Trang. Ai trong chúng ta cũng đều biết, đây vốn là một công trình đền tháp của người Chăm xây dựng nhằm tôn thờ Mẹ Nữ thần Xứ sở của họ. Tuy nhiên, hiện nay, tại đây lại để cụm chữ “Tháp – Thiên – Y – Thánh – Mẫu” và có vẻ như đã phủ nhận hoàn toàn hình tượng Yang Po Inâ Nâgar (?). Và một thực tế là du khách khi đến tham quan tại quần thể di tích Tháp Bà hiện nay quan sát đều có thể thấy, cộng đồng người Chăm tại khu vực này còn tập trung rất ít, các nghi lễ thờ cúng do người Việt phụ trách là đa số. Nhìn chung, có thể xem thờ Mẫu là một điểm chung giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm: “… sự hỗn cư giữa người Chăm và người Việt, thì tín ngưỡng thờ Mẹ [của người Chăm – HTP] vẫn được duy trì bảo lưu và có sự gia nhập của người Việt, mang trong tinh thần Việt tục thờ Mẫu hội nhập với tục thờ Mẹ của người Chăm…” [6: 146]. Ta có quyền tự hào về hình tượng Thiên Yana – một sản phẩm minh chứng rõ nét cho quá trình giao lưu văn hóa Việt – Chăm trong dòng chảy lịch sử văn hóa dân tộc. Kết luận    Thờ Mẫu của người Chăm ẩn chứa trong đó nhiều giá trị đậm tính nhân văn, nội dung truyền thuyết chứa đựng khát khao mưu cầu một cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc của người Chăm.Trong xu thế toàn cầu hóa ngày nay, công tác bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống luôn là một trong những việc làm mang tính lâu dài và cấp thiết. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Chăm qua việc tôn thờ hình ảnh Po Yang Inâ Nâgar xứng đáng là một giá trị văn hóa đặc sắc cần được bảo tồn và phát huy. Đồng thời, vì điều kiện lịch sử, giữa hai nền văn hóa Việt – Chăm đã diễn ra sự chung đụng, quá trình tiếp biến văn hóa đã diễn ra như một quy luật tất yếu như nhận định của Nguyễn Thừa Hỷ “Trên thế giới, các nền văn hóa không đứng cô lập và bất biến” [3: 12]./. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
0 Rating 1.2k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 4, 2016
Quân Champa xâm lược Angkor (ảnh mô phỏng phù điêu) Trà Thanh Toàn A-VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT XÃ HỘI CHAMPA TRONG QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ Trong bất cứ lịch sử của một quốc gia nào, vấn đề xã hội luôn luôn là một đề tài quan trọng trong cơ cấu tổ chức của một cộng đồng. Mọi yếu tố, dù vô tình hay cố ý, nhằm đưa đẩy dân tộc đến sự xung đột và hiềm thù lẫn nhau, sẽ có một tác dụng vô cùng tai hại trong cơ cấu tổ chức xã hội đó. Và mọi xung đột xã hội là động cơ thúc đẩy một tập thể dân tộc đi vào con đường diệt vong. Trong quá trình lịch sử Champa, vấn đề xung đột xã hội đã trở thành một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra. Ða số đã nhận định rằng, sự xung đột liên tục trong nội bộ Champa mà lịch sử đã từng đề cập là nguyên nhân chính đã đưa vương quốc này đến chỗ diệt vong. Có 5 nguyên nhân mà lịch sử champa để lại: -: Tranh giành quyền lực giữa hai hòang tộc cau và dừa ngày càng lớn -: Các tôn giáo lớn trong khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo lộn trật tự xã hội champa có từ lâu đời. Xung đột giữa ấn giáo, đạo hồi và nho giáo lên đến đỉnh điểm. Phân biệt tôn giáo đã làm mất đi tính tự hào dân tộc, mất đi sự đoàn kết thiết yếu để bảo vệ dân tộc champa. -: Chênh lệch giàu nghèo giữa hoàng tộc và các tiểu vương -: Sai lầm quân sự khi đẩy mạnh tàu thuyền giao thương xa bờ nhưng không cũng cố phòng thủ quân sự, khi dân số ít và thưa thớt. -: Nội bộ trong cộng đồng nhân dân không đoàn kết. các tiểu vương chưa thống nhất, nhất quán trong chính tri, kinh tế và cả quân sự B-XÃ HỘI CHAMPA TRƯỚC THẾ KỶ 15 Từ ngày lập quốc đến 1471, năm đánh dấu sự thất thủ thành Vijaya, vấn đề chiến tranh nội bộ vẫn là một yếu tố quan trọng trong tiến trình lịch sử của vương quốc Champa. Trải qua hằng thế kỷ, tư liệu lịch sử cũng đã ghi nhận biết bao biến cố xã hội trong vương quốc này. Tuy nhiên, những tư liệu đó, nhất là các bản văn viết trên bia đá đã được tìm thấy ở Champa, chỉ cho phép chúng ta kết luận rằng mọi xung đột xã hội trước thế kỷ thứ 15 chỉ do một nguyên nhân chính yếu, đó là việc tranh chấp chính trị nhằm độc quyền cai trị trên vương quốc Champa giữa hai dòng tộc của các vua Champa thời trước: dòng tộc cây Cau nắm quyền cai trị tiểu vương quốc Panduranga (Phanrang-Phanri) và Kauthara (Khánh Hòa- Phú Yên) ở miền nam; dòng tộc cây Dừa, nắm quyền cai trị ở phía bắc Champa, đó là Vijaya (Bình Ðịnh) Amaravati (Quảng Nam và Quảng Ngải) và Indrapura (Huế). Chính vì sự khác biệt nguồn gốc giữa hai dòng tộc cây Cau và cây Dưà này mà các nhà lãnh đạo thường dùng chiến tranh hay vũ lực để tìm lối thoát cho những vấn đề liên quan đến sự sống còn của liên bang Champa (một thể chế chính trị rất gần với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay). Ðứng trên phương diện lịch sử mà nói, chiến tranh này chỉ là một phương thức nhằm giải quyết sự xung đột chính trị giữa hai tiểu vương quốc ở miền nam và ba tiểu vương quốc ở miền bắc, chứ không phải là vấn đề nội chiến phát xuất từ mối hiềm thù giữa dân tộc Champa. Chính vì thế, một khi chiến tranh đã chấm dứt, lãnh tụ dòng tộc nào may mắn được làm chủ tình hình quân sự sẽ trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Champa, gọi là vị vua của các vua Champa (Raja diraja Campa) nắm quyền cai tri trên toàn lãnh thổ của vương quốc này mà bia đá đã ghi là Po Tanah Raya “Quyền làm chủ trên toàn diện lãnh thổ›. Ngược lại, dòng tộc nào kém may mắn, thì phải chấp nhận sự yếu thế với tất cả lòng hãnh diện: không hiềm khích với dòng tộc khác và cũng không tìm cách trả thù vì sự thất bại của mình. Ðiều đáng nêu ra, là hai dòng tộc Champa này có một ý thức hệ rất đặc biệt về tư tưởng đấu tranh chính trị của họ. Một khi đã thành công, chính quyền trung ương Champa thường khắc lên bia đá điều giải thích nguyên nhân chính yếu của biến cố đã xảy ra và tuyên bố rõ rệt kết quả của phía thất trận và phía thắng trận. Mặt dù bị thất trận, dòng tộc thua kém này, nhất là dòng tộc ở miền nam, không bao giờ tìm cách để xóa bỏ những dòng chữ trên bia đá. Ngược lại, họ coi đó là những kỷ niệm cao cả và thiêng liêng trong quy luật đấu tranh chính trị: ăn làm vua nhưng không vì thua mà làm giặc. Trong quá trình lịch sử Ðông Nam Á, quy luật đấu tranh chính trị này chỉ xuất hiện ở vương quốc Champa mà thôi. C-KHỞI ĐẦU CỦA SỰ CÁCH BIỆT NAM BẮC CHAMPA Sự xung đột xã hội đầu tiên trong lịch sử Champa đã xảy ra vào những năm cuối cùng của thế kỷ 11.Sau ngày từ trần của vua Champa Jaya Simhavarman đệ nhị vào năm 1044, một tướng tài xuất thân từ gia đình quan chức trong triều đình Champa, nổi lọan chiếm ngôi ở thủ đô Vijaya, và tự tôn mình lên làm vua Champa lấy tên là: Jaya Paramesvara varman đệ nhất (1044-1060). Vì không đồng ý với chính sách dùng sức mạnh quân sự để chiếm đoạt ngôi vua Champa, tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vùng dậy tuyên chiến chống lại chính quyền của Jaya Paramesvaravarman đệ nhất vào năm 1050, nhưng không thành công. Trong một bản văn viết trên bia đá hiện còn ở trên tháp Po Klaong Garai (Phan Rang), vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất chỉ trích kịch liệt nhân dân Panduranga là những “kẻ ngu muội, những người vô tôn chỉ luôn luôn có thái độ hiềm thù… chống lại vua Campa”. Bản văn kết tội nhân dân Panduranga trên bia đá này cũng có nghĩa là kết tội dòng cây Cau ở miền nam chỉ tìm cách xen lấn vào nội bộ Champa ở miền bắc thuộc dòng cây Dừa. hiến tranh nội bộ này, mặc dù xuất phát từ sự tranh chấp quyền hành cai trị vương quốc Champa giữa hai dòng tộc, đã gây rạng nứt xã hội rất nghiêm trọng giữa dân tộc Champa ở miền nam vốn tôn thờ giai cấp lãnh đạo dòng cây Cau và dân tộc Champa ở miền bắc, trung thành với cấp lãnh đạo quốc gia thuộc dòng cây Dừa. May thay, cuộc xung đột này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn ngủi, bởi vì các giới lãnh đạo quốc gia giữa hai miền, cũng vì ý thức đến tầm quan trọng của sự xung đột này, đã tìm cách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. Ðể chấm dứt biến cố này, vua Panduranga chấp nhận sự thất bại của chiến tranh do mình tạo ra và sẳn sàng ra lệnh, thể theo lời yêu cầu của vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất, để bắt mỗi người dân Panduranga phải mang vài cục đá đem nộp cho đền tháp mỗi khi có cơ hội đi ngang qua khu vực này. Truyền thống này vẫn còn lưu truyền cho đến hôm nay, nhất là cho những ai thường đi ngang đèo Cậu, trên đường đi từ Phanrang lên Dalat. D-NGUYÊN NHÂN SỰ XUNG ĐỘT GIỮA NAM VÀ BẮC CHAMPA Sự thành công của cuộc hòa giải dân tộc vào năm 1050 vẫn là điều đáng chú ý, nhưng vấn đề xung đột xã hội vẫn là một hiện tượng lịch sử có một tác động tâm lý sâu đậm trong quần chúng. Và chỉ cần có một yếu tố nhỏ nhoi, biến cố này cũng có thể trở lại trên bàn cờ chính trị. 1-Tình hình 1145-1160 Năm 1145, vua Kampuchea là Suryavarman gởi một đoàn quân hùng mạnh sang thủ đô Vijaya và giết được vua Champa là Jaya Indravarman đệ tam (1139-1145) trên chiến trường. Ðể thay thế vua này, một hoàng tử xuất thân từ một gia đình hoàng gia khác, tự tôn mình là vua Champa, lên ngôi ở Vijaya lấy tên là Rudravarman đệ tứ Vì thủ đô Vijaya bị quân campuchia chiếm đóng hay là vì sự vùng dậy của nhân dân Champa ở miền Vijaya chống lại chính quyền cướp ngôi này, vua Rudravarman đệ tứ phải chạy sang ẩn náu ở tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vào năm 1147, cùng với đứa con trai của mình, tức là hoàng tử Sivanandana. Trước tình thế này, tiểu vương quốc Panduranga rất ân cần với gia đình hoàng gia từ miền bắc đến xin tị nạn trong lãnh thổ của mình. Một vài tháng sau, Rudravarman thoái vị và xin hậu thuẫn của tiểu vương quốc Panduranga để tôn hoàng tử trẻ tuổi Sivanandana hiện có mặt tạm thời trên lãnh thổ của mình lên làm vua Champa vào năm 1147, lấy tên là Jaya Harivarman đệ nhất. Khi đã lên ngôi, mặc dù còn ở trong lãnh thổ miền nam, Jaya Harivarman đệ nhất đã có danh chánh ngôn thuận để đòi hỏi quân xâm lược Kampuchea phải rời khỏi thủ đô Vijaya của Champa. Khi nghe tin này, vua Kampuchea Suryavarman vô cùng phẫn nộ và quyết định gởi một đoàn quân sang tàn phá vùng Phan Rang vào năm 1148. Sẳn dịp thắng trận, vua campuchia đưa em rể của mình là Harideva lên làm vua Champa ở Vijaya, bất chấp phản ứng của người dân Champa.Năm 1148 đánh dấu sự chia đôi đầu tiên của vương quốc này: Miền bắc Champa đặt dưới quyền cai trị của một ông hoàng tử gốc campuchia. Miền nam, đó là chính quyền của vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất, gốc người Vijaya. Một năm sau, tức là 1149, vua Jaya Harivarman đệ nhất, với sự hổ trợ của đoàn quân hùng mạnh Panduranga, sang đánh Vijaya, giết được hoàng tử Harideva của campuchia. Sau khi thắng trận, ông tự tôn mình là vua của vua Champa (Raja diraja Campa) trên toàn lãnh thổ của vương quốc này. Tiếc rằng, đối với nhân dân miền bắc Champa, Jaya Harivarman đệ nhất chỉ là một công cụ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam. Vì không chấp nhận chính sách của vua Jaya Harivarman đệ nhất nhằm dùng vũ lực để chiếm đoạt ngôi báu Champa, nhân dân Champa ở miền bắc và dân tộc Tây nguyên là Radê và Mada (Bahnar?) vùng dậy kêu gọi một hoàng tử khác, gốc hoàng gia Champa ở Vijaya, đó là Vangsaraja, em vợ của vua Harivarman đệ tứ (1114-1129) đứng ra làm lãnh tụ của phong trào kháng chiến này. Năm 1150, Jaya Harivarman đệ nhất cho lệnh tấn công hàng ngũ cách mạng của hoàng tử Vangsaraja, nhất là nhóm Radê và Mada ở Tây nguyên. Bị thất bại, hoàng tử Vangsaraja chạy sang Ðại Việt để xin viện trợ quân sự nhằm chiếm ngôi lại, nhưng không thành.Năm 1151, nhân dân vùng Amaravati cũng vùng dậy đứng sau lưng hoàng tử Vangsaraja để phản đối lại sự chiếm ngôi của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Bốn năm sau, tức là vào năm 1155, tiểu vương quốc Panduranga, không biết vì lý do gì, cũng đứng ra để truất phế vua này. Thế là chiến tranh giữa nam và bắc bùng nổ trong suốt năm năm trường. Phải chờ cho đến năm 1160, vua Jaya Harivarman đệ nhất mới có thời cơ để dẹp tan sự xung đột quân sự với Panduranga.Chiến tranh vào năm 1150 giữa vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất và nhóm Tây Nguyên trung thành với Vangsaraja, một hoàng tử mà người Radê và Mada coi như là dòng chính thống có quyền lên ngôi Champa của họ, đã bị thêu dệt một cách phi khoa học bởi một số nhà sử học nước ngoài và Việt Nam như một chiến tranh của người Chăm nhằm đô hộ cao nguyên. Nếu Champa không dính dáng gì với họ, tại sao dân tộc Radê và Mada lại tình nguyện đem quân giúp hoàng tử Vangsaraja để chống lại vua Jaya Harivarman đệ nhất từ Panduranga đến cai trị miền bắc. Sự thành công trong việc chiếm ngôi ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất đã từng tị nạn ở Panduranga không phải là sự thành công của cá nhân ngài, nhưng là sự thành công của toàn dân tộc cây Cau Champa ở miền nam trong công cuộc chiếm đoạt quyền cai trị ở miền bắc. Ngược lại, dòng cây Dừa cũng có lý do riêng để phản đối sự hiện diện ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Nguyên nhân chính đó là Jaya Harivarman đệ nhất, con của vua Rudravarman đệ tứ, không phải là dòng hoàng gia Champa, chạy sang Panduranga ở miền nam nhằm cầu cứu sự hỗ trợ chính trị và quân sự để chinh phục ngôi vua. 2-Tình hình 1190-1220 Sau cuộc nội chiến 1145-1160, tình hình nội bộ Champa trở lại bình thường, nhưng vấn đề cách biệt giữa dân tộc ở phía nam và bắc Champa vẫn còn là một hiện tượng đáng lo ngại. Bằng chứng rằng, sau 30 năm kể từ ngày cướp ngôi của vua Jaya Harivarman đệ nhất (1147-1160), vương quốc Champa đã lâm vào cuộc xung đột xã hội vô cùng bi đát chưa bao giờ có trong lịch sử Champa. Biến cố này phát xuất từ sự tranh chấp quyền lực giữa những hoàng tử ở miền bắc Champa, nhằm tạo cho mình một tư thế với bất cứ giá nào để được toàn quyền làm vua trên đất nước này. Nếu một số hoàng tử Champa ở miền bắc dùng chính sách kêu gọi nhân dân miền bắc vùng dậy để yểm trợ cho phe phái mình, cũng có một số hoàng tử không ngần ngại mời gọi quân ngoại lai nhằm giải quyết việc nội bộ trong vương quốc này. Vào năm 1182, tức là bốn mươi năm sau ngày dẹp tan quân Khmer ở Vijaya, một hoàng tử Champa khác tên là Sri Vidyanandana, gốc người Vijaya, chạy sang campuchia để tìm hậu thuẫn của vua Jayavarman đệ thất. Trong những năm lưu vong ở đây, ông ta xin vua Khmer phong tước cho mình là hoàng tử nối ngôi (Yuvaraja) của vương quốc Champa, bất chấp cả qui luật tổ chức chính trị trong vương quốc này. Vì rằng, chỉ có hội đồng hoàng gia có quyền phong chức hoàng tử nối ngôi của Champa. Với hậu thuẫn của một đoàn quân Khmer hùng mạnh, hoàng tử Vidyanandana sang tấn công thủ đô Vijaya vào năm 1190, bắt được vua Jaya Indravarman đệ tứ (1167-1190) để đem giao nạp cho vương quốc campuchia. Cũng nhờ hậu thuẫn chính trị và quân sự của vua Khmer là Jayavarman đệ thất mà hoàng tử Champa Sri Vidyanandana đã làm chủ tình hình chiến tranh ở miền bắc. Ðể tạ ơn vua campuchia hay là không đủ quyền lực chống lại sự thống trị của vương quốc láng giềng này, hoàng tử Champa Sri Vidyanandana , một khi đã thắng trận, xin đề nghị (hay là bị buộc phải đề nghị) em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất lên làm vua Champa ở Viajaya lấy tên là Suryajayavarman. Sau đó, ông ta tự xưng vua của tiểu vương quốc Panduranga, lấy tên là Suryavarman. Sự cầu cứu quân sự ngoại lai để giải quyết nội bộ Champa đã phân chia vương quốc này thành hai khu vực rõ rệt: Miền bắc đặt dưới sự cai trị của một ông vua ngoại lai từ Khmer sang. Miền nam lại lọt vào trong tay của một ông hoàng tử Champa không phải gốc Panduranga, nhưng là gốc người miền bắc. Vấn đề tự xưng vương ở Panduranga của vua Suryavarman, gốc Vijaya đã biến tình hình xã hội miền nam thành một ung nhọt không chữa trị được. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Champa miền nam cảm thấy mình không còn làm chủ trên lãnh thổ của mình nữa. Trước biến cố chính trị này, nhân dân Panduranga tìm cách vùng dậy, vào năm 1190 không phải để chống xâm lược ngoại lai, nhưng chống lại hoàng tử Champa gốc miền bắc, mặc dù không thành công. Trong khi đó, dân tộc Champa miền bắc cũng vùng dậy vào năm 1191 dưới quyền chỉ đạo của hoàng tử Rasupati để đánh đuổi ông vua ngoại lai ở thủ đô Vijaya. Khi đã thắng trận, hoàng tử Rasupati lên ngôi lấy tên là Jaya Indravarman đệ ngũ.Trước tình thế này, vua Khmer không ngần ngại vuốt ve Jaya Indravarman đệ tứ, một ông vua Champa bị bắt giam ở Khmer vào năm 1190. Ðó cũng là một chiến thuật mới: dùng người Champa để chống lại với vương quốc Champa. Nhưng đối với vua Champa là Jaya Indravarman đệ tứ đang tù đày ở Khmer, đây cũng là một dịp may mắn để chiếm lại ngôi vàng của mình.Cũng vào năm 1191, vua Jaya Indravarman đệ tứ, đem quân từ Khemer sang hợp tác với vua Panduranga là Suryavarman để tiến đánh Vijaya. Mặc dù mang danh là người đứng ra để giúp đỡ Jaya Indravarman đệ tứ để chống lại chính quyền Vijaya, vua Suryavarman của tiểu vương quốc Panduranga, khi đã thắng trận, tự xưng mình là vua trên toàn vẹn lãnh thổ Champa. Cảm thấy mình bị lừa bịp trong chiến tranh này, Jaya Indravarman đệ tứ quyết định tập trung lực lượng của mình từ Khmer sang để tấn công vua Suryavarman, một nhân vật cướp ngôi, nhưng không thành.Nghe tin này, vua campuchia Jayavarman đệ thất tức tốc gởi quân sang để trừng trị Suryavarman ở Vijaya vào văm 1193. Thế là chiến tranh giữa Campuchia và Champa bắt đầu bùng nổ, một chiến tranh vô cùng khủng khiếp làm đảo lộn hoàn toàn bao công trình kinh tế và cơ cấu xã hội. Quân Champa cướp phá Angkor Trong suốt 10 năm chiến tranh, vua Khmer, vì không thể nào chống lại vua Champa, chỉ còn cách là nhờ ông Dhanapati Grama, là cậu ruột của vua Suryavarman, tìm cách cô lập vua Champa này. Thế là vào năm 1203 chính quyền vua Suryavarma bị lật đổ bởi cậu ruột của mình là ông Dhanapati Grama, dưới sự yểm trợ của đoàn quân campuchia. Sau trận chiến này, Champa đã trở thành một thuộc địa của Campuchia trong suốt 17 năm, tức là từ năm 1203-1220. Ðứng trên phương diện lịch sử mà nói, vào những năm 1190-1220, xã hội Champa đã trở thành hai bãi chiến trường mà dân tộc Champa là nạn nhân chính của chiến cuộc này. Một bên là chiến trường tranh chấp quyền hành giữa các hoàng tử Champa ở miền bắc để làm bá chủ vương quốc Champa, còn chiến trường thứ hai dành cho sự tranh chấp uy quyền giữa hai nước láng giềng Champa và campuchia. Từ năm 1182 đến năm 1220, nhân dân Champa đang chứng kiến một vở bi kịch lịch sử với bao nhiêu nhân vật chính trị tranh giành quyền làm Po Tanah Raya: – Hoàng tử Sri Vidyananda chạy sang lánh nạn ở Khmer vào năm 1182, rồi sau trở thành vua tiểu vương quốc Panduranga, lấy tên là Suryavarman. – Vua Indavarman ở Vijaya bị quân campuchia bắt đày sang campuchia vào năm 1190.- Em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất tự xưng vương ở Vijaya Champa lấy tên là Suryajayavarman. 3-Chiến tranh với Mông cổ 1283-1285 Sáu mươi ba năm về sau, tức là năm 1283, tiểu vương quốc Champa Vijaya lại bị quân Mông Cổ chiếm cứ liên tục trong hai năm liền. Vua Champa Indravarman đệ ngũ, vì không thể đứng ra để đối chọi với đoàn quân hùng mạnh Mông Cổ trong khu vực đồng bằng, dùng chiến thuật nhà không đồng trống để kháng chiến, quyết định rút toàn bộ quân sự của mình về phòng thủ ở Tây Nguyên.
0 Rating 477 views 1 like 0 Comments
Read more