Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On November 22, 2013
Ch??ng 2 – p1 12 n?m sau. ?à N?ng, 22 gi? 17 phút ngày 19 tháng 8. Ng??i ?àn ông Pháp g?y gò ?ang s?a so?n ??ng tài li?u trong c?n phòng c?a m?t khách s?n bên b? bi?n ?à n?ng. Su?t m??i hai n?m s?ng ?n gi?t sau bi?n c? kinh hoàng, n?i ân h?n và s? hãi ?ã v?t ki?t m?t nhà kh?o c? tài ba ?ang ?à sung mãn tr? nên ti?u t?y h?n so v?i cái t?i 67 c?a mình. Ni?m an ?i l?n nh?t gi? ông l?i trên cõi tr?n là l?n ??a con gái ??c nh?t v?i ng??i v? b?t h?nh mà ông ?ã vô tình ??y vào ch? ch?t. V?t th??ng nào r?i c?ng ph?i lành da. Ngày ông ph?c h?n và làm theo ??c nguy?n c?a v? lúc lâm chung ?ã ??n. M?i khâu chu?n b? cho ngày tr?ng ??i s? di?n ra vào hôm sau ?ã hoàn t?t, ông lôi cu?n nh?t kí ??t lên bàn ??nh chép n?t vài dòng. D? cu?n s? dày c?p luôn bên c?nh ông su?t m?y m??i n?m nay, trên khuôn m?t phong s??ng h?c hác c?a nhà kh?o c? Vi?n Vi?n ?ông B?c C? l?ng danh thoáng hi?n m?t n?i bu?n. Cu?n s? ch? còn ?úng m?t trang. B?t giác ông linh c?m có chuy?n gì ?ó khác l?, nh?ng trang gi?y nâu chi chít nh?ng phát hi?n, nh?ng s? ki?n ?áng nh? và c? nh?ng ngày ?au ??n cùng c?c trong ??i. Nó là ng??i b?n duy nh?t luôn ? bên ông. Càng ngh? ông l?i phát hi?n nó gi?ng mình ??n kì l?. C?ng thô m?c, nhàu nh? và cô ??c nh?ng ??y ?p tri th?c và ??y r?y kh?ng ho?ng còn nóng r?c ??n t?n hôm nay. Ông ch?t nh?n ra nó chính là b?n sao chu?n xác nh?t v? ??i mình nh?ng ông không mong gi?ng nó n?a. B?i, nó ch? còn ?úng m?t trang. M?t n?i ám ?nh ch?t chóc b?ng d?ng s?ng l?i. L?i nguy?n ??c ??a ?ã c??p ?i ng??i v? h?t lòng yêu th??ng. Hôm nay nó nh? ?ang hi?n v? ?? mang ?i n?t b? con ông sao? C? xua ?u?i cái c?m giác b?t an c?a m?t k? có tu?i ??c thân, Paul Morier b?t ??u c?m bút r?i ch?t chiu trang gi?y còn l?i. Ông có thói quen ghi l?i nh?ng di?n bi?n chính trong ngày, sau ?ó g?ch ??u dòng các vi?c quan tr?ng cho ngày mai. Hôm nay là m?t ngày b?n r?n nên nh?ng dòng ch? c?ng dài h?n. Nh?ng ngày mai m?i th?c s? quan tr?ng nh?t. Theo l?ch ?ã s?p x?p, ?úng 7 gi? sáng mai ông s? ??n ??u phái ?oàn kh?o c? vào thánh ??a M? S?n ?? khai qu?t m?t th?n b?o h? c?a V??ng qu?c Champa c? x?a. Tr? ông ra, không m?t ai bi?t báu v?t này là gì và chôn v? trí nào cho ??n phút chót. B?t ch?p s? háo h?c và nôn nóng dâng cao trong gi?i kh?o c? nh? m?t n?i súpde ?ang ?un sôi, ông v?n gi? phong thái l?nh lùng th??ng th?y. Ông bi?t ch? vài gi? n?a thôi h? s? v? òa. Giây phút l?ch s? c?a ngành kh?o c? Vi?t Nam nói chung và Ch?mpa h?c nói riêng s? b??c qua m?t trang m?i. Paul ??ng d?y r?i t? t? m? toang c?a s?. M?t làn gió bi?n ?ông mát r??i lùa vào tràn ng?p c?n phòng nh?. Hít th? m?t h?i tràn ??y l?ng ng?c, ông ??ng l?ng h?i lâu. H??ng ?ông, theo quan ni?m c?a ng??i Ch?m là h??ng c?a th?n linh và c?i ngu?n c?a s? s?ng. Là m?t k? ?ã dành h?t tâm l?c cho ??t thánh M? S?n, cùng v?i trái tim thành tâm c?a mình ông có quy?n tin r?ng ? ch?n linh thiêng các ??ng siêu nhiên ?ang nhìn th?u và s? phù h? cho ông trong s? m?nh cu?i ??i này. Ta ch? c?n s?ng thêm hai ngày n?a. ?úng v?y, ch? c?n 48 ti?ng n?a, món n? l?ch s? dài ??ng ??ng h?n m?t ngàn n?m mà nhân lo?i ?ang vay c?a ng??i Ch?m s? ???c ông thanh toán r?t ráo. Sòng ph?ng tr??c khi ch?t. Ti?ng chuông ?i?n tho?i bàn reo vang, Paul nh?c máy, gi?ng nói quen thu?c ?p ??n vào cái gi? c?m làm ông kinh ng?c. - Anh nói gì? ... Sao h?? – Paul th?t lên l?c c? gi?ng - Ch?c ch?n không?... ???c r?i, tôi s? m? máy ra ngay bây gi?. ??t tai nghe xu?ng r?i kh?i ??ng nhanh chi?c Ipad, Paul m? h?p th? ?i?n t? c?a mình. T?m ?nh trong b?c th? hi?n lên ??y s? kinh s? c?a ông lên ??n ??nh ?i?m. Chính nó ?ây r?i. Không th? nh?m l?n ???c. S? bí m?t tuy?t ??i mà ông ?ã gi? m??i hai n?m nay ?ã h?t. Linh v?t v?a b? ai ?ó ?ào lên. Ai ?ã c??p c?a ông? Tr?i ??t nh? quanh cu?ng tr??c m?t. Nh?ng m?t b?o v?t ch?a ph?i là t?t c?, v?n ?? là nó gi?ng nh? cái ch?t an toàn c?a m?t trái phá ?ã b? rút. Paul rùng mình ngh? ??n m?t ??i h?a kh?ng khi?p s? giáng xu?ng t?c thì. M? hôi l?nh t? nhiên túa ra ??y trán. Trong giây phút hoang mang t?t ??, ông không còn nhi?u s? l?a ch?n. Ông c?m th?y mình ph?i làm m?t vi?c gì ?ó ngay t?c thì, ph?i g?i ngay cho ai ?ó tr? giúp. ?i?n báo cho ban di tích M? S?n hay cho c?nh sát? Báo cho ??ng nghi?p tr??c hay t? mình ??n ?ó tr??c? Paul cu?ng cu?ng l?c tìm các s? ?i?n tho?i nh?ng tai quái là ông không có di ??ng còn cu?n danh b? thì ?ã quên ? nhà. Mà dù có g?i cho ai thì ông c?ng không th? không ??n ?ó. Trong lúc cu?n lo?n, nh?ng linh c?m quái g? c?ng thi nhau ?p ??n. Ph?i trao bí m?t cho ai ?ó phòng khi m?t ?i không tr? l?i. Trao kho báu cho ai m?i là v?n ??. Paul b?ng nhiên nh? t?i m?t ng??i Pháp r?t n?i ti?ng th? k? 18 – tên h?i t?c khét ti?ng Labis. Tr??c khi b? treo c? y ?ã ném t?m da dê v? ??y hình thù kì d? xu?ng pháp tr??ng và nói l?n ‘’ Kho báu c?a ta s? thu?c v? ai có th? hi?u ???c nó’’. Khi ngh? ??n k? ??ng h??ng này, Paul b?ng th?y mình th? dãn khác l?. Ông m?m c??i. Cho dù linh v?t b? m?t th?t ?i ch?ng n?a nh?ng kho báu Champa kh?ng l? v?n ?ang tuy?t m?t trong tay ông. Th? nh?ng n?u ?êm nay ông b? gi?t? Làm sao ?? nó không b? th?t truy?n ?ây? Ph?i r?i, m?t mã! Rút t? gi?y và cây bút. Paul vi?t ?úng 8 kí t? r?i l?p t?c b? ?i.  *                        Chi?c Ford Ranger c? k? phanh két trong bãi gara v?ng v? v? khuya. M?t thanh niên tr? v?i vã b??c ra r?i r?o b??c v? s?nh chính. Kì Ph??ng có m?t t?i sân bay ?à N?ng trong m?t tâm tr?ng b?i h?i hi?m có ? m?t ki?n trúc s? quen s?ng tr?m l?ng. V?i anh, ch?a bao gi? th?i gian l?i t?n công d?n d?p nh? hôm nay. Anh ?ã lái xe xuyên r?ng trong ?êm ?? ?i ?ón m?t nhân v?t thú v? mà h?n ch?c n?m nay ch?a g?p l?i, ?ó là Thi Nga. Nàng là ti?u th? danh giá và xinh ??p c?a Paul- ng??i th?y c?a anh. ?n t??ng v? cô bé mang hai dòng máu ??c bi?t này trong anh không nhi?u ngoài thân hình nh?ng nhiu v?i s? thích b?i l?i trên con su?i quanh co ch?y qua vùng ??t thánh h?n m??i n?m tr??c.  M?t tháng th?c t?p nhoáng trôi ?i, gã sinh viên Kì Ph??ng tr? v? Hà N?i và sau ?ó không lâu anh bi?t tin c? gia ?ình ông không còn ? M? S?n n?a. H?n m??i n?m trôi qua không m?t tin t?c gì v? h? cho ??n hôm qua, ông b?t ng? xu?t hi?n tr? l?i trong m?t cu?c kh?o c? ??c bi?t s? di?n ra ngày mai. Quá xúc ??ng vì ông còn nh? c?u h?c trò v?n không có gì n?i b?t n?m x?a, Kì Ph??ng không bi?t nói gì h?n. Không ch? nh? ??n anh, ông còn ng? ý nh? anh qua sân bay ?ón con gái c?ng bay t? Pari tr? l?i. Th?t không có gì quý h?n ???c g?p l?i nh?ng ng??i ?ã t?ng coi anh nh? thành viên trong gia ?ình. B?ng ?i?n t? thông báo chuy?n bay t? Paris quá c?nh Sài Gòn và ?ã h? cánh xu?ng ?à N?ng an toàn. Kì Ph??ng ??a tay nhìn ??ng h?. 11’30 gi? t?i. Kì Ph??ng lách qua ?ám ?ông ngoi lên, m?t nhìn dòng ng??i ?ang ùn ùn ?? ra v?i tâm tr?ng không th? h?i h?p h?n. Ánh m?t anh không sót m?t ai, nh?ng cô tr? ??p ph?i nhìn k? h?n b?i anh tin ch?c ch?n r?ng nàng ph?i th?. M?t thi?u n? ?ôi m??i mang hai dòng máu Pháp - Ch?m ch?c ph?i có cái gì ?ó r?t l?. Nàng s? di?nváy ??mhay là khép mình trong b? áo dài Ch?m truyên th?ng ?ây? Dòng khách nhanh chóng trôi qua nh?ng không ai kh?p v?i trí t??ng t??ng c?a anh. C?ng ch?ng m?t ai g?i tên anh n?t. ?úng khi ?ó, có bàn tay v? nh? lên vai. - Anh là Kì Ph??ng? - Anh quay gi?t l?i, sát sau là m?t cô gái r?t tr? v?n váy ?en, ?i giày cao gót. - Vâng... cô ?ây là... - Tôi là Thi Nga! - Tôi là Kì Ph??ng, - anh ?áp l?i- Tôi lên ?? ?ón cô ?ây. Kì Ph??ng g?n nh? không th? r?i ánh m?t kh?i cô ta ???c n?a, nh?ng nét thân thu?c ?n sâu trong kí ?c c?a anh t?i t?p ùa v?. - Anh ?úng là ki?n trúc s? Kì Ph??ng không?- Khác h?n anh, ?ôi m?t ?en d?ng d?ng c?a cô ?ã nói lên r?ng, cô ta ?ã quên t?t c?. - ?úng r?i, n?u c?n cô có th? xem ch?ng minh th? tr??c khi ra xe cùng tôi. - Kh?i c?n, coi nh? ?i xe ôm! Kì Ph??ng không bi?t cô ta nói th?t hay ?ùa, anh ?oán cô vui quá mà l? l?i thôi. - Hình nh? cô ?ã quên tôi? – anh h?i và h?i h?p ??i câu tr? l?i. V?n n? n? c??i xã giao, cô ?áp: - Th?c ra h?i ?y tôi còn nh? quá. - Ch? trách tr? con hay quên,– Anh nhìn ngang vào má cô và c? g?ng ??a ra m?t nh?n xét tinh t?. – còn cô, trông khuôn m?t cô không khác tr??c là m?y ?âu. - V?y mà lúc nãy anh không nh?n ra tôi, - cô ?áp r?t nhanh - mà thôi, tôi bi?t ?àn ông các anh th??ng ng?m nhìn ph? n? nh?ng n?i ... không h?n là khuôn m?t. Kì Ph??ng h?i ng??ng, lí do anh b? sót cô chính là khuôn m?t không h? trang ?i?m và b? tóc ?en m?c m?c, ?ã th? cô ta l?i ch?n cách ?n m?c t?i màu tr? ?ôi giày ?? d??i chân. - Không nh? m?t tôi, sao cô l?i v? vai và g?i ?úng tên tôi? - Vì tôi bi?t tr??c anh ?i ?ón, khách ra h?t ch? còn anh ??ng ?ó nên tôi ?oán v?y. Kì Ph??ng g?t ??u m?m c??i. Hai ng??i không nói gì cho ??n khi chi?c xe ford c?a anh n?ng nh?c l?n bánh h??ng v? thành ph?. - Bây gi? chúng ta v? khách s?n ch?? – cô gái ??t nhiên h?i t? hàng gh? sau. - Sao cô bi?t? - Thì ba tôi ?ang ? ?ó mà, ?úng không? - ?, hôm nay ông ?y nh?c cô su?t ngày ??y. ?ã khuya nh?ng có l? ông ?y ?ang ch? cô v? ?n t?i ??y. Kì Ph??ng b?a nh? th? ch? th?c ra anh th?a hi?u tính lãng trí c?a ba cô ch?ng ai bì n?i. Cuôc ??i nhà kh?o c? này g?n li?n v?i sách v? và g?ch ?á. Ông có th? ??c vanh vách t?ng niên ??i c?a t?t c? hi?n v?t trong b?o tàng Ch?m nh?ng l?i quên t?t ngày sinh nh?t c?a v? con. Sáng nay ông ta b?n ?ánh v?t v?i kh?i bia kí t?i M? S?n r?i hàng tá chuyên gia quen l?n không quen ùa vào hóng chuy?n. Thú th?c, ng??i ch? ??i cô nh?t chính là anh. Chi?u nay, t? khi bi?t tin cô v?, anh luôn ngh? v? cô v?i b?o k? ni?m ng?t nào xa x?a, nh?ng cái anh tò mò nh?t là cô xinh ??n m?c nào. Anh ?ã quên ?n và b?t ch?p m? công vi?c bù ??u ?? ?i ?ón cô. Gi? nhìn th?y dung nhan này anh vui s??ng vì ?ã không bõ công t??ng t??ng.  Tuy nhiên khi ??i m?t v?i s? l?nh nh?t kia, anh không kh?i bu?n lòng. - Th?c ra anh ?? ba em ? l?i khách s?n m?t mình là h?i ?u. – cô l?i nói. Kì Ph??ng ch?ng h?ng. Anh ch?a ng??ng: - Ba cô b?o th?... Mà tôi không hi?u vì sao hai ng??i không ch? nhau ?? ?i cùng chuy?n bay? - Vâng, l? ra tôi ?ã bay cùng chuy?n ba tôi hôm qua, nh?ng do ph?i thi n?t m?t môn quan tr?ng nên ph?i ?i sau m?t ngày m?c dù bi?t r?ng ?? ông ta ?i m?t mình là không nên. - Trông ba cô qu?c th??c l?m, tôi ngh? không có v?n ?? gì v? s?c kh?e ?âu. - Anh ch?a hi?u h?t ?âu, ?êm nay r?t quan tr?ng v?i ông ?y, tôi r?t lo vì các r?i ro khác. ?úng là Kì Ph??ng không hi?u nhi?u v? Paul ngoài nh?ng giai tho?i ch?ng t? ?ây là m?t ng??i Pháp có nhi?u duyên n? nh?t v?i x? s? này. Nh?ng ?i?u mà b?t c? ai c?ng bi?t là ngày mai ?ích thân Paul s? khai qu?t m?t báu v?t c?a v??ng tri?u Champa. Tin này l?p t?c thu hút các nhà kh?o c? kh?p th? gi?i, ??i v?i các nhà nghiên c?u v?n hóa Ch?m thì ?ây là m?t ti?ng sét vang d?i báo hi?u c?n dông hi?m hoi sau nhi?u n?m khô c?n h?n hán. Không gi?ng nh? các cu?c khai qu?t thông th??ng v?n th?m l?ng di?n ra ? ?âu ?ó hàng ngày, ?i?u b?t th??ng là Paul d??ng nh? bi?t tr??c c? v?t là cái gì và ?ang n?m ? ?âu d??i lòng ??t. H?t nh? hàng ngàn n?m tr??c t? tiên c?a ông ta chôn xu?ng và truy?n l?i b?n ?? cho chính ông ta v?y. S? kì bí c?a báu v?t và thói úp m? c?a Paul v?a gây thêm tò mò v?a sinh l?m k? hi?m ghét. Ông ??c quy?n báu v?t l?n thông tin. Nói d?i, ng? nh? ?êm nay ông có m?nh h? gì thì t?t c? c?ng ?i theo ông n?t. - Cô yên tâm, - Anh c?t cao gi?ng. - không ??y n?m phút n?a tôi s? bàn giao cô cho ông ta, hai cha con tha h? mà hàn huyên nhá! Rex Hotel tráng l? t?a l?c trên bãi bi?n l? d?n tr??c ánh ?èn pha. Kì Ph??ng cua xe vào trong sân r?i b??c xu?ng d?n cô vào trong s?nh. Gã nhân viên có chi?c n? trên c? áo mau mi?ng chào anh nh?ng c?p m?t c?a h?n ta l?i h??ng v? cô gái ??ng phía sau. - Anh ch? c?n thuê phòng? - Phi?n anh g?i lên phòng 307, báo cho ông Paul Morier có ng??i ??n g?p. – Kì Ph??ng nói. Gã nh??ng mày ra chi?u suy ngh?. - Vâng, anh ch? lát. – y c?m máy ?n s? r?i áp lên tai khá lâu, m?t li?c thêm cô gái m?y ch?p mà h?n cho là ?n d?t m?y ? ng??i m?u quen m?t th??ng lui t?i ?ây cùng các ??i gia. - Ch?ng ai nghe máy c?. – y l?c l?c cái ??u húi cua r?i nói. - có l? ông ta ?ang t?m? - Ông ta có ra ngoài không? – Kì Ph??ng h?i. - C?ng có th?. - Gã ??o ánh m?t l? ?ãng m?t cung tròn r?i nhìn Thi Nga g?i ý.- Cô là ng??i nhà c?a ông Paul à? Khách kh?a ra vào quá ?ông, tôi không ?? ý l?m. N?u c?n ngh? ng?i, hai ng??i c? ??t thêm phòng? - Chúng tôi không có nhu c?u lên phòng. – Thi Nga c?t ngang l?i anh ta. - Không thuê phòng?- Anh chàng l? tân ch? tay v? phía gh? sôfa - v?y thì xin m?i anh ch?! - Vâng, chúng tôi s? ??i! – cô ?áp.  Thi Nga bi?t nh??c ?i?m c?a ba cô là hay quên. N?u ông ta ra ngoài ?i d?o m?t mình, cô ch? hi v?ng r?ng ?êm nay ông nh? ???ng v?. Cô không th? liên l?c cho ông vì ông không dùng ?i?n tho?i di ??ng nh?ng cô cho r?ng nh? v?y t?t h?n, b?i h? c? mua t?ng ông hôm nay thì l?i m?t vào hôm sau. Ng?i trong s?nh có t??ng kính nhìn ra bãi bi?n, Thi Nga xua tan s? lo âu c?a mình b?ng cách th? h?n theo nh?ng ?ám mây l?n v?i ngoài bi?n xa. Trong khi cô ng?m bi?n thì Kì Ph??ng ng?m cô. Da tr?ng, tóc dài, m?i thanh, môi h?ng... không trang ?i?m. Không gi?ng ánh m?t xanh l?o c?a cha, cô gi? s?c m?t ?en th?m th?m c?a m? cô trên g??ng m?t ??y quý phái. T?o hóa ?ã mang cho cô s? tuy?t m? gi?a s? thanh tao c?a ng??i ph??ng tây và s? ??m th?m dung d? c?a ph? n? An nam. Ánh tr?ng vàng chi?u chênh ch?ch làm khuôn m?t cô sáng lên ??y huy?n ?o. Cô cách anh m?t t?m tay mà ng? nh? m?t thiên th?n ?ang bay xa v?n d?m. Máu ngh? s? b?t ch?t n?i lên, anh kh? g?i tên cô. - Tuy?t quá...Thi Nga cói th? cho tôi...kí h?a ???c không? Cô gái quay l?i v?i n? c??i hi?m hoi. Tuy nhiên dù cô có ??ng ý hay không thì cu?n s? và chi?c bút ?ã n?m g?n trên tay anh. T?ng v? hàng tr?m khuôn m?t danh ti?ng và nhi?u ng??i m?u kho? thân nh?ng ch?a bao gi? anh l?i run tay nh? v?y. V? kí h?a ch? c?n ch?p l?y th?n s?c c?a nhân v?t và ghi l?i b?ng vài nét bút. Tuy thô s? nh?ng ng??i h?a s? ph?i tài hoa m?i mong th?i ???c vào b?c tranh c? tâm h?n l?n tính cách. V?a ???c vài nét thì gi?ng the thé c?a gã nhân viên làm anh c?t h?ng. - Cô Thi Nga có ?ây không? - Tôi ?ây- Thi Nga quyên m?t ?ang làm m?u v?t, cô ??ng v?t lên r?i ?i v? phía qu?y.- Gì v?y anh? Chàng l? tân ?ã s?n n? c??i duyên t? ??ng xa kèm v?i m?t lá th? trên tay. ?i?u b? h?t nh? s?p ban cho cô m?t ni?m vui l?n. - Có m?t lá th? c?a ông Paul g?i l?i ?ây ??y. - Th? ba tôi? sao lúc nãy anh không nói ngay. - Xin l?i, tôi... quên! Thi Nga tin r?ng gã này có v?n ??. Không ??i anh ta nói h?t câu, cô ??a tay ?ón l?y nh?ng b? anh chàng ‘’có v?n ??’’ này v?i r?t tay l?i. L?n này y m?nh d?n nhìn th?ng. - Khoan ?ã, l?y gì ch?ng minh cô là... ng??i nhà c?a Paul? Cô ?ành l?y t?m h? chi?u màu h?t d? ??a cho anh ta. Chàng nhân viên nhìn xu?ng r?i l?i nhìn lên m?t cô ??i chi?u. Không th? tìm ra lí do níu gi? cô ta lâu h?n, anh ta trao tr? h? chi?u l?n b?c th?. Nói là b?c th? ch? th?c ra là t? gi?y tr?ng kh? A4 g?p l?i làm t?. Hi v?ng ba cô nh?n l?i ?i?u gì tr??c khi ?i ?âu ?ó, cô v?i vã m? ra. Khi trang gi?y dang r?ng tr??c m?t, cô không th? ng?c nhiên h?n khi th?y m?y kí t? l? ho?c:                   A5D3                   C1D7 Cô quay l?i h?i ngay ng??i thanh niên. - Li?u anh có ?ùa tôi không? ?úng là ông Paul Morier ? phòng 307 vi?t và b?c th? này? - ? hay, cô ngh? tôi v? ra ?? trêu cô ch?c. - Xin l?i, ?úng là ông tây cao cao g?y g?y, râu tóc b?c ph? bi?t ti?ng Vi?t ?úng không. - S?ng m?i cao và ?ôi môi màu d?a h?u nh? cô n?a ??y! – anh ta b? sung. - Phi?n anh cho tôi h?i thêm, ông ??a cho anh lúc nào, ông ?y ?i cùng ai, và có d?n gì thêm n?a không? Chàng l? tân c?m th?y vinh h?nh ng?n nào khi ?ôi m?t ??p nh? m?ng kia ?ang nhìn xo?n l?y mình, cho dù ?ó là cái nhìn ri?t ráo ??n ?iên d?i. Anh ??c gì ???c chia ra n?m câu h?i và m?i câu tr? l?i t??ng ?ng anh s? thêm th?t cho thêm ph?n lì kì h?i h?p ?? ??ng ng?m ng??i ??p ??n h?t cái bu?i tr?c ?êm bu?n t? này. Nh?ng nhìn khuôn m?t có ph?n tím tái và m?t anh chàng m?t h?m h?m ?i theo bu?c anh ph?i rút ng?n s? bông ?ùa c?a mình. - Ông ta vi?t lúc ra khách s?n cách ?ây ch?ng hai ti?ng. Vi?t xong ông ??a cho tôi và v?i vã b? ?i, hình nh? ?i m?t mình... - Anh có nh? ông ?i ???ng nào không?   Anh chàng l?i t? ra ?ang ??ng não nh?ng Kì Ph??ng kéo nh? tay cô. M?t anh nãy gi? không r?i t? gi?y trên tay cô. - Tôi bi?t ?ây là ?âu - Kì Ph??ng nói - Ta ?i thôi! Thoáng chút ng?c nhiên nh?ng không h?i thêm, cô b??c theo anh. Chi?c Ford Ranger nh? m?t m?i tên vùn v?t lao trong ?êm tr?c ch? M? S?n.                                  M?t mã Ch?mpa - Ch??ng 1- p1  M?t mã Ch?mpa - Ch??ng 1- p2  M?t mã Champa - Ch??ng 2 - p1  M?t mã Champa - Ch??ng 2 p-2  M?t mã Champa - Ch??ng 3 -p1  M?t mã Champa - Ch??ng 3 - p2 M?t mã Champa - Ch??ng 4 - p1
0 Rating 770 views 9 likes 0 Comments
Read more
By: On December 25, 2013
(lược trích)   Mọi người giải tán sau một buổi sáng tồi tệ. Riêng đối với tiến sĩ Tài, đây là một thất bại của ngành khảo cổ, nhưng đối với cá nhân anh ta thì có nhiều thứ phải cảm ơn cái chết của paul. Một ý tưởng mới đã ngoi từ huyệt mộ của nhà khảo cổ Pháp. Khi mọi người đã khuất bóng, giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi Kì Phương. - Đêm qua, paulcó liên lạc với anh không? - Có ạ, em đang ở công trường thì nhận được điện của ông ấy ra Đà Nẵng. - Để làm gì? - Lên sân bay đón con gái ông ta! - Chạy 70 km để làm một việc mà bất cứ chiếu taxi nào cũng có thể làm? - Ông ta không biết em ở xa vậy, khi em nói đang ở Mỹ Sơn ông ấy vội thoái lui nhưng em nói cũng đang định về Đà Nẵng nên tiện thể đón luôn. - Nếu ông ta nhờ anh đi đón một mẹ xề nào đó, chắc anh đã không có ý định ‘’tiện thể’’ đúng không? Kì Phương cười gượng, mà đúng thế thật. Lúc ấy anh không cảm thấy bị sai vặt mà rất hãnh diện như được trao một món quà đắt giá. Do mải nghĩ đến món quà ‘’bằng xương bằng thịt’’ này nên khi phóng xe qua ngã ba Nam Phước anh suýt lao chiếc xe cà tàng của mình vào chiếc contairner chạy ngược chiều. Thật hú vía. - Thế rồi sau đó thì sao? - Sau đó em đưa cô ta về khách sạn chỗ cha cô ta, chờ mãi không thấy nên đoán ông ta đi Mỹ Sơn, vậy là chúng em vào đây luôn. Vị giáo sư thở dài, không giấu vẻ buồn bã. - Còn bây giờ, chắc cô ta đã khóc hết nước mắt rồi chứ? Kì Phương biết mình sắp phải giải thích một việc khó tin hệt như sáng nay với viên cảnh sát. - Em nhìn thấy xác paul trước và không muốn cái chết thảm thương đó đập vào mắt cô ta, vì lí do ấy mà em đã che thi thể cha cô ta lại. Cho đến giây phút này, cô ta cũng chưa biết ba mình đã chết. - Chưa biết? – ông ngạc nhiên - Nhưng thầy thấy có dấu chân giày nữ bên xác chết! Kì Phương không ngờ thầy mình có năng khiếu làm thám tử đến vậy nhưng vội nhớ ra các nhà khảo cổ có thoi quen luôn nhìn xuống đất, nghe đồn rằng họ có biệt tài nhìn các nếp nhăn trên cơ thể phụ nữ mà đoán trúng ‘’niên đại’’ nữa. -Vâng, đúng là cô ta đứng bên xác chết mà không thấy. - Anh đè lên xác chết để ...che mắt cô ta? -Vâng! giáo sư Huỳnh Lẫm nhìn anh như một sinh vật mọi rợ. - Bây giờ thì cô ta đi đâu rồi?  - Bởi chưa biết cha mình chết, nên cô ta đã đi tìm. - Nếu cô ta không thấy xác, thì số máu lênh láng kia không làm cô ta thắc mắc hay sao? -Vâng, con gái hay tin một cách ẫu trí mà. Cô ta kiên quyết đi tìm. Gshl biết kẻ ấu trí ở đây là ai, còn cô gái quái đản kia đi đâu và làm gì sau khi bỏ chạy khỏi hiện trường mới làm ông quan tâm. - Sao không ngăn cô ta lại, anh thật tàn nhẫn! nếu anh không dám nói thì tôi sẽ nói. Số máy cô ta bao nhiêu? Kì Phương không ngờ ông lại phản ứng gay gắt đến vậy. - Thưa thầy, cô ta từ nước ngoài về nên chưa có số. Em sẽ đi tìm cô ấy ngay bây giờ! - Anh biết gì về cô ta? Hai người thân nhau đến mức nào? Kì Phương nhận ra sự quan tâm của ông đã đi hơi xa, nhưng trước một người thầy luôn tận tụy với học trò, anh coi đây là điều đáng trân trọng. - Thưa thầy, con biết cô ta hồi bé, hơn 12 năm nay chưa hề gặp lại... - Một con người mà đứng bên xác cha mình mà không biết chỉ có mất hết giác quan hoặc là giả vờ. Anh tin cô ta là người tốt sao! Lúc nằm trên xác chết và dưới cái nhìn da diết đến tội nghiệp của cô ta đã làm anh không thể nghĩ được gì nữa. Sau lời nói khó nghe của thầy anh mới bắt đầu hoài nghi về cô. Dù sao, trước cái nhìn đầy soi mói của thầy, anh bắt đầu tự ái. - vâng, em tin cô ấy, cha cô ấy là người tốt. -À, cha tốt thì con tốt! Kì Phương định đáp lại nhưng nhận ra ông ta đã tự trả lời, một sự khẳng định đầy mỉa mai. - Ta hiểu con, bây giờ anh mau mau đi tìm cô ta đi, tìm thấy hãy gọi ngay cho tôi. Kì Phương định quay mặt đi thì ông bất ngờ kéo tay lại hỏi. - Anh có biết vì sao Paul chết không? Kì Phương sầm mặt, giờ là lúc còn quá sớm và quá khó để nói về nguyên nhân hay hung thủ. Giao sư lại hỏi. - Anh có thấy điều gì đó bất ổn ở cô gái vừa bỏ trốn kia không? - Thầy nói sao? Con gái ông ta không thể liên quan đến cái chết...của ba cô. - Tôi không biết cô ta là loại người gì, nhưng chưa chắc Paul là người duy nhất sẽ phải chết. - Thầy nói gì? - Kì Phương giật mình. - Hãy nói cho cô ta biết sự thật và điều quan trọng nhất là đưa cô ta trốn đi đâu đó thật nhanh. Kì Phương chột dạ, giáo sư Huỳnh Lẫm đã cảnh báo một điều mà lẽ ra anh phải biết trước. Trong khi nguyên nhân cái chết của Paul đang trong bí ẩn thì giáo sư Huỳnh Lẫm có lí do để lo lắng cho đứa con nạn nhân. Thi Nga là người ruột thịt duy nhất nên ba cô chắc chắn đã chia sẻ nhiều thông tin bí mật. Nếu chúng giết Paul vì những bí mật đó thì không lí do gì chúng không làm điều tương tự với con gái ông ta. Kì Phương vội vã đi nhanh ra xe. Hình như vừa sực nghĩ ra điều gì, giáo sư Huỳnh Lẫm đuổi theo rồi chặn ngang trước mặt anh: - Tôi sẽ đi cùng anh! - Việc này một mình em là đủ - Nhìn khuôn mặt khốn khổ của thầy, Kì Phương không nghĩ ông lại đánh giá sự việc trầm trọng đến vậy. Anh nói vội.– Thầy cứ yên tâm, cảnh sát đang giăng lưới khắp nơi, nếu có kẻ nào đó muốn hại cô ta cũng không dại gì manh động lúc này.- Kì Phương né sang đi tiếp nhưng giáo sư Huỳnh Lẫm không để anh vượt lên. - Anh định tìm cô ta ở đâu? Kì Phương biết rằng ông muốn đi tìm Thi Nga, nghĩ đến viễn cảnh ông ta gặp Thi Nga để nói cái chết của Paul sẽ làm anh khó xử, việc này để anh chủ động nói lại với cô thì hơn. Hơn nữa, có thêm một ông lão già nua bên cạnh cũng không làm cô an toàn hơn. Anh đành nói qua quýt. - Em cũng không dám chắc cô ta ở đâu, có lẽ ở chỗ người quen thôi. - Nghe tôi nói đây, - ông đẩy anh lùi nửa bước rồi nói.- nếu tìm thấy cô ta, hai người nên tạm náu mình đâu đó một hai hôm cho tình hình lắng xuống cái đã. - Thấy nghĩ có kẻ sẽ giết cô ta sao? – Kì Phương phát hoảng. - Qua những gì ta đã chứng kiến sáng nay, chúng ta chưa rõ kẻ giết paul vì động cơ gì, hung thủ là ai và có bao nhiêu tên nhưng chắc chắn đây không phải là hành vi đơn lẻ bột phát. Từ sáng qua tới nay anh với paul như hình với bóng, sự gần gũi và ân cần thái quá của anh và con gái ông ta đang vô tình phát một thông điệp cho kẻ xấu rằng: anh với họ cùng bè cùng đảng. Họ phải chết thfi anh cũng khó sống sót. Kì Phương nghe xong suýt bật cười, anh cho rằng tên sát thủ đã cao chạy xa bay cùng với cổ vật. Khả năng chúng sẽ hãm hại nốt Thi Nga và anh gần như không có. Tuy nhiên chuyến thám hiểm thánh địa naga nào đó có khi lại là nguyên chúng săn lùng cha con cô. ‘’Cẩn tắc bất áy náy’’ rõ ràng giáo sư Huỳnh Lẫm tĩnh tâm hơn anh tưởng và ông có cái nhìn sâu sắc hơn. - Nếu trốn đi lúc này – anh đắn đo - có làm cho cảnh sát nghĩ sai về mình không. - Đó là những con người không làm việc theo cảm tính, nếu anh và cô ta không phạm pháp thì không ai bắt được tội được cả. - Thầy nói đúng, con sẽ đưa cô ta vào náu ngay tại đồn cảnh sát luôn. giáo sư Huỳnh Lẫm vội vã xua tay. - Tìm đến họ lúc này không phải là cách làm thông minh nhất. - Tại sao thưa thầy? - Đương nhiên hai người không có tội, nhưng những gì anh và cô ta làm ở hiện trường đã lọt vào tầm ngăm,s của cảnh sát. Lẽ ra cô ta nên ở lại trình báo và hợp tác với cảnh sát để tìm hung thủ thì lại trốn biệt tăm biệt tích. Ai dám chắc cô ta không móc nối với với hung thủ hay đang tẩu tán cổ vật thì sao? Họ thừa lí do để tạm giam hai người để điều tra, anh hiểu chứ? Điều này thì không cần giáo sư Huỳnh Lẫm răn dạy anh cũng hiểu, sáng nay chính viên chỉ huy cảnh sát đã nói thẳng với anh rằng lẽ ra anh phải bị giữ lại như một nhân chứn gddawcj biệt nhưng ông ta đã linh động bỏ qua nhưng hieue ý là sẽ bị triệu tập bất cứ lúc nào. Kp nhìn rõ một nỗi ác cảm về Thi Nga đang gợn lên trong đôi mắt tinh tường của ông. - Vậy theo ý thầy, ta vẫn phải tìm một nơi nào đó...để tránh nạn? - Tôi nghĩ ra rồi, anh hãy đưa cô ta về Hội An ở tạm ngôi nhà bỏ không của nhóm chuyên gia khảo cổ Nhật. Chìa khóa tôi đang giữ đây. Dù sao thì bảo vệ và chăm sóc con gái paul là trách nhiệm của tôi và anh lúc này. Ai dám chắc kẻ giết pie sẽ không thanh toán nốt cô ta. Không được rời cô ta nửa bước. Phải bí mật và tạm thời cắt hết mọi liên lạc với bên ngoài. Tôi sẽ cử người đến bảo vệ hai người. Kì Phương biết ngôi biệt thự hai tầng đầy đủ tiện nghi trong một con hẻm vắng bên sông Thu Bồn đó, đúng là một nơi lí tưởng để ẩn nấp. Kì Phương nhận chùm chìa khóa rồi lên xe lao đi. Kì Phương lo lắng đêm hôm lạ nước lạ cái thế này không biết Thi Nga có về đến Đà Nẵng an toàn hay không. Nếu không bị sát hại dọc đường thì giờ này cô nàng đang thu xếp hành lí để rời Việt Nam theo dấu chân mịt mù vô vọng của cha cô sang Pnompenh. Thật điên rồ. Lúc này Kì Phương bỗng rùng mình về sự dại dột và vô trách nhiệm đến khó tha thứ của mình. Đã thế, mặc dù biết rõ hành tung của cô nhưng anh vẫn giấu tịt điều này với viên thiếu tá lẫn thầy mình chỉ vì anh không muốn họ tìm thấy cô để ném một cái tin đau xé lòng vào mặt cô ấy. Trong chuyện này anh phải đích thân gặp lại Thi Nga để nói hết sự thật kèm theo xin lỗi. Đêm qua anh đã chạy xe với một tốc độ kinh hoàng lên tận sân bay để mong nhận một nụ cười của cô, giờ đây anh cũng phi như điên dại tìm nàng mặc dù biết trước một cái tát nảy lửa đang chờ anh. Đúng như anh hi vọng, chiếc Ford sét rỉ mà Thi Nga đang đùng đang đỗ xệch xẹo ngoài cổng khách sạn. Chàng nhân viên đeo nơ thấy anh đi vào nên tỏ ra là người tinh tế. - Cô ta đang chờ anh ở trên phòng 302 đấy!  - Cảm ơn!- Kì Phương thấy rõ ánh mắt ganh tị của gã. Đến trước cửa phòng 302 anh nén lặng mình một lúc rồi ấn chuông. Cánh cửa vội mở ra.  
0 Rating 449 views 8 likes 0 Comments
Read more
By: On November 25, 2013
Thực ra chỉ liếc dòng kí tự trên Kì Phương đã biết ngay Paul muốn nói gì, và nó cũng chẳng có gì là bí mật cả. Các kí hiệu A1, A2,... B1, B2... do nhà nhà khảo cổ kiêm kiến trúc sư người Pháp Henri Parmentier phân loại và đặt tên cho các đền tháp khi ông nghiên cứu thánh địa Mỹ Sơn từ những năm đầu thế kỉ XX. Vì tính khoa học và đảm bảo sự nhất quán trong nghiên cứu nên các kí hiệu đó vẫn được tiếp tục sử dụng đến nay. Nó cũng phổ biến trong các bản đồ và tập san du lịch đến nỗi nhiều du khách cũng thuộc vanh vách. Kì Phương hiểu được ý Paul rằng ông ta đang có mặt tại một trong bốn ngôi tháp đó. Paul là người rất ưa dùng các kí hiệu khoa học vào đời thường. Có giai thoại kể rằng, khi công tác ở Mỹ sơn, ông không có nhà cửa, không phương tiện đi lại nên Paul đã căng lều ngay bên cạnh tháp cho tiện làm việc. Lúc in card để liên lạc, trên phần ‘’địa chỉ cơ quan’’ ông chỉ ghi độc một chữ ‘’A2’’ Đường sá về khuya vắng tanh vắng ngắt, sau một tiếng lao nhanh trên những con đường rừng quanh co họ đã đến gần khu di tích. Chiếc Ford tiếp tục phá tan giấc ngủ của rừng núi để tiến về thung lũng thiêng. -Tôi thật lấy làm lạ, - Kì Phươngcất giọng trách móc – đêm hôm thế này cha cô đến Mỹ Sơn mà không nói cho tôi một câu, dù sao đây cũng là thổ địa của tôi. Thi Nganãy giờ chết lặng vì lo lắng cho ba cô vừa sợ làm anh phân tán nên không dám hé môi. Khi anh nói, cô mới chịu lên tiếng. - Từ lúc thấy anh một mình ở sân bay tôi đã ...hơi ớn. - Bỗng cô bật ra một ý nghĩ làm Kì Phương lạnh người – Hay là ba tôi bị ai bắt cóc vào đây? Hôm nay Kì Phương đã chứng kiến tận mắt Paul được nhiều người săn đón không khác gì minh tinh màn bạc. Nhưng kẻ hâm mộ ông đến đến mức bắt cóc thần tượng lôi vào rừng đêm hôm thế này thi anh không dám tin. - Chắc không ai bắt cóc ông cả. Ba em còn viết thư, mà gã đeo nơ nói ông đi một mình mà – Kì Phương trấn an.- Mà biết đâu ông vào đây ngồi thiền thì sao. Sau bao nhiêu năm sống chốn đô thành, giờ đây nếu được lựa chọn giữa khách sạn năm sao và thảm cỏ trong rừng, tôi tin ông sẽ chọn thiên nhiên. Tuy lí do này không thực tế nhưng Thi Nga vin vào đây để tự trấn an mình. Từ thủa tấm bé, cô biết ba mình đã coi đây là quê hương thứ hai. Mỹ Sơn còn là nơi bắt nguồn tình yêu và hồi sinh cuộc đời của ba lẫn mẹ của cô. Nhưng đời cho ông cái gì thì cũng lấy đi cái đó, Mỹ Sơn lại là nơi chứng kiến cuộc chia lìa đầy tang thương và nước mắt của họ. Thi Nga hỏi: - Hình như ba em sáng nay đã thăm Mỹ Sơn rồi cơ mà? - Đúng, nhưng chắc là ba cô bỏ quên cái gì đó nên quay lại, chẳng phải tính ba cô dạo này lãng trí mà. Chiếc xe giảm tốc khi đường hẹp lại. Khi không thể chạy tiếp qua một con dốc cao, Kì Phương bảo cô xuống. - Cô leo núi được chứ? – Anh chỉ đôi giày cao gót. - Được, anh đi trước đi! Đáp xong cô chợt rùng mình khi nghĩ phải đi vào một khu rừng vắng với một người đàn ông mà cô chưa hiểu biết. Cô đã quên mất rằng thủa tấm bé trên chính con đường mòn này anh đã dẫn cô đi hái trái me dại mỗi khi chiều về. Cô dũng cảm tiến bước với ý nghĩ rằng cha cô đã chọn mặt gửi vàng, nên chắc anh ta không dám đi quá giới hạn tại một nơi linh thiên như thế này. - Tuy khó đi nhưng đường rất ngắn, - Anh nói- qua con dốc nhỏ này nữa là tới. Sau một hồi lâu luồn trong rặng cây chằng chịt tối om, một quang cảnh thần tiên bừng sáng dưới ánh trằng rằm hiện ra. - Nhìn kìa! – Kì Phương thốt lên. Hàng hà sa số những giọt sương li ti đang phủ trắng trên những ngọn tháp nâu mờ ảo. Khu đền run rẩy hiện lên đầy huyền diệu. Mặc dù đã ngắm khu tháp tới ngàn lần nhưng Kì Phương không khỏi thẫn thờ trước cảnh trăng đêm nay. - Tuyệt...! Thi Nga cũng thốt lên - không lẽ ba tôi một mình đến đây ngắm tháp sao? Kì Phương tỏ ra am hiểu Paul như hiểu về ba ruột của mình: - Ba em vẫn lãng mạn như hồi nào, dân kiến trúc mà. Sống lâu năm ở đây, ông ấy biết lúc nào là đẹp nhất. Có điều là cảnh đẹp thế này mà cha em ngắm một mình thì...hơi phí. Kì Phương cầm nhẹ tay cô rồi bước lên những bậc thềm rêu phong tiến về chân tháp gần nhất nhưng cô không sao nhấc chân nổi. Cô nao lòng ngước nhìn những ngọn tháp tuyệt mỹ của tổ tiên để lại nay chỉ còn là những hình hài cụt đầu đổ nát nằm giữa rừng hoang rồi một cảm giác nhói lên trong tim làm cô muốn khụy xuống. Nhũng thây ma tróc lở. Cô xót xa nhìn quanh những gì mà không hề giống như người ta bấy lâu nay ca tụng mà thay vào đó là quang cảnh quạnh hiu hoang tàn. Đúng như một nhà thơ Chăm đã viết mà ba cô thường ngâm nga mỗi khi chiều về: ‘’...Tháp hoang, như thình lình mọc lên từ đất... Lông lá... âm u... dọa nạt ... tháp hoang Nổi cộm giữa chiều trời ma quái Ung nhọt trên làn da mềm mại Thảm rừng già xanh...’’ Cô gắng kìm khỏi òa khóc. Mỹ Sơn đây ư. Thánh địa đây ư. Ai đã tàn phá Mỹ Sơn? Ai đã đánh cắp linh hồn của tôi? Vậy là sau hơn mươi năm chờ đợi dài đằng đẵng, cuối cùng cô đã được đặt chân trở lại xứ sở linh thiêng, nơi cốt nhục ngàn đời không thể nào quên. Lúc này cô chỉ muốn ôm lấy ba mình mà cùng khóc thương về người phụ nữ thiêng liêng nhất của đời họ. Mẹ ơi. Trong thoáng chốc, một linh cảm lạ lùng làm cô sực tỉnh. - Hãy tìm ba em ngay! Kì Phương soi đèn lên bảng sơ đồ bằng tôn mặc dù anh đã thuộc như lòng bàn tay. - Cô thấy các khu A, D, F chưa? - Anh lại chỉ về phía ngọn tháp gần nhất bên phải - trước mặt ta là khu B, C và D, nếu không tìm thấy ta qua suối để đến khu F và A. Ba cô chắc đang ở một trong bốn khu tháp kia. Tuy trong tờ giấy không có tháp C1 nhưng anh vẫn chắc ăn chui vào lia đèn một vòng rồi quay trở ra lắc đầu. - Không có, sang khu B ngay. Anh đảo một vòng cũng không phát hiện điều gì bèn chỉ tay về phía khu D nằm rải rác ngay phía sau. Khu này gồm nhiều phế tích rời rạc nên anh chỉ đứng ngoài chiếu đèn là có thể quan sát được cả cụm đó. Vẫn không thấy có người, anh định qua cầu nhưng khi soi đèn xuống dưới đất, anh nhận ra những dấu chân nhàu trên vạt cỏ đẫm sương. - Xem này.- anh khẽ gọi. Hai người lần theo dấu vết cho đến khi nó mất hẳn trên mấy bậc tam cấp cũ nát. Trước mặt họ là một ngôi tháp hiếm hoi trong khu B còn khá nguyên vẹn. Kì Phương nhìn lên ngôi tháp lù lù trước mắt như một quái thú khổng lồ đáng ngoác miệng trong bóng tối. Anh vỗ nhẹ vai Thi Nga nói khẽ: - Cô đứng đây, một mình tôi vào là đủ. – nói xong anh bước qua khe cửa hẹp sâu hun hút, mùi ẩm mốc trộn lẫn mùi tanh lợm xộc vào mũi. Trong lòng tháp lạnh đến rợn người, choán gần hết không gian chật hẹp là một bệ thờ chỉ còn mỗi yoni cao ngang thắt lưng. Nhưng cái thứ đang nằm trên đó mới làm anh giật mình lùi lại.Tay run run soi đèn lên bệ thờ và anh không tin nổi thứ chất lỏng đang đọng lại trên đó. Máu? Kì Phương lạnh buốt xương sống khi nghĩ một chuyện khủng khiếp vừa diễn ra nơi đây. Tiếng giày lộc cộc ập đến phía sau. - Gì thế anh? - Có lẽ do ...nước mưa! – anh lúng túng đáp. - Tháp này có nóc mà! – Cô sấn sát bệ đá rồi thốt lên. - không lẽ đây là ...máu? Thi Nga rút trong túi ra một mẩu giấy rồi chấm vào thứ chất lỏng đó lên xem. Nó có màu đỏ tươi. – Máu thật sao?... – Cô uôm người về phái trước và chỉ cách bệ đá vài centimets. - Máu thật, không lẽ...? – Giọng cô òa lên đầy sợ hãi. - Đứng lùi ra. – Kì Phương chộp lấy vai cô ghìm lại, tưởng chừng như nếu anh nắm hụt, cô nàng sẽ đổ nhào lên linh vật. - Máu? ba tôi bị làm sao rồi...ba ơi, ba ở đâu? – Không hẳn là khóc, cô òa lên. Kì Phương biết không sớm thì muộn cô cũng thốt ra điều hãi hùng đó. Điều mà anh đã nghĩ tới nhưng không dám nói trước. Có một mạng sống tươi rói nào đó vừa được hiến dâng cho thần linh. Một bữa tiệc sặc mùi tà giáo ghê tởm nào đó vừa diễn ra ngay trước mắt và ngay trên chiếc mâm đá có tên yoni kia. Mùi tanh nồng đang xông tỏa ngập ngụa gan ruột làm cô chạy vội ra ngoài tránh nôn tháo ra một cách bất nhã không thể tha thứ chốn linh nghiêm. Lau miệng xong, cô lấm lét bước vào. Không xông xáo như lúc nãy, trông mặt cô tái mét và bơ phờ như vừa trút hết sinh lực ra khỏi cơ thể. Kì Phương biết mọi thứ vẫn chưa bắt đầu. Điều khủng khiếp nhất vẫn đang chờ cô phía trước. Kì Phương tuy bình tĩnh hơn nhưng cũng không thể giấu sự bối rối. Anh không muốn tin đó là máu, nhưng mùi tanh, và màu đỏ tươi đã là câu trả lời. Vết máu trên các dụng cụ thờ cúng không phải là hiếm. Từ thời cổ đại, máu đã chảy thành suối trên các đài thờ Thần Mặt trời của người Maya, người Da đỏ và nhiều bộ tộc Châu phi gần đây vẫn còn giết gái trinh và trẻ em để lấy máu tưới lên các biểu tượng tôn giáo. Mà chẳng cần viện dẫn đâu xa, ngay trên thánh địa Mỹ Sơn này có nhiều tài liệu chép lại những nghi lễ hiến sinh cho thần Siva. Trên các bia kí có nói đến lễ hiến tế bằng máu ngựa trắng, dê trắng, trâu trắng bị cắt cổ để cúng thần trên các chùa tháp. Trên nhiều tấm bia kí còn kể công triều đình đã hiến đàn ông, đàn bà và cả tù binh và cho các vị thần. Kì Phương cố xua đuổi những ý nghĩ rợn người vừa ùa đến, và vẫn để trấn an Thi Nga là chính, anh nói: - Chắc không phải máu, mà nếu máu thì... chưa hẳn là ... máu người. Kì Phương đứng lên và thấy nhột lạnh ngón chân, anh nhìn xuống mũi giày vải và nhận ra vài giọt máu rỉ từ yoni đã thấm đẫm một vệt lớn. Rút bàn chân lại, máu đã đọng thành vũng dưới nền gạch cũ. Kì Phương thầm nghĩ, một người già yếu như Paul có sống nổi sau khi mất nhiều máu thế này không. Bỗng nhiên Thi Nga lảo đảo đổ rồi sụp xuống trước bệ đá như thể đó chính là ba cô đang trong cơn hấp hối. - Ba ơi!... Khoa học chưa thể chứng minh được hiện tượng thần giao cách cảm, nhưng họ không thể phủ nhận có một sợi dây thông tin sinh học kì diệu giữa con người cùng huyết thống. Kì Phươngloay hoay cố gắng tìm mọi cách để Thi Ngakhông suy sụp lúc này nhưng vô ích. Anh dìu cô ra ngoài rồi nói. - Cô đừng hoảng, chưa có cơ sở nào chỉ ra ba cô đã chết đâu. Kì Phương lại rút bút tích của Paul ra như một bảo bối, mặc dù anh biết nó đã hết thiêng. - Chúng ta phải sang bên khu A, biết đâu ông đang ở bên đó thì sao? – Kì Phương không tin lắm điều mình vừa nói, vấn đề là anh muốn kéo Thi Nga ra khỏi đây và nuôi dưỡng thêm niềm hi vọng đang thoi thóp của cô. Sự gợi mở làm cô gái kịp trấn tĩnh giây lát, niềm lạc quan như được đánh thức. Cô giằng lấy đèn pin trong tay Kì Phương và gạt nước mắt. - Cha tôi bỏ khách sạn rất đột ngột, nhất định ông không thể một mình đến đây đâu. - Cứ bình tĩnh! mội việc sẽ tốt đẹp thôi. Kì Phương không nghĩ là cô ta đã thay đổi suy nghĩ nhanh như vậy. Trong vài giây từ chỗ tin cha mình đã chết bỗng quay ngoắt tin cha cô đang sống. Bây giờ anh mới nhận ra niềm tin tích cực có sức mạnh như thế nào. Kì Phương thở phào vì đã thắp lên chút niềm tin nhỏ nhoi trong cô, tuy anh biết rằng nó có thể vụt tắt ngay bất cứ lúc nào. Kì Phương biết đang có nguy hiểm rình rập họ nhưng anh không muốn chạy khỏi sự thật là một ai đó có thể đang hấp hối quanh đây. Anh chỉ tay về phái bên kia con suối nói: - Chạy nhanh xem. Lần này không để anh dẫn lối, cô băng qua cây cầu nhỏ bắc qua con suối đang chảy ào ào. Mặt đất trơn và đôi giày cao gót đã buộc cô đôi ba lần phải vồ ếch, nhưng điều đó chỉ làm bước chân cô ngày một vững hơn. Qua suối có một ngã ba nhỏ trên triền dốc, cô dừng lại chờ anh. Kì Phương nói: - Bây giờ chia ra để tìm cho nhanh, cô đi về bên phải bên có khu F đang bảo tồn, - anh quay đầu chỉ ngược lại  còn tôi sẽ chạy phía bên A phải xem sao. Cô dám đi một mình không? - Tôi dám! Kì Phương đi về phái phải được chục mét thì đứng lại nghe ngóng. Hình như có tiếng động di chuyển về phía chân núi. Mắt anh không rời mục tiêu, chân rảo nhanh đuổi theo. Phía trước mặt anh lồ lộ dưới ánh trăng những hố đào và những đống gạch đá lởm chởm mà các chuyên gia Ý vừa quy tập chiều nay. Mặc dầu tối trời nhưng do quen thuộc địa hình nên anh đã chạy một quãng khá xa. Đang căng mắt nhìn lên, bỗng nhiên đất dưới bàn chân trơn nhẫy như được dội mỡ. Như một cái bẫy đặt trên đường, Kì Phương chỉ kịp kêu ‘’ối’’ lên một tiếng rồi té nhào xuống một hố sâu. Toàn thân đập mạnh xuống đáy hố. Chưa kịp định thần thì anh đã sởn da gà khi sờ trúng một dị vật cộm lên dưới mặt. Anh trương mắt ra nhìn. Dưới ánh trăng yếu ớt chiếu qua vòm lá, anh nhận ra dưới mặt mình là tột đỉnh của một bi kịch. Điều kiêng kị nhất cuối cùng vẫn đến. Khuôn mặt trắng bệch của Paul lộ ra dưới lớp đất.  Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 587 views 7 likes 0 Comments
Read more
By: On December 2, 2013
Nhìn xung quanh thấy hoang vu và miệng hố đào nham nhở, Kì Phương đoán đây là nơi đào vội để phi tang xác chết nhưng bất thành. Anh nhận ra các kí hiệu mà Paul để lại chẳng liên quan gì đến vị trí này cả còn chỗ Yoni đầy máu là khu B cũng chẳng có trong bảng kí hiệu. Paul có một ý nguyện duy nhất là khi chết, tro cốt của mình được rắc xuống Mỹ Sơn. Kì Phương trộm nghĩ hay tờ giấy này là di chúc yêu cầu vị trí rắc tro sau khi chết? Tuy nhiên nhận định của anh có thể làm linh hồn ông nổi giận. Có nhiều học giả nói các đền tháp là nơi mai táng của vua chúa và các tu sĩ nhưng đến nay chưa có bằng chứng khoa học nào khẳng định điều đó. Paul là người phản bác giả thiết này nên càng không thể có ý nghĩ mạo phạm như vậy. Có chăng,ông chỉ muốn tro cốt của mình hòa lẫn với cỏ cây đất rừng ngoài xung quanh mà thôi. Vậy thì bảng kí hiệu kia nói gì? Anh nhìn lại và tiếp tục vắt óc suy nghĩ. A5D6 C1D7 Bây giờ anh mới nhìn kĩ và phát hiện sự hời hợt của mình. Trong danh mục của H. Parmentier không hề có kí hiệu D7. Chỉ có từ D1- đến D6 mà thôi. Nếu D7 không phải là tháp thì là cái gì? Mà ngẫm lại, cả bốn ngôi tháp trên nay đều thành phế tích, thậm chí tháp A5 hay D6 đã bị xóa sổ gần như hoàn toàn. Kì Phương băn khăn không biết Paul muốn gửi gắm điều gì trong mớ hỗn độn kia. Việc của ông ta là khai quật báu vật. Nếu biết không sống nổi thì phải chỉ ra vị trí cho người khác làm. Nhưng thay vì ghi rõ địa điểm thì ông ta để lại một mớ chữ hỗn độn kia. Hay là ông ta sợ kẻ xấu lấy được tờ giấy rồi đào trộm mất? Kì Phương nhìn lại mớ kí tự và anh nhận ra rằng đây có dáng dấp của một mật thư cổ điển. Thế nhưng mật mã thế này thì quá ư đơn giản. Cách mã hóa bằng các chữ cái latinh có từ thời La Mã cổ đại và được sử dụng trong nhiều thế kỉ nay đã lạc hậu và có thể bị hóa giải bởi bất cứ ai trong vòng vài phút. Tuy vậy Kì Phương vẫn bắt tay vào thử. Cách giải mật thư kiểu này phải có bản khóa của chính người mã hóa để lại, nhưng có thể Paul không có cách nào chuyển bản khoá cho anh nên đành phải mò. Rất may là chỉ 8 kí tự thì không đến nỗi khó. Nhìn bảng kí tự vừa có chữ cái La tinh vừa có chữ số thì ý nghĩ đầu tiên của anh là phải chuyển toàn bộ sang chữ latinh. A5D6 C1D7 Thay các số thứ tự 1, 2, 3... tương ứng với bảng chữ cái A, B, C...Lúc đó 5 là E, còn 7 là F Đoạn kí tự trở thành:  AEDF                                    CADG Nhìn mãi Kì Phương vẫn không thấy có nghĩa gì cả. Nếu đảo lộn bốn chữ AEDF rồi sắp xếp lại theo một trật tự khác thì tạo ra môt từ đáng chú ý là ‘’DEAF ‘’Từ này có nghĩa là ‘’điếc’’. Còn CADG thì sắp trật tự nào cũng vô nghĩa. Bài toán chưa dừng ở đây. Ví như 1 không ứng với A thì có thể là ứng với B. Còn 2 ứng với C. Phương pháp này trong thuật mật mã gọi là ‘’phép thế Caesar’’. Đây là phương pháp do vị Hoàng đế Lã Mã  Caesar sử dụng khi gửi các bức thư mật ra chiến trường bằng cách thay các chữ cái trong thư bằng các chữ khác cách đó 3 chữ trong bảng chữ cái. Trong trường hợp này, Kì Phương biết có thể phải tịnh tiến thêm hai hoặc vài chữ cái nữa nhưng phương pháp thủ công này sẽ ngốn nhiều thời gian và tạo ra vô số nghiệm. Anh nhận ra cách này không mấy triển vọng bởi Paul rất kém tiếng Anh còn anh thì kém lại tiếng Pháp. Vì vậy khả năng ông ta dùng một trong hai ngôn ngữ này để mã hóa là không cao. Anh tạm gác cách này để chuyển sang cách ngược lại. Đó là biến các chữ cái thành số thứ tự. Thử thay A, B, C thành 1, 2, 3. Dòng kí tự ‘’A5D6’’ lập tức trở thành: ‘’1546’’ Chữ số này chẳng có gì đặc biệt, liên quan đến Chămpa hay kho báu thì lại càng không. Định gạt đi nhưng anh bỗng nhận thấy hơi quen quen. Cách đây đã lâu, trong một lần đo đạc và khảo sát một móng tháp anh đã xác định ra tâm của điện thờ. Hiện nay dữ liệu của Trung tâm trùng tu do anh phụ trách đang bổ sung và hoàn thiện một loạt bản đồ di tích số hóa. Từ địa hình và di tích kiến trúc đều được định vị trên máy tính chính xác đến từng centimests. Theo thường lệ, khi phát hiện ra dấu kiến trúc, anh đều cập nhật ngay lên bản đồ điện tử này. Khi áp lưới tọa độ vào di tích này liền hiện lên con số vĩ độ Bắc 15’46’’00’’’. Chính xác! anh nhớ như in số này vì nó chẵn và trùng với biển số chiếc xe máy của cậu em. Vậy là đã rõ, Paul đã dùng ngay vĩ độ này để đánh dấu vị trí của báu vật. Còn kinh độ thì... Kì Phương nhanh chóng giải dòng tiếp theo trong tâm trạng hồi hộp nhưng số kinh độ đầu tiên đã làm anh thất vọng. C1D7 chuyển thành ‘’3147’’ trong khi kinh độ của Mỹ Sơn du di quanh số 108’50’’. Vậy đây không thể là kinh độ. Anh chưa biết làm gì tiếp theo thì nghe thấy tiếng động cơ gầm rú, tiếng còi rít kèm ánh đèn pha chói sáng thi nhau xé tan hoang cánh rừng. Kì Phương đút tờ giấy vào túi, xốc lại quần áo và phủi qua đầu tóc trước khi nhìn thấy một tốp cảnh sát xuất hiện. Họ nhảy xuống từ hai chiếc xe cam nhông màu trắng rồi chia ra vài nhóm nhỏ nhanh chóng tỏa khắp khu đền. Một người phát hiện ra anh rồi thêm hai ba người nữa vội vàng đi tới. Người đi đầu trạc hơn bốn mươi, dáng đậm, đầu tóc chải vội và đeo kính đen. Anh ta từ tốn hỏi: - Anh là ai? - Tôi tên Kì Phương, thi công trùng tu tại đây, đêm qua... Chưa nghe hết, ông ta đi tiếp đến miệng hố rồi rút cặp kính râm ra nhìn xuống. Hàng rào người mặc quân phục mau chóng vây quanh, vài tiếng xì xào vang lên. Sau đó có hai người tụt xuống hố với túi dụng cụ nghiệp vụ. Chừng dăm phút sau họ nhấc nạn nhân lên mặt đất. Qua kẽ hở của hàng người, Kì Phương liếc mắt tranh thủ nhìn người xấu số lần nữa và anh sửng sốt khi nhìn thấy thân hình Paul trần trụi chỉ độc một mảnh quần lót trên người. Họ đặt ông lên một tấm dù màu đen tương phản với nước da nhăn nheo trắng bệch nên thi thể trông càng thảm hại. Kì Phương định dấn lên một bước để xem cho rõ thì một bàn tay túm gáy anh lôi nhẹ ra. Một cặp kính đen áp vào mặt anh. - Anh đã làm gì ở đây? - Tôi...tôi đi tìm ông ta và thấy ông ta nằm dưới hố. - Vậy anh đã thấy những gì? - Tôi chỉ mới đến đây trước các ông vài chục phút thôi, khi đó ông ta đã tắt thở, nằm dưới hố như các anh đã thấy. Viên cảnh sát bấm đèn pin rê từ đầu xuống chân anh như thể kiểm chứng lời khai vừa rồi có đáng tin hay không rồi đột nhiên ông ta dừng lại ở mũi giày. - Tại sao lại có máu? Kì Phương cảm thấy nhớp nháp toàn thân. Không riêng gì mũi giày mà trên người anh chỗ nào cũng lấm láp hệt vừa trải qua một cuộc ẩu đả. - Tại sao lại có máu ở chân?- ông ta nhắc lại.        - Trước khi tôi ngã xuống đây, tôi đã lại gần yoni đằng kia, máu ở đó đã.... - Yoni? Yoni là cái quái gì? – ông ta ngắt lời, tai vênh lên. Kì Phương thoáng ngạc nhiên, anh nhìn xuyên mặt kính đen nhưng không thể biết ông ta có đùa hay không. Qua chất giọng bắc bộ anh đoán viên cảnh sát này vừa chuyển công tác đến đây chưa lâu. Cũng không lấy gì làm lạ, hai phần ba du khách lần dầu đến đây đều có chung câu hỏi na ná như vậy. Kì Phương cố nhìn kĩ hình thù như một con gấu lừng lững đang ngự trước mặt nhưng chẳng thấy gì ngoài tấm biển hiệu‘’Lê Đại Hắc’’ sáng loáng trước ngực. Tuy trời tối mịt nhưng ông ta vẫn đeo cặp kính râm che gần nửa khuôn mặt và đang chăm chú chờ câu trả lời. Kì Phương nói: - Yoni là vật thờ cúng mô phỏng cơ quan sinh dục nữ. Theo quan niệm của Bà la môn giáo, Yony là biểu tượng cho âm tính trong vũ trụ. - Chẳng lẽ trong vũ trụ này chỉ mỗi âm tính? - Viên cảnh sát tỏ vẻ không hài lòng.- Dương tính ở đâu? - À không, vũ trụ này được cấu thành bởi hai lực lương âm và dương trái ngược nhau nhưng cân bằng và luôn song hành với nhau. Lúc nãy tôi nói chưa hết, bên trên mỗi yoni luôn tồn một linga. Nói đến đây Chắc ông biết linga là gì rồi chứ, linh thực khí đàn ông... Một sĩ quan bước tới làm ông ta phải miễn cưỡng quay sang. - Gì thế? - Báo cáo sếp! đã xác định được danh tính nạn nhân, Qua khám nghiệm sơ bộ thì ông ta chết khoảng 2-3 giờ sáng bởi một vết thương nhỏ trên cổ gây mất máu. Không thấy máu trên hiện trường vì vậy đây có thể là hiện trường giả...Ngoài ra có rất nhiều dấu chân cày nát xung quanh và dưới đáy hố. Nghe đến từ ‘’cày nát’’ Kì Phương lại chột dạ. Anh định nói lên rằng có rất nhiều máu đã đổ phía ngoài kia nhưng đã thấy rất nhiều lính tráng đã vây quanh đó tự khi nào. - Đưa nạn nhân về trung tâm pháp y tỉnh. – Ông ta xua tay như muốn đuổi đám cấp dưới cùng cái xác to kềnh thiếu thẩm mỹ ra khỏi mắt kính thời trang của mình. Xem ra phạm trù âm dương đối với ông ta thú vị hơn nhiều. Ông ta ẩy cặp kính rồi nói tiếp: - Linh thực khí? tiếp đi! - Vâng, bộ ngẫu tượng linga- yoni thể hiện một triết lí về vũ trụ và tâm linh. Nếu ông muốn tìm hiểu về nó tôi rất sẵn lòng. - Được, theo tôi ra ngoài kia! Họ ra khỏi lùm cây, bầu trời màu xám tro le lói vài tia nắng nhạt xuyên qua đám mây mù nặng trĩu. Những ngọn tháp Chàm nhấp nhô như đang vươn mình khỏi khóm cây xanh để tận hưởng nguồn sinh khí ban mai tinh khiết nhất. Xa xa là dãy núi trùng điệp bao quanh như những bức tường thành thiên nhiên được thượng đế dựng lên để che chở cho nơi trú ngụ của thần linh. Không giống như các đền đài lăng tẩm nổi tiếng trên thế giới luôn ngự trị trên quảng trường rộng lớn hay sa mạc bao la để tăng tính uy nghi thì tháp Chàm lại duyên dáng e ấp trong những đồi cây khóm lá. Nếu bức màn thiên nhiên xung quanh bị tàn phá, tháp sẽ trở nên trần trụi và cô độc. Kazik - người kiến trúc sư tài ba nhiều năm gắn bó với Mỹ Sơn đã thốt lên “người Chămpa cổ đã gửi tâm linh vào đất đá; và đã biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ -  thâm nghiêm - hùng vĩ. Đây là một bảo tàng kiến trúc điêu khắc nghệ thuật vô giá của nhân loại mà sẽ còn lâu chúng ta mới hiểu hết” Trong khi anh đang day dứt với vô vàn di tích và thiên nhiên ở đây đang dần bị mất thiêng thì đi trước anh là hiện thân của chủ nghĩa vô thần. Viên cảnh sát như một con bò mộng lùi lũi dẫm đạp lên những chùm hoa dại đang khoe sắc để tiến về nơi có máu đổ. - Tu bổ mà sao không ủi sạch cỏ cây ở đây đi? - ông ta cất giọng ồm ồm. Kì Phương không biết nói gì. Ông ta nói đúng một nửa. Tuy cây rừng là lớp áo choàng xinh xắn nhưng vẫn có nhiều loại cây luôn ăn bám như tầm gửi. Những chùm rễ vươn dài như những xúc tu bạch tuộc đang ngày đêm gặm nhấm, sờ soạng và rỉa rói vào từng thớ thịt khúc xương để hút cạn sinh lực của những thân hình già cỗi xiêu vẹo và đổ nát. Sự xấm lấn bền bỉ thầm lặng này đang từng ngày từng giờ xóa sổ những dấu tích ít ỏi cuối cùng của một nền văn minh tột bậc Đông nam Á một thời mà một người làm nghệ thuật như anh không khỏi xót xa. - Thưa ông, lối này! – Kì Phương gọi như thét khi thấy viên cảnh sát đặt gầm dày lên lên một tấm bia để đi tắt. Quá muộn, trang sách bằng đá lật nghiêng rơi xuống vỡ làm đôi. Ông ta quay lại chép miệng vẻ tiếc nuối rồi lách qua khe cửa để vào ngôi tháp. Hai viên sĩ quan bên trong vội vã trồi trở ra nhường chỗ cho vị sếp to lớn của mình. Rất sợ đổ vỡ, Kì Phương nhoài người lao theo nhưng chiếc máy ủi kia đã bị chặn lại bởi chiếc bệ thờ. Ông ta khự lại chiếu đèn lên xem rồi chết lặng đi vài giây. Lùi lại một bước, ông đưa tay gẩy kính khỏi mắt rồi trân trân nhìn hiện vật trước mắt như nhìn một quái vật chưa thấy lần nào trong đời. - Đây là ...Yoni:?  Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 712 views 7 likes 0 Comments
Read more
By: On June 2, 2013
Chó hú bu?i tr?a Tác gi?: qu?ng ??i gi?i Lúc nh? tôi thích ?i câu cá l?m ch? nh?t nào c?ng ?i .hôm ???c ngh? tôi xin ba ?i câu cá, ba tôi h?i :”mày ?i câu ? ?âu ?“ d? g?n nhà ông t? lát ák ba. “?! G?n ?ó thôi ??ng qua g?n cây mít” ,sao v?y ba? ”ng??i ta nói ?n c?p mít thì mày tính làm sao nh? ?ó c?m” con bi?t r?i! Lulu ?i thôi .su?t m?t bu?i sáng lèo phèo tr? ???c con cá nào.?ang b?c mình tr?t nh? ra m?y ??a b?n nói qua ch? cây mít có nhi?u con cá to l?m? , Th? là l?i c?i ??n ch? ?ó . cây mít kà lulu ch? ?ó câu mát ?ó ?i thui! ,tôi t? ngh? ...tr?i cây mít to th? này mà tr? có trái nào ,ch?c không có ai nói mình ?n c?p ?au nh? !,ng?i xu?ng câu,câu su?t c? bu?i tr?a mà tr? ???c con nào b?c,v?a câu v?a ch?i m?y th?ng b?n,” m?y th?ng này ch?i mình ?ây mà” ,m?t lát sau ??t nhiên lulu hú lên nó c? hú và nhìn lên cây mít ,?ang lúc b?c tôi héc lên mày im ?i lulu” nh? ai ?ó ?ang ti?n l?i g?n” ,nó lùi l?i g?n tôi và c? hú nh? v?y ,tôi c? nhìn v? phía tr??c tr? th?y gì c?,b?t ch?t có cái gì ?ó thoáng qua m?t l?n...l?n n?a, hình nh? là bóng c?a m?t ng??i ?àn bà ?ang bé ??a con thì ph?i? Bi?n m?t trong choát lát , tôi t? an ?i mình ch?c là ?o giác thui! ,lát sau nghe vân v?n ?âu ?ây ti?ng m?t ??a tr? khóc....?m ?m...! ,tôi ngh?:tr?i !tr?a n?ng th? này mà ai b?m con ?i bi?t n?a? bà m? c?t ti?ng ru con “con ?i ! m? không s? gì h?t m? ch? s? c?c chì ,v?i roi mây” . nghe xong tim tôi nh? mu?n r?t ra , b?ng d?ng gió th?i ngày càng m?nh ,làm cho tôi xù lông gà tôi b?t ??u th?y s? ,tôi l?y c?n câu ??nh v? nhà ,tr?i ?! c?n câu ?ang run ..run.. tôi nghi! là con cá nào ?ó dính zùi,tôi c? gi?t th?t m?nh nh?ng không ???c,càng gi?t m?nh thì nó c? kéo vào.....anh...h?..!,cái con nh? này ,mày làm gi?t mình tao mày...!,qua ?ây làm chi? ba kêu anh ?i ?n c?m kà...tao bi?t zùi! . nh? em h?i:” su?t bu?i tr?a ,mà không có con cá nào h?! i tr?i anh nhìn kìa móc câu dính vào cành cây kìa! N?y gi? ?ang kéo cái này ák h?n? v? thui anh ba ?ang ch? ?ó”,? thì v?, tr?i ngh? quê ghê .v? nhà không dám k? v?i ba , th? là ?n c?m xong tôi ch?y sang nhà ông ngo?i ch?i ,tôi ngh?: s?n ti?n k? luôn chuy?n bu?i tr?a nay, vì ông ngo?i là th?y cúng nên bi?t nhi?u chuy?n trong làng l?m ,nh?t là ba cái chuy?n l? h?i tr?a nay ,tôi k? cho ông nghe ,ông nói :”cháu g?p ma zùi ?ó” tr?i thi?t không ngo?i?” ?? ông k? cháu nghe cách ?ây m?y n?m thì nhà ông t? lát có ??a con gái, c? mà không m?t thì gi? g?n 33 tu?i r?i,tu?i tr? l? d?i mang b?u, b? ng??i yêu b? ,c? ngh? qu?n ,cây mít là n?i c? t? t? n?m n?m ?y ,t?t c? nh?ng gì cháu nghe và th?y là c? ??y.” nghe xong x?ng tóc gá ,ngh? ??n là rùn ...mình,à! Ngo?i ?i! cháu không hi?u sao lulu nó hú v?y? nó c?ng th?y h? ngo?i? ,lulu không nh?ng th?y mà còn th?y rõ h?n cháu n?a .cháu bi?t không loài chó là c?n v? trung thành nh?t c?a loài ng??i ,nó xua ?i nh?ng r?i ro,không may c?a loài ng??i, ??c bi?t loài chó th?y ng??i th? gi?i c?i âm thì nó báo cho loài ng??i ??ng th?i còn b?o v? ?? tránh ?i ?i?u không may ?ó .cháu bi?t không khi l?y máu con chó bôi lên m?t , t?i bu?i ?ám tan ng??i ch?m thì s? nhìn th?y m?i ho?t ??ng c?a th? gi?i c?i âm và truy?n này ngo?i ch? k? cháu nghe thôi ??ng b?t tr??c gì c?, vì ngo?i ?ã th?y nhi?u tr??ng h?p nh?ng ng??i mà làm nh? th? này không có k?t qu? t?t ??p gì c?:”không ch?t thì c?ng b? ?iên n?ng” v?y h? ngo?i? “?”. Thôi mây cho cháu ?êu s?i dây bùa không thì b? ‘c? b?t ?i bé con cho c? luôn r?i...haha...”ngo?i này z?n hoài ! Ch?ng ngày hôm sau ông ngo?i ?i cúng t?i cây mít ?? siu h?n ng??i ?àn bà ?ó . The end
0 Rating 879 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On November 19, 2013
- L?y chúa! Em bê cái này t? ?âu ra?  - Trên ?ài th?. Ng??i ?àn ông nhìn theo ch? tay c?a v? v? cu?i ???ng h?m hun hút và nh?n ra r?ng mình ?ang ? ?o?n ??u c?a m?t cung ?i?n. Còn vô s? ?i?u h?p d?n và l? m?t v?n ?ang ch? ông ? phía tr??c. ??nh ?i ti?p nh?ng môt s?c m?nh vô hình ?ã ghìm ch?t ông l?i. Gi?n d? và kinh ng?c, ông ch? tay lên linh v?t. - Em...em ??nh mang nó ?i ?âu?  - Mang v? M? S?n. Viên ki?n trúc s? th?t lên kinh ng?c:  - V? M? S?n? M?c dù hi?u ???c n?i lòng khao khát cháy b?ng tìm l?i báu v?t thiêu ??t trong trái tim v? ông b?y lâu nay, nh?ng ông không ng? cô ta l?i x?c n?i nh? v?y. Ch? m?y phút tr??c ?ây, nàng còn là ph? n? non gan e th?n, v?y mà ch? trong phút ch?c, ch? hi?u phép thu?t nào ?ó ?ã bi?n cô tr? nên ngang nhiên ??n ng? ng??c nh? th?. - Không ???c, - Ông d?t khoát xua tay, - Nh?ng th? n?m trên ?ài th? là b?t kh? xâm ph?m! - ?ây là báu v?t c?a ng??i Ch?m. - Cô nói ??y thách th?c - Nó ph?i tr? v? v?i ng??i Ch?m. - Nh?ng không ph?i lúc này, hãy tr? l?i ?ài th? ngay! - Không ???c, - Cô b??ng b?nh ?áp – ?ây là Qu?c b?o c?a Champa, là linh h?n c?a ng??i Ch?m, chúng ta ph?i có trách nhi?m tr? v? ?úng ch?n c?a nó. - Hãy nghe anh nói ?ã - ông xòe hai tay phân bua.- Chúng ta s? h?i h??ng nh?ng gì ?ã b? l?y c?p nh?ng ch?a ph?i lúc này. Chúng ta ch?a hi?u gì v? thánh ??a này và s? ph?i tr? giá ??t cho s? x?c n?i và ngu d?t. - Không bây gi? thì bao gi?? Ngoài tôi và anh ra còn ai n?a? – Cô l?i lùi xa t?m tay c?a ng??i ch?ng nh? tránh m?t k? ph?n tr?c - T? tiên em ?ã m?t bao nhiêu công s?c và c? máu ?? ?i tìm nh?ng ??u th?t b?i. ?ây là c? h?i duy nh?t và tôi không th? ch? thêm ???c n?a. Anh không thuy?t ph?c n?i tôi ?âu! Không ch?n ch?, ng??i v? ôm ch?t báu v?t n?ng hàng ch?c cân lao ra c?a v?i m?t s?c m?nh kinh ng?c. Nàng b?t ch?p bóng ?êm và s? hãi khi b?ng ngang tr??c m?i th?n r?n. Ng??i ?àn ông Pháp ch? bi?t ch?y theo soi ?èn cho cô kh?i ngã mà không dám ch?p vào ng??i v? ?ang n?i c?n lôi ?ình. Khi ch?m vách ?á, ng??i ph? n? quay ph?t l?i nhìn ông th? th?. Nhìn c?p m?t hoang d?i mà ông ch?a bao gi? nhìn th?y ? ng??i ph? n?a ??u g?i tay ?p m?y n?m nay, b?n n?ng sinh t?n mách ông không nên d?n ai ?ó vào ???ng cùng. Ông lùi l?i và t? ra l?ch lãm nh? m?t ?àn ông Paris th? thi?t.  - Anh hi?u và trân tr?ng suy ngh? c?a em. Nh?ng chúng ta không th? ?ón r??c th?n linh m?t cách thô b?o nh? v?y. ?ây là di s?n c?a Champa nh?ng ?ã n?m trong lãnh th? Camboge m?y tr?m n?m nay. ?? mang ???c nó v? chúng ta ph?i gi?i quy?t nhi?u v?n ?? l?ch s? ?? l?i. Dù sao chúng ta c?ng s? hành x? ?àng hoàng trong lu?t pháp ch? không ph?i hành ??ng nh? nh?ng tên ?n c?p! - Không, s? không còn ngày nào n?a, em linh c?m r?ng chúng ta không th? quay tr? l?i ?ây ???c n?a. Chúng ta s? v?nh vi?n m?t linh v?t này! Ng??i ?àn ông Paris len lén s?n t?i, ch? ??i m?t cái ch?p m?t c?a cô, ông s? v? c??p.  - ??ng ??ng vào tôi - cô d? cao pho t??ng - n?u ông c??p, tôi s? ??p ??u ch?t ngay tr??c m?t ông... L?i nói này ?ã ?ánh g?c ý ?? c?a ông. ??ng ch?t l?ng gi?a phòng, m?t ông trân tr?i nhìn ng??i ph? n? xinh ??p và t? h?i r?ng nàng có còn là v? mình n?a hay không. Sai l?m! Không ph?i sai l?m khi c??i nàng mà sai l?m khi ??a nàng vào ?ây. Ngàn l?n sai l?m. - Cô có bi?t là cô ?ang xúc ph?m th?n linh không h?? Ông ch? còn bi?t trút h?t t?c gi?n vào l?i nói nh?ng ti?ng gào c?a ông d?i vào vách ?á r?i h?t th?ng vào chính m?t ông. Nàng v?n im lìm d?a l?ng vào cánh c?a và không th? nào nhìn th?y dòng ch? ?ang t?a ám khí ngay trên ??u cô ta. Ông rùng mình nh?n ra dòng ch? Ph?n kia là dành cho ông, nó ?ang chi?u th?ng vào s? m?nh ông. H? nhìn th?ng m?t nhau trong bóng t?i, yên l?ng ??n r?n ng??i. Ti?ng tích tích trên chi?c ??ng h? ?eo tay ?ang nh?c nh? ông th?i kh?c s?p ??n. C?a s? m?. Ông ??a tay nhìn ??ng h? và h?t ho?ng khi nh?n ra th?i kh?c ch? tính b?ng giây và cô ta s? d? dàng thoát ra ngoài. Th?i gian c?u vãn th?n linh c?a ông s?p h?t. Ng??i ph? n? v?n nén l?ng ch? ??i vì cô bi?t th?i gian ?ang ?ng h? mình. Trong tích t?c ông bi?t mình v?n hoàn toàn làm ch? tình hu?ng. Cánh c?a s? không kh?i ??ng n?u ông k?p ng?t máng n??c. Nhanh nh? c?t, ông quay ??u lao v?t vào bóng t?i, ch?a ??y m??i giây sau ông ?ã ??ng gi?a thác n??c. - Khoan, anh làm gì th?? - ti?ng v? ông hét lên ngay sau l?ng - không ???c tháo n??c. Ông ??ng kh? l?i gi?a dòng ch?y không ph?i vì ti?ng thét sau l?ng mà là âm thanh trên tr?i. Ông chi?u ?èn lên và kinh hãi khi th?y tr?n nhà nh? ?ang h? xu?ng. Ti?ng rít c?a nh?ng phi?n ?á xanh mi?t vào nhau nghe l?ng óc. Ông bi?t ?ã quá mu?n, lúc này không có s?c m?nh nào có th? ng?n c?n c? máy kh?ng khi?p kia khi nó ?ã kh?i ??ng. - Ch?y ?i! – Ông thét to v? phía v? r?i lao v?t lên b? tr??c khi tr?n nhà s?p xu?ng. M?c dù bóng t?i bao trùm, ông v?n lao ?úng h??ng cánh c?a ?á ?ang rung chuy?n. Tr??c ông không xa ti?ng b??c chân d?n d?p c?a ng??i v?.  - D?ng l?i! Không k?p ?âu...- ông hét lên. Nhà kh?o c? ng? tu?n r??n h?t s?c lao theo, b?n b? rung chuy?n t??ng nh? m?t c?n ??a ch?n ?ang ?p ??n. M?t ti?ng rít nghê tai vang lên cùng v?i lu?ng ánh sáng tràn vào. Hình ?nh mong manh bé nh? c?a v? ông nh? ?ang bay kh?i m?t ??t h??ng v? ánh sáng. Và ?ó c?ng là hình ?nh nguyên v?n cu?i cùng mà ông còn th?y v? ng??i v? ?áng th??ng c?a mình. Ti?ng ??ng kinh hoàng vang lên. T?t c? chìm vào bóng t?i. Ông tin r?ng v? mình ?ã may m?n thoát qua cánh c?a. ??nh quay l?i con su?i thì ti?ng ??ng l? tr??c m?t làm ông chú ý. Nh? nhàng ng?i xu?ng trong bóng ?êm, ông linh c?m m?t s? th?t kinh ng??i ?ã bày ra tr??c m?t. Ông nh?t v?i cây ?èn trên sàn r?i chi?u vào n?i phát ra ti?ng ??ng. L?y chúa tôi! Thân th? nàng b? ??t lìa. Ông kh?y xu?ng ?? hai c?p m?t kinh h?n c?a h? g?p nhau l?n cu?i. M?t làn h?i th?u thào h??ng v? phía ông.  - ...Hãy mang nó... v? M? S?n... Làn h?i y?t ?t tan bi?n vào h? vô. Ng??i ?àn ông Pháp m?t nhòa ?i và không còn dám nhìn máu c?a nàng ?ang trào ra tr??c ng?c và t??i ??m lên c? linh v?t ?ang n?m trên tay nàng. M?t câu h?i xo?t ngang óc ông. Ph?n thân còn l?i c?a nàng ?ang ? ngoài hay r?i xu?ng h?m t?i. Rõ ràng ông ?ã th?y nàng b?ng qua c?a nh?ng không hi?u sao l?i b? b?t ng??c vào trong. Ông soi ?èn lên v?t th??ng c?a nàng và rùng mình kinh hãi khi th?y m?t bàn tay gân g?c b? ch?t ngang c? tay ?ang b?u l?y ng?c áo v? mình. Ai? Bên ngoài cánh c?a ?á kia là ai? Là ng??i hay qu? d?. Ông l?nh gáy khi ngh? r?ng, mình c?ng không th? toàn m?ng khi ra kh?i ?ây. Làn máu nóng h?i ?ã lan ??t d??i chân ông. ??ng ch?t l?ng trên sàn, ông hãi hùng nhìn cách c?a táp ??y máu ?ang r? ròng ròng xu?ng ??t nh? m?t máy chém v?a xong ca hành quy?t ?? b?o v? m?t chân lí hùng h?n kh?c sâu trên ?á. ‘’Dâng máu cho Ngài! k? nào xúc ph?m ??n th?n linh s? b? rút s?ch máu ba ??i dâng lên Ngài’’  M?t mã Ch?mpa - Ch??ng 1- p1  M?t mã Ch?mpa - Ch??ng 1- p2  M?t mã Champa - Ch??ng 2 - p1  M?t mã Champa - Ch??ng 2 p-2  M?t mã Champa - Ch??ng 3 -p1  M?t mã Champa - Ch??ng 3 - p2 M?t mã Champa - Ch??ng 4 - p1
0 Rating 1k+ views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On November 27, 2013
Chương 3 - p1   Không hiểu vô tình hay hữu ý mà cổ nhân đã đặt ba trung tâm Tôn giáo- Chính trị - Kinh tế của vương quốc Chămpa cổ nằm trên một đường thẳng tắp có tâm điểm là kinh đô Sư Tử (Simhapura). Hơn một thiên niên kỉ trôi qua, ngoại trừ biểu tượng chính trị đã lụi tàn nhưng kì lạ thay, trung tâm Tôn giáo Mỹ Sơn và thành phố cảng Hội An vẫn trường tồn đầy sức sống mãnh liệt như thủa xưa. Đón những tia nắng đầu tiên của ngày hôm nay là một nhóm người trong căn nhà cổ kính ven sông Thu Bồn. Đó là ba người đàn ông lớn tuổi và một nữ phóng viên trẻ Mộc Trân. Trước mặt cô là chiếc máy ghi âm đang ở chế độ tắt, một cây viết và một quyển sổ đang mở rộng chưa có dòng chữ nào. Nét mặt của họ đăm chiêu ngó ra mặt sông phẳng phiu như lụa trải ngoài khung cửa mờ sương. Người lớn tuổi nhất là giáo sư Huỳnh Lẫm- một nhà khảo cổ và nghiên cứu văn hóa Chăm có tên tuổi nhất nước hiện nay. Ông bấm máy di động rồi áp lên tai lần này là lần thứ năm. Rỗi cũng như mấy lần trước, ông thả xuống bàn với cái lắc đầu nặng trĩu: - Đến giờ này vẫn chưa liên lạc được, tôi e rằng lão đã xảy ra trục trặc gì đó. - Xin thầy đừng sốt ruột ạ - Một người tóc xoăn lên tiếng - Người Pháp có thói quen dậy muộn, ta đợi lát nữa xem. Người đàn ông khác đeo cravat đỏ có phần sốt sắng hơn: - Có lẽ chúng ta nên bắt taxi lên khách sạn xem sao, ông ta phải biết rằng khán giả cả nước và nhất là người Chăm trên toàn thế giới đang nằm phục bên tivi từ đêm qua. Mộc Trâm với đôi mắt thâm quầng do mất ngủ bỗng ánh lên, cô đặt li cà phê xuống bàn, cô phụ họa theo: - Cánh phóng viên chúng em có người cả tuần này ăn chực nằm chờ ở Mỹ Sơn, lề mề nhất như em thì tối qua đã hạ trại rồi. Người đeo cravat đỏ lộ dần là một quan chức nặng kí, ông vung tay: - Không gì tệ bằngđể mất lòng tin trong nhân dân, ông ta mà bỏ trốn như hồi trước, tôi sẽ lôi cổ ông ta ra tòa. Nghe đến từ ‘’bỏ trốn’’, người tóc xoăn không thể không xen vào: - Chú Dũng cứ bình tĩnh, dù bê tha đến mấy thì người Pháp cũng không thất hứa đâu. Giáo sư Huỳnh lẫm không hé môi, ông đưa cặp mắt sâu hoắm nhìn ra mặt sông như tìm kiếm một câu trả lời về buổi lỡ hẹn không đáng có này. Tuy không bổ nhát cuốc lịch sử xuống Mỹ Sơn sáng nay, nhưng là trưởng đoàn nên ông như đang ngồi trên đống lửa. Ông tin tưởng vào vị đồng nghiệp đến từ viện Viễn đông bác cổ như tin chính bản thân mình, nhưng để xảy ra sự cố ngay từ phút đầu trong sự kiện trọng đại này lại là một điềm không lành. Dù gì đi chăng nữa, Paul vẫn được nhìn nhận như một người đầu tiên hồi sinh cho Mỹ Sơn sau hai cuộc chiến tranh tàn phá. Hơn một thế kỉ nay các nhà khảo cổ Pháp luôn phô cái bóng to kềnh của họ che lấp những nhà khoa học da vàng mũi tẹt như ông. Từ khi nhà thám hiểm L. Paris tìm ra Mỹ Sơn đến nay đã có không ít nhà khoa học Tây phương để lại dấu ấn trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Và ngày mai, lại một người Pháp nữa. - Không biết linh vật Champa là thứ gì mà ông Paul kín như bưng vậy, chẳng lẽ các bác không ai biết gì hay sao? – Cô phóng viên ngước nhìn lần lượt ba tinh hoa nước nhà như như thể đang khiêu khích. Người tóc xoăn lập tức quay sang trừng mắt nhìn cô ta qua cặp kính dày cộp, giọng đục ngầu. - Cô muốn chúng tôi ngồi tù chắc! Đã nói là tuyệt mật, cô nên tìm Paul mà hỏi. Chúng tôi không có quyền tiết lộ bí mật quốc gia. Giáo sư Huỳnh lẫm nhấp một li cà phê cố che một cái nhếch mép. Bởi, ông biết rằng sau cái cặp kính trí thức kia cũng chả biết gì. Ngay cả ông đây, từng là viện trưởng Viện khảo cổ, nhà nghiên cứu Chămpa có số có hạng mà cũng chẳng rõ Paul sẽ diễn trò gì trên khoảnh đất đã nén chặt dấu chân ông. Nhìn những khuôn mặt khó đăm đăm, cô phóng viên biết mình đã hỏi không đúng lúc, không đúng người và không đúng chỗ. Gấp cuốn sổ trống trơn trên bàn, cô đưa ánh đầy cam chịu nhìn chan chứa ra phía con sông. Ngay lúc đó, chất giọng trầm trầm nghe còn u ất hơn lên tiếng. - Chị Mộc Trân cứ bình tĩnh.- Gs Huỳnh Lẫm nói. - Cô mới đợi có một đêm, còn tôi, nói cô đừng cười, tôi đợi ngót một đời người rồi. Người đeo kính cười khổ rồi phụ hoa theo. - Cô Trân chắc không lạ gì với thầy Lẫm đây, nếu nói về thâm niên nghề nghiệp còn hơn cả tuổi đời của tôi, vậy mà tôi năm nay đã ngót 50. Cái tuổi săp về vườn nhưng nhìn lại mình vẫn chưa làm nên trò trống gì so với ông Paul. Thực lòng mà nói, chúng tôi rất ghen tị với ông ta - Người đeo kính lén nhìn thầy của mình rồi lại tiếp. – Nhưng nghĩ lại phải công nhận ông ta là người dám xả thân. Xứ này có ai dám sống chung với rừng hoang và rắn rết để làm khoa học như ông ta đâu. Giáo sư Phương đồng tình, ông nói thêm. - Đợt này ông ta thề sẽ mang cho chúng ta một báu vật quý báu hơn tất cả các báu vật trong viện bảo tàng Chăm cộng lại. - Ông ta điên chắc!- Người thắt cravat vốn kiệm lời nhất, nãy giờ ông chỉ nghe và ngẫm, nhưng lần này ông cũng không kìm nổi - Có cái gì đó rất kì quặc, tôi cảm thấy chúng ta hình như đang... bị lừa. Giáo sư Huỳnh Lẫm vung tay như chặn những chiếc lưỡi quá khích đang nhằm vào người bạn của mình. - Nói bậy, các vị suy xét cho thật kĩ, trước khi sang đây ông ta lập hồ sơ chứng cứ rất cặn kẽ cho cơ quan chủ thể của mình và cả Ủy ban di sản Unesco. Với uy tín của cá nhân và cả viện Viễn đông bắc cổ, mọi khâu thủ tục đã khơi thông với tốc độ ngoài mong đợi. Đây là sự kiện lớn do một nhân vật uy tín khởi xướng. Cả nhóm không nói thêm, lúc đó chếc di động lại reo vang. Không phải là Paul gọi đến xin lỗi như ông tưởng, đó là một học trò của ông. - Ai đấy, .... Paul bị giết sao?.. nói to lên....Trời, không thể! Chiếc điện thoại nhỏ bé ruốt cuộc đã đánh khụy vị giáo sư. Sau tiếng gào khô khốc, ông lẩy bẩy ôm lấy đầu. Mộc Trân nhổm người dậy, mắt dáo lên hỏi dồn: - Có giết người hả bác, ở đâu? Sau cơn choáng nhẹ, Giáo sư thở sâu rồi ngả lên thành nghế, mắt mở to lơ lác nhìn lên trần nhà. - Thầy... thầy có làm sao không thầy... - ba người đồng thanh hỏi. - Paul..đã bị giết rồi! - Vị giáo sư già nói hắt ra đầy khó nhọc. -Ở đâu bác? chúng ta sẽ đến đó ngay bây giờ. – Mộc Trân nhanh tay lùa mớ đồ nghề vào bao. -Thánh địa Mỹ Sơn! - ông chỉ tay ra chiếc xe ngoài phố - Bấm máy cho cảnh sát đến đó luôn một thể. Mấy phút sau, hai chiếc xe con nhằm hướng tây lao đi. * Mặc dù Kì Phương đã lường trước một kết cục tồi tệ từ khi nhìn thấy máu, nhưng anh không ngờ cái chết của Paul lại thê thảm đến như vậy. Anh vội vã rút máy ra gọi điện báo cho trưởng doàn khảo cổ Gs Huỳnh Lẫm. Phía đằng xa, Thi Nga vẫn miệt mài tìm kiếm mà quên mất bạn đồng hành phía sau. Không có anh bên cạnh, sự can đảm của cô đã rơi mất một nửa. Sự sợ hãi bất giác lan tỏa trên những bước chân run rẩy của cô. Ánh đèn trong tay cô chiếu loang loáng tứ phía và tim cô giật thót mỗi khi thấy những pho tượng không đầu của thần sinva và những đứa con mình người đầu thú của ngài ẩn hiện trong bóng tối. -Kì Phương, anh ở đâu?- Cô khẽ gọi. Phủi mặt mũi rồi ngồi dậy, Kì Phương định leo lên miệng hố thì bỗng nghe thấy tiếng cô văng nẳng phía xa. Anh hét với lên. - Cẩn thận kẻo ngã đấy. Nhận ra giọng anh, cô òa lên vui sướng: - Đừng đùa tôi nữa, Anh trốn ở đâu? - Đừng chạy, đứng tại chỗ, tôi sẽ đến. - Anh làm sao thế?- Nhận ra âm thanh khản đặc của anh thoát lên từ lòng đất, cô ta cuống cuồng chạy về phía anh. Trong lòng hố sâu và hẹp, Kì Phương nghe rõ tiếng bước chân rung chuyển mặt đất. Ánh đèn loang loáng ngày một sáng hơn. Cô ta sẽ nhìn thất tất cả. Kì Phương bỗng dưng thấy hoang mang như chính mình vừa gây một tội ác ghê gớm, và không hiểu sao anh thấy sợ hãi, không phải sợ xác chết sau lưng mà sợ con người sống trước mặt. Trong tích tắc anh chưa giải nghĩa chính xác mình sợ cái gì nhưng anh ước cô ta biến mất khỏi đây. Cô ấy không đủ can đảm để nhìn cha mình lúc này. Kì Phương đã nhận ra mình sợ cái gì. Phải rồi, lòng trắc ẩn! Anh sợ sẽ phải chứng kiến trái tim non nớt kia tan nát. Cô đang chạy thình thịch trước khi quỵ ngã. Mỗi bước chân cô là một nắm đấm dội thẳng vào lồng ngực anh. Rồi bằng một động tác bản năng, anh ngã ngửa như một khúc cây bị đốn. - Dừng lại ngay! – Kì Phương hét lên khi nhìn thấy một mũi giày thòi trên mép hố, một tràng đất đá dội xuống mù mịt kèm một chùm sáng chiếu vào mắt. - Trời ơi, – cô thét lên - anh có làm sao không? Rõ ràng là cô chưa thấy cái mà anh đang che lấp. Vừa nói, cô vừa khom người túm chặt lấy miệng váy, một tay bám vào cỏ dại rồi duỗi đôi chân dọc theo mép hố. Bàn tay còn lại thõng sâu xuống nhưng vẫn thiếu vài tấc nữa để chạm vào điểm cao nhất của người anh. Kì Phương lập tức co rúm người lại một cách vụng về vô tình để cái xác to tướng dưới vai anh lộ ra. - Đưa tay đây tôi sẽ kéo anh lên! - Tôi đang choáng - Kì Phương luống cuống chỉnh lại thế nằm - Hãy để tôi nằm đây chốc lát. Thấy anh lúng ta lúng túng và có ý không muốn lên. Cô cau mày khó hiểu. - Tại sao anh kì quặc thế, đưa tay đây tôi kéo lên! - Không!- Kì Phương dứt khoát.- Cô ra khỏi đây ngay đi. Kì Phương thể hiện một thái độ mà cô vừa tức cười vừa nổi cáu, chẳng khác một đứa trẻ đang ăn vạ. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, cô kiểm tra lại tư thế của mình rồi ngượng nghịu thu hai cặp đùi lên trước khi chuyển sang thế khác mà cô cho là kín đáo hơn. Đặt chiếc đèn bên mép hố, cô nằm sấp trên mặt đất rồi thõng toàn bộ thân trên và đôi tay xuống hố. Với thế mới này Kì Phương chỉ còn nước nhắp tịt mắt. Đôi bàn tay vớt liên hồi trong không khí và cô suýt nữa tóm trúng cái thắt lưng đang phập phồng của anh. - Đồ hâm, - cô quát - Chìa cái tay anh ra đây mau! Bất chấp vòng tay nhiệt huyết đang dang ra, Kì Phương vẫn nhất quyết cự tuyệt. Anh biết rằng chỉ cần cựa quậy, cái vật dưới lưng anh sẽ làm cô ta ngã lộn cổ xuống đây. Anh không thể tàn nhẫn như vậy được. Cách hành xử kì quặc của Kì Phương lại càng làm cô ta sinh nghi. Cô không vồ vập như trước mà tập trung soi đèn từ mặt đến bàn chân anh hòng tìm ra lí do. Thấy tình hình đã đến lúc nguy ngập, Kì Phương buộc phải tìm cách tống cổ cô ta. - Tắt đèn đi. – anh quát. Ánh đèn vụt tắt nhưng khối thịt lù lù vẫn y nguyên có thể nhào xuống bất cứ lúc nào. Anh dằn từng chữ: - Để tôi nằm nghỉ giây lát, cô hãy ra khỏi đây ngay. - Không được, đưa tay đây! – Cô ta bất thần phóng tay xuống cố vồ một cú quyết định để kết thúc cái trò đùa quái gở này. Đất đá được dịp tuôn mù mịt lấp đầy mặt anh nhưng Kì Phương vẫn lấy làm mừng vì nó lấp luôn cả khuôn mặt lạnh ngắt sau gáy anh. - Cô hãy quay lại khách sạn đi, - Anh gào lên - biết đâu ba cô đã quay lại tìm cô. Kì Phương không hiểu sao lại vuột một câu như vậy, nhưng câu này liền tỏ ra hiệu quả tức thì. Thi Nga thu bàn tay chưng hửng trở về rồi ngồi thượt trên mép hố, nhưng vẫn bướng bỉnh không chịu bỏ đi. - Cô lái được xe chứ? - Để làm gì? - Cô hãy nhanh nhanh quay lại khách sạn ngay, nếu không tìm thấy cô, ba cô sẽ rất lo lắng có thể lên sân bay tìm cô đấy. - Nếu ông ấy đã rời khỏi đây, tôi nghĩ sẽ phải sang Pnompenh tìm ba tôi mất? Anh đi với tôi chứ? - Pnompenh? – Kì Phương tưởng cô nói nhầm - Cô nói nghiêm túc đấy chứ? - Tôi không đùa vào lúc này! Kì Phương cho rằng cô nàng láu lỉnh đang bịa chuyện để dụ anh đứng lên nhưng anh không dễ dãi mắc mưu đến vậy. - Vậy ông hẹn cô sang pnompenh để làm gì nào? - Thám hiểm một kho báu bí ẩn chưa ai biết tới. Anh chưa nghe ba em nói bao giờ sao? Nghe đến đây Kì Phương chỉ muốn ngồi bật dậy để hỏi cho ra nhẽ, nhưng vừa dựng gáy lên anh đã phải giả vờ mệt mỏi hạ xuống. Không biết từ phía sau Paul có xác nhận điều con mình vừa nói hay nhưng quả thật mấy hôm nay anh đã nghe phong phanh về chuyện đó. Kì Phương đã định hỏi trực tiếp Paul nhưng ông vẫn chưa dành cho anh một chút thời gian nhưng dù bất luận đúng hay sai thì giờ đã đến lúc đẩy cô ra khỏi đây. - Vậy cô nên nhanh nhanh quay về Rex đi, nếu không ba cô sẽ đi Pnompenh mất. - Anh hứa là không làm sao cả chứ? - Khổ quá, đừng lo cho tôi, - Anh van nài - tôi sẽ tự lên và quay về khách sạn tìm cô! - Tốt lắm, tôi sẽ đi ngay. Kì Phương rút chùm chài khóa rồi ném lên miệng hố. Chỉ trong vài giây tiếng sột soạt của đôi giày 9 li đã mất hút. Áp lực tưởng như đã vơi đi nhưng một nỗi ân hận lập tức ập đến giày xéo lấy anh. Mình quá ác với cô ta. Nhưng ngược lại, nếu để cô chứng kiến cảnh này còn tàn nhẫn hơn nhiều. Anh thầm nghĩ sẽ gặp lại cô tại Rex rồi nói hết sự thật này, lúc đó dù có ngất xỉu cũng đã có giường ấm nệm êm. Anh cũng có thể ở đó an ủi vỗ về hàng giờ dù sao cũng dễ chịu hơn là để cô chuầy chòa nơi bùn lầy bẩn thỉu này. Kì Phương nặng nề ngồi dậy dũ bớt bùn đất rồi tìm cách leo lên miệng hố cao lút đầu người. Xung quanh chìm đắm vào bóng đêm mịt mùng.                                   Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1  
0 Rating 668 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On June 1, 2014
  Tắc đường. Mới bảnh mắt đã ùn đống tại các ngã ba mà trước đây chưa bao giờ tắc. Lê Đại Hắc đi ngược chiều giữa một đám đông ngơ ngác. Từ Mỹ Sơn tỏa sang vùng lân cận có tới bảy chốt đã được cấp tốc lập ra để chặn bắt thủ phạm. Chẳng mấy ai tin vào cách này nhưng Lê Đại Hắc thừa nhân lực để không bỏ sót phương án nào dù là thô sơ nhất. Tuy chưa biết hung thủ thuộc thành phần nào nhưng ông ta chắc chắn đó là một kẻ tà đạo khát máu có bộ mặt gớm giếc. Sáng nay ông đã thẩm vấn ngót chục đối tượng khả nghi có tiền án tiền sự nhưng không hé ra được manh mối gì. Kẻ sát nhân chọn hiện trường là khu di tích tôn giáo, cách giết người lạ lùng với những nghi lễ chưa từng có đã buộc ông chú ý đến các đối tượng khác người. Cuộc trao đổi với viên kiến trúc sư trên hiện trường đã trang bị cho ông một cặp kính mà ông tin có thể nhìn sâu hơn vào các tổ chức ma giáo. Các thầy lang, thầy cúng, thầy phù thủy và các gia đình có thân nhân bị bệnh được cho là ‘’ma ám’’ được ông cho người theo dõi. Tuy nhiên ông để mắt nhiều hơn đến các các đạo sĩ, trí thức, những người mà ông tin rất thông tường pháp thuật và nghi lễ của phái Balamon. Họ có thể là các giáo sư, tiến sĩ, nhà nghiên cứu hoặc đơn giản những kẻ cuồng tín hay mang bệnh hoang tưởng. Trong khi ông đang cho lính ráo riết săn lùng khắp hang cùng ngõ hẻm thì hung thủ có lẽ đang giảng đạo trên thánh đường, trên bục giảng, hoặc ngồi trong công sở hay đang vùi đầu trong thư viện với các cuốn sách cổ kinh dị. Lê Đại Hắc nảy ra ý định gặp ngay hội đồng khảo cổ, nơi tập trung rất nhiều đoàn chuyên gia đang thất sủng sau khi buổi khai quật bị hủy đột ngột. Tên hung thủ biết đâu là một trong số họ, hoặc nếu không thì nhóm trí thức kia sẽ giúp ông gỡ rối phần nào mối tơ vò này. Máy cầm tay reo vang, ông nghe xong rồi nói. - Đoàn nào đến?... Khẩn trương lắm hả?... Bảo họ đợi chốc lát, tôi sẽ về ngay. Hóa ra không chỉ ông muốn gặp các nhà khảo cổ, mà chính họ cũng đang cần chất vấn ông. Lê Đại Hắc dập máy rồi lên xe trở lại đại bản doanh của mình. Về đến nơi, ông đã thấy một nhóm người ăn mặc lịch sự, kẻ đứng người ngồi đầy vẻ nôn nóng trong phòng khách và nổi bật nhất là giáo sư Huỳnh Lẫm. - Xin chào các vị, các vị đợi tôi đã lâu? - Chào ông cảnh sát, tìm ra hung thủ chưa? – Giáo sư Huỳnh Lẫm hỏi. - Tôi đang muốn tìm các vị giúp sức đây. - Lê Đại Hắc lắc đầu đáp. Giáo sư Huỳnh Lẫm nói: - Lẽ ra không đến phiền ông nhưng chúng tôi vừa nhận được một công văn khẩn từ Bộ ngoại giao giới thiệu một chuyên viên người Campuchia sang làm việc. Lê Đại Hắc nhìn thấy một người đàn ông da ngăm đen ngồi bên cạnh vị giáo sư. - Xin tự giới thiệu, tôi là Sray Ka Mou, phó chánh văn phòng Bộ Du lịch campuchia. Paul Morierre đang mang một số tài liệu tối mật liên quan đến Campuchia. – Người khách nói. - Nếu tài liệu này lọt ra ngoài thì hậu quả khó lường nổi. Chính vì lẽ đó mà tôi được cấp tốc phái sang đây gặp các ông. - Tìm tài liệu nào? tôi chưa hiểu? - Tôi sẽ giải thích. – Giáo sư Huỳnh Lẫm rút ra một cuộn hồ sơ rồi nói. - Thưa ngài cảnh sát, Paul đang nắm tài liệu về một kho báu bí mật trong lòng đất thuộc lãnh thổ Campuchia. Nếu kẻ xấu lấy được tài liệu này thì chúng sẽ tìm thấy kho báu đó. Vì vậy người ta cần ông tìm kiếm và thu lại ngay các giấy tờ này. - Gay thế cơ hả, chúng tôi đang vã mồ hôi hột tìm hung thủ đây. Mà có gì thì cũng chờ chúng tôi bắt được chúng đã chứ. Tuy nói vậy nhưng Lê Đại Hắc vẫn đón lấy tập hồ sơ ra xem. Ông biết đây là một công trình cổ kính chứa nhiều hiện vật quý. Kẻ ngoại đạo như ông không đánh giá hết ý nghĩa. Giáo sư Huỳnh Lẫm nói tiếp: - Phần lớn tài liệu này đang trong tay Paul. Hay nói đúng hơn là số tài liệu về kho báu này Paul đã chuyển cho chính phủ Campuchia một phần rồi. Ông ta chỉ giữ trong người phần cốt yếu nhất để đích thân đi khai quật kho báu này nhưng chưa thành thì đã gặp nạn như ông biết. Lê Đại Hắc nghe qua đã thấy độ khẩn cấp và sức nóng của công việc. Hóa ra đây là một chuỗi hậu quả dây chuyền sau cái chết của Paul, vụ việc đã vượt ra khỏi phạm vi biên giới. Điều này gợi ra một hướng điều tra mới mà ông chưa bao giờ nghĩ tới, đó là: động cơ giết người là vì tài liệu. Do đó thủ phạm có thể sẽ chạy sang Campuchia – hướng về kho báu. Lê Đại Hắc nói. - Chúng tôi đã khám hiện trường nhưng không thấy gì. Nạn nhân đã bị lột trần truồng không còn thứ gì trên người. Nếu ông ta mang gì đó theo người thì chắc chắn đã bị hung thủ mang đi rồi. Chúng tôi đang căng ra tìm hung thủ và có gắng thu về mọi tang vật. - Có lẽ tài liệu này chưa hẳn đã nằm trong tay hung thủ. - Giáo sư Huỳnh Lẫm nói. – Paul thừa khôn ngoan để cất giấu nó hoặc gửi cho một người thân cận nào đócủa ông ta. - Theo giáo sư thì ai là người thân cận? Tất cả nhìn nhau nhưng không cất tiếng. Lê Đại Hắc nói. - Các ông cứ suy nghĩ cho kĩ những ai đang nhòm ngó kho báu này. Chỉ có những kẻ có học mới đủ tầm làm những việc như vậy. Các ông là người trong nghề nên dễ nhận dạng bọn họ. Các vị ngại nói ra ở đây thì có thể nhắn tin vào máy cho tôi. Còn bây giờ tôi có việc rất gấp phải đi ngay. Lê Đại Hắc đứng dậy đi ra cửa. Từ khi xảy ra án mạng ông tập trung chỉ đạo truy tìm hung thủ nên ông đã coi nhẹ căn phòng của nạn nhân ở Rex. Tuy đã báo cho cảnh sát khu vực đến niêm phong nhưng ông không mấy tin vào sự khẩn trương của họ. Lê Đại Hắc bỗng dưng thấy nôn nóng khác lạ, nếu Paul có một tài liệu tuyệt mật tầm cỡ như vậy thì chắc chắn đang nằm trong két sắt ở khách sạn. Ông lao ra ngoài gara, một phút sau chiếc Land Cruiserchở nhóm cảnh sát lao hết tốc lực về phía Đà Nẵng.                            ***   Kì Phương mở ba-lô lấy tờ giấy anh chép dòng chữ sáng nay ra so với dòng chữ trong bức ảnh.Thật kinh ngạc. Hai chữ này là một. Vậy làchữ đó đã từng xuất hiện tại một thánh địa khác ở một thời điểm khác. Kì Phương gợn lên một nỗi hoang mang rằng liệu những gì xảy ra với Paul sáng nay có giống như vợ ông ta ở Naga 12 năm về trước không? Nếu đúng thì cái chết của Paul đã được lập trình từ trước và hôm nay, tên sát thủ đã trở lại. - Ai giết mẹ cô? – Kì Phương đột nhiên hỏi. - Tôi không biết. - Ba cô phải biết chứ? - Tiếc rằng ba tôi cũng không nhìn thấy kẻ giết người. Đó là cái chết khủng khiếp đã ám ảnh ba suốt bao năm nay. Đã có lần trên giường bệnh ba tôi đã mê sảng và hét lên rằng ‘’Đừng giết ta, đừng giết con ta’’. Rõ ràng có ai đó muốn giết ba con tôi. Kì Phương suy ra một điều rằng Paul đã bị một lực lượng nào đó đeo bám để trả thù từ khi rời kho báu Naga. Sáng nay giáo sư Huỳnh Lẫm đã vô tình gieo một câu mà anh cứ nhớ mãi ‘’chưa có kẻ nào đụng vào thần hộ mệnh Chăm mà toàn mạng trở về’’. Kì Phương cố gạt nỗi ám ảnh trong đầu rồi lật các trang sách hòng tìm chứng tích nào đó về hung thủ nhưng các bức ảnh còn lại chỉ là hang động âm u không có sự sống. - Ba cô có bao giờ tiết lộ thánh địa này ở nơi nào không? - Không, không bao giờ. - Thi Nga lắc đầu dứt khoát. – Ba nói vị trí này phải được giữ tuyệt mật vì tính mạng của tôi. Ba sợ tôi sẽ tìm cách vào đó và sẽ lại mất mạng... Ba nói nó là thánh địa có chủ hàng mấy thế kỉ nay. Những chủ nhân bí ẩn này sẵn sàng có mặt bất cứ đâu để ban cái chết cho bất cứ ai nhăm nhe xâm phạmnó. Ba mẹ tôi may mắn đã đặt chân đến đó nhưng mẹ tôi đã không thể trở về. Ba tôi căm thù chúng đến tận xương tủy và thề rằng ngày lôi chúng ra ánh sáng không còn lâu nữa! - Nhưng ba cô đã...- Kì Phương định nói chết rồi nhưng may kìm được. Tuy rất dằn vặt nhưng anh vẫn trấn an lòng mình rằng tìm xong Naga anh vẫn kịp đưa cô về viếng ba mình. Hơn nữa, linh hồn và thể xác mẹ cô thảm thương hơn vì đã mười hai năm không người nhang khói. Nhìn Kì Phương đứng ngây người, Thi Nga giằng lấy cuốn sách trong tay anh rồi nói: - Nếu anh sợ, tôi sẽ đi tìm Naga một mình. - Ơ kìa. - Kì Phương giằng lại cuốn sách. – Ai bảo tôi sợ? mà cô biết Naga đâu mà đi một mình? - Tôi sẽ tự đi tìm. Kì Phương không hiểu cô gái này sẽ tìm cách nào giữa núi rừng bao la xứ người. Mà tình cảnh cô lúc này cũng rất éo le, ở lại cũng không ổn, đi cũng không xong và anh không nỡ bỏ cô lúc này. - Tôi sẽ đi cùng cô.Chúng ta sẽ cùng đi Naga. - Anh không sợ tai vạ à? Nếu có mệnh hệ gì thì sao? Thật tình Kì Phương cũng rất ớn khi nghe cô kể và nhất là tận mắt thấy xác Paul nhưng đến nước này mà rút lui thì ê mặt nam nhi. Anh cất cuốn tài liệu vào balô rồi nói. - Tôi chỉ lo cho thân gái của cô thôi. Nhìn thấy sự quyết tâm của Kì Phương, mặt cô rạng rỡ trở lại. - Chúng ta phải tìm ra Naga trước chiều mai. - Cô nói. – Nếu muộn hơn e phải đợi thêm... mười hai năm nữa đấy. Kì Phương gật đầu rồi nói nửa thật nửa đùa. - Không bản đồ, không manh mối, không người dẫn đường, hi vọng mười hai năm sau tìm thấy là vừa. - Tại sao lại không có manh mối chứ? Kì Phương chợt nhớ ra mẩu giấy của Paul và cả dòng chữ trên yoni. Rất có thể con đường đến Naga đang ẩn trong đó. - Chắc cô biết tiếng Chăm chứ? - Tôi chỉ học một ít qua ba thôi. – Cô đáp thoáng chút ngượng ngùng. - Thế là tốt, hơn một trăm ba mươi ngàn người Chăm trong nước cũng chỉ vài chục người đọc thông viết thạo tiếng mẹ đẻ là cùng. Còn để đọc được tiếng Chăm cổ thì chỉ đếm đầu ngón tay. - Mà anh hỏi để làm gì? Kì Phương đưa cho cô tờ giấy có dòng chữ Chăm lạ. - Anh lấy đâu ra? - Sáng nay tôi thấy trên yoni nên đã chép lại đấy. - Yoni nào? tại sao tôi không thấy gì nhỉ? - Yoni có máu đấy. Sáng nay nó mới hiện rõ hơn, mà quan trọng là cô có hiểu chữ này là gì không? Thi Nga ngơ ngác nhìn dòng chữ hồi lâu rồi hỏi. - Đây đâu phải tiếng Chăm? - Đây không phải là chữ thảo Akhar Thrah, nhưng có thể là một chữ Chăm cổ. Cô nên nhớ là từ thời lập Quốc đã có đến hàng trăm phiên bản đấy. Thú thực Kì Phương cũng không thể biết hết người Chăm đã sáng tạo ra bao nhiêu và khai tử bao nhiêu loại chữ. Là một người Kinh, anh không khỏi mến mộ và khâm phục tổ tiên người Chăm đã tô những nét son đặc sắc có một không hai cho nền văn hóa lâu đời trên dải đất chữ S này. Anh đã dành trọn ba năm để học chữ Chăm cổ nhưng giờ cũng chỉ đạt đến mức trên đánh vần mà thôi. Ngoài chữ thảo Akhar Thrah có từ thời vua Pô Rôme đã tròm trèm năm thế kỉ thì còn vô số phiên bản cổ xưa hơn nhiều. Chữ Chăm cổ đó lại được phân ra nhiều loại khác nhau như chữ thánh Akhar Rik, chữ con nhện Garlimang, chữ bí ẩn Akhar Yok và nhiều chư lai Arập và Mã Lai nữa... Sự phân loại còn dựa trên vật liệu để viết: chữ Hayep viết trên bia kí, kim loại, chữ Baar viết trên giấy, chữ Agal viết trên lá buông, chữ Tapuk viết trên giấy gió... Chính vì quá nhiều và phức tạp nên hầu như không ai có thể liệt kê hết bao nhiêu chữ Chăm cổ. Nhìn tờ giấy xong Thi Nga lắc đầu. - Tôi chịu, có vẻ như là chữ trên bùa chú? - Không phải, chữ trên bùa chú của người Chăm thường là hình vẽ hoặcviết phăng trên nền chữ Akhar Thrah nên xem qua là dễ đoán được ngay. Vả lại ai đó vẽ bùa lên đây để làm gì chứ? - Hay đây là một loại bùa chú của dân tộc khác muốn trấn yểm người Chăm? - Ý cô muốn nói tộc Kinh của tôi chắc? - Tôi thấy hao hao giống bùa chú của phái... Mật tông Tây tạng! Kì Phương nhìn cô đầy tâm đắc nhưng không ngại lắc đầu phủ nhận. Quả thật, cô ta có trí nhớ hình ảnh khá tốt. Lúc sáng, khi thấ
0 Rating 642 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On November 17, 2013
  Đây là tiểu thuyết thám hiểm đầu tiên về kho báu bí ẩn của người Chămpa cổ. Mỗi một nền văn minh xuất hiện và biến mất đều để lại một dấu ấn mãnh liệt, cái chúng ta nhìn thấy của nền văn minh Chămpa còn lưu lại cho đời sau là kiến trúc đền tháp, nghệ thuật điêu khắc và nhiều tác phẩm nghệ thuật phi vật thể khác. Còn kho báu thì sao? Các bia kí tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ cùng với sử liệu Đại Việt và nhà Hán đều mô tả hàng tấn vàng bạc, đồ thờ cúng và hàng vạn cuốn kinh quý đã bị thất lạc và cướp bóc bởi các cuộc xâm lược. Rất nhiều báu vật khác mà triều đình còn giữ được và cất dấu là có cơ sở. Lần theo tư liệu của các nhà khảo cổ Pháp từ Viện Viễn Đông Bác Cổ và các bia kí, thư tịch cổ, chúng tôi đã hình dung được sự thật và điều huyền bí chưa lí giải qua một câu truyện tạm gọi là ‘’Mật mã Champa’’  Chương 1- Phần 1. Tuân thủ một cách tuyệt đối những di chỉ bằng tiếng Phạn lưu lại trên một tấm da dê cổ vẽ tay, viên kiến trúc sư người Pháp cùng với phu nhân đã bước qua cánh cổng đá cuối cùng của hành trình khám phá kho báu Champa cổ xưa. Trong hang đá tối đen như mực, người phụ nữ trẻ tỏ ra sợ sệt khi nhìn lại cánh cửa đã sập xuống sau lưng. Một dải sáng lân tinh bò ngoằn ngoèo trên vách đá hiện một dòng chữ Phạn lờ nhờ: ‘’Dâng máu cho Ngài! kẻ nào xúc phạm đến thần linh sẽ bị rút sạch máu ba đời dâng lên Ngài’’ -Anh nhìn kìa...- cô gái chỉ tay nói. Viên kiến trúc sư đến từ Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) rùng mình khi đọc xong dòng chữ khắc sâu trên mặt đá. Từng bỏ ra hàng chục năm để nghiên cứu bia mộ cổ, ông liên tưởng đến một lời nguyền được cho là thần bí nhất lịch sử, đó là câu khắc trên bia mộ các hoàng đế Ai Cập ‘’Bất cứ người nào đến quấy nhiễu sự yên ổn của Pharaông, thì cánh cửa tử thần sẽ giáng xuống đầu người đó’’ Đó không phải là lời dọa suông. Hàng ngàn năm nay, lời nguyền bí ẩn kia vẫn là bản án tử hình siêu linh đã giáng phạt bao nỗi chết chóc kinh hoàng cho giới khảo cổ và cả những tên săn trộm dám phớt lờ nó. Viên kiến trúc sư chiếu ánh đèn pin rồi xích lại gần, ông nhìn thấy những vẩy máu khô loang lổ trên vách cửa đúng vị trí mà ông và vợ vừa nhảy qua. Ông biết rằng mình không phải là người đầu tiên bước qua đây và số phận những kẻ trước đó ra sao thì đã rõ. Ông trấn an người vợ đang run rẩy trong làn hơi ẩm lành lạnh dưới độ sâu gần chục mét trong lòng núi. -Đừng để tâm, anh đã có cách khắc chế cánh cửa đó. Người đàn bà đầu tiên đặt chân nơi cung cấm này vẫn chưa hết sợ hãi. Cô nói: - Cửa đá đã sập xuống, làm sao chúng ta mở được để về? - Anh đã nghiên cứu tấm bản đồ cổ rất kĩ rồi, phía sau bức tường trước mặt kia là cỗ máy chạy bằng sức nước dùng để điều khiên cánh cửa đá. Mặc dù chiếc đèn pin công suất sao, chùm sáng dường như tắt lụi trong khoảng không mịt mù. Họ mò mẫm theo hướng nam như trong trí nhớ, đi qua một không gian rộng không rõ hình thù, cuối cùng một bức tường đá xám xịt đã hiện ngay trước mắt họ. Men theo bức tường cho tới khi nhận ra một cánh cửa vòm, ông liền đẩy mạnh. Tiếng nước rào rào bất ngờ phả ra từ một đoạn suối ngầm chảy qua lòng núi. Trước mắt ông là một guồng nước khổng lồ đang chuyển động để đưa dòng chảy lên một hệ thống phức tạp nằm trên cao mà ông không thể nào nhìn rõ. Trục quay guồng nước được kê trên hai trụ đá lớn song song mọc lên từ lòng suối giúp cho chiếc bánh xe nặng hàng chục tấn vận hành suốt mấy trăm năm nay. Thấy một chiếc thang đá dựng đứng và chìm khuất trong bóng tối, ông lội xuống bám tay vào những thanh giằng để tìm cách trèo lên. Thận trọng leo đến bậc cuối cùng, từ độ cao của một ngôi nhà ba tầng nhìn xuống, những lá guồng gạt nước trắng xóa dưới ánh đèn bàng bạc làm ông cảm tưởng như đang lạc vào một gầm máy của một chiến hạm không lồ thời Trung cổ đang nhởn nhơ vô định giữa đêm đen trên đại dương. Nước từ hệ thống ống máng chằng chịt trên cao dội xuống ào ào xen lẫn với dòng suối réo von tạo thành một bản hòa tấu hoang sơ đến kì dị. Nhìn quanh, viên kiến trúc sư ngạc nhiên khi phát hiện trước mặt là một bế chứa nước bằng đá rất lớn mà trước đó ông ngỡ là một tầng lầu. Tuy nhiên bể nước này đã cạn khô và chỉ có mọt dòng nước đang nhỏ giọt vào bể. Chỉ mất vài phút, viên kiến trúc sư đã phát hiện ra quy luật vận hành của chiếc đồng hồ nước cổ xưa đã được phác họa chi tiết trong tấm thư tịch quý báu. Nắm được cấu tạo và nguyên lí hoạt động khắc sẽ điều khiển được nó. Trên chiếc bàn điều khiển, ông tìm cách cài chế độ mở cửa đá. Tháo chiếc ống nhỏ đang rỉ nước đặt sang bên cạnh rồi ông dùng hết sức xoay một ống đồng có đường kính rất lớn vào vị trí. Một thác nước mới từ chiếc ống tuôn ào ào vào bể chứa. Toàn bộ lan can và hành lang đá dưới chân ông bắt đầu rung lên nhè nhẹ. Chỉ vài chục phút nữa thôi, mực nước sẽ đạt ngưỡng cực điểm để đẩy bật một chiếc lẫy. Mấy trăm khối nước cùng hàng chục tấn đá sẽ trút xuống để khởi động một chiếc đòn bẩy có khả năng ném bay một tòa nhà với một sức mạnh khủng khiếp. Năng lượng đang tích tụ với một tốc độ rất nhanh tỉ lệ thuận với nhịp rung của chiếc sàn đá dưới chân ông. Mặc dù muốn nán thêm vài phút để đo lại thể tích và vận tốc nước nhưng một giọng rất thanh át tiếng thác vọng lên cùng ánh đèn pin loang loáng. -Xuống ngay, nó sẽ sập xuống mất! Nhìn qua luồng sáng yếu ớt chiếu qua đám bụi nước trắng xóa, ông phát hiện trước mặt có một máng nước dốc chéo xuống dưới. Không chần chừ, ông chạy dọc hành lang đang chao đảo rồi bò qua một dầm đá trơn nhẫy để nhảy vào lòng máng. Trong tích tắc, ông gần như rơi ùm xuống lòng suối làm nước bắn tung tóe lên mặt người vợ. -Xin lỗi!...- Ông vùng đứng lên đưa tay vuốt mặt. – Tốt rồi, cách cửa lát nữa sẽ tự mở ra. -Cửa tự động ư? Hệ thống gì mà lạ vậy? -Một cỗ máy bằng đá chạy bằng sức nước rất cổ xưa. Tổ tiên người Chăm đã chế tác ra nó đấy! -Nó đủ sức nhấc cánh cửa mấy chục tấn kia sao? Anh cam đoan là chúng ta không bị kẹt lại đây chứ? -Yên tâm, nếu cỗ máy kia chạy đúng, khoảng nửa tiếng nữa cửa sẽ mở ra. -Sao nhanh vậy? liệu chúng ta còn thời gian đi khắp cung điện này không? -Chỉ có hai ống đồng cho hai chế độ mở. Đây là chế độ mở nhanh nhất, hoặc sẽ phải đợi thêm nhiều năm nữa. Thôi đừng hỏi nữa, nhanh chân lên! Họ chui trở lại tiền sảnh, do thiếu oxy và vận động mạnh nên ông đã có dấu hiệu rối loạn phương hướng. Tránh mất thời gian, trong khi cúi mặt xuống ông tranh thủ mở tấm bản đồ cổ ra định vị lại lần nữa. -Đằng kia kìa – Người vợ trẻ chỉ tay phía sau lưng ông. Ông quay lại bắt gặp một khoảng tối đen đặc đang phả hơi lạnh vào mặt mình, ông xoay đèn về hướng đó và lờ mờ nhận ra một vòng tròn trũng xuống như miệng giếng. Biết rằng đây là lối đi duy nhất, ông nắm tay vợ đi nhanh về phía đó và thấy một một dải đi hẹp hình xoắn ốc dẫn xuống dưới. Không rời một bước theo chồng, mắt cô sợ sệt nhìn theo ánh đèn nhấp nhoáng trên các phiến đá ẩm ướt và cố không để trượt chân rơi xuống cái hố mà cô chưa nhìn thấy đáy. Để thêm an toàn, cô bám tay kia lên lan can nhưng vội rụt lại khi chạm vào đầu một con rắn. Chỉ trong tích tắc, cô kịp nhận ra và thở phào khi đó là tay vịn bằng đá. Con rắn bảy đầu bằng đá hoa cương ngoằn nghèo khắc khoải men theo mép thang xuống sâu hun hút như đang cố ngoi lên từ địa ngục từ suốt mấy trăm năm nay. Bất chấp lối đi hiểm trở, cô nhắm mắt đi theo chồng cho đến khi ông ghìm tay cô lại. -Kia mới là kẻ giữ đền đích thực, rắn thần Naga! – ông nói. Người phụ nữ nhìn theo tay chồng, dưới ánh đèn yếu ớt xuyên qua không khí đặc quánh, một dải trắng như lụa bềnh bệch hiện lên. -Trong truyền thuyết rắn Naga giữ đền có tới bảy đầu cơ mà. - Người phụ nữ sợ hãi hỏi.- Con này lớn nhưng chỉ một đầu. -Đúng thế, nhưng đây là con rắn thật đang sống! Cô gái thất kinh ôm chặt hông chồng mình. Người đàn ông từ tốn gỡ nhẹ tay cô: - Đừng sợ, đây chính là rắn khổng lồ sống trong hang động và rừng sâu hạ lưu sông Mê Kông. Trước đây xuất hiện thường xuyên tại rừng U minh Hạ nhưng nay gần như tuyệt chủng. Truyền thuyết rắn thần Naga lấy cảm hứng từ loài bò sát khổng lồ có thật này. Sách cổ của người khmer còn mô tả những con long xà to như cây Thốt nốt. Vẫn nhìn con vật qua vai chồng mình, giọng cô chưa hết run rẩy: -Nó đang ăn? -Chính con dê trắng mà ta vừa thả xuống khi qua cửa đấy thôi, đây là bữa điểm tâm đầu tiên của nó sau 12 năm đấy. Cô gái mắt mở to nhìn con rắn bất động, chỉ có mang tai đang phập phồng đẩy dần con vật bé bỏng ngày càng khuất sâu trong chiếc miệng đang há rộng kia. -Đây là giống rắn quen sống nơi không có ánh sáng nhưng mắt nó có thẻ nhìn xa hàng cây số trong bóng đêm. Cô gái nhè nhẹ lùi xa hơn, mắt vẫn không rời con vật, cô hỏi. -Nó nhịn đói tới 12 năm sao?... -Giữa chu kì mở cửa tháp, làm gì có ai cho nó ăn, nó rất đói. Nếu hôm nay chúng ta quên mang con dê cho nó, em có biết thức ăn của nó sẽ là gì không? Người phụ nữ định kéo chồng mình trở lên nhưng người đàn ông to cao vẫn không hề nhúc nhích. Viên kiến trúc sư biết rằng họ đã rơi vào phạm vi tấn công của con vật từ lâu, nhưng hôm nay nó sẽ tha mạng cho họ. Ông chỉ khe hở đủ một người đi phía sau con rắn và nói. -Muốn vào thánh địa phải đi qua mặt con rắn này. Người vợ định bỏ chạy, nhưng cô vội nhận ra phía sau là cánh cửa đã khép chặt. Đã vào đến đây dù chết cũng phải đi đến tận cùng. Chẳng phải mười mấy năm nay cô cũng chỉ mong điều đó đấy thôi. -Đi tiếp! – cô nói. Tuy lấy hết can đảm, không chỉ cô mà người đàn ông đầy chất thép kia cũng phải co mình nín thở để lách qua lưng con rắn đang phả hơi tanh nồng nặc cả góc hang. Họ nhanh nhẹn lách vào khe hở và bắt gặp một hành lang rộng dẫn sâu vào điện thờ. Ngay vừa đặt chân vào khu tiền điện, viên kiến trúc sư đã ngỡ ngàng sửng sốt với vô số pho tượng các vị thần Balamon giáo xếp trang trọng trong các khám thờ ăn sâu trong đá. Tượng Siva, bò Nadin, dấu triện cổ và các thanh kiếm ánh lên màu sắc đặc trưng của vàng thật. Do thời gian có hạn nên không thể xem kĩ từng chi tiết, ông muốn đi thật nhanh để bao quát quy mô thánh địa nhưng một pho tượng nữ thần vàng óng làm ông sững người lại. Đúng là pho tượng này được đúc bằng vàng khối, với kích cỡ lớn bằng người thật như vậy làm ông nghĩ đến tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng tại Po Nagar đã bị quân Khmer băng qua cao nguyên Langbian đến tấn công nam Champa năm 945. Sự tập trung của ông bị cắt ngang khi có tiếng động vang lên từ xa. Lúc này ông mới giật mình nhớ lại người vợ đã biến đi đâu mất. May thay, nỗi sợ của ông tan biến khi thấy nàng đang ôm một thứ gì đó nặng trĩu trước ngực. Ông lia đèn sang nhìn thứ trên tay vợ và không thể tin nổi vào mắt mình nữa. -Lạy chúa! Em bê cái này từ đâu ra?                                                                                                                                                                                               Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 1.7k+ views 5 likes 0 Comments
Read more
By: On December 16, 2013
Trên quốc lộ 1, chiếc Audi A6 màu đen lao với tốc độ chóng mặt tiến vào thành phố Đà Nẵng từ cửa ngõ phía nam. Trời đã mờ sáng nhưng các con phố và giao lộ hầu như vắng ngắt trong ánh đèn đường vàng vọt. Đến một ngã ba, chiếc xe rẽ vào phố Lê Đại Hành rồi lại tăng tốc nhằm hướng sân bay. Trên hàng ghế sau có hai người đàn ông, một to cao, một gầy nhỏ. Mặc dầu không nói gì suốt quãng đường dài nhưng có vẻ họ khá lưu luyến trước khi chia tay. Ngồi cạnh nhau, người thấp bé chốc chốc ngước lên nhìn trộm người kiađang ngả mình lim dim trên nệm ghế. Dung mạo người to cao mới trông đã biết ngày là ngoại quốc: mùi hắc, mũi cao, mắt sâu, tóc xoăn, nước da đen sạm chắc bền như được xông khói từ suốt mấy kiếp trước. Chỉ vài phút nữa là tiễn khách, không để không khí tẻ nhạt kéo dãi mãi, người thấp bé với tư cách là chủ nhà bèn lên tiếng trước. - Tôi hỏi khí không phải, ông anh là người ...Ấn Độ? Người to cao cựa mình cười mỉm, mắt phóng về phía trước rồi đáp lại bằng một giọng tiếng Việt lơ lớ. - Ông nói chỉ đúng một nửa. - Sao cơ? - Người nhỏ bé giương to mắt.- Đúng là đúng mà sai là sai chứ? - Xác mọc đất Miên, hồn ngự Mêru. – Anh ta đáp. Người thấp bé vẫn láng máng cho đến khi nhìn thấy hình ảnh siva bằng kim cương lủng lẳng trên sợi dây chuyền trước ngực. Người Miên theo theo đạo Bà la môn. Thú vị với phát hiện của mình, người nhỏ thó càng tò mò. Mới chỉ vài phút quen nhau nhưng đã để cho anh ta không ít ấn tượng về thanh niên ngoại quốc này. Người to cao vẫn nhìn phía trước, chỉ có cặp mắt đen là động đậy. Ánh đèn pha của những ô tô ngược chiều phả những luồng sáng thoắt đỏ thoắt vàng trên nước da đen cháy tựa như thân xác y được đúc tạc bằng đồng thau vậy. - Tiếng Việt của anh không tồi, chắc anh thường sang Việt Nam làm ăn? - Tôi vẫn thường đón bình minh trên các resort bãi biển Đà Nẵng, tiếc rằng lần này về cứ như chạy trốn. - Vâng... - người thấp bé cúi xuống tỏ chút ngượng ngập. – Chúng ta đều thừa lệnh Cả sư thôi mà. Nghe đến ‘’Cả sư’’ người to cao ngoái lại nhìn chiếc vali đang an toàn trong cốp sắt mới an tâm quay lên nhưng không giấu nổi nét căng thẳng bất chợt. Xe lao nhanh hơn. Anh ta ngước cặp mắt đầy chất latin đượm buồn ngoái ra ngoài cửa sổ nhìn xa xa về phái đằng đông đầy vẻ tiếc nuối. Thấy vẻ mặt đầy tâm trạng của một kẻ sắp rời xa chốn mình yêu thích, người nhỏ bé chẳng nỡ gây xáo trộn khoảng khắc yên lặng ngắn ngủi này của y. Hai người im lặng cho đến khi chiếc Audi dừng hẳn. Người nhỏ bé xuống chạy vòng ra sau mở cốp xách vali cho y vào sâu trong sảnh đón rồi chủ động đưa tay ra bắt. - Chúc đạo sĩ lộ bình an! Gã to cao suýt bật cười khi lần đầu tiên có người gọi mình là ‘’đạo sĩ’’. Thấy người bỏ bé lưỡng lự chưa muốn dứt ra, y hỏi. - Hình như ông có điều gì muốn dạy tôi? - Ấy, không dám...tôi thấy đạo sĩ có nét gì đó hơi...quen quen, có phải tên ngài là ...Shi... -Xuỵt!- Người cao lớn trỏ vội ngón tay lên môi. - Thốt tên người khác nơi công cộng là không nên. Y lần tay sau quần móc một tấm card rồi đưa cho người nhỏ bé. Người này đón lấy đọc ngấu nghiến, một thoáng sau ngửng lên vẻ mặt muôn phần kinh ngạc. Vua đồ cổ. Lúc này anh ta mới nhận ra trước mặt là một con người mà không phải ai cũng có cơ may được gặp một lần trong đời. Thảo nào từ đầu đã toát lên vẻ uy nghiêm khó gần, một chút lịch lãm và thừa...ngạo mạn. Miệng lưỡi người nhỏ bé vốn đã sượng cứng nay lại càng xơ cứng không thốt nên lời. Người to cao vỗ nhẹ vai anh ta. – Nếu có cơ hội, đừng ngại gọi cho tôi. Nhiều người đã đổi đời sau khi họ gọi cú đầu tiên cho tôi đấy! Người nhỏ thó xúc động đến nỗi mặt co lại, từng nhúm da bên khóe mắt giật lên từng hồi. Với công việc và chức năng của mình, anh ta hiểu từ ‘’cơ hội’’ ở đây là gì. Đó là đồ cổ. - Đứng lâu nơi công cộng cũng không tốt đâu. Tạm biệt! - Người cao lớn vỗ vai cho anh ta tỉnh lại rồi ném một nụ cười bí hiểm trước khi bỏ đi. Luôn luôn ‘’gieo hạt’’ là phương châm làm việc của y. Một thói quen tốt và rất đơn giản, với xấp card dày cộp đầy hai túi sau chiếc quần bò Levi’s, y không ngừng gieo xuống các mảnh đất tiềm năng. Với con mắt nhà nghề, y biết đâu là những đối tượng cần thiết lập quan hệ, đâu là đối tượng không nên la cà và tránh xa. Không hề vung vãi danh hão như một số doanh nhân học đòi, những tấm danh thiếp của y luôn đặt đúng nơi đúng chỗ. Đó là những nhà khảo cổ có tâm địa, những tên bảo vệ bảo tàng tham lam, và tất nhiên không thể thiếu những tên trộm đồ cổ người bản địa- kẻ mà hắn cho rằng sẽ mang niềm vui bất ngờ nhất. Trong quá khứ đã có không ít những nhà sư biến chất trước khi từ giã cõi tu hành đã không quên ẵm về cho hắn bức tượng phật vô giá. Bây giờ điểm lại, tài sản nhiều trăm triệu đô la của y đang ngày một phình to mà một phần không nhỏ đã đến từ những mảnh giấy nhỏ xíu đó. Thật khó tin. Sân bay khang trang và hiện đại này đã mở chuyến bay thẳng Đà Nẵng – Pnompenh càng làm cho ‘’con đường đồ cổ’’ của y ngày một hanh thông nhưng hôm nay còn sớm nên chỉ lác đác vài người. Bước về phía quầy check in, y cúi gầm mặt nhìn những áng đèn phản chiếu rực rỡ trước mỗi bước chân. Mọi giấy tờ và thủ tục suôn sẻ như bao phi vụ trước đây. Khi chiếc đồng hồ Hubost nạm kim cương trên tay y chỉ đúng 7 giờ 45 phút, chiếc Boing737 cất cánh khỏi đường băng rồi vếch chiếc chiếc đầu da cam như một mãnh thú hướng về phía tây nam. Trót lọt. Y ngả người trên hàng ghế VIP tận hưởng cảm giác khó tả đang dâng trào. Nhưng một sự thật phũ phàng mà y không thể ngờ tới đó là: cổ vật trong chiếc vali này là một dấu chấm hết sắp giáng xuống cuộc đời đầy dông bão của một vua đồ cổ tầm cỡ thế giới.    Mắt Kì Phương hoa lên khi dòng chữ kì lạ đang nhảy múa trước mặt. Anh cúi người xuống cho máu thông suốt lên não rồi thở sâu cho dưỡng khí tràn ngập buồng phổi. Khi đã đạt độ tỉnh táo cao nhất, anh lại tập trung vào yoni với hi vọng điều mình vừa thấy chỉ là ảo giác. Nhưng không, dòng chữ nổi rõ trên lớp máu đen sánh hiện rõ hơn bao giờ hết. Điều kì lạ là trước đó anh và viên cảnh sát đã nhìn hàng chục lần mà không ai phát hiện ra điều này. Ai đã viết ra nó? Khi anh và Lê Đại Hắc đàm đạo bên ngoài không hề có ai bước vào. Mấy viên cảnh sát giám định người Kinh không thể viết được chữ này mà giả sử viết được thì có cho vàng họ cũng không dám đụng tay. Một kẻ lạ khác thừa cơ lẻn vào đây là lại càng không thể. Quá trình ngưng kết của chất lỏng diễn ra rất chậm và tĩnh. Vả lại chất lỏng màu đen trên mặt đá sần sùi nằm trong màn đêm rất khó nhìn kĩ. Mặt chất lỏng có tính phản chiếu nên khi anh chiếu đèn lên thì hình ảnh nhìn thấy là của bứctường gồ ghề xung quanh. Giờ đây, dưới ánh sáng tự nhiên, nóhiện rõ hơn bao giờ hết. Kì Phương khẳng định luôn đây không phải là chữ Lào hay chữ Thái. Nó cũng không hề giống nhóm chữ Môn - Kh’mer mà người Campuchia và nhiều dân tộc Đông Nam Á đang dùng. Mới nhìn thì rất giống chữ Chăm truyền thống, nhưng nhìn kĩ thì hoàn toàn không phải. Nócó vẻ cũng có nguyên âm, phụ âm, dấu âm trên, dấu âm dưới và cả móc câuy như Chữ Chăm nhưng tuyệt không phải chữ Chăm mà hệt như một người em sinh đôi trên trời rơi xuống mà ta chưa thể biết tên.    Mà nếu không phải chữu Chăm truyền thống thì có thể là Chăm cổ hoặc một ngôn ngữ nào đó trong số hơn 150 ngôn ngữ thuộc hệ Mãlai - Đa Đảo chăng? Người viết chữ lên đây với kẻ giết Paul có phải là một? Nhìn dòng chữ còn tanh máu người đầy câu ngoắc tủa tủa như một bó giun lạ vừa đội đất ngoi lên đang ngoe nguẩy trước mặt làm Kì Phương cuộn từng cơn tởm lợm. Như sợ dòng chữ lại biến mất đột ngột như lúc xuất hiện, anh lấy giấy bút nắn nót sao chép y nguyên rồi cất kĩ vào ba lô như sưu tầm đuwocj một ngôn ngữ lạ. Kì Phương khóa chặt balo rồi lại ngắm nghía. Mỗi loại chữ cổ có một quy luật viết khác nhau, khi đọc không đúng chiều hoặc hướng sẽ không nhận ra mặt chữ. Đã đi ba vòng và thử các góc độ nhưng các kí tự đó vẫn là một câu đố hiểm hóc. Mà có thể đây không phải là chữ mà là bút tích có ý đồ của hung thủ. Trong thế giới của những hội kín, sau vụ án thủ phạm thường để lại thông điệp nào đó trên hiện trường. Đó là một thông tin, sự thách thức, hoặc một đe dọa. Một số hung thủ còn để lại những biểu tượng hay mật mã mà có khi nhân loại mất nhiều thế kỉ cũng không giả mã nổi. Vụ án Tamam Shud là một trong những bí ẩn lớn nhất của Australia khi cảnh sát tìm thấy một dòng chữ bí ẩn trên mẩu giấy giấu trong túi quần nạn nhân mà hơn nửa nay vẫn trong bóng tối bí ẩn. Hội Tam điểm, hội Illuminati, hội Tam Hoàng hay tổ chức khủng bố hồi giáo Al-Qaeda cũng có những mật mã để đời như vậy. Kì Phương nhận ra đã đến lúc phải chuồn khỏi đây để nhường lại cho Lê Đại Hắc cùng chuyên gia mật mã và cổ ngữ vào cuộc ngay lập tức. Ngay lúc anh định bỏ đi thì có tiếng xe đỗ nhẹ ngoài bờ suối cùng lúc có bốn người đang đi rất nhanh về phía anh. Kì Phương mừng rỡ khi nhìn thấy tốp sư phụ của mình và một cô phóng viên quen mặt. Anh vẫy tay kêu to. - Mời mọi người vào đây! Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp lại từ xa với khuôn mặt nghiêm trọng, ông dẫn đầu đoàn tiến thẳng vào tháp như chính ông mới một chủ nhân đích thực ở đây. Kì Phương và Mộc Trân đứng ngoài để dành không gian cho ba người đàn ông đi vào. Tiến sát đài thờ, giáo sư Huỳnh Lẫm nghiêng mình đứng lại, hai người khác dàn ra hai bên và cúi xuống như đang làm một nghi thức nào đó. Thấy khuôn mặt giáo sư Huỳnh Lẫm đột nhiên căng thẳng và giữ nguyên tư thế cúi đọc rất lâu mà không ngửng lên. Nghĩ rằng thầy cũng đang bí, Kì Phương ném một câu vào trong. - Thưa các thầy, em đã cố tìm hiểu... nhưng chịu. Giáo sư Huỳnh Lẫm vẫn giữ nét mặt kính cẩn lẫn kinh ngạc, có lẽ trong cuộc đời khảo cổ và dịch cổ ngữ của mình chưa bao giờ ông nhìn thấy một chữ viết quái lạ đến vậy. Hơn nữa nó lại viết bằng máu tại trên một biểu tượng thiêng liêng tột bậc như vậy. Tiến sĩ Phú Thành Tài lùi lại một bước lấy tay che miệng nói khẽ. - Chữ của quỷ dữ! Tiếng thì thào của ông ta như làn gió buốt len vào tai mọi người. Giáo sư Huỳnh Lẫm quay mặt lại nhìn xiết vào mắt ông ta áp chế. Kì Phương cũng nghĩ như thế, nhưng anh rút kinh nghiệm để hỏi sang hướng khác. - Thưa thầy, có phải đây là hệ thống chữ Phạn hay Chăm cổ? - Hỏi thế sai bét! - Giáo sư Huỳnh Lẫm đáp khô khốc. - Vậy thì theo thầy là chữ gì ạ? - Chữ gì thì ta không biết nhưng nhìn kĩ tôi dám chắc chắn nó nằm trong hệ chữ Bhahmi. Tôi đã nhắc anh bao nhiêu lần rồi, chữ Phạn hay chữ Chăm trên các bia kí và các văn bản cổ của Champa chỉ dùng một hệ thống chữ viết duy nhất để biểu đạt, đó là hệ thống chữ Bhahmi vay mượn từ Ấn Độ. Mà có tới hàng trăm hàng ngàn ngôn ngữ sử dụng hệ thống chữ viết Bhahmi tôi làm sao biết hết. Giống như tiếng Anh, tiếng Pháp, Ý và cả tiếng Việt ... mượn hệ thống chữ Latin để viết và phiên âm cho ngôn ngữ của mình! - Vậy chữ Phạn và Chăm cổ khác nhau như thế nào? – Mộc Trân đánh bạo hỏi. Giáo sư Huỳnh Lẫm chậm rãi giải thích:  - Tiếng Sanskit hay còn gọi tiếng Phạn là ngôn ngữ cổ của người Ấn Độ có từ trước công nguyên. Nó bắt đầu du nhập theo các nhà truyền đạo và thương gia vào Champa từ thế kỉ thứ 2 và 3. Bia Võ Cạnh là văn bia tiếng Phạn đầu tiên của Đông Nam Á là minh chứng. Sau khi du nhập vào Champa người Chăm đã tiếp thu và không ngừng cải tiến để tạo ra một loại chữ riêng gọi là chữ Chăm cổ tương tự như chúng ta nội địa hóa chữ Hán thành chữ Nôm ở Đại Việt. Hiện nay ta tìm đỏ mắt may ra chỉ còn một vài nhà Nho thập cổ lai hi còn nhớ được vài chữ nôm. Còn người đọc được chữ Chăm cổ còn hiếm hơn vạn lần. - Giáo sư vừa nói, - Kì Phương hỏi - đây không phải chữ Phạn hay chữ Chăm, vậy có hay không một cộng đồng người bí ẩn nào đó đang sử dụng chữ này ngay trên nước ta? Giáo sư Huỳnh Lẫm chau mày lại: - Cái đó thì phải hỏi các nhà nhân chủng học, tôi đã thuộc làu nhiều bộ từ điển kim cổ kể cả của Aymonier và Moussay, nhưng thú thật dòng chữ này là lần đầu tiên tôi nhìn thấy. - Hay đây là chữ của... thánh thần? – Mộc Trân buột miệng. Cô muốn rút lại câu hỏi của mình khi nhận ra vị giáo sư già rất đang rất nghiêm túc khi đối diện với trường hợp hóc búa nhất trong suốt cuộc đời đánh vật với chữ nghĩa của mình. - Hết quỷ dữ rồi lại thánh thần – ông thở daif-  các người khéo nghĩ nhữn gthuws đâu đâu nhưng một điều gần gũi và khoa học hơn nhiều thì không ai nghĩ ra. - Đó là gì ạ? – Tất cả cùng hỏi.   - Đây đích xác là chữ của tiền nhân! Cả đoàn nghe xong đều vô cùng ngạc nhiên. Vốn rất ưa những gì gây sốc và li kì, cô phóng viên vội vã chộp lấy hỏi dồn. - Chữ tiền nhân. Chẳng lẽ tiền nhân vừa hiện về để viết lên đây sao? - Cô nói đúng! Người vừa viết chữ này sống cách đây hơn... một ngàn năm!
0 Rating 677 views 5 likes 0 Comments
Read more
By: On May 3, 2012
  Abd. Karim Trong kho tàng văn học dân gian Chăm, Cei Balaok La-u (Hoàng Tử Sọ Dừa) là truyện cổ mang nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa và xã hội Champa. Nhìn dưới gốc độ của văn chương lịch sử, truyện Cei Balaok La-u có nội dung liên quan đến hai dòng tộc lớn của vương quốc Champa dưới thời cổ đại, đó là thị tộc Cau (Kramuka) và thị tộc Dừa (Narikela). Theo tài liệu bia đá Champa cho biết, hoàng tử Thang, còn gọi là Yang Visnumurti tự cho mình là người xuất thân từ hai thị tộc. Thân phụ của ngài là thị tộc Dừa (Narikela) nắm quyền ở miền bắc và thân mẫu của ngài là thị tộc Cau ((Kramuka) cai trị tiểu vương quốc ở phía nam. Dựa vào nguồn xuất sứ của hai gia đình hoàng gia này, hoàng tử Thang đã thành công thống nhất hai miền nam bắc của Champa đã từng xảy ra các cuộc xung đột nội bộ trong vương quốc Champa thời bấy giờ, và lên ngôi vào năm 1074 với danh hiệu là Vijaya Çri Harivarmadeva, Yang Devatamurti. Mặc dù dân tộc Chăm chưa bao giờ nghe đến cốt truyện thị tộc Cau, nhưng truyện này lại rất được phổ biến trong biên niên sử của Mã Lai là Sejarah Melayu. Theo biên niên sử này, vị vua trị vì vương quốc Champa ở phương nam thấy có một cây cau kỳ lạ mọc bên cạnh hoàng cung của ngài. Cây cau trổ buồng rất to và đẹp, nhưng buồng cau không chịu nở hoa. Thấy kỳ lạ, nhà vua cho người trèo lên chặt buồng cau ấy đem xuống cho ngài xem. Ông dùng cây kiếm thần của mình chẻ mo cau ra, thấy trong đó có một đứa trẻ hồng hào đẹp đẽ. Ông rất vui mừng, nhận làm con nuôi, rồi đặt tên là Raja Po Klaong (Hoàng tử Po Klaong). Mo cau bọc hoàng tử biến thành tấm mộc đỡ của hoàng gia. Đầu nhọn của mo cau biến thành bảo kiếm keris (một loại kiếm ngắn) của nhà vua. Về sau, hai thứ khí giới này trở thành biểu tượng cho uy quyền nhà nước Champa ở phía Nam. Ngược lại, Cei Balaok La-u là cốt truyện nằm trong văn học dân gian của người Chăm. Đây chỉ là truyện cổ tích, nhưng nội dung của nó có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với yếu tố lịch sử Champa vào đầu thế kỷ thứ XI. Đó, chính là nguyên nhân giải thích cho mục tiêu bài viết của chúng tôi.   Yếu tố văn hóa – xã hội Nhìn dưới gốc độ văn hóa, truyện Cei Balaok La-u mang một số yếu tố truyền thống Chăm, như chế độ mẫu hệ; tục đeo karah mata (chiếc nhẫn hạt cườm); tục dùng trầu cau trong cưới hỏi, giao tế; gói trầu cau bằng khăn màu đỏ, và v.v…   Chế độ mẫu hệ Người Chăm là dân tộc theo chế độ mẫu hệ và mẫu cư. Theo truyền thống Chăm, phụ nữ là người đứng ra lựa chọn phái nam trong việc cưới hỏi. Sau ngày đám cưới, người chồng sống bên nhà vợ. Của cải, con cái trong gia đình là thuộc về người vợ hay dòng tộc bên vợ. Balaok La-u (Sọ Dừa) dù là một hoàng tử hay nhân vật siêu phàm cũng không thoát ra khỏi truyền thống này. Do vậy, anh ta không đi cưới công chúa Út, mà chỉ để cho công chúa Út cưới mình. Sau khi lấy công chúa Út, Balaok La-u không về sống bên nhà mình, mà sống bên nhà vợ, rồi trở thành phò mã sau đó lên ngôi bên xứ sở của vợ mình.   Chiếc nhẫn hạt cườm Karah mata hay “chiếc nhẫn hạt cườm” là bản sắc văn hóa riêng biệt của tôc người Chăm. Đối với dân tộc Chăm, “chiếc nhẫn hạt cườm” không phải là đồ trang sức trong nghĩa rộng của nó mà là biểu tượng cho nguồn gốc của một chủng tộc. Bởi vậy, khi ai đeo karah mata là tự xác định bản thân mình là người Chăm. Qua karah mata, người Chăm tự nhận diện nhau, biết nhau là người đồng tộc. Cei Balaok La-u, khi vừa bước ra khỏi cái lốt sọ dừa, đã thấy trên ngón tay chàng có đeo “chiếc nhẫn hạt cườm”. Như vậy, chẳng cần qua một lời giới thiệu nào, mọi người đều biết bản thân Balaok La-u là người Chăm. Karah mata còn biểu tượng cho lòng trung thành và sự thủy chung. Trao tặng karah mata cho một người tức là ghi một dấu ấn minh chứng cho sự trung thành của mình đối với người ấy. Cei Balaok La-u trao karah mata cho vợ trước khi nàng xuống thuyền, là dâng cho người vợ trái tim thủy chung của mình, đồng thời, cũng là cái nhắc nhở để nàng không đánh mất bản thân hay bản thể của chính mình. Nhờ vậy, mà dù có trải qua bao gian nan khốn khó, cuối cùng hai người sẽ tìm được lại nhau.   Tục dùng trầu cau Tục dùng trầu cau trong giao tế, cưới hỏi, thừa tự, cúng tế, v.v… là một sự việc quan trọng và cần thiết trong cộng đồng người Chăm cả bên Ahier cũng như bên Awal. Sự việc sẽ không thành hay không hội đủ nếu như thiếu trầu cau. Cô công chúa Út muốn kết thân với Cei Balaok La-u, cô đã khôn ngoan sử dụng “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Nó vừa hợp với lẽ đạo, vừa hợp với truyền thống, vừa kín đáo cho Cei Balaok La-u biết rằng: Việc cô làm là hoàn toàn có ý thức. Lời cô nói với chàng là những lời lẽ chân tình, chứ chẳng phải là lời lẽ hời hợt của kẻ hồ đồ hay nông nỗi. Cho nên, Cei Balaok La-u khó có thể phủ nhận. Nhờ vậy, mà chuyện tình của hai người được kết thành.   Gói trầu bằng khăn đỏ Gói trầu cau bằng khăn đỏ, là thói quen riêng của người Chăm mà không thấy ở dân tộc nào khác. Công chúa Út khi mang trầu cho Cei Balaok La-u cũng theo kiểu cách của người Chăm. Điều này, chứng tỏ cô là một người hiểu biết và thấm nhuần Văn hóa Chăm.   Harei But Theo quan niệm của người Chăm, ngày thứ Tư (harei But) trong tuần được xem là ngày tốt lành và vẹn toàn nhất. Cho nên họ thường chọn ngày này để tiến hành hôn lễ, dựng nhà cửa, mua sắm và, v.v… Trong truyện Cei Balaok La-u, nhà vua cũng chọn ngày thứ Tư (harei But) để cử hành hôn lễ cho cô công chúa Út của mình.   Xã hội hòa đồng và không giai cấp Trong truyện Cei Balaok La-u, người Chăm được sống trong môt xã hội an bình không giai cấp: Mẹ Balaok La-u một thường dân, Balaok La-u một anh chăn dê tật nguyền, bà lão nhà nghèo bán “chăn dằn” v.v.. đều có thể xin gặp nhà vua bất kỳ lúc nào mà họ thấy cần thiết. Balaok La-u một anh chăn dê tật nguyền, cũng có thể thực hiện giấc mơ ngàn đời, là lấy cô công chúa đẹp như tiên nữ làm vợ, trở thành nhà vua và truyền lại ngôi báo cho con cháu của mình muôn đời sau, mà không chút trở ngại. Một đám cưới to lớn được tiến hành trong suốt một trăm ngày đêm. Khách được mời là toàn thể nhân dân, không phân biệt vua chúa, giàu sang hay nghèo hèn đã cho thấy một sự hòa đồng cao độ. Sự kiện trên đây còn cho thấy, vị trí của ông vua chỉ là người anh cả trong gia đình, để điều phối và gìn giữ sự an bình và sự công bằng cho xã hội hơn là để thống trị. Trong truyện Cei Balaok La-u, chưa thấy mức độ xử lý người có tội, nhưng người có công thì khen thưởng rất trọng hậu, như trường hợp hai cụ nhà nghèo, người đã tìm được cô công chúa Út.   Xã hội nông nghiệp phát triển Trong thời Cei Balaok La-u xã hội Chăm còn mang nặng yếu tố nông nghiệp, nhưng đã phát triển khá cao. Mức sống của người dân tương đối ổn định: Chỉ riêng trâu của nhà vua cũng đã nhiều đến mức ba mươi gia đinh chăn giữ mà vẫn bị thất lạc hay mất mát. Nghèo như mẹ Balaok La-u nhà cũng có xe trâu, dê cừu… Lúa gạo không thiếu nên nhà vua mới có thể một lần thưởng đến một trăm xe lúa cho một người, cùng với vàng bạc và đất đai. Vào thời điểm này, người Chăm cũng đã biết đóng thuyền tàu. Chuyên chở trên bộ chủ yếu bằng xe trâu. Có những giao thương rộng rãi (ra cả ngoài nước). Và làm được những sản phẩm như tơ lụa v.v…   Tóm lược truyện Cei Balaok La-u Khi xưa, có một gia đình nghèo khó sống ở ven rừng. Hằng ngày, người ông và người cháu gái phải đi vô rừng đốn củi để đem về bán, đổi lấy lúa gạo. Có một hôm, trời nắng gắt, nước hai người mang theo không bao lâu đã hết cạn. Người ông bảo: – “Cháu đi tìm quanh đây coi có nơi nào có nước không?” Người cháu đi tìm và thấy trên một tảng đá lớn có một cái trũng nước rất trong. Cô vốc lên uống. Làn nước ngọt ngào mát rượi. Cô vốc nước lên tắm. Làn nước mát làm cô thấy sảng khoái vô cùng. Xong, cô về báo lại cho ông cô biết, rồi đưa ông cô đến đó. Nhưng lạ thay, khi nãy là một trũng nước đầy, bây giờ, bỗng dưng khô cạn, chỉ còn dấu ươn ướt trên đá, mà thôi. Họ về nhà chưa được bao lâu, cô gái cảm thấy trong người có biến đổi khác lạ, cô có mang thai. Sau đủ chín tháng mười ngày, cô sinh ra một bé trai. Bé trai này không có chân và tay, mà tròn trịa như một cái gáo dừa. Thấy vậy, mọi người đặt tên cho cậu ta là Balaok La-u (Sọ Dừa). Sọ Dừa lớn lên nhanh chóng. Bảy tháng tuổi biết nói, biết lăn đi chơi một mình. Ba năm tuổi biết đi chăn dê giúp mẹ. Sọ Dừa là cậu bé vừa thông minh, vừa khôn ngoan, có nhiều tài, lại khéo ứng xử. Do vậy, thay vì ghê tởm hay ghét bỏ cái cục thịt xấu xí chỉ biết lăn long lóc, mọi người dần dần trở nên thân thiện và yêu thích Sọ Dừa. Một hôm, Sọ Dừa đề nghị với mẹ cho mình đi ở chăn trâu cho nhà vua. Mẹ bảo: – “Con không có chân, có tay. Chăn mấy con dê, mẹ còn lo cho dê bị mất. Nay con đòi chăn trâu cho nhà vua, trâu vua nhiều, làm sao con giữ được.” Nhưng Sọ Dừa vẫn quyết tâm đòi mẹ đi tâu với vua. Nghe tin Sọ Dừa muốn giữ trâu cho mình, nhà vua hơi ngỡ ngàng, nhưng vì muốn thử tài Sọ Dừa, nên ông đồng ý, bảo: – “Mẹ Sọ Dừa, cứ mang Sọ Dừa lại đây”. Trâu của nhà vua rất nhiều, hơn ba mươi gia đinh chăn giữ mà cứ bị thất lạc hay mất mát. Nay giao cho một mình Sọ Dừa, nhưng chưa hề bị thất lạc một con nào. Vua rất lấy làm mãn nguyện. Một hôm, nhà vua sai công chúa Út mang cơm cho Sọ Dừa. Công chúa mang cơm đến nơi Sọ Dừa đang chăn trâu. Cô nhìn quanh quẩn chẳng thấy Sọ Dừa đâu cả. Chỉ thấy một đoàn gia nhân của một quốc vương nào đó, đang làm việc: người chặt cây, kẻ bức dây rừng, người chăn trâu, kẻ xếp cây rào … Công chúa muốn gọi Sọ Dừa ra lấy cơm ăn, chợt nghe tiếng nhạc và tiếng sáo du dương nổi lên, cô vội nép mình sau cành lá, lén nhìn về nơi vừa phát ra thanh nhạc. Cô thấy có một đám người đang ca múa phục vụ cho một vị hoàng tử. Vị hoàng tử trẻ tuổi này có khuôn mặt đẹp rạng rỡ như ánh trăng rằm. Cô nhìn vị hoàng tử một cách đam mê, lòng xốn xang, bỗng cảm thấy trái tim mình như thầm yêu, trộm nhớ đến chàng. Rồi thời gian trôi qua. Đã nhiều lần công chúa Út mang cơm đến cho Sọ Dừa. Cũng đã nhiều lần cô trộm nhìn vị hoàng tử Sọ Dừa. Nhiều lần trong thâm tâm cô khẳng định: – “Hoàng tử Sọ Dừa chẳng phải là người phàm tục, mà là người của xứ sở thần tiên, hoặc giả, một nhân vật siêu phàm hiếm thấy”, nhưng cô chẳng bao giờ tiếc lộ điều này với ai. Có một lần, nhà vua bảo: – “Hôm nay, công chúa Cả và công chúa Hai, hai ngươi mang cơm cho Sọ Dừa, công chúa Út đã mang đi nhiều lần rồi.” Nghe tin này, tim công chúa Út như se thắt lại. Nàng lo ngại mất đi cơ hội để gặp hoàng tử Sọ Dừa. Bỗng nghe hai cô chị nói: – “Hai con không muốn mang cơm cho Sọ Dừa. Sọ Dừa chỉ là một cục thịt, chỉ biết lăn long lóc. Mang cơm cho Sọ Dừa là một điều sỉ nhục.” Thấy vậy, nhà vua mới nói: – “Thôi, tụi bây không ai muốn đi thì để cho cô Út nó đi”. Nghe vậy, công chúa Út mới mừng thầm. Cô vội têm trầu cau, gói trong chiếc khăn đỏ mang theo. Cô đến nơi Sọ Dừa làm việc sớm hơn thường khi, rồi giấu mình kín trong một lùm cây. Khi thấy hoàng tử Sọ Dừa vừa bước ra khỏi “lốt sọ dừa”, cô cũng bất ngờ xuất hiện trước mặt chàng, làm cho hoàng tử Sọ Dừa không kịp biến mình vào cái “lốt sọ dừa” như các lần trước. Cô mời Sọ Dừa miếng trầu, và nói: – “Em đã quen chàng từ lâu. Nhớ nhung, sướng khổ đã từng. Chàng đừng phụ em miếng trầu này. Dẫu mai sau chúng ta có nên duyên nợ hay không, thì qua miếng trầu, chàng còn có giây phút nhớ đến em”. Trước mối tình thâm sâu, chân thành của công chúa Út, hoàng tử Sọ Dừa không thể phủ nhận. Rồi hai người trở thành đôi bạn tình yêu nhau. Sọ Dừa về nhà thưa với mẹ, là chàng muốn lấy công chúa con vua làm vợ. Mẹ chàng vừa nghe đến thì đã giãy nảy và run cầm cập, cho là chàng không bình thường, gia đình bà có thể bị kết tội chết. Nhưng trước cái thúc ép của Sọ Dừa, bà đành chịu thua, liều chết đến thưa chuyện với nhà vua. Về phần nhà vua, ông không những không bắt tội hay trách cứ mẹ Sọ Dừa, mà còn có phần hoan hĩ. Vua bảo: – “Chuyện ấy, không có gì trở ngại. Ngặt ta, có ba người con. Không biết, đứa nào chịu lấy Sọ Dừa làm chồng!” Rồi ông cho gọi ba cô công chúa lại, hỏi: – “Trong các con, ai chịu lấy Sọ Dừa làm chồng?” Nghe đến đây, hai cô công chúa chị đều giãy nảy, bảo, Sọ Dừa không xứng đáng với mình. Trước thái độ của hai cô chị, ông quay sang hỏi cô công chúa Út: – “Còn con như thế nào?” Cô công chúa Út trả lời: – “Phận làm con, cha đặt đâu thì con ngồi đấy”. Nhà vua quay sang mẹ Sọ Dừa, và bảo: – “Ngày lành thứ Tư này, trẫm sẽ tổ chức hôn lễ cho chúng”. Nhà vua cho tổ chức một tiệc cưới thật linh đình, kéo dài trong suốt một trăm ngày đêm. Tất cả mọi người, không kể bậc vua chúa, người sang hay kẻ hèn đều được mời đến. Đúng là một tiệc cưới to lớn và vui nhộn, hiếm thấy. Sau ngày tân hôn, hoàng hậu cho gọi công chúa Út đến để hỏi thăm về cuộc sống chung của hai vợ chồng trẻ. Công chúa Út bảo: – “Vợ chồng con sống hạnh phúc như các cặp vợ chồng bình thường khác.” Cô còn thêm: – “Sọ Dừa là một hoàng tử quí phái gấp hơn cả mấy lần con, không dễ gì tìm được”. Cuộc trò chuyện giữa công chúa Út và hoàng hậu, không thoát khỏi tai mắt của hai người chị. Họ rất lấy làm ngạc nhiên. Bởi vậy, khi đêm tối vừa buông xuống, hai người đã đến rình xem, coi vợ chồng công chúa Út sống với nhau như thế nào. Họ thấy, từ phòng của công chúa Út, ánh hào quang sáng lên, rồi từ trong cái sọ dừa một thanh niên phương phi tuấn tú bước ra. Vẻ đẹp, sự ngời sáng của chàng ta là không thể nào mô tả hết được. Vẻ đẹp này, đã làm mê mệt trái tim của hai người chị. Làm cho hai người tự trách mình sao quá ngu dại. Sao trước đây họ không chịu lấy Sọ Dừa làm chồng. Rồi than tiếc: – “Uổng thay! Công chúa Út, thật là may mắn! “. Do không cưỡng được mối tình si đối với Sọ Dừa, hai cô công chúa chị nảy ra cái ý định cướp chồng của em. Ít lâu sau, Sọ Dừa muốn cùng vợ làm một chuyến giao thương ra nước ngoài. Hai người chị cũng đòi đi theo. Trước khi xuống thuyền, Sọ Dừa đưa cho vợ chiếc nhẫn hạt cườm “thần kỳ” của mình, và bảo nàng nên đeo vào ngón tay. Thuyền đã ra khơi xa, không ai còn có thể nhìn thấy bến bờ. Ba cô công chúa cùng bước dạo chơi trên khoang thuyền. Hai cô chị ngỏ ý muốn xem chiếc nhẫn “thần kỳ” trên ngón tay của cô em út. Không hiểu được dã tâm của hai người chị, Công chúa Út tháo nhẫn trao cho họ. Hai người chị giả vờ ngắm nghía, rồi bất chợt ném nó xuống biển.Thấy ánh sáng từ chiếc nhẫn lóe lên trước khi rơi xuống nước. Không chút ngần ngại, công chúa Út cũng vụt người lao theo. Hai người chị đứng nhìn, họ chờ đến khi thuyền đã đi xa nơi xảy ra sự cố, mới giả bộ than khóc đến báo cùng Sọ Dừa. Sọ Dừa cho thuyền quay trở lại tìm vợ, nhưng chẳng thấy, chỉ thấy chiếc khăn quàng của nàng đang lênh đênh trên mặt nước. Lòng buồn bã, Sọ Dừa cho hủy chuyến ra đi nước ngoài. Chàng cho thuyền quay trở về để báo cho nhà vua biết. Công chúa Út lao xuống biển, kịp thời nắm bắt chiếc nhẫn “thần kỳ”, nên cô không hề hấn gì. Cô hóa thân thành một hài nhi, vào tá túc trong một vỏ sò lớn. Vỏ sò ấy tự trôi lênh đênh trên biển cho đến hơn một năm sau mới giạt vào bờ, nơi hai vợ chồng cụ già nhà nghèo thường hay đến để nhặt sò, hến. Hai cụ thấy có cái vỏ “sa cừ” rất lớn, mà bên trong dường như có tiếng trẻ thơ. Hai cụ lấy làm lạ, rồi cùng nhau khiêng về để phía sau nhà. Bẵng đi một hôm, hai cụ đi làm về, thấy nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng ngăn nắp, cơm nước dọn sẵn. Hai vợ chồng nghĩ chắc có người tốt bụng nào đó sang giúp. Song việc ấy cứ liên tục xảy ra, nên hai người cũng sinh nghi. Một ngày kia, hai người giả vờ ra đi như thường lệ, khi đi được nửa đường thì quay về ẩn mình vào một góc kín để theo dõi. Họ thấy, một cô gái có vóc dáng đẹp như tiên nữ từ trong vỏ sò bước ra. Cô nhanh nhẹn thu dọn nhà cửa, đun nước pha trà, rồi nấu nướng để sẵn cho hai người. Không chậm trễ, hai cụ bất ngờ đi ra cầm tay cô gái, rồi hỏi: – “Có phải cháu là người mà bấy lâu nay đã âm thầm giúp cho hai già này không?” Nàng gật đầu, rươm rướm nước mắt và khe khẻ nói: – “Hai cụ nhặt con về. Con không có gì đền đáp công lao. Con giúp làm việc nhà để trả ơn hai cụ.” Tuy đã về được đất liền, nhưng công chúa Út không vơi được nỗi buồn. Cô nhớ vua cha cùng mẫu hậu. Cô nhớ nhất là Sọ Dừa, người chồng thương yêu của cô. Cô dệt một tấm “chăn dằn”, rồi nhờ bà cụ mang vào cung vua để bán. Trước khi bà cụ ra đi, cô căn dặn: – “Cụ đừng bán “chăn” này cho ai, ngoại tr&
0 Rating 428 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On December 17, 2013
Những tượng cổ, kho tàng, báu vật của vương quốc Chămpa xa xưa luôn là mơ ước của dân buôn bán. Sưu tầm đồ cổ. Cơn sốt truy tìm kho báu Chămpa đã bắt đầu từ hàng trăm năm về trước và âm ỉ mãi cho đến ngày nay. Trên vùng kinh đô Vijaya (huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay), những huyền thoại hư ảo đầy hấp dẫn về kho báu Chămpa khiến người ta mỗi khi nhìn những kiến trúc đền tháp Chămpa cổ rãi rác trên những “ngọn đồi của các vị thần” lại bật lên câu hỏi “kho báu Chămpa - sự thật hay chỉ là huyền thoại?” Tháng 12 – 1997, khi phóng sự Lời nguyền trên các kho báu Chăm được đăng trên Thế Giới Mới số 264 ít lâu thì tại nhà riêng, qua điện thoại, tôi nhận được một lời đề nghị hấp dẫn từ một người đàn ông (tạm gọi là ông X). Ông X đề nghị tôi xác minh một số thông tin về vương quốc Chăm ở một số tư liệu mà ông không có điều kiện tiếp xúc, đổi lại ông sẽ giúp tôi một số thông tin mới về con tàu Mekong. Trong lời nguyền trên các kho báu Chăm có đoạn: “Sau này người ta không sao tìm lại được những thùng cổ vật ấy và một bí mật đã bao trùm lên con tàu Mekong bởi danh sách hàng hoá trên tàu cũng bị thất lạc”. Vì vậy, tôi đã chấp nhận lời đề nghị này và hẹn ngày trao đổi thông tin. Rất may mắn cho tôi là khi ấy anh Mậu, ngưòi phụ trách phòng tư liệu phổ biến hạn chế (Thư viện Bình Định) cũng đang quan tâm đến vấn đề này và sẵn lòng giúp tôi tiếp xúc với số tư liệu về vương quốc Chăm mà tôi cần. Sau đó, cuộc trao đổi thông tin giữa tôi và ông X đã diễn ra như hẹn ước. Có lẽ, chúng tôi chưa trở lại với câu chuyện kho báu Chăm nếu chừng một tháng sau đó huyện Vĩnh Thạnh (một huyện miền núi của tỉnh Bình Định) không xẩy ra cơn sốt săn vàng, đồng thời ở vùng kinh thành Vijaya cũ, những người thợ rà phế liệu kim loại không phát hiện được một bộ áo giáp – mũ chiến bằng vàng…Trong tác phẩm Le Royaume de Champa (vương quốc Chămpa), học giả người Pháp Georges Maspero đã mô tả: “Các cánh rừng miền thượng du của vương quốc (Chămpa) chứa đựng những kho tàng vô giá, đó là gỗ mun và nhiều loại cây quý khác như đinh hương, giáng hương, long não, đặc biệt là trầm hương… Nhưng sự giàu có thực sự của đất nước là là sản phẩm lấy từ lòng đất – vàng. Vàng ở đây không hề hiếm và người Trung Hoa kể lại một cách kỳ lạ rằng người ta đã tìm thấy ở đây một núi vàng, tất cả các hòn đá theo họ nói đều có màu đỏ và ở giữa là vàng ròng. Vàng còn trôi trong các con sông, muốn thu được chỉ cần tát nước và gạn lấy…” Sự giàu có của vương quốc Chăm cổ là điều hầu như không cần phải minh chứng. Giống như một sự minh hoạ cho các luận chứng khoa học về sự giàu có của vương quốc Chăm, theo một số cư dân ở Vĩnh Thạnh, khoảng năm 1980 – 1983, nhiều người đã nhặt được những cục vàng tự nhiên nặng tới 2 - 3 kg (!?); sự vụ này đã gây xôn xao dư luận suốt một thời gian dài. Cho đến ngày nay, ở suối Vàng (Hoài Nhơn), trên dòng sông Kim Sơn và một số điểm khác ở Vĩnh Thạnh những người đãi vàng sa khoáng vẫn tiếp tục chắt lọc được khá nhiều thứ kim loại qúy giá này.Để đi tìm hy vọng từ các kho báu Chăm, giới săn tìm đồ cổ thường phối hợp với những người chuyên đi rà phế liệu kim loại (thợ rà) hoặc đặt hàng cho họ. Chính vì mối quan hệ này mà mỗi khi phát hiện thấy cổ vật thì nhà chức trách, giới chuyên môn thường chỉ là người đến sau những tay buôn bán cổ vật trái phép. Khu vực được thợ rà quan tâm nhiều trong các cuộc truy lùng của mình là những nơi có tháp cổ Chămpa toạ lạc, có tàn tích đền tháp hoặc là vùng xuất phát những truyền thuyết dân gian về kho báu Chăm. Tháp Phốc Lốc (Nhơn Thành, An Nhơn, Bình Định) – hay như cách gọi đầy hấp dẫn của người Pháp, tháp Vàng – là ngôi tháp được giới thợ rà cày xới nhiều nhất. Dù đi bằng ô tô hay tàu hỏa trên đường Bắc-Nam, khi đến vùng giáp ranh giữa hai huyện Phù Cát, An Nhơn, bất cứ ai cũng có thể chiêm ngưỡng ngôi tháp kỳ vỹ này. Khi chúng tôi hỏi thăm đường lên tháp, chủ một quán nước dưới chân đồi đã mách: “Các anh đi tìm đồ cổ à? Không còn gì nữa đâu. Thợ rà đã cào nát trên đó hết rồi. Ba bốn năm nay, hết dân ở đây rồi đến dân Phù Cát, Phù Mỹ vào đào xới lung tung, đến sắt vụng cũng không còn nữa là…”. Sau một hồi chúng tôi đi ngược dốc, sừng sững trước mặt chúng tôi là ngôi tháp cổ uy nghi. Phốc Lốc là ngôi tháp duy nhất của một quần thể gồm nhiều tháp. Một nửa của đỉnh đồi có lẽ đã bị các công trình sư Chămpa xưa cho san phẳng tạo thành hai nấc nên phía dưới của ngôi tháp là một không gian rộng lớn bằng phẳng. Những dấu tích còn lại cho phép người ta liên tưởng đến một quảng trường dành cho các dịp cử hành trọng thể những nghi thức nào đó (tháp Phốc Lốc rất gần kinh đô Vijaya). Tuy nhiên, điều đáng buồn là giờ đây, trên “quảng trường” nhan nhản những hố sâu do thợ rà để lại, những đống lớn gạch Chăm đổ nát. Gần chân tháp, một nhóm người đang húy hoáy đào xới.Phát hiện thấy tôi giương máy ảnh lên, lập tức những người này chui ngay vào bụi rậm gần đó giấu mặt. Dù vậy, khi lại gần, họ vẫn vui vẻ trò chuyện. Tư, một thanh niên vạm vỡ, phân trần: “Tuị em tưởng là công an, mà các anh chụp ảnh bọn em làm gì, xúi quẩy lắm… Không có việc gì làm, tụi em mượn máy lên đây rà cầu may ấy mà. Khoảng năm 1998, khi đào tìm gạch Chăm về xây nhà, một số nông dân đã phát hiện ở chân tháp một bức phù điêu tượng thần rất lớn. Cán bộ văn hoá huyện nói đó là tượng Nữ thần vàng (? ). Không biết cổ vật ấy có phải là vàng thật không, hay chỉ là tên gọi, nhưng ngay sau đó nhiều người đã rùng rùng kéo lên đây tìm vàng Hời. Không nghe thấy ai nói đã tìm được vàng, mà có lẽ tìm được họ cũng không dại gì mà nói ra, nhưng phù điêu, tượng cổ thì có. Khi ấy mọi người đã đổi đời chỉ nhờ một cái tượng. Tụi em rà hoài chỉ thấy gạch và đá”. Nằm cách tháp Phốc Lốc không xa về hướng Nam là Gò Tháp, một phế tích của nền văn hoá Chămpa lừng danh. Những người dân ở thôn Châu Thành cho chúng tôi biết, xưa kia nơi này có rất nhiều gạch Chăm vỡ vụn xếp thành đống lớn nằm rải rác trên gò. Theo ông bà kể lại thì từ nhiều đời trước nơi ấy có những ngôi tháp cổ của dân Hời, đã sụp đổ từ rất lâu. Cứ một vài năm, thường là đến mùa mưa, lại nghe có người nhặt được vàng Hời, nhưng hỏi ra thì không ai nhận cả.Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les tours Kiames delaprov-ince de Binh Dinh (Sài Gòn 1890) như sau: “Trong các tháp có các tượng. Rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi sau đó. Người ta đã đào các bức tường để dỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó… Các tháp Bạc (người Việt quen gọi là Tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo Tàng Lyon đã được tàu Mekong chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của tiến sĩ Maurice. Tàu Mekong bị đắm ở Hồng Hải và những người Somali tưởng rằng đã tìm thấy một mối lợi lớn nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”. Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mekong đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mekong có GS. Robert Stenout. Sau hơn 30 năm cày xới ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển…, đến tháng 10 – 1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí tàu Mekong bị đắm tại mũi Guardaqui ở Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mekong là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương – Pháp là một hành trình dài mất nhiều ngày, nên Mekong được xây dựng bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến hải hành định mệnh của Mekong năm 1886 có 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách, chở theo nhiều tấn cổ vật và một khoang hàng bí mật chứa đầy vàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mekong đã lan truyền là hoàn toàn có thể tin tưởng được. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mekong và kho báu bí mật thì quốc gia có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mekong đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc khai quật kho báu trên tàu Mekong đành dừng lại… kho báu mà tàu Mekong có nhiệm vụ đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya và chắc chắn đây chưa phải là toàn bộ kho báu huyền thoại của vương quốc Chăm.Như chúng ta đã biết lịch sử hơn 14 thế kỷ của vương quốc Chăm gần như được kết nối bằng vô số cuộc chiến tranh, chiến tranh với những người Đại Việt láng giềng, với cả những cư dân Khmer xa xôi hoặc là nội chiến tranh giành vương quyền giữa các thế lực trấn giữ các vùng trong vương quốc. Chính vì chiến tranh nên các kho báu của vương quốc được di dời liên tục, chôn xuống đào lên nhiều lần, nhất là lần dời đô năm 1282 ra khỏi Vijaya về phía vùng rừng núi phía Bắc vương quốc để tổ chức kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Lịch sử đã ghi nhận rằng Tọa Độ, viên tướng chỉ huy cuộc xâm lược vương quốc Chăm, đã chiếm được một kinh đô trống rỗng và hoang vắng bởi người Chăm đã thực hiện cuộc tiêu thổ kháng chiến trước đó khá lâu. Sau cuộc chiến này, người Chăm vẫn để lại trên kinh đô kháng chiến và rải rác khắp vương quốc phần lớn kho báu của mình vì e ngại những cuộc tập kích bất ngờ của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh. Các kho tàng ở Vijaya cũng được chôn giấu trong lòng đất, lưu giữ trong các hầm bí mật trong hoặc dưới các ngôi tháp cổ. Những tư liệu lịch sử, những kết quả nghiên cưú của các nhà khảo cổ học, bảo tàng học, sử học và những phỏng đoán khoa học nói chung dường như đã được thực tế minh họa. Và một lần nữa, những cuộc săn lùng kho báu trên đất Vijaya lại bùng nổ trong âm thầm.Tháng 2- 1998, khi nghe tin có người rà được một bộ áo giáp - mũ chiến bằng vàng trên khu vực tháp cánh Tiên, chúng tôi liền đi xác minh, nhưng đáng tiếc là người phát hiện ra cổ vật đã bán sang tay cho thợ vàng phân kim. Một cán bộ của ngành văn hóa – thông tin tỉnh Bình Định cho biết: “Một vài năm trở lại đây, dân Bình Định đã phát hiện ra nhiều cổ vật quý. Ban đầu chỉ là do sự tình cờ khi đào đất đắp đường, sản xuất… và người dân thường giữ nguyên hiện trường, nhanh chóng thông báo cho chính quyền biết sự việc. Đây là nghĩa vụ công dân, nhưng ở nhiều địa phương, các cấp chính quyền đã xem nhẹ việc thực hiện trách nhiệm của mình - tưởng thưởng xứng đáng cho người đã thực hiện tốt nghiã vụ công dân. Vì vậy, sau này người ta không còn nhiệt tình như trước nữa. Câu chuyện “phân kim cổ vật” là một ví dụ. Khi nghề rà tìm phế liệu liên tục phát triển, hiện tượng thất thoát cổ vật còn nhiều hơn trước hàng chục lần, trước sự bất lực của chúng tôi. Cho đến nay cơ quan chức năng vẫn chưa làm sao thu hồi được số cổ vật phát hiện được ở Phù Cát gồm hai hủ lớn - một bằng đồng, một bằng sành – bên trong chứa nhiều cổ vật bằng gốm, đá và kim loại có màu vàng nặng hơn 3kg, do một nhóm nông dân khai quật được và bán cho những người lạ mặt trước khi cơ quan chức năng kịp can thiệp. Theo tin tức lan truyền trong giới mua bán đồ cổ ở TP Hồ Chí Minh thì ngay trong lần mua bán sang tay đầu tiên, lô hàng này đã được ngã giá với con số kỷ lục gần 1 tỷ đồng”… Trong khung viên vòng thành bảo vệ Vijaya ngày xưa nay chỉ còn lại duy nhất một ngôi tháp, đó là tháp Cánh Tiên tọa lạc ở một vị trí rất đặc biệt – ngay ở điểm trung tâm kinh đô, vì vậy, vùng quanh chân tháp thường bị giới thợ rà, những người đi tìm cổ vật đào tới đào lui trong nhiều năm liền mà dấu vết còn lại là hàng chục hố sâu rải rác xung quanh tháp. Trong lần khai quật chính thức dưới sự kiểm soát của Bảo tàng Bình Định, người ta đã phát hiện nhiều hiện vật gốm sứ tuyệt đẹp kèm một số hiện vật khác mà biên bản khai quật sơ bộ ghi nhận đó là những mẫu kim loại khá nặng có màu vàng. Thông tin này lập tức lọt đến tai giới săn lùng cổ vật Chăm và vùng xung quanh tháp một lần nữa lại sôi động hẳn lên. Cứ như một trò đùa dai đầy ác ý của tạo hoá, chẳng ai tìm thấy được thứ gì đáng giá ngoài những mẫu vụn gạch Chăm, những mẫu đá nhỏ có nguồn gốc từ các kiến trúc điêu khắc đá Chămpa. Thế rồi, người ta gần như ngã lòng thì trong một lần đào huyệt ở nghĩa trang cách chân tháp Cánh Tiên chừng 100m, một nhóm phu đào huyệt đã tìm thấy khá nhiều cổ vật bằng đá. Khi chúng tôi hỏi thăm tin tức ở ông V.H.T, một thợ điêu khắc đá ở An Nhơn nổi tiếng về tài chế tác các pho tượng Chăm giả cổ và khả năng thẩm định xuất xứ của tượng cổ Chămpa thì được biết cách đây chừng 60 năm người Pháp đã đến và đào được vùng đất tọa lạc Thập Tháp Di Đà tự (Đập Đá) rất nhiều tượng cổ. Tương truyền chúng nhiều đến mức họ chỉ đóng thùng những pho tượng thật đẹp, thật quý còn lại những cái hơi sứt mẻ, xấu xí… họ dồn vào các hố thám sát rồi chôn lại, xóa dấu tích. Nơi được người Pháp khai quật nằm ở ven kinh đô Vijaya, cách tháp Cánh Tiên chưa đến 5km theo đường chim bay, nguyên thủy có ít nhất là 10 ngôi tháp, chúng đã sụp đổ trước khi người ta đến dựng chùa Thập Tháp. Trên những gò đống gạch đá đổ nát tưởng như vĩnh viễn vô dụng ấy, nhiều người đã đào được khá nhiều cổ vật Chăm. Tương truyền thôn Vân Sơn, Nhạn Tháp (Nhơn Hậu, An Nhơn) là nơi tồn tại nhiều tòa tháp cổ không lớn nhưng tuyệt đẹp. Ở đây, dân địa phương rất e ngại khi nhắc đến cổ vật Chăm, vàng Chăm. Một cụ già ở Nhạn Tháp cho chúng tôi biết: “xưa nay ai cũng nghe đến chuyện vàng từ kho báu, từ đền tháp của người Chăm bay ra đồng. Ông bà tổ tiên khi khai phá vùng này chắc cũng gặp những chuyện ấy. Nhưng hàng trăm năm nay đã có ai giàu lên vì vàng Hời đâu. Thôn này có nghề truyền thống lâu đời là nghề làm đồ gốm đất. Để có đất sản xuất, chúng tôi đã đào đến cạn sạch đất sét tốt ở Nhạn Tháp, tất nhiên là đã có một vài lần gặp cổ vật của người Chăm. Nhưng sau khi có vài người gặp xui rủi do giữ những thứ ấy trong nhà đem bán những thứ ấy nên dần dần không ai hám. Vả lại, nghe bảo những thứ ấy là đồ thờ của người ta, mình giữ, mua bán như vậy là phải tội…”. Tuy không sôi động như vùng kinh đô Vijaya, nhưng với những di tích, phế tích đền tháp Chămpa như Dương Long, Thủ Thiện…, huyện Tây Sơn cũng là nơi thu hút khá nhiều sự quan tâm của giới buôn bán cổ vật, đội ngũ thợ rà ở đây hầu như không kém gì so với An Nhơn. Hiện nay ở khu tháp Dương Long chỉ còn lại 3 ngôi tháp chính nhưng với những dấu vết của các phế tích còn sót lại, ta có thể dễ dàng biết rằng nơi này vốn có nhiều công trình kiến trúc hỗ trợ cho nhóm đền tháp chính. Vào quãng năm 1901-1906, nhà nghiên cứu người Pháp-Henry Parmentier-đã khảo sát rất kỹ ngôi tháp xinh đẹp này. Theo H.Parmentier, tháp Ngà (theo cách phân loại định danh của người Pháp) là ngôi tháp hầu như không hề giống với bất kỳ ngôi tháp cổ Chămpa nào đang tồn tại. Được đánh giá là hiện tượng đặc biệt duy nhất trong lịch sử kiến trúc đền tháp Chămpa, Dương Long nổi bật lên với sự phong phú của hàng ngàn tấm phù điêu điêu khắc đá mà vào thời điểm H.Parmentier có mặt để khảo sát nghiên cứu, học giả người Pháp này đã cho thu gom, sắp xếp thành những đóng lớn bên cạnh tòa tháp cổ. Điều đáng tiếc là H.Parmentier đã mô tả nội dung chi tiết các tấm phù điêu ấy trong các tài liệu khoa học của mình. Cùng với sự hủy hoại của mưa nắng, thời gian, việc những người dân địa phương sử dụng gạch đá Chăm vào mục đích xây dựng, dùng các mảnh đá, khối đá vỡ ra từ các cột đá, diềm đá… để làm cối đá dân dụng, những người thợ đục đá hầu như đã dọn sạch tất cả những gì mà ngày xưa các nhà khoa học đã nhắc đến. Tệ hơn, trước năm 1975, một viên tướng Ngụy đã đặt thuốc nổ phá tung một nhóm tượng trên than tháp. Khối tượng lớn được mang đi, nhiều tượng phù điêu nhỏ thì được vứt lại quanh chân tháp. Năm 1985, khi chuẩn bị tùng tu tháp Dương Long, cán bộ của Bảo tàng Bình Định và đoàn chuyên gia Ba Lan đã phát hiện ra một số bức phù điêu khá lớn. Nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã nói về giá trị của các phù điêu Dương Long như sau: “trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa, có không ít tác phẩm đẹp, nhưng chúng tôi chưa thấy một bức phù điêu nào thể hiện tâm trạng các nhân vật thành công như hình phù điêu trên đây của tháp Dương Long… Chắc hẳn xưa kia trên mặt tháp Dương Long phải có nhiều hình phù điêu như bức phù điêu may mắn còn lại. Chúng tôi tin rằng, nếu có những cuộc khai quật thật sự khoa học ở Dương Long, chúng ta sẽ tìm thấy những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đá như những tác phẩm đã tình cờ phát hiện ra năm 1985…”. Nhiều kiến nghị tương tự của các nhà khoa học được đưa ra liên tục, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, công tác quản lý khu vực di tích cũng như việc tiến hành khai quật các di chỉ được triển khai một cách nhỏ giọt và gặp nhiều vướng mắt, nhất là về kinh phí, nên những kết quả cũng rất hạn chếTrong khi cơ quan chuyên môn còn đang đánh vật với những khó khăn của mình thì tháng 10 – 1997, ông L.V.A (Tây Sơn) và một người đàn ông quê ở Thanh Hoá đã âm thầm khai quật một kho báu trên núi Hòn Gà (Bình Thành, Tây Sơn). Số lượng cổ vật, theo lời khai ông L.V.A với cơ quan chức năng, gồm 9 pho tượng cổ cao từ 30 – 35 cm, đường kính thân tượng từ 4 – 5cm, 4 lục bình lớn hơn số tượng kia một chút và ngay sau khi tìm thấy, họ đã khẳng định được ngay rằng số cổ vật mà họ tìm thấy đều làm bằng vàng vòng. Cũng như nhiều vụ việc tương tự trước đó. Số cổ vật này đã được bán sang tay cho một kẻ lạ mặt với giá nhiều triệu đồng. Thông qua một người bạn ở Tây Sơn, chúng tôi làm quen với N.X.H, một thợ rà phế liệu kim loại, quê ở An Nhơn, đang đi tìm vận may trên núi Cấm thuộc xã Bình Nghi (Tây Sơn) H đã bật cười ha hả khi nghe ý định giả trang làm thợ rà để săn tư liệu của tôi: “ Làm sao mà các anh có đôi bàn tay đầy chai sần do đào đất, đục đá, nước da đen cháy do suốt cả ngày phơi mình dưới nắng như bọn tui. Thợ rà như bọn tui ngay cả lỗ tai cũng chai nữa kia (do cứ phải đeo tai nghe máy rà liên tục). Vả lại lúc nào cũng rà được, chỗ nào cũng được phép rà. Những vụ nổ lưụ đạn, mìn pháo còn sót lại sau chiến tranh do thợ rà bất cần hoặc quá tham lam gây ra đã để lại cho chính quyền, công an các xã vô khối chuyện phiền phức. Vì vậy hễ cứ thấy bóng dáng bọn tui, vui vẻ thì họ xua đi, còn ngược lại thì họ gọi vào xét giấy tờ, hỏi tới, hỏi lui, có khi họ còn đòi giữ lại máy móc, phải xin gãy cả lưỡi. Các anh cũng chẳng thể nào đóng vai trò người đi mua đồ cổ được đâu… Mua bán hàng cấm mà mấy anh, đâu có đơn giản vậy. Làm gì có chuyện vừa tìm thấy đã bán được ngay như… báo chí các anh viết. Đồ cổ chứ có phải sắt vụn phế liệu đâu mà bán cho ai cũng được? Ngay cả những người được ứng tiền của chủ các đại lý phế liệu kim loại để đi rà như tui cũng chỉ biết lờ mờ là phải qua nhiều trung gian. Thế thôi các anh ạ! Và họ mua bán cũng lẹ lắm, ngã giá xong là họ chồng tiền. Bây giờ còn có thêm kiểu này nữa, những người cần mua, biết đánh giá chất lượng cổ vật, thường cũng biết những nơi tập trung cổ vật. Tất nhiên cũng không phải rõ ràng như có bản đồ trong tay. Nhưng chắc chắn nhờ họ mà chúng tôi đỡ tốn công hơn. Những người này thường ứng tiền cho thợ rà đi làm và bao tiêu tất cả những gì chúng tôi rà được, gồm cổ vật và những thứ phế liệu kim loại. Cũng là chuyện “buôn có bạn, bán có phường” thôi! Năm ngoái, trong giới chúng tôi xẩy ra một chuyện rất buồn cười nhưng nghỉ lại mà thấy lạnh tóc gáy. Theo yêu cầu của một số chủ hàng, một nhóm thợ rà đã thay nhau đào xới trên một cánh đồng rộng ở Đập Đá. Đến giữa trưa một hôm nọ thì phát hiện có tín hiệu rất mạnh, đào một hồi thì gặp cổ vật, vừa gạt sơ lớp đất thì một màu vàng hấp dẫn hiện lên. Nhóm thợ rà sáng mắt lên vì cổ vật quá lớn nhưng chưa kịp reo mừng thì một dòng chữ bằng tiếng Anh hiện ra: Made n USA! Thế là không ai bảo ai, cả nhóm dọn đồ nghề và chạy đi báo Ủy ban xã, xã báo cho huyện, huyện báo ngay cho tỉnh và bộ đội công binh được cử về. Hóa ra cổ vật là một quả bom nặng tới 500kg. Hú vía…”Rời túp lều sơ sài của H, chúng tôi tìm đến tháp Thủ Thiện, một ngôi tháp cổ Chămpa cũng toạ lạc ở xã Bình Nghi. Những người dân địa phương khi nhận ra người bạn cùng đi với tôi là người quen của họ và nghe câu hỏi về hoạt động của những người đào tìm cổ vật đã ồ lên một cách vui vẻ. Tháp cổ nằm gần nhà dân, các thợ rà không dám vác máy, mang cuốc tới. Vả lại chắc cũng chẳng còn tìm được gì nữa. Một cụ già có nhà nằm sát tháp Thủ Thiện không xa kể lại: “Trước giải phóng, lính ngụy nhiều lần đục đẻo tượng cổ trên tháp đem bán cho người Tàu dưới Quy Nhơn. Chỗ nào đục được thì họ đục, còn không đục được thì họ đặt mìn để phá, có lần uống rượu say, đám lính còn ném lựu đạn lên đỉnh tháp để làm trò vui. Đến cơn bảo khủng khiếp năm Sửu (1985), cây đa cổ thụ trên nóc tháp bị gió giật ngã và ném ra xa. Dạo ấy cũng có vài người nhặt được đồ cổ từ trên tháp văng ra nhưng do những lời đồn đại về tai họa mà đồ Hời mang đến và có lẽ do chưa hết kinh hoàng vì cơn bão nên không ai lưu giữ làm gì. Có người kể lại là họ đã ném xuống sông Côn sau khi lỡ đem về nhà …”.Người Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng trang trí… Theo một số truyền thuyết mà Ch.Lemire sưu tầm được thì chóp đỉnh của tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, là một quả cầu lớn làm bằng vàng vòng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ da trắng của một chiếc tàu châu Âu cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Chămsau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Những điều mà truyền thuyết mô tả hầu như đã trùng khớp với sự trình bày của những người thợ rà may mắn phát hiện được những pho tượng vàng trên đất Bình Định. Những kho báu Chămpa được phát hiện đầu tiên không phải do tình cờ mà là kết quả của quá trình tìm tòi rất nghiêm túc của người Pháp. Tháng 2-1906, sau 23 ngày tổ chức khai quật quy mô ở tháp Pô Nagar (Khánh Hòa), H.Parmentier đã tìm thấy một căn hầm bí mật mà ông gọi là kho báu chứa đồ thánh, bên trong chứa nhiều hiện vật bằng vàng như nhẫn, vòng, độc bình,… Sau đó ít lâu, khi tiến hành phục chế tháp phía nam, cũng chính H.Parmentier đã tìm thấy một kho đồ thánh khác ở một vị trí mà không ai ngờ đến – trên đỉnh tháp. Kho báu thứ hai này có khối lượng lớn và phong phú hơn kho báu phát hiện trước đó, chứa nhiều đĩa vàng, bạc, đồng và một số vật dụng khác không xác định được nguyên liệu cấu thành, ngoài ra còn có một số tượng voi, các sấu cũng làm bằng vàng… Kho báu Chămpa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chăm, đã được khẳng định sự tồn tại bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923 (một quốc gia đã bị diệt vong người Chăm và nghệ thuật Chăm): “Do tình cờ ông H.Parmentier và hai người cộng sự trong một chuyến đi khảo sát tại Phan Rí đã được Nữ hoàng Chămpa cho phép tham quan kho báu ở một rừng phải mất nhiều ngày vượt núi mới đến được. Kho báu mà họ được xem tận mắt gồm 300 hiện vật. Đó là những cái bình, những vật trang sức bằng vàng, 4 tá bình bằng bạc, một bộ sưu tập lộng lẫy các vũ khí cổ được khắc hoặc khảm còn lưu lại những chổ bịt bằng vàng hoặc bằng kim loại quý… họ còn có những kho báu dự trữ khác mà người Châu Âu chúng ta không bao giờ được biết đến do tính hoài nghi và mê tín của những người bảo vệ rất nghiêm khắc của dân tộc Chăm”.Những thành tựu của các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, bảo tàng học trong hàng trăm năm qua dường như được các tay săn tìm cổ vật Chăm nghiền ngẫm rất kỹ. Giờ đây họ biết rất rõ rằng kho báu Chămpa không chỉ được chôn giấu trong lòng đất, bên trong hốc tường ở các đền tháp mà còn có ở đỉnh tháp, tường hậu sau khán thờ và ở phần diềm hoa văn chân tháp. Và có lẽ chính những người này là những kẻ đi trước những nhà khoa học khi phát hiện ở phần chân móng của các tháp cổ Chămpa còn có cả những hộc chìm chứa nhiều tượng cổ (?). Một người bạn của tôi trờ về sau một chuyến đi đào xới trên núi Bà (Phù Cát) đã thuật lại: “Ở những cánh rừng đại ngàn trên đỉnh núi hiện có đủ loại thợ thầy đang hành nghề - thợ săn thú quý hiếm, thợ cưa xẻ gỗ trái phép, các điệu săn trầm và đám thợ rà tụi mình. Khi được tin trên núi Bà có nhiều phế tích Chămpa hấp dẫn, tớ đã bán tín bán nghi. Những phế này nhiều người đã biết từ lâu, ngay cả khi cơn sốt săn lùng cổ vật Chăm nổ ra hồi mấy năm trước, tụi mình đã đào xới ở đó gần nửa tháng trời, mọi chuyện đã chấm dứt từ nhiều năm trước. Nghe tin có vàng Hời bay trên núi Bà do mấy tay phu trầm rỉ tai, rồi thấy người ta đi, mình cũng bấm bụng vác máy lên. Gần chục nhóm như vậy chia nhau rà tìm đào xới mà không nhóm nào thu được thứ gì đáng giá. Lần lượt các nhóm ở xa lưng vốn đã cạn rủ nhau xuống núi trước, nhóm của tụi mình là những người áp chót, mình vừa xuống xong thì được tin những kẻ ở lại phát hiện ra trong một hang đá có bộ xương của một chiến sĩ giải phóng nằm chết trên võng (có lẽ là đã hy sinh do sốt rét ác tính khi đi công tác một mình”, tay trưởng nhóm đã xuống báo cho UBND huyện Phù Cát. Nghe đồn nhờ đó mà trong cái ngày quyết định chấm dứt chuyến săn tìm cổ vật, họ đã tìm được một cái bình cổ. Chỉ một cái thôi nhưng đám thợ rà đã kháo nhau là đã bán được gần 100 triệu đồng…” Giữa những huyền thoại về kho báu Chămpa với sự thật lịch sử, nếu tách bỏ đi những yếu tố hoang đường, ly kỳ, rùng rợn như ma vàng Hời, ma vàng bay…, thì nhiều chi tiết của huyền thoại buột chúng ta phải xem xét vấn đề một cách nghiêm túc, đặt chúng ta trong mối quan hệ giữa các ngành khoa học có liên quan như văn học dân gian, khảo cổ học, dân tộc học, bảo tàng học…, để từ đó có thể đánh thức được những di sản văn hóa Chămpa còn thất lạc đâu đó trên các vùng di tích, phế tích. Nếu tổ chức tốt các khâu nghiên cứu, khảo sát, điều tra, khai quật, một điều chắc chắn là hiểu biết của chúng ta về nền văn minh Chămpa rực rỡ sẽ hoàn hảo lên. theo thuvienbinhdinh.com
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On January 31, 2014
 Trên đời không thiếu câu chuyện chỉ nghe thoáng qua một lần và không bao giờ còn được nhắc đến.  Dẫu vậy, có những câu chuyện mà cứ phải nghe lại mãi dù đã thật xa xưa.  Một trong những câu chuyện ấy phải nói là của Huyền Trân công chúa, dù đã xảy ra hơn 700 năm về trước. Chuyện tình Huyền Trân công chúa đã được nhắc tới nhiều trong dân gian Việt Nam dưới nhiều góc độ nhìn khác nhau.  Người thì ca ngợi công chúa đã thay mặt triều đình nhà Trần thực hiện công tác ngoại giao, tạo hòa bình giữa hai nước đã thường xuyên tranh chấp với nhau lâu đời. Cũng có người tiếc cho công chúa xinh đẹp, lá ngọc cành vàng phải xa quê hương trao thân gởi phận cho người chồng xa lạ.  Về mặt tình cảm thì nhiều người thương tiếc, nhưng chuyện tình Huyền Trân cũng thường được hâm nóng lại và gây nhiều tranh cãi qua những bài viết đó đây.   Cách đây không lâu nhân chuyến đi họp xa tôi có dịp ghé thăm cộng đồng Việt Nam và nhận được tờ Viet Lifestyles Magazine số 31 đem về khách sạn. Nhưng cho đến khi ngồi trên chuyến bay trở về tôi mới có thì giờ mở ra lật từng trang và bắt gặp bài “NHỚ VỀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA” của Mường Giang từ Hạ Uy Di.  Viết về công chúa Huyền Trân, cả chính sử và dã sử đã tốn khá nhiều giấy mực để luận “công” và “tội” của nàng.  Nhưng đây là một bài viết mà theo tôi là rất trung thực, tác giả ghi lại câu chuyện tình xa xưa và cố trình bày sự thật cách rõ ràng theo như mình tìm hiểu được.  Ông cũng đưa ra những lời nhận định chân tình của một người cầm bút, không thiên lệch nhưng rất công tâm khi xét về lý lẽ và sự kiện đã xảy ra trong lịch sử. Ca dao Việt Nam có câu: Có con mà gả chồng gần, Có bát canh cần nó cũng đem cho.                                  Về việc vua Trần Nhân Tông hứa gả công chúa yêu quý nhất của ngài cho vua Chế Mân xa xứ, theo tác giả Mường Giang thì “cũng không ngoài việc anh hùng trọng anh hùng, qua cái tư cách hào hoa mã thượng của nhà vua trẻ này đã thể hiện vào năm 1283, vua Chế Mân đã lãnh đạo quân dân Chiêm Quốc chống lại quân Mông Cổ khi chúng xâm lăng nước này.”   Đọc Việt sử tới những trang viết về cuộc tình của Huyền Trân công chúa và vua Chế Mân, không hiểu là tại sao bên lề câu chuyện chính sử lại có kèm theo những câu ca dao không rõ xuất xứ này:   Tiếc thay cây quế giữa rừng, Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.   Khác với câu ca dao trên, có thể nói vua Trần Nhân Tông là người hiểu rõ về cốt cách và tài năng của Chế Mân.  Ông chẳng những là một vị anh hùng có tài thao lược, mà lại còn là một vị vua có lòng hiếu khách nữa.  Năm 1301 khi Trần Nhân Tông đặt chân đến kinh đô của vương quốc Champa để tận mắt chiêm ngưỡng những ngọn tháp nguy nga tráng lệ ở đây, thì chính Chế Mân long trọng đích thân đến mời ngài vào cung điện của mình đón tiếp và dẫn đi du ngoạn khắp các đền đài.  Nên trong gần chín tháng lưu lại nơi đây, đến ngày về, cảm động trước tấm thịnh tình của Chế Mân, nhà vua đã hứa gả cô công chúa xinh đẹp của mình là Huyền Trần cho vua xứ Vijaya.  Hôm ấy trên không trung trong lòng máy bay giữa bầu trời cao ngất, đọc xong bài viết của tác giả Mường Giang, tôi ngồi chiêm nghiệm lại những bài viết mà mình đã từng đọc trước đây cũng về cùng một câu chuyện mà không ít băn khoăn.  Trong ấy có những bài viết mà tác giả chỉ muốn nói lên sự thật như một bài học lịch sử, một số bài viết thì tác giả muốn đi tìm sự thật với những câu hỏi chân tình về những điều bí ẩn bên trong.  Dẫu vậy, cũng có những tác giả đã không nhẹ tay chút nào khi phóng ra nét bút của mình trên trang giấy, nặng lời kết án không chỉ những nhân vật trong câu chuyện mà còn lây lan đến làm đau lòng cho cả một dân tộc cách không thương xót.   Dĩ nhiên, trong chúng ta không ai có thể thay đổi được quá khứ.  Điều mà mỗi chúng ta có thể, ấy là cùng nhau làm cho ngày mai tốt đẹp hơn.  Chuyện Huyền Trân công chúa phải nói là đã xảy ra vào một giai đoạn lịch sử mà ngày hôm nay nhắc lại làm cho mỗi chúng ta ngậm ngùi và hối tiếc.  Đối với người Việt, thì không ít người xót xa cho một Huyền Trân vì chữ hiếu mà đành phải xa quê để đi lấy một người xa xứ.  Nên người sau cảm thông nỗi niềm ấy mà trút cạn lòng mình trong lời ca bi thiết:   Nước non ngàn dặm ra đi, Mối tình chi. Mượn màu son phấn, Đền nợ Ô Ly. Xót thay vì, Đương độ xuân thì…   Đối với người Chăm, thì lại tiếc thay vì một Huyền Trân mà mảnh đất thân thương là hai châu Ô và Lý đành phải vĩnh viễn lìa xa đất tổ.  Hoàng Thái Xuyên viết:   Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm, Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi…   Việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đã khiến quần thần trong triều Việt xôn xao bàn tán, và dĩ nhiên việc dâng hai châu Ô và Lý làm sính lễ cũng không tránh khỏi nhiều sự bất bình trong thần dân Champa.  Cuộc hôn nhân này quả là một thiên bi hài kịch, gây hệ lụy đau buồn cho nhiều người qua nhiều thế hệ.  Nên những người cầm bút dù là một sử gia, hay là một văn nghệ sĩ muốn mượn câu chuyện tình này làm nguồn cảm hứng để cảm tác một bài thơ, sáng tác một dòng nhạc hay dựng nên một tác phẩm thì cũng hãy nên lấy công tâm mà viết.  Đây là câu chuyện tình lịch sử có liên quan đến hai nước láng giềng khi xưa và hai dân tộc đang sống với nhau trong cùng một cộng đồng bây giờ.  Nên khi viết đừng theo trí nhớ mà diễn đạt, nhưng cần phải tra cứu lịch sử để khi dệt thành văn nó trở nên giá trị đem lại bài học lịch sử cho mọi người, chứ không thì theo trí nhớ mà sai lệch sẽ đem lại nhức nhối cho nhiều người.  Hơn nữa khi viết phải ý tứ trong cách dùng từ, vì đây là một vấn đề nhạy cảm.  Dù sao dân tộc Chăm một thời là thần dân của một vương quốc rất oai hùng đã bị mất, và nay đang sống chung trong cộng đồng của một đất nước Việt Nam.  Từ khi mất nước dân tộc Chăm đã từng sát cánh với dân tộc Việt chiến đấu trong nhiều cuộc chiến khác nhau, cùng gắng công xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh thời trước 1975.  Bây giờ một số đã cùng bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình để cùng đoàn người dân Việt ra đi lưu lạc khắp phương trời, và nơi ấy họ cũng cùng chung sinh hoạt sát cánh với người Việt để xây dựng một cộng đồng hải ngoại vững mạnh ở xứ người.  Còn những ai đang ở lại quê nhà, thì họ cũng đều chịu chung số phận với muôn triệu người Việt khác ở trong cùng hoàn cảnh.  Nên hãy quan tâm đến nhau, giúp đỡ lẫn nhau, dùng ngòi bút đem lại sự cảm thông để hóa giải những bất đồng.  Hầu có thể cùng kéo nhau lại gần hơn nữa trong cuộc sống bươn bả ở quê người, hay là cuộc sống lo âu ở quê nhà.  Chúng ta cần có nhau, người Chăm hay là người Việt, dù ở bất cứ đâu trên quả địa cầu.  Thật chúng ta từ ngàn xưa có những bắt đầu khác nhau, tổ tiên chúng ta sinh ra không cùng chung một vùng địa lý.  Nhưng rồi thì theo cái vận chung của thời cuộc, Trời đã xui cho hai dân tộc cùng sống chung với nhau như láng giềng trên chung một mảnh đất, nên không chi tốt bằng là hãy sống vui khỏe bên nhau để cùng chung hưởng những tốt đẹp mà Trời đã ban cho mỗi chúng ta./.
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On February 6, 2014
 Vào đi! Cô nhìn anh với ánh mắt mừng rỡ rồi ngồi vội xuống sàn trước chiếc vali lớn đầy sách đã mở tung. Cô đang lục lọi tất cả hành lí của ba mình để tìm manh mối về naga. Kì Phương đảo mắt, khắp nơi bừa bộn sách báo bày từ trên bàn đến sô pha. Anh lặng lẽ ngồi xuống chiếc nghế trống dựng góc phòng và không biết mình nên bắt đầu từ đâu. Dù muốn hay không anh cần phải nói ra sự thật. Dường như không hề để ý đến vẻ mặt căng thẳng của anh, Thi Nga rút một cuốn sách rồi xoay bìa về anh. - Anh hãy lật chồng sách đầu giường xem có cuốn nào có từ ‘’thánh địa’’ như cuốn này không? Kì Phương liếc qua cuốn ‘’ Thánh địa Mỹ Sơn’’ của Ngô Văn Doanh liền hiểu ngay cô đang tìm gì nhưng anh biết điều đó không cần thiết nữa. Thi Nga đặt cuốn sách xuống rồi lại nói tiếp. - Có hai thứ quan trọng nhất mà tôi muốn có ngay trước khi đi camboge, đó là tấm bản đồ hay cuốn sách nào đó dẫn đến thánh địa naga, thứ hai là cuốn nhật kí của ba tôi. Anh giúp tôi đi. Cũng không cần nốt, anh nói thầm trong cổ. Nhưng không hiểu sao trước lời yêu cầu tha thiết kia, anh lại buột ra một câu khác hẳn: - Mấy thứ đó chắc ba cô đã...mang đi rồi! - Dạo này bố em hay quên, lúc đi lại rất vội vã. Nhật kí là vật bất li thân của ba rồi, mong sao tấm bản đồ ba tôi bỏ quên đâu đây. Kì Phương dường như không nghe thấy gì, mấy lần suýt vọt miệng rằng ba cô chết rồi không cần đi đâu nữa nhưng anh đã kìm lại. Nhìn Thi Nga hăm hở như một thợ mỏ ngửi thấy mùi vàng mà anh không nỡ làm cô cụt hứng. Cô ngồi gần như xếp bằng trên sàn nhà trước ngổn ngang biển trời tri thức. Tấm lưng ong thon thả đang căng lên dưới mái tóc đen như lụa của cô gái mới đôi mươi. Khuôn mặt ửng hồng, đôi mắt đen không chớp lướt nhanh trên những trang sách như sợ các dòng chữ sẽ vụt biến mất. Một vẻ đẹp thánh thiện, một cô gái thơ ngây đáng thương thế này mà không hiểu sao viên thiếu tá và ngay cả thầy anh lại dồn bao ghi hoặc lên tâm hồn trong trắng như vậy? Không! Cô là một thiên thần. Anh không thể tiếp tục trù trừ và lừa dối cô được nữa. Phải nói. Lấy hết sự bình sinh anh cất giọng. - Thi Nga! em hãy nghe... tôi nói đây! Cô gái từ từ ngước lên, đôi môi mọng đầy hé mở thoáng chút ngạc nhiên, nàng lúng liếng cặp mắt nhìn anh như chuẩn bị đón nhận một lời nguyện ước thiêng liêng. Nhưng rốt cuộc chẳng có gì cả. Kì Phương thấy trong đôi mắt kia là cả một ngọn lửa hi vọng đang bùng cháy mãnh liệt. Ôi, đôi mắt! Có lẽ nào anh lại phũ phàng dập tắt nó. Lẽ nào đôi môi của anh lại phóng ra một lưỡi dao làm trái tim kia phải bật máu. Không! Lại một lần nữa, cổ họng anh như bị thít chặt. Về phần Thi Nga, cô sớm nhận ra bên cạnh mình cũng chỉ là một kẻ si tình, một biểu hiện y hệt những anh chàng kém tự tin đang đeo đuổi cô bên Paris. Cô vội dụi mắt xuống đống sách, giọng chán ngán: - Anh hết mệt chưa? có thể giúp tôi một tay được không? Trong chiếc túi vải trên giường kia của cha tôi cũng là sách, anh tìm nốt đi, chú ý các từ ‘’thánh địa’’ hoặc ‘’naga’’! - Nhưng...ba cô... ba cô đã...- Kì Phương cố gắng như một nỗ lực cuối cùng, nhưng chưa kịp nói tròn câu thì bị chặn lại bởi một câu ráo hoảnh. - Ba tôi đã nói với tôi rằng, ông ấy sẽ có mặt ở thánh địa Naga trong chiều mai. Nào, hãy giúp tôi mở cái túi kia nhanh lên đi chứ! Ở đời có một việc hiếm gặp và ai cũng sợ phải làm, đó là đi báo tin người chết cho người thân của họ. Bởi đơn giản là không ai muốn làm đồng loại lên cơn đau đớn tột cùng. Vậy mà hôm nay, cái chân ‘’sứ giả thần chết’’ mà anh kiêng kị nhất trong đời đã gọi đúng tên anh. Trong tích tắc nữa, cơ thể tràn trề sức sống kia sẽ phải gục ngã và giãy dụa trước một sự thật đang chực sẵn trên môi anh. Sự trì trầy nhu nhụt của anh dần dần đi đến một bước lùi tai hại. Giờ đây anh lại phân vân không biết nên kiên quyết chứng minh cha cô ta đã chết hay là cứ để cho cô ta tin cha mình đang sống thêm... một thời gian nữa? Mà một khi tin cha mình còn sống tức là anh cũng chuẩn bị khăn gói mà tháp tùng cô ta đi tìm cái thánh địa quái quỷ nào đó. Nghĩ mà nực cười, chỉ mới sang nay anh cố giãy dụa dưới hố sâu để chứng minh cha cô còn sống, thì giờ đây anh cũng đang ‘’giãy dụa’’ để chữa lại lỗi lầm. - Cô tin mọi việc đang diễn ra đúng như cha cô đã nói? – anh hỏi xong thì vội nhận ra câu hỏi quá thừa. - Ơ kìa anh này!- cô ngửng phắt nhìn anh như một thằng ngốc – Nói thêm để anh biết, kế hoạch khám phá thánh địa của ba tôi đã chuẩn bị từ cách đây mấy năm chứ không phải bột phát đêm nay. - Sao? kế hoạch khám phá thánh địa của ba cô đã chuẩn bị từ cách đây mấy năm? – Kì Phương kinh ngạc đến mức lắp bắp. - Đúng vậy - Cô nói dứt khoát.- ba tôi nhất định đến đó. - Thôi được - Kì Phương lắc đầu chịu thua - Chúng ta tìm bản đồ rồi đi naga tìm ba cô. - Anh đừng quên chúng ta đã thỏa thuận với nhau lúc ở dưới hố rồi nhé. Lúc đó túng quá mà Kì Phương hứa bừa là sẽ cùng cô đi Pnompenh, rồi sau đó anh lại hứa đại với giáo sư Huỳnh Lẫm là đưa cô đi trốn. Giờ đây, theo đà này thì cô ta sẽ lôi anh trốn ra nước ngoài mất. Thế mà hóa hay. Làm thế thì được lòng cả hai và điều quan trọng nhất là cô ta sẽ thoát khỏi nơi nguy hiểm này? - Tấm bản đồ và cuốn nhật kí – Anh nói- Trước đây cô đã nhìn thấy chúng bao giờ chưa? Thi Nga định không đáp, nhưng không phải câu hỏi nào của anh cũng thừa. - Bản đồ thì tôi chưa thấy bao giờ, còn cuốn sổ tay thì rất dày, bìa da màu đen. Cũng như một cuốn nhật kí riêng tư của bất cứ ai, ông không muốn ai xem nó cả.  - Nếu tồn tại thánh địa naga trong thực tế, ắt ta sẽ có cách tìm được thôi. – Kì Phương an ủi, mặc dù anh cũng chưa có cách gì. Ngay lập tức Thi Nga hất mái tóc và quay mặt sang. - Anh đừng nghĩ đơn giản, đây là bí mật lớn nhất của lịch sử khmer và champa, nếu dễ người ta đã tìm ra từ lâu rồi. - Chính ba cô đã biết đấy thôi - Kì Phương vặn lại. - Ba tôi là người duy nhất làm được điều đó nhưng cái giá quá đắt. Mẹ tôi phải bỏ mạng ngay tại đó. Sự trả thù vẫn còn đeo đẳng cha con tôi đến tận bây giờ. Chính vì thế nên bằng mọi giá tôi sẽ không để ba đến đó môt mình. Lúc này thì kp mới thấm câu nói của gshl, quả thật, ba con cô ta đang bị ai đó đe dọa. - Vậy ba cô đã nói kế hoạch gì với cô trước khi ông ấy sang đây? - Ba tôi cho tôi biết sáng nay làm lễ ở Mỹ Sơn, chiều nay sẽ đáp máy bay qua Pnompenh để chuẩn bị cho khai quật thánh địa naga vào chiều mai. Có lẽ sự cố ở Mỹ Sơn sáng nay đã buộc ông ta tiến hành khai quật naga sớm hơn dự định. Ba tôi nói khai quật naga là sứ mệnh lớn nhất của ông trước khi chết. Nghe đến đây, Kì Phương nhận ra rằng đây là lí do cô chưa ‘’cho phép’’ba mình được chết. Sau nghĩa vụ ở Mỹ Sơn sẽ là naga. Ý nghĩ khám phá thánh địa naga bí ẩn bắt đầu cuốn hút anh, và không biết tự khi nào anh đã bỏ hẳn ý định nói thật với Thi Nga. Tận dụng nguồn thời gian, Kì Phương định bảo Thi Nga mang vài cuốn vào ba lô rồi vừa đi vừa tìm thì tiếng reo của cô vang lên. - Đây rồi, thánh địa naga! Kì Phương trờ tới nhìn lên cuốn sách được đóng thủ công đã ố vàng trên tay cô. ‘’Thánh địa Naga’’. Không kìm được tò mò, Kì Phương nhìn qua vai cô khi cô giở nhanh từng trang. Anh nhìn thấy có rất nhiều ảnh chụp và vẽ tay khá công phu cố diễn tả từng phần một công trình bằng đá tối màu như trong một cung điện tối tăm. Sức hút của những công trình kiến trúc cổ đối với Kì Phương là rất mãnh liệt. Đáng chú ý, trong công trình này hiện diện nhiều mảng phù điêu bằng gạch rất đặc trưng của người Chăm. Theo kinh nghiệm của người trong nghề, Kì Phương liên tưởng ngay đến bộ hồ sơ hiện trạng một công trình cổ nào đó trước khi làm dự án trung tu phục chế. Paul vốn là kiến trúc sư cổ vì thế anh tin chắc đây là công trình ông đang làm dở. Tuy vậy tập tài liệu này chưa vẽ lên phối cảnh tổng thể lẫn vị trí địa lí nên không thể biết nó thuộc vùng nào. Thi Nga giở nhanh thoăn thoắt để tìm bản đồ. Cũng như khi soát xong đống sách trong va li, một lần nữa cô lại thất vọng. - Anh tìm lại đi, để tôi tìm cuốn nhật kí. Kì Phương vội cầm lấy xem ngấu nghiến. Mấy bức ảnh đầu tiên là các lối đi lắt léo nhỏ hẹp rất tối tăm giống như một mê lộ dưới lòng đất. Những vách đá dựng đứng được khác tạc các vị thần Ấn Độ giáo uy nghĩ lững lững và cả những hình vẽ lễ hội lạ mắt mà nhất thời anh không hiểu nổi. Tiếp đến là những không gian đóng mở, lồi lõm xen kẽ chứa đựng những pho tượng và kinh sách rất đồ sộ. Kp đồ rằng nếu đây không phải là những tác phẩm do ông tưởng tượng ra thì bấy lâu nay nhân loại đang bỏ quên một kho báu khổng lồ theo tất cả các ngữ nghĩa của nó. - Đây là một kho báu trong lòng đất! – Kì Phương thốt lên. Quả nhiên là trăm nghe không bằng một thấy, cho dù là thấy trong tranh ảnh. Kho báu Chămpa là có thật và được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp, những người không màng mê tín hay huyền thoại mà chỉ tin vào thực chứng. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chămpa đã được khẳng định bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923 (một quốc gia đã bị diệt vong và nghệ thuật Chăm) khi viết rằng “Do tình cờ ông H.Parmentier và hai người cộng sự trong một chuyến đi khảo sát tại Phan Rí đã được Nữ hoàng Chămpa cho phép tham quan kho báu ở một khu rừng phải mất nhiều ngày vượt núi mới đến được. Kho báu mà họ được xem tận mắt gồm hơn 300 hiện vật. Đó là những cái bình, những vật trang sức bằng vàng, 4 tá bình bằng bạc, một bộ sưu tập lộng lẫy các vũ khí cổ được khắc hoặc khảm bằng vàng hoặc bằng kim loại quý’’ Đây chỉ là một cuộc mục sở thị kho báu nho nhỏ của giới khoa học Pháp đã được công bố trên tạp chí chuyên ngành. Dân gian đồn đại rằng những thứ không được công bố mới là phần chìm của tảng băng trôi. Cầm trên tay cuốn sách lạ này Kp không khỏi hoài nghi đây liệu có phải là kho báu Champa mà sử sách tốn bao công bàn luận hay không. Kp lật nhanh để xem nó lớn đến mức nào nhưng anh bỗng dừng tay khi thấy một bức ảnh tối màu nhưng nổi lên một vệt sáng ngoằn nghèo như dải khói trắng. Nhìn kĩ anh nhận ra đây là một con rắn rất lớn đang ôm một cây cột. - Xem này! – Kì Phương hướng ảnh về phía Thi Nga. Thi Nga thấy rắn liền giật thót mình suýt chút nữa ngã nhào lên đống sách. Kì Phương bấm bụng cười rằng mới chỉ là bức ảnh mà đã thế, không biết khi gặp rắn thật cô sẽ ra sao. - Nếu nó canh giữ thánh địa này cô có dám vào không? – anh hỏi. - Nó nằm trong naga ư? Thánh địa này có tên là Naga, theo thần thoại Balamon thì đây là tên một con ‘’rắn thần’’. Loài vật thiêng này cũng được xem là thần giữ của của người Khmer. Cha cô còn tiết lộ điều gì về naga nữa không? - Mặc dù là một người kín tiếng nhưng trước khi đi ba tôi nói rằng thám hiểm thánh địa naga có thể mất nhiều ngày và vô cùng nguy hiểm. Ba khuyên tôi ở nhà đừng lo lắng gì, ba sẽ liên lạc với tôi khi có thể. - Vậy lí do gì mà cô phải cấp tốc đi tìm ông? - Tôi biết đây là công việc liên quan đến cái chết mười hai năm trước của mẹ tôi, và lần này cũng rất nguy hiểm với ba tôi nên không nỡ để ông ra đi một mình. - Ba mẹ cô từng vào thánh địa naga?- kp rất ngạc nhiên. - Ba em nói đó là câu chuyện dài, ông hứa sẽ nói sau. Dường như ông rất ân hận về việc mình đã làm với mẹ. Nhìn ông u uất nên tôi chạnh lòng và không nỡ hỏi thêm. - Vậy tại sao ông không trở lại naga sớm hơn, ví như năm ngoái, năm trước chẳng hạn? - Không được. Ba nói rằng không phải cứ thích đi là đi, vấn đề là cánh cửa đá bí mật trong hang núi này không ai mở được! Kp đã từng nghe rất nhiều vào giai thoại kể rằng người Chăm cất giấu kho sách lớn dưới hang núi vùng Cà Ná từ mấy thế kỷ nay. Nền hang được phủ dày bằng lớp cát phát sáng, cửa đóng kín mít bởi một tảng đá to mà chỉ có người Raglai - một dòng họ gia nhân của hoàng tộc Champa cuối cùng mới mở được bằng bài phù chú bí hiểm với lễ vật. Câu chuyện này hấp dẫn các nhà sử học và hàng lớp người đã lên đường tìm kiếm. Không lẽ Thi Nga đang nói về nó chăng. - Nếu không ai mở được sao ba cô trước đây lại vào được? - Nó tự mở theo chu kì, và chu kì này sẽ đến vào ngày mai. - Chu kì? - Đúng vậy, ngày cửa mở chính là ngày diễn ra nghi lễ theo chu kì 12 năm một lần. Kì Phương thấy bắt đầu thú vị. Sáng nay đã có một người buột miệng ra từ ‘’Chu kì’’. Thật ngốc nghếch nếu coi hiện tượng trên Yoni hôm nay là tín hiệu của một chu kì cánh cửa xa lắc nào đó nhưng cũng không được bỏ qua bất cứ điều lạ thường nào. Thờ cúng với tôn giáo như máu nuôi cơ thể, mà thờ cúng luôn luôn diễn ra theo đúng chu kì. Vì vậy nếu muốn một cơ hội nhìn sâu vào một tôn giáo nào đó phải mục kích cho được các chu kì thờ cúng và lễ hội của nó. Thông thường chu kì này diễn ra vào một ngày giờ cố định hằng năm như lễ kate chẳng hạn, nhưng chu kì dài đến một con giáp thì anh chưa nghe bao giờ cả. Phải chăng đây là một nghi lễ tà giáo bí mật và hiếm hoi còn tồn tại trên thế giới này. Kì Phương lật từng trang một cách vô thức và mắt anh nhanh chóng lạc vào thế giới âm u thần bí. Khi nhìn xuống, anh bỗng rùng mình đánh rơi cuốn sách. Bàng hoàng mất vài giây anh mới dám nhìn xuống một bức ảnh văng ra nằm trên mặt đất. Không thể tin nổi. Chính giữa yoni là một dòng chữ kì quái đập vào mắt: -
0 Rating 251 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On March 19, 2014
Nó là Chăm! Vì cha, mẹ nó đều là Chăm. Dù nó sinh ra ở nơi đâu, dù màu da, ánh mắt, dáng vẻ nó không có gì là Chăm, cho dù bản thân nó suy nghĩ như thế nào, đi chăng nữa? Nó vẫn là Chăm, Chăm một trăm phần trăm. Người ta không có quyền chọn lựa dân tộc của mình khi sinh ra, nhưng phải sống có trách nhiệm với dân tộc đã sinh ra mình. Mẹ sinh nó ra, nuôi nó khôn lớn, từ lúc còn đỏ hỏn trên tay, cho đến lúc đến lớp, đến trường trong một môi trường xung quanh toàn là những người không cùng dân tộc với nó. Lúc còn bé, nó nghĩ, nó chẳng khác gì những người sống xung quanh cả, nó cũng có thể nói rặt tiếng Việt, nó có thể học A, B, C nhanh hơn lũ bạn cùng lứa với nó. Nhưng đến một ngày, mẹ nó với nói : « Con là người Chăm, phải nói tiếng Chăm, con ạ ! ». Lúc ấy, nó hãy còn ngây thơ và bé nhỏ quá, nó cảm thấy xấu hỗ khi mẹ nó nói tiếng Chăm với nó trước mặt lũ bạn, nó cảm thấy xấu hỗ khi tự xưng mình là Chăm trước mọi người. Từ trong suy nghĩ, nó ước mình không phải là Chăm, nó muốn như những đám bạn nó, không phải bị chúng nó nhìn bằng cái ánh mắt xa lạ của những kẻ không chung dân tộc. Mỗi lần cha, mẹ đem nó về quê, mọi thứ đều xa lạ và ngỡ ngàng đối với nó, mọi hình ảnh đều tạo một cái cảm tưởng khó chịu đối với nó. Hình ảnh những vị chức sắc làm cho nó sợ, hình ảnh những bà già ăn trầu làm cho cảm giác ghê ghê. Ở đó, người ta nói một thứ tiếng xa lạ đối với nó, rồi họ nhìn nó, xúm nhau lại nói bân quơ gì đó, rồi lại nhìn nó cười te tét, cứ như nó ở trên trời rơi xuống ấy ! Mọi thứ đều xa lạ với nó, nó chợt thấy mình hụt hẵn, dường như nơi đây không thuộc về nó. Nó chỉ ước ao, có cánh để ngay lập tức bay về nhà. Nó còn nhỏ và hãy con dại lắm ! Cái suy nghĩ vô thức của nó vô tình làm cho nó trở thành một kẻ không quê hương, không nguộn cội. Nó nghĩ, nó hạnh phúc hơn khi sống ở giữa lòng người Kinh, nhưng nó quên mất rằng, nó là Chăm, từ bỏ Chăm chính là từ bỏ gốc tích của chính nó. Rốt cuộc, nó không thuộc về « thế giới » nào cả, « thế giới » mà nó đang sống, đang hạnh phúc chỉ là « thế giới » tạm, ở đó nó chỉ là một kẻ ngoại lai; « thế giới » Chăm mà nó lãng quên lại chính là cội nguồn, gốc tích của nó, nó tưởng, nó thuộc về bên này, nhưng nó lại thuộc bên kia và rốt cuộc nó không thuộc về bên nào cả, tự nó đã lạc lõng giữa hai « thế giới ». Thomas. L. Priedman viết “…Một mình, bạn có thể là người giàu có. Một mình, bạn có thể là nhà thông thái. Nhưng bạn không bao giờ là người hoàn chỉnh nếu đứng một mình. Bạn phải là người có cội nguồn” với cái suy nghĩ đó nó là một con người không hoàn chỉnh, là một kẻ không có cội nguồn. Năm lên mười, cha, mẹ đưa nó về quê và ở đó suốt ba tháng hè. Nó không thể ngờ rằng, chuyến đi này, sẽ tao ra những đổi thay từ từ, trong tâm hồn của nó. Tại đây, lần đầu tiên, nó tiếp xúc với những đứa trẻ cùng trang lứa, và quan trọng hơn cùng giống nòi với nó. Nó vẫn còn nhớ như in những buổi sáng thức giấc, nó cùng lũ bạn rong ruỗi khắp xóm làng, đến chiều về lại chơi đùa với nhau ở sân nhà, hay trên những cánh đồng quê xa xăm, bát ngát, nó đã vui, đã cười, cho dù rất mệt. Nó còn nhớ cả những lần chúng nó rủ nhau đi hái trộm soài, ổi để ăn…những điều đó, chưa bao giờ nó được trải nghiệm. Đêm đến, dưới ánh trăng, trong tiếng gió âm vang của đất trờ xứ sở, nó ngồi bên cạnh lũ bạn, nghe người già kể chuyện đời xưa, bên tách trà nóng, bên ngọn lửa hồng, giọng cụ già mới vang vọng và truyền cảm làm sao? Ông ngâm cho chúng nó nghe những dòng ariya trữ tình, kể cho chúng nó những sakarai thần thoại, những dâmnay cổ tích, cụ già ngâm: “Glơng anak linyaiy likuk jang oh hu,  bhian drep ngap ralo, pieh hapak khin ka thraong…” (Ariya Glơng Anak). Vốn từ Chăm của nó, không cho phép nó hiểu hết toàn văn, nhưng nó vẫn nắm được những nội dung cốt lõi, và không biết, từ khi nào, những ariya, sakarai, dâmnay đưa nó chìm dần vào giất ngủ, với những giất mơ về mảnh đất và con người nơi đây… Nó, lại nhớ cái lần cùng lũ bạn lên tháp Po Kloang Girai cổ kính, trong dịp lê Kate. Tháp thiên đứng đó, uy nghi và bí ẩn, từ trên đỉnh Chà Bang nhìn xuống, cả một dải giang sang gấm vóc tươi đẹp trước cặp mắt long lanh của nó. Nó nhìn khắp bốn hướng, kia cả một vùng biển xanh ngắt, sóng vỗ quanh năm, đây đập Nha Trinh hiện lên như một hồ nước nhân tạo tuyệt đẹp giữa lòng đất mẹ, kia núi Cà Đú chợt hiện lên đen ngắt giữa một vùng trời xanh thẳm… nó cảm nhận được cái nắng, cái gió của quê hương. Nó cảm nhận được cái linh thiên của không khí lễ hội, mà lần đầu tiên nó được chứng kiến, vị tăng lữ đốt lên nén hương trầm, làn khói bay nghi ngút, người ta tắm cho thần bằng nước thiêng, xông cho thần bằng ngọn lửa thiên, mặc áo cho thần rồi đọc những lời kinh mời gọi các vị  thần về chứng dám, cầu cho quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, những nghệ nhân biểu diễn saranung, kanhi, ginang, baranưng, các cô gái Chăm, trong bộ áo dài truyền thống, dịu dàng và thước tha theo điệu múa quạt, dòng người tấp nập chen nhau đi xem lễ…Cái không khí đó, cái không khí mà nó được đấm mình vào, rộn ràng và nhộn nhịp làm sao? Từ những trải nghiệm ấy, nó thấy hết được cái tình cảm mà mọi người giành cho nó, dân quê Chăm nghèo khó thiệt đấy! Một nắng hai xương, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời thật đấy! Nhưng cũng dạt dào tình nghĩa, thấm đượm tình quê thật đấy! Từng câu truyện, từng con người mà nó đã chứng kiến trong thời gian đó đều khắc ghi vào trong tâm hồn bé nhỏ của nó, bên trong những suy nghĩ, nhận thức của nó, dường như đang có những đổi thay lạ kỳ, mà chính bản thân nó cũng chả nhận ra được nữa! Nó cảm thấy nơi này thân thiết biết bao nhiêu? Không biết tự lúc nào, trái tim nó lại trở nên thổn thức với nơi này, nó ý thức rằng nơi đây là nguồn gốc của nó, từ mảnh đất này nó đã ra đời và nơi đây cũng sẽ là nơi cuối cùng nó phải trở về, trong cái kiếp người của nó, bởi vì đây là quê hương, là đất mẹ, là cái “nôi” đã sản sinh ra nó. Năm mười hai, mười ba tuổi, những bản dân ca, những bài hát về quê hương, xứ sở (mà cha vẫn thường hay nghe) lại làm cho tâm hồn nó xao động lạ kỳ. Nó, như thả hồn theo từng điệu nhạc và tưởng tượng về những hình ảnh nên thơ, đầy tình cảm, thấm đượm hồn dân tộc: “một giếng nước mát trong bên một cây bàng”,  “Nắng lên trên đỉnh tháp thiên, đàn chim Chrao tung cánh trời cao”, Hay “bên tháp Po Gloang Girai điệu chồng em múa say đắm tình cô gái Chăm” (A Mư Nhân), rồi cái hình ảnh của một cô gái Chăm e ấp nhắn gửi đến người yêu “mai rawang plei adei hơi xaai, choi boah mada ploah wan chôi xa ai” (Đàng Năng Qụa). Từ bài “Kaik tian ka anưk nao bac”, nó lại thương cho những bà mẹ Chăm tảo tần, cực khổ đi “mót” từng hạt thóc cho những đứa con của bà được đi học, nghĩ đến đây, nó lại không cầm được nước mắt… Nó đã nghe, nghe đi nghe lại, nghe như thuộc lòng từng câu hát, nhưng cứ mỗi lần nghe lại, những liên tưởng xa xăm về những hình ảnh thân thương của cái plei Chăm nghèo của nó, lại chợt hiện về trong tâm tưởng: đây những cánh đồng bát ngát xa xăm nhìn lên tháp cổ, những cô thôn nữ dịu dàng trong xóm ấp, những đôi trai gái mặn nồng tình tứ bên nhau hằng đêm, những bà mẹ Chăm lam lũ một đời…Những hình ảnh từ trong những lời hát, vần thơ, chợt hiện ra miên man trong tâm trí nó, những hình ảnh ấy, tự bao giờ, đã in hằng trong suy nghĩ nó, khiến cho nó lưu luyến mãi không thôi! Năm mươi lăm, mười sáu tuổi, tìm trong tủ sách của cha những cuốn sách về lịch sử Champa, nó bắt đầu đọc, đọc như mê, như dại, không rời một bước, nó đọc và như thả hồn vào từng trong viết, cái lịch sử của dân tộc này dường như có một ma lực, kéo nó vào sâu trong đó. Nó, chợt suy tưởng ra cả một vương quốc, cái vương quốc trong suy ngẫm của nó, một vương quốc với những đền tháp hùng vĩ và linh thiêng, nơi nhà vua, giới tăng lữ đến cầu nguyện thần Siva, dâng lễ cho thần…với những lầu cát, cung điện nguy nga, nơi đón chào đoàn tượng binh hay thủy binh của Chế Bồng Nga trở về mừng chiến thắng, nơi hằng đêm “những cung nữ dâng lên những khúc ca về Chàm”, nơi “vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà”. Vương quốc Champa trong suy nghĩ nó, là những đoàn quân đã biết bao lần đánh đuổi kẻ thù, những đoàn thủy thủ xa xăm đắm mình trong biển khơi dữ dội, những nghệ nhân bật thầy của nghệ thuật điêu khắc ngày ngày làm việc cần mẫn, sáng tạo ra những tác phẩm tuyệt vời, hay những vũ nữ apsara múa những điệu mê đắm, đưa con người thoát khỏi trằm luân, nghĩ về cái cõi vô thường nào đó?…Vương quốc Champa, như ru hồn nó, từ đó, nó lại rất đỗi tự hào về cái tổ quốc xưa cũ ấy, cái dân tộc thân yêu ấy! Năm mười bảy tuổi, nó đọc Điêu Tàn, cũng cái năm mười bảy tuổi ấy, Chế Lan Viên của chúng ta đã viết tập thơ này. Nó, nhìn thấy những cảnh tượng tan hoang và đổ nát của những cung điện, đền đài, nó thấy “Thành Đồ Bàn cũng không thôi nức nở”, “những đền xưa đổ nát dười thời gian”, hay “những tượng Chàm le lói rỉ rên than”, “những ma Hời sờ soạng dắt nhau đi”…Những cảnh tượng huy hoàng trong cái vương quốc trong suy nghĩ của nó trước đây, nay chỉ còn thế này thôi sao? Nó cảm thấy tiếc thương cho vương quốc đó, tiếc rẻ cho những “cảnh tượng huy hoàng trong Chiêm quốc”. Nó buồn thương cho những đền tháp đổ nát, hoang vắng giữa vòm trời u ám, đang hằng ngày đối mặt với sự hủy hoại của con người và thiên nhiên. Nó buồn thương cho những lầu cát, những thành trì nằm sâu dưới lớp bụi đất của thời gian, nó buồn thương cho những bóng ma “Hời” vẫn hiện hữu đâu đó, kêu lên những tiếng ai oán bên những dòng sông, những ngọn núi, khóc thảm thiết, rên la một cách ma quái quanh những đền tháp, thành trì một thời huy hoàng tráng lệ. Với nó, cái  cảnh tượng tan hoang, u ám của những đền đài, những bóng ma ấy cứ “tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi”. Nó ước (ước chỉ để mà ước thôi!): “Ngày mai đây xuân về nơi Chiêm quốc, nước non Chàm vang dạy tiếng vui ca”… Nó nghẹn ngào trong những dòng suy nghĩ và cảm thấy lòng se thắt lại. Nó chợt nhận ra, nó và tất cả những đồng bào của nó, chỉ là những người mất nước. Hai mươi tuổi, cái tuổi đời của nó hãy còn quá trẻ, nhìn lại những năm tháng đã đi qua, hai mươi năm quá là dài đối với nó. Trong suy nghĩ, trong nhận thức của nó đã thay đổi đến biết bao nhiêu lần, nó chợt nhận ra đâu là cội nguồn, đâu là xứ sở. Nó là Chăm, nó yêu Chăm và yêu cả cái nước Champa cổ xưa của nó nữa, tình yêu của nó xuất phát từng tình yêu những thứ đơn giản nhất như yêu cái rêu phong, cổ kính và hoang tàn của những ngôi tháp, yêu hình ảnh của những chuỗi ngày rong chơi trong xóm thôn quen thuộc, yêu hình ảnh nhộn nhịp của xóm làng mùa gạt hái, yêu hình ảnh những người nông dân hăng say đang gặt dưới những cánh đồng chín mộng, những phụ nữ đội lu đi lấy nước, những đứa trẻ nô đùa trên đường làng, yêu hình ảnh những cụ ông hằng đêm ngâm ariya, những cụ bà têm trầu rồi bỏ vào miệng nhai móm mém, yêu hình ảnh những cô gái Chăm duyên dáng yêu kiều bên khung cửi, với nụ cười có thể làm xao xuyến bất kỳ kẻ lữ khách nào từng thấy qua, những cặp nam nữ ê ấp nghẹn ngùng bên nhau dưới ánh trăng mờ mờ ảo ảo. Nó yêu món canh môn với rau rừng bà thường hay nấu cho chúng nó ăn, cái mùi mấm nêm, mắm đồng vừa cay, vừa nồng đậm tình xứ sở… Nó yêu cái hình ảnh làng Chăm vào mùa lễ hội, cái không khí náo nức vào những dịp Ramưwan, cái tấp nập của dòng người đi tảo mộ (nao ghur), cái rộn ràng của không khí nấu bánh tét, bánh ít, làm mâm cươm chuẩn bị cúng gia tiên (ew mukei), rồi đêm đến, khi thánh đường mở cửa, những tu sĩ dâng tiếng kinh cầu, những người già đứng bên trong sân lễ, những cô gái trẻ mặc áo dài đội mâm cổ, những thanh niên đứng cạnh nhau bên góc thánh đường, tất cả dường như hòa mình vào cái không khí lễ hội của quê hương, dân tộc…Những hình ảnh ấy, mới đẹp làm sao? Những hình ảnh ấy, tưởng chừng như giản đơn, nhưng tự bản thân nó đã tạo nên cái hồn túy của dân tộc này, xứ sở này, để rồi mỗi người con Chăm khi xa quê lại luôn luôn lưu luyến, mong chờ. Chính những hình ảnh đó, làm cho nó thấy yêu Chăm hơn, thấy nó tự hào về Chăm hơn, nó cảm ơn dân tộc này đã sinh ra nó, cảm ơn cha mẹ đã sinh ra nó, dạy cho nó biết: nó là Chăm! Nó tự nhủ, không bao giờ được quên bên trong cơ thể nó chảy một dòng máu Chăm. Dù mai đây nó có ở những nơi như Sài Gòn, Hà Nội, Kuala Lumpua, Paris…hay bất kỳ nơi nào khác nữa? Dù những nơi ấy có xa hoa, tráng lệ, văn minh đến đâu đi chăng nữa? Cũng không bao giờ sánh bằng quê hương Panduranga của nó.  Không biết tự bao giờ? Nó lại yêu cái mảnh đất khô cằn, đầy nắng và gió ấy! Phải chăng? Tình yêu ấy xuất phát từ sự thân thương mà những con người ở nơi đây giành cho nó, hay những trải nghiệm mà nó đã đi qua, đã chứng kiến trong suốt thời ấu thơ của mình. Phải chăng? Ở nơi đây, mọi hình ảnh, mọi kỷ niệm, mọi con người đều khắc ghi vào tận trong tâm khảm nó, nơi đây là cội nguồn của nó, nơi “chôn rau cắt rốn”, nơi có mồ mả ông bà nó, nơi cha, mẹ nó đã sinh ra và lớn lên. Và rồi cũng ở nơi đây nó có một chốn để đi về, mai đây khi về với cát bụi nó sẽ nằm xuống mảnh đất này, mãi mãi. Nó tự nhủ với lòng rằng: nó là Chăm, nó không có gì phải xấu hỗ như trước nữa, nó nghĩ cái vương quốc Champa của nó, rất đáng tự hào chứ nhĩ! Vương quốc này dù chỉ còn quá khứ, nhưng đã để lại nhiều di sản văn minh vĩ đại, dân tộc Chăm của nó cũng vậy, dân tộc đó có một nền văn hóa rực rỡ. Nó sẽ tự hào nói với người Kinh, nó là Chăm, nó sẽ nói với họ về lịch sử dân tộc nó, văn hóa dân tộc nó. Nó tự hào với những người Chăm rằng, nó biết nói tiếng Chăm sau họ, nhưng nó yêu Chăm không kém gì họ, hôm nay nó đã học được Ka, kha, ga, gha, ngư, nga…ngày mai nó sẽ ngâm ariya cho họ nghe: “Ni ariya sa-ai ngap, panưh ba tabiak, pieh ka ra peng…” (Ariya Cam – Bini).  Nó tự nhủ, nó là Chăm, nó phải có trách nhiệm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa – văn minh của dân tộc nó. Nó ý thức sâu sắc rằng: Nó và đồng bào nó là những kẻ vong quốc, nhưng không bao giờ chấp nhận vong thân. Còn các bạn thì sao?                                                                              JASHAKLIKEI                                                                   Sài Gòn, tháng 3, năm 2014.
0 Rating 342 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On November 9, 2014
1CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAYTác giả: Lựu Hoàng Điệp (Người dân tộc Chăm).Email: luuhoangdiep92@gmail.com2Chămpa hay Chiêm Thành là một vương quốc cổ ở miền trung Việt Nam. Chămpagồm 4 tiểu vương quốc, theo thứ tự từ bắc xuống nam là: Amaravati, Vijaya, Kautharavà Panduranga. Indrapura (đô thị sấm sét) là một đô thị thuộc xứ Amaravati, đây cũnglà kinh đô Chămpa từ năm 875 đến năm 982. Ở nơi đây từng tồn tại phật viện ĐồngDương lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.Năm 982, Indrapura bị tàn phá, người Chăm phải dời đô về phía nam. Kinh đô mới cótên là Vijaya, thuộc địa khu cùng tên Vijaya. Khathay là nhân vật sống trong thời kỳloạn lạc này.Về cuộc chiến tranh giữa Chămpa và Đại Cồ Việt năm 982. Đại Việt Sử Ký Toàn Thưcó chép lại như sau:“Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô TửCanh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến thuyềnsửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to.Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người vàmột nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kểhàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”.3CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P1)Xưa kia, ở kinh đô Indrapura của vương quốc Chămpa cổ, có một đôi vợ chồng sinhsống bằng nghề buôn bán nhỏ. Cuộc sống của họ không thể nói là khá giả nhưng cũngkhông thiếu thốn. Hai vợ chồng chỉ sinh được một đứa con trai duy nhất, họ đặt tênđứa con ấy là Khathay, theo tiếng Chăm cổ lúc đó có nghĩa là "ánh sáng".18 năm sau, năm 979 sau công nguyên.Khathay bây giờ đã 18 tuổi. Cậu cùng với cha mẹ sống trong một gia đình yên ấm.Khathay nổi tiếng là người rất thông minh, cậu học rất nhanh và rất ham tìm hiểunhững thứ mới lạ. Cuộc sống yên ấm kéo dài không lâu thì biến cố xảy đến.Năm đó, vua Chămpa là Parameshvaravarman cử binh sang đánh nước Đại Cồ Việt.Khathay đã trưởng thành nên được triều đình huy động làm binh sĩ. Cậu phải vàodoanh trại để rèn luyện. Không lâu sau, Khathay giả từ cha mẹ, họ hàng, quê hương,cậu ra đi cùng với hơn 8 vạn chiến binh khác. Cậu vẫn luôn nhớ tới lời cha dặn trướckhi đi: "hãy trở về với cha mẹ".Năm 979, hạm đội Chămpa hơn tám vạn quân và 1200 chiến thuyền đã theo đườngbiển sang tấn công kinh đô Hoa Lư của Đại Cồ Việt.Ba ngày trôi qua trên biển. Hàng vạn thủy binh Chămpa vẫn tiếp tục khẩn trương tiếnlên trên những chiến thuyền. Tiếng hò vang như sấm của hàng vạn binh sĩ. Trời ngàycàng nhiều mây, gió ngày càng mạnh, sóng ngày càng lớn, những đàn chim khổng lồche kín cả bầu trời, chúng gào thét bay qua trên đầu đoàn quân viễn chinh báo hiểuđiềm chẳng lành.Một cơn bão mạnh đang tràn tới. Tiếng những binh sĩ la hét trong vô vọng. Nhữngchiến thuyền sừng sửng giờ như những khúc gỗ nhỏ bé trên dòng lũ dữ. Những chiếnthuyền lần lược bị cơn bão đánh chìm tan tác. Khathay và đồng đội vẫn còn bám trụtrên những chiếc thuyền, họ đang dùng tất cả những khả năng mình có để chống lại tửthần. Khathay phải bám thật chặt vào một cái cột và phải chứng kiến cảnh nhữngngười lính khác bị sóng cao, gió bão và mưa nặng hạt quật ngã xuống biển mà khôngthể làm gì cho họ. Khathay la lên “Pô Yang lơi, tại sao người lại trừng phạt chúngcon?”. Tiếng cha già vẫn văng vẳng bên tai cậu "hãy trở về với cha mẹ".Sau cơn bão, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã.Gần một ngày sau, những chiến thuyền sống sót cũng trôi dạt vào bờ. Cảnh tượng trênbờ thật khủng khiếp, hàng vạn binh sĩ bị chết đuối, bụng sình lên, bị những con kênhkênh bới móc. Bên cạnh những xác chết là hàng ngàn chiến thuyền đã bị tan nát, hưhỏng trôi dạt vào bờ. Cảnh tưởng hôi thối, chết chóc và hoang tàn ấy trãi dài trên mộtvùng bờ biển.Vừa lên bờ, kiệt sức vì mệt, Khathay cùng hàng vạn đồng đội sống sót khác bị nhữngbinh lính người Việt đón bắt và giải về trại tù binh. Trại có hơn hai vạn tù binh Chămcòn sống sót sau cơn bão, hầu hết họ đều mệt mỏi, đói và khát. Số phận của họ sẽđược định đoạt bởi vua nước Việt. Trong trại tù binh, ngồi nhìn hàng ngàn binh sĩ mệtmỏi, đói khát như những phế nhân. Khathay đang nghĩ ngợi, cậu không ngờ mình vẫncòn sống trên trần thế này."LƯƠNG THỰC", "LƯƠNG THỰC", "LƯƠNG THỰC".Tiếng hô vang của hàng ngàn binh sĩ Chăm. Đã hai ngày trôi qua, trại tù binh hơn 24vạn người được cung cấp lương thực một cách vô cùng thiếu thốn. Đã có gần trăm tùbinh chết đói. Cứ tình hình này thì tất cả các tù binh sẽ bị chết đói hết.Ngày thứ ba trong trại tù binh, thêm nhiều người chết đói, xô xác đã xảy ra giữa tùbinh và binh sĩ Việt.Ngày thứ tư, trại tù đã sắp hỗn loạn, lại xảy ra xung đột giữa binh lính và tù binh. Máuđã đổ, hàng chục binh lính và tù binh đã bị giết chết.Ngày thứ năm, lính Việt bắt hàng trăm tù binh chém đầu. Nhưng tình hình vẫn khôngđược cải thiện. Trại tù đã quá hỗn loạn, sắp xảy ra cuộc huyết chiến. Thấy sắp khôngthể kiểm soát được tình hình, viên quan canh giữ trại tù đã cử người lên Hoa Lư thôngbáo tình hình cho triều đình định đoạt.[Hoa Lư-kinh đô Đại Cồ Việt-cuối năm 979].Vua của nước Việt bấy giờ là Đinh Toàn mới 6 tuổi, quyền lực thực tế nằm trong taythập đạo tướng quân Lê Hoàn là nhiếp chính. Nước Việt mới trải qua cơn bão, lươngthực đang thiếu thốn. Lê Hoàn nổi tiếng là một người máu lạnh và dứt khoát. Sau khinhận được tin báo từ trại tù binh, ông ra lệnh:-chúng ta không có đủ lương thực cho bọn xâm lược, nhưng nếu thả chúng về nước sẽlà một mối hoạ cho nước ta sau này, hãy giết sạch bọn chúng, thực hiện việc này trướcsáng ngày mai.Triều đình Hoa Lư điều quân đến trại tù để thực hiện cuộc tắm máu. Nhưng ngay đêmhôm đó, tù binh đã nổi loạn. Gần 2 vạn tù binh liều chết phá trại, họ chiến đấu liềulĩnh, máu đã đổ rất nhiều. Cuối cùng, do vượt trội về số lượng, họ đã làm chủ đượctrại, cướp được nhiều vũ khí và lương thực. Nhận được tin quân Việt sắp tới, họnhanh chóng chạy xuống phía nam, họ chạy không ngoảnh mặt lại, sau được gần mộtngày đêm thì quân Việt đuổi kịp.Khathay cùng khoảng 3000 binh sĩ Chăm còn khoẻ mạnh đã tình nguyện cầm vũ khícướp được, họ đi sau cùng đoàn người, và sẽ quyết tử chiến nếu quân Việt đuổi tới.Đoàn người đang chạy qua một cây cầu bắt qua một con sông lớn nước chạy siết, đãrất gần biên giới Chămpa. Đoàn người qua được sắp hết thì hình như mặt đất đang hơirung rung nhè nhẹ. Khathay áp tai xuống sát đất nge. Đó là tiếng vó ngựa, tiếng bướcchân của hàng vạn binh sĩ. Khathay hô lên "QUÂN VIỆT ĐẾN RỒI". Cũng vừa kịpđoàn người đã qua cầu hết.Từ xa xa đã nghe thấy tiếng ngựa hí, đã thấy cờ hiệu màu vàng, là cờ hiệu quân Việt.Mọi người dùng hết sức, mọi cách để có thể phá sập cầu, nhưng cầu quá vững chắc,không thể phá sập ngay được. Khathay cùng khoảng 3000 quân Chăm quyết định ở lạibên này cầu chiến đấu nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Việt và tạo thời gian chonhững người bên kia phá cầu.Quân Việt tiến đến cách quân Chăm một đoạn thì dừng lại, chuẩn bị cho cuộc giáp lácà. Hai vạn quân Việt binh phục đỏ-vàng, cờ hiệu vàng; và 3000 quân Chăm binhphục trắng-đen, cờ hiệu trắng. Trên một cây cầu hẹp thì số lượng trở nên vô nghĩa. Đólà một buổi chiều năm 979, mây đen phủ bầu trời như sắp mưa, tiếng những con kênhkênh đang bay lượn qua lại chuẩn bị cho bửa tiệc sắp sửa. Gió thổi ớn lạnh như cómùi tanh trong đó, Mây đen kéo đến nhiều hơn, và mưa đã bắt đầu trút.5Những hạt mưa đầu tiên vừa chạm đất. Tướng quân Việt hạ lệnh tấn công. QuânChăm quyết tử chiến, mũi giáo 2 bên đã bắt đầu chạm nhau, sắc đỏ đã chạm sắc trắng.Tiếng chém xoàn xoạt, tiếng đao kiếm chạm nhau ben ben, tiếng những con ngựachiến bị chém ngã quị xuống, tiếng la hét từ giả cõi đời của những binh sĩ, nhữngdòng máu bay tung toé hoà với những giọt mưa đang rơi, những cái đầu lăn lóc,những thân xác bị chém đứt không được vẹn toàn. Khathay cùng các binh sĩ Chămchiến đấu liều mình, do cây cầu hẹp nên quân Việt dù đông hơn vẫn không thể vượtqua. Sau một hồi giao chiến, tướng Việt bèn hạ lệnh lui quân.Một lúc sau, cung thủ Đại Cồ Việt tới, hàng ngàn cung thủ bắn những đợt cung tênhướng vào quân Chămpa. Hàng vạn mũi tên bay như những đàn châu chấu khổng lồgăm vào binh sĩ Chăm, quân Chăm bị trúng tên, chết gối lên nhau. Khathay bị trúngtên ở cánh tay, trong lúc hoang mang cậu bị đẩy rớt xuống cầu.Khathay đang rơi, chàng vẫn kịp nhìn thấy các đồng đội còn lại bị mũi tên xuyên thân,đâu đó vẫn văng vẳng tiếng la ó, nhìn những hạt mưa rơi theo như xen lẫn những giọtmáu đỏ.6CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P2)Ngay sau khi đã tiêu diệt quân Chăm, quân Việt liền tràn qua cầu. Qua được một nữathì cầu bị sập, người ngựa đều rơi xuống sông. Không thể qua sông nên quân Việtphải lui về. Mười mấy ngàn người Chăm nhờ thế mà có thể bình an trở về quê hương.Lại nói đến Khathay, sau khi rơi xuống nước thì bị cuốn theo dòng nước. Nhìn thấycầu bị sập, có nhiều khúc gỗ lớn nổi trên mặt nước. Chàng dùng tất cả sức lực còn lạicủa mình bơi ngược dòng bám chặt lấy một khúc gỗ lớn. Nhờ vậy mà chàng sống sót.Một lát sau, khúc gỗ trôi qua bên kia sông. Khathay lên bờ sông, người mệt lã lại bịthương, chàng ngủ thiếp luôn trên bãi cát trắng. Màng đêm buông xuống, có một ônglão tốt bụng đi ngang qua, thấy có người bị thương đang nằm trên bãi cát thì tiến đếngần kêu dậy:-Cậu ơi! Dậy đi, cậu ơi!Khathay vì mất nhiều máu nên đã bất tỉnh, thấy vậy ông lão bèn cõng chàng về cănnhà của ông lão gần đó để chữa trị.Chàng tỉnh dậy, thấy vết thương trên cánh tay đã được băng bó cận thận. Đang đói,thấy bát cháo trước mặt nên chàng liền húp sạch cháo. Ăn xong bát cháo, chàng cảmthấy mình đã khỏe lại nhiều. Một lát sau thì một bà lão bước vô nhà. Bà nhìn chàngmột lúc rồi hỏi:-Cậu tỉnh rồi à, cậu thấy trong người khỏe hơn chưa?Không hiểu tiếng Việt nên Khathay không biết phải nói gì. Bà lão nói tiếp bằng tiếngChăm.Bà lão: Cậu làm sao mà bị thương vậy?Khathay: Tôi, tôi bị tên bắn. Sao bà lại nói được tiếng Chăm?Bà lão: Tôi vốn là người Chăm, qua đây sinh sống đã lâu.Gặp được đồng hương thì Khathay vô cùng mừng rỡ. Chàng quì xuống nắm lấy tay bàlão:-Cảm ơn lão nhiều lắm! không có lão thì chắc tôi chết nơi đây rồi!Hai ông bà lão ấy sống với nhau trong một căn nhà tranh ven sông. Lúc trước vì bàlão bị vu oan là phù thủy nên phải lánh nạn qua đây sống, tuy sống ở đất người, nhưnghai lão vẫn ngày đêm nhớ về quê hương, nhớ về đứa cháu gái vẫn còn đang ở cốhương. Gặp được người đồng hương bị nạn, hai ông bà ra sức giúp đỡ.Khathay ở căn nhà đó dưỡng thương được ba ngày thì đã khỏe hẵn lại. Hai ông bà lãocung cấp cho chàng lương khô và ngân lượng để chàng có thể trở về quê hương.Khathay: Nay con phải trở về, ân tình này của hai lão, con nguyện ghi nhớ suốt đời!Ông lão: Ừ, thì đã đến lúc con phải về. Khi đã qua nơi ấy, ta có một việc muốn congiúp đỡ.Khathay: Hai lão cứ nói, bằng bất cứ giá nào con cũng sẽ giúp.Bà lão lấy ra một cái khăn trắng, hoa văn màu đỏ đưa cho Khathay rồi nói:-Con hãy tìm đến Plây Căm (Làng Căm), xứ Amaravati. Ở nơi đó có cháu gái ta tên làSasa. Hãy đưa cái khăn này cho nó, nói rằng ông bà ở quê người vẫn bình yên!Khathay: Vâng, con nhất định sẽ trao chiếc khăn này cho Sasa. Nhất định!Nói rồi, Khathay vĩnh biệt hai ông bà lão rồi ra đi.7Ba ngày sau, Khathay đã qua địa phận Chămpa, khi đang đi ngang qua một khúc sôngthì thấy có một cô gái nhảy xuống sông tự vẫn. Không kịp nghĩ nhiều, Khathay liềnnhảy xuống sông vớt cô ấy lên. Cô ta vẫn còn sống. Được vớt lên, cô gái trừng trừngnhìn Khathay. Tưởng cô gái giận mình, Khathay phân minh:-Tôi, tôi biết là cô muốn chết, nhưng tôi không thể thấy chết mà không cứu.Cô gái ấy lại trừng trừng nhìn Khathay hơn nữa nhưng lại không nói gì.Khathay nói tiếp: Cô tên gì? Cô còn trẻ, sao lại muốn chết chứ?Cô gái: Tôi tên Garê. Hồi nãy tôi còn muốn chết, nhưng giờ thì tôi lại rất muốn sống.Cũng nhờ anh, nếu không thì tôi chết vì quyết định dại dột của mình rồi, cảm ơn anh!Khathay cười rồi nói: Không có gì, thấy sự như vậy, giúp được thì giúp thôi.Garê: Nay, anh theo tôi về làng tôi nhé, nhờ anh mà tôi vẫn còn sống. Tôi phải báođáp anh.Khathay: Ôi không, tôi còn phải về, nhà tôi xa lắm. Ơn này, cô không cần phải báođáp đâu.Garê: Không! Anh nhất định phải về với tôi, nếu anh không về với tôi, tôi sẽ lại nhảyxuống con sông này. Coi như anh tốn công cứu người vô ích.Thế là Khathay phải cùng Garê về làng của cô ấy. Làng của Garê tên là Plây Cang,một ngôi làng ven biển chuyên đánh bắt cá và buôn bán. Ngôi làng ấy ở phía bắc xứAmaravati, nơi giáp ranh giữa Đại Cồ Việc và Chămpa . Garê năm nay 16 tuổi, Garêcó một người cha giàu có. Ông ấy tên là Khang, vợ ông Khang mất sớm chỉ để lại mộtđứa con gái nên ông rất quí đứa con gái ấy. Garê vốn bướng bỉnh, cô ta đi chơi thâuđêm mới về nhà, bị cha đánh rất đau. Nhất thời nóng giận nên muốn tự vẫn. Ở PlâyCang, Khathay được cha của Garê đối xử rất hậu. Chàng thật thà, lại khôi ngô, khỏemạnh nên rất được Garê yêu quí. Tối hôm đó, trời trăng thanh gió mát, chỉ hai người ởbên ngọn lửa dưới gốc cây. Garê tựa đầu vào vai Khathay.Garê: Ai nhu lơi! (Chàng ơi!)Khathay: Chàng đây!Garê: Em yêu chàng nhiều lắm!Khathay: Chàng cũng yêu em nhiều lắm!Garê: Trời hôm nay mát lắm, trăng đêm nay đẹp lắm. Dưới gốc cây này, bên ngọn lửanày. Ta nguyện sẽ yêu nhau mãi nhé chàng!Khathay: Ừm, Ta sẽ mãi mãi yêu nhau, bên nhau suốt đời!…Lúc đó, ở Plây Cang có một con hổ thường đi quanh làng bắt người ăn thịt. Ngày thìcon hổ ở yên trong rừng gần đó để tránh thanh niên làng đi lùng bắt. Đêm về thì hổ điquanh làng, thấy ai thì hổ vồ ăn thịt. Dân làng rất khiếp sợ, dân làng quen đi biển,không biết đi rừng nên khó mà bắt được hổ. Nhiều người trong làng bị ăn thịt,Khathay thấy vậy thương lắm, cảnh tượng đau xót lắm. Chàng quyết định vào rừngmột mình trong đêm tối để giết cho được hổ, mặc cho ông Khang và Garê ngăn cản.8CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P3)Khathay tạm biệt ông Khang, Garê và dân làng Plây Cang. Chàng mang theo gươm,cung tên rồi vào rừng một mình. Nhiều trai làng khác muốn cùng đi với chàng, nhưngKhathay từ chối, sợ đi nhiều người sẽ làm kinh động hổ, khó mà giết được nó.Khathay bước đi, chàng bước từng bước nhẹ nhàng nhưng vững chắc, phong thái củamột binh sĩ già dặn. Chàng băng qua đồng cỏ tiến tới khu rừng. Vầng trăng sáng chiếulối chàng đi. Tới gần khu rừng, Khathay trèo lên một cái cây cao cho dễ quan sát. Đợicon hổ đi ra khỏi khu rừng sẽ dùng cung tên mà bắn nó. Gần nữa đêm thì hổ xuấthiện. Trái với tưởng tượng của Khathay, đây không phải là một con hổ to lớn đầy sứcmạnh mà chỉ là một con hổ gầy gò, đói khát và còn bị thương tật ở sau chân trái. Conhổ đang bước đi những bước mệt mỏi. Không còn nhiều thời gian để suy nghĩ,Khathay dùng cung tên bắn liền liên tiếp ba mũi tên. Một mũi tên trúng ngay môngphải con vật. Con vật gầm lên đau đớn rồi quay đầu chạy vào rừng. Khathay nhanhchóng lao xuống cây đuổi theo con vật. Tuy con vật đã chạy mất hút vào sâu trongrừng nhưng vẫn còn vết máu nó để lại trên đường chạy. Ánh trăng rất sáng giúpKhathay có thể lần theo vết máu mà tìm ra nơi ẩn náo của hổ. Chàng cứ theo vết máu,băng qua cánh rừng đầy thú dữ và trùng độc. Một hồi sau, chàng cũng tìm được nơi ấnnáo của nó. Đó là một cái hang đá nhỏ. Ánh trăng rọi vào trong hang giúp chàng cóthể quan sát bên trong. Ẩn nấp bên ngoài hang, chàng thấy trong đó không chỉ có mộtcon hổ mà còn có 5 con hổ con. Mỗi con hổ con chỉ nhỏ bằng con mèo. Con hổ mẹ bịthương nằm đó, nhìn kỹ vết thương ở chân trái, Khathay nhận ra đó là vết thương dotên bắn. Chàng ngẫm nghĩ rồi hiểu ra sự tình. Thì ra, con hổ đang nuôi con của nó,chân nó bị con người bắn bị thương nên nó không thể săn được các con thú trong rừngđể nuôi con. Nó đã phải đi xa tới tận biển để săn người. Vì người yếu ớt, dễ săn hơn.Thì ra, chính con người đã ám hại nó trước. Có thể nó muốn trả thù con người, hoặccó lẽ nó không còn con đường nào khác là phải săn người.Khathay từ từ bước vào trong hang, con vật gầm gừ cố mọi sức đứng dậy. Khathaycầm thanh gươm lên chuẩn bị kết liễu con vật. Nhưng nhìn năm con hổ bé nhỏ kiachàng lại động lòng, nếu mẹ nó chết thì ai sẽ nuôi chúng? Chưa kịp nghĩ nhiều thì hổmẹ đã dùng tất cả sức lực còn lại của nó bay lên định vồ lấy Khathay. Nhanh như cắt,Khathay dùng thanh gươm đâm xuyên ngay cổ của hổ mẹ. Sau khi giết được hổ.Khathay mang đầu hổ về Plây Cang. Người chàng đầy máu. Dân làng thấy đầu hổ thìvô cùng mừng rỡ. Ai ai cũng kính phục Khathay, chàng được dân làng tặng nhiềuvàng bạc châu báu.Sau khi ở Plây Cang được một thời gian, Khathay xin phép ông Khang trở vềIndrapura để thăm Cha mẹ mình. Chàng hứa sẽ quay về kết hôn với Garê. Đêm trướcngày ra đi, Khathay và Garê đã gặp nhau để tâm sự lần cuối.Garê: Chàng sẽ quay về sớm chứ?Khathay: Vâng, anh hứa anh sẽ quay về thật sớm với em!Garê: Em lo lắm. Em lo chàng sẽ gặp ai đó xinh đẹp hơn em, hiền dịu hơn em, rồichàng sẽ quên mất em.Khathay: Em yêu ơi!Garê: Ơi!Khathay: Ai ních thầy lô lô! (Anh yêu em nhiều lắm!). Anh đã yêu thì anh sẽ chỉ yêumình em thôi, dù được nàng tiên yêu thì anh cũng sẽ từ chối. Anh yêu mình em thôi,em hiểu không?!Garê: Hihi! Em không hiểu! Chàng mà không giữ lời, thì coi chừng em. Em sẽ lùngsục mọi nơi để tìm cho được chàng. Chàng nhớ lấy!9Sáng hôm sau, Khathay rời khỏi Plây Cang. Lần này, chàng đi với một con ngựa. Gầntới phía bắc Indrapura, chàng ghé qua Plây Căm để thực hiện lời hứa với hai ông bàlão đã cứu mình ở nước Việt. Đi tới gần đầu làng thì chàng thấy một bà lão đang gánhmột bó củi, chàng bèn hỏi:Khathay: Bác ơi! Ở đây có ai tên Sasa không?Bà lão suy nghĩ một hồi rồi nói: Có, ở đây chỉ có một người tên là Sasa.Khathay: Vậy bác có biết nhà của Sasa ở đâu không? Bác chỉ cháu với.Bà lão: Ừ. Cháu cứ theo bác.Khathay: Bó củi này để cháu gánh dùm bà!Bà lão: Cảm ơn cháu!Khathay đi theo bà lão vào trong làng. Đi được một đoạn thì đến nhà của Sasa. Đó làmột căn nhà làm bằng bùn đất, tre và rơm. Trước nhà có hai cây dừa tỏa bóng rất mát.Xung quanh nhà là hàng rào chỉ cao ngang ngực người. Bà lão gọi to: Sasa ơi, cóngười tìm con kìa. Sasa bước ra, đó là một thiếu nữ tuổi 17, 18. Sasa mặt bộ áo dàimàu trắng hồng. Trông nàng thật xinh đẹp. Sasa nhìn bà lão rồi nói: Con không quenngười này. Bà lão nghe vậy thì nhìn vào Khathay, chờ lời giải thích.Khathay: Ừ đúng rồi, cô không biết tôi. Chúng ta chưa bao giờ gặp nhau cả.Sasa: Vậy anh tìm tôi làm gì?Khathay: Tôi là binh sĩ, hồi đánh nước Việt vừa rồi, tôi được Ông Bà cô ở bên nướcViệt cứu sống.Sasa: Vậy à, tôi nhớ ông bà lắm! Anh mau mau vào nhà, chúng ta sẽ còn nhiềuchuyện để nói!Tối hôm đó, Khathay, Sasa và bà lão đã nói chuyện với nhau rất nhiều. Khathay đượccho ăn ngon, được cho uống rượu no say. Chàng chìm sâu vào giấc ngủ lúc nào cũngkhông hay, chàng vẫn chưa kịp trao chiếc Khăn cho Sasa. Nửa đêm hôm đó, bỗng cónhiều người cầm đuốc, cầm vũ khí xông vào nhà. Lấy bao bịt đầu chàng lại, lấy dâytrói tay chân chàng lại rồi đưa chàng đi. Sasa và bà lão không hề ngăn cản mà còngiúp cho đám người đó. Thì ra, cô gái mặt áo dài trắng hồng không phải là Sasa.Mười năm trước, ở Plây Căm xảy ra một đại dịch. Rất nhiều dân làng chết thảm.Người ta cho rằng thần linh trừng phạt họ. Họ tế gà, tế dê, tế trâu nhưng bệnh dịchvẫn không dứt. Gia đình của Sasa mới chuyển đến sống ở Plây Căm chưa lâu, gia đìnhchỉ gồm hai ông bà và cháu gái, trước đó họ ở xứ Panduranga. Có người vì mâu thuẫnvới ông bà của Sasa nên đã gài bẫy họ, tố cáo họ là phù thủy, là nguồn bệnh. Đang lúclý trí lu mờ, dân làng kéo nhau đến vây bắt hai ông bà, nhưng vì đã biết trước sự tìnhnên hai ông bà đã trốn sang nước Việt. Lúc đó, Sasa không có ở nhà, vậy là ba ông bàcháu lạc mất nhau. Hai ông bà nghĩ cháu gái còn nhỏ, chắc sẽ không bị hại nên đanglúc khẩn cấp đã cắn răng mà bỏ lại cháu gái ở Plây Căm, đợi sau này sẽ tìm cách cứucháu gái. Nhưng sau khi không tìm thấy hai ông bà lão, dân làng càng nghi ngờ họ làphù thủy. Họ đổ mọi tội lỗi cho Sasa, họ bắt Sasa lại, định thiêu sống để tế thần.Nhưng một số người chính nghĩa trong làng đã ngăn chặn việc làm man rợ này, họ đãgiải thoát cho Sasa. Kể từ đó không ai biết tung tích của Sasa nữa. Và cũng thật trùnghợp, từ đó, dịch bệnh ở Plây Căm cũng chấm dứt.10CÂU CHUYỆN CỦA KHATHAY (P4)Tuy dịch bệnh đã qua đi, nhưng dân làng vẫn tin rằng ông bà của Sasa là phù thủy, vàmột ngày không xa họ sẽ trở lại trả thù dân làng. Dân làng rất sợ hãi bệnh dịch, họ lưutruyền những câu chuyện thêu dệt về hai người, nói rằng hai người có nhiều phép biếnhóa. 10 năm trôi qua, những câu chuyện cứ được kể đi kể lại rồi được thêm bớt chothêm phần ly kỳ. Dần dần người ta tin chắc rằng ông bà của Sasa là phù thủy.Hôm đó, Khathay hỏi một bà lão về Sasa. Điều đó gợi cho bà lão nỗi sợ hãi về dịchbệnh 10 năm trước, về sự trả thù của phù thủy. Để bảo vệ con cháu mình, để bảo vệdân làng mình. Bà lão đã dựng mưu bắt lại Khathay để tra xét cho rõ. Cô gái mặt áotrắng hồng chính là cháu gái của bà lão đó.Sau khi bị bắt, Khathay bị dẫn đến một căn nhà cách xa ngôi làng. Chàng vẫn còn bịcột tay chân lại. Họ nói với Khathay là đã gửi người tới Indrapura để xác minh, nếuKhathay thật sự là binh sĩ thì họ sẽ thả đi.Nửa đêm hôm đó, tiếng ếch kêu, gió lạnh. Bọn người canh gác thấy Khathay đã bị tróichặt chân tay thì chủ quan. Họ uống rượu say, ngủ hết, chẳng còn biết trời đất là gì.Có một cô gái áo đen, tay cầm con dao sắt. Cô ta bình tĩnh bước qua lũ người đangngủ la liệt bên đống lửa. Khathay không biết, chàng vẫn đang ngủ. Cô ta tiến đến gầnKhathay, ánh dao sắt loáng chói vào mặt anh. Cô ấy vỗ vào Khathay rồi gọi nhẹ:-Anh dậy đi, tôi đến để cứu anh. Khathay mở mắt ra, gật đầu tỏ vẻ hiểu. Cô gái lấydao cắt dây trói rồi hai người cùng chạy trốn.Cô gái: Tôi chính là Sasa.Khathay: Cô đây à, trông cô đen đen, không giống như tôi tưởng!Sasa cười rồi nói: Tôi phải phơi nắng, nên đen.Thật ra Sasa vẫn ở quanh Plây Căm. Cô vẫn chờ đợi một ngày nào đó ông bà sẽ đếnvới mình. Cô đổi tên, sống lang thang đây đó. Cô làm đủ mọi việc vất vả, da cô rámnắng, trông cô không được đẹp, nhưng lòng cô trong sạch. Càng ngày cô càng lớn.Trừ chính cô, không còn ai biết cô là Sasa. Nghe tin có người đến tìm mình, cô mừngrỡ vô cùng. Cô tìm đến căn nhà nhốt Khathay, ẩn nấp quanh đó, chờ thời cơ để cứuanh. Đến gần sáng thì hai người cũng đã cách Plây Căm khá xa.Khathay: Đây là chiếc khăn mà ông bà cô đã nhờ tôi gửi cho cô.Sasa: Đúng rồi, hoa văn đỏ này chính là biểu tượng của dòng tộc tôi.Khathay: Chắc cô muốn đư&#
0 Rating 304 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2015
Pieh Khik Phun Pajaih CampaThanh Phu Ba       Anâk Cam drei thei thei jang caong khik phun pajaih Campa deng rai di ngaok dunya ni.       Nagar Campa lihik liwik biak jeh, min muk kei Cam hu caik wek ralo drap ar siam hatuah saong hadom anâk tacaow daok ka-ndaong, calah caluen grep gilaong. Manâng drei nduec nao aia lingiw pa-ndap daok yaong, manâng drei daok wek dalam aia khik peng paga ala sang.       Mâng kal dahlau, hu patao bia pakreng nagar, buel Cam dah danuh pajieng hu ralo drap ar caik rai.      Tel harei ni, buel Cam wer glai, mblung rakak ka palei nagar oh hu urang kaya pan akaok; adat ca-mbat mada harei mada hao karang, po halau janâng o khin ba jalan tuei tapak; akhar tapuk thruw duw ngap ka bhap bini ruw ri, calah tung tian.        Anâk Cam pok mata maong gep, thuak yawa, ké sanâng duah baoh kadha khik phun pajaih. Mayah Cam thau anit bengsa, marat hatai khik phun pajaih Campa nan hu macai jalan pieh ngap. Likau biai sa jalan biak asit min ba marai ligaih makrâ biak praong : Yau panuec bhian ndem "Sap Cam daok, pajaih Cam daok" Sap ndem anâk mânuis drei mai dahlau di hu akhar tapuk. Nyu pagem saong rup ita mâng harei tabiak di awal amaik tel harei tagok suor riga. Tapa sap ndem, khaol ita thau gep, peng gep, ba tung tian anit ranam gep. Khik hu sap ndem Cam nan khik hu pajaih Cam ye. Panuec sinbiai :      1/ Dom mik wa praong thun ngap amaik amâ ba jalan ndem harat sap Cam dalam ma-ngawom drei. Harei harei pahader anâk tacaow ndem sap Cam. Pakep nyu ndem sap urang lingiw dalam sang. Liwik harei jieng tana siam lo.      2/ Kanâ dom mik wa glaong akhar tapuk Cam wak jieng tapuk asit asit  pataow ndem sap Cam mâng akhar latinh pieh ka anâk ranaih mbuen si bac, payua nao grep libik palei Cam tok khik anguei.      3/ Dalam gruk nyaom biai, ngap cheh chai tamia adaoh halar kieng ndem harat sap Cam ka ralo drei peng para-ndap.      Harung wek, pieh khik pajaih Campa deng rai di baoh tanâh ni, Anâk Cam abih drei mâng dalam tel lingiw aia hader ew gep, kaih gep, ba gep ndem sap Cam. Ngak hu yau nan, paran Cam hadah hadai harei hadei. ------------------------------------------------------------***------------------------------------------------------------   pY-H K[` PU# pEjH c.f\ anI` c. Rd] T] T] j) Oc= K[` PU# pEjH c.f\ d-) Er d{ Oq_` dU#y n{..,,ng^ c.f\ l[h[` l[w[` bY` j-H, m[# mU` k] c. hU Ec` w-` rOl Rd$ a^ sY. htWH Os= hOd. anI` tOc_* Od_` kOV=, clH clW-# Rg-$ g[Ol=, mnI~ Rd]VW-! On_ aY l[q[* pV$ Od_` Oy=, mnI~ Rd] Od_` w-` dl. aY K[` p-) pg al s) ,, m) k& dhL-U  hU pOt_ bY pRk-) ng^ ,, bW-& c. dH dnUH pjY-) hU rOl Rd$ a^ Ec` Er,,t-& hr] n{, bW-& c. w-^ EgL, vLU~ rk` k\ pl] ng^ oH hU ur) ky p# aOk_` ,, ad@ cv@ md hr] md Oh_ kr), Of- hl-U jnI~ o K[# b\ jl# tW] tp` ; aK^ tpU` RTU* dU* Q$ k\ B$ b[n{ rU* r{ clH tU~ tY#,,   anI` c. Op` mt Om_) g-$, TW` yw Ok- Sn) dWH Ob_H kD K[` PU# pEjH,,myH c. T-U an[@ b-) S\ mr@ hEt K[` PU# pEjH c.f\ N# hU mEc jl# pY-H Q$,, l[k-U EbY s jl# bY` aS[@ m[# b\ mEr l[EgH mRkI bY` ORp= : y-U pnW-! BY# OV. "S$ c. Od_`, pEjH c. Od_`" S$ OV. anI` mnW[( Rd] Em dhL-U d{ hU aK^ tpU`, zU pg< Os= rU$ i[t m) hr] tbY` d{ aw& aEm` t-& hr] tOg` OsW^ r[g ,,tp S$ OV. OK_& i[t T-U g-$, p-) g-$, b\ tU~ tY# an[@ rn. g-$,,K[` hU S$ V. c. N# K[` hU pEjH c. y|,, pnW-! S[# EbY :1: Od. m[` w ORp= TU# Q$ aEm` amI b\ jl# V. hr@ S$ c. dl. mQ\Ow. Rd], hr] hr] phd-^ anI` tOc_* OV. S$ c.,, pk-$ zU V. S$ ur) l[q[* dl. s), l[w[` hr] jY-) tn sY. Ol,,2: knI Od. m[` w OgL= aK^ tpU` c. w` jY-) tpU` aS[@ aS[@ pOt_* V. S$ c. mI) aK^ lt[# k\ anI` rEnH vW-# s{ b!, pyW On_ Rg-$ l[b[` pl] c. Ot` K[` aqW],,3: dl. RgU` Oz+ EbY, Q$ C-H EC tmY aOd_H hl^ kY-) V. hr@ S$ c. k\ rOl Rd] p-) k\ f\N$,, hrU~ w-`, pY-H K[` pEjH c.f\ d-) Er d{ Ob_H tnIH n{, anI` c. ab[H Rd] m) dl. t-& l[q[* aY hd-^ ew g-$, EkH g-$,  b\ g-$ V. S$ c.,, Q` hU y-U N# pr# c. hdH hEd hr] hd] ,,  
0 Rating 598 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On October 2, 2012
Tạm dịch: Cuộc n3i chuyện giữa Bt ch vꬠ Cục tẩy - sưu tầm B:t ch: Em xin lỗi. Cục tẩy: V c쬡i g? em đ kh죴ng lm g sai cả. B଺t ch: Em xin lỗi v anh bị tổn thương v쬬 em. Bất cứ khi no em đ l࣠m sai, anh lun lun ở đ䴳 để xa bỏ n. Nhưng khi anh tẩy x㳳a những lỗi lầm của em, những sai lầm của em biến mất, anh sẽ phải mất đi một phần của chnh mnh. Anh bị nhỏ dần, v� nhỏ hơn mỗi lần tẩy xa lỗi lầm của em. Cục tẩy: Đ l㳠 sự thật. Nhưng anh thực sự khng bận tm. Em thấy đấy, anh được tạo ra l䢠 để lm điều ny. Anh được tạo ra lࠠ để gip em bất cứ khi no em lꠠm điều g đ sai. Mặc d쳹 anh biết, một ngy no đ࠳, anh sẽ ra đi, v em sẽ thay thế anh bằng một anh chng mới, anh thực sự hạnh ph࠺c với cng việc được giao. V vậy, xin em đừng bận t䬢m. Anh ght nhn thấy em buồn, em y鬪u. ****** Ti thấy cuộc tr chuyện giữa b䲺t ch v cục tẩy rất truyền cảm hứng. C젡c bậc cha mẹ như Cục tẩy (Eraser). V trẻ em l B࠺t ch (Pencil). Cha mẹ lun lu촴n bn cạnh con ci của họ, dꡬu dắt v năng đở, an ủi mỗi khi con ci vắp ngࡣ, buồn phiền hay bị lạc lối trong cuộc sống. Đ4i khi trn khoảng đời của cha mẹ, họ bị tổn thương v tꠠn tạ, gi nua, v ngay khi khuất n࠺i v hy sinh chăm sc cho con. Mặc d쳹 con ci của họ cuối cng sẽ tṬm thấy một người mới (vợ hoặc chồng), nhưng cha mẹ vẫn hạnh phc với những g họ đꬣ lm cho con ci của họ vࡠ họ sẽ lun lun gh䴩t mỗi khi nhn thấy những người thn y좪n sống trong nỗi muộn phiền v lắng lo. Tất cả cuộc đời của ti, tഴi đ Pencil. T㠴i đau khổ khi nhn Eraser l cha mẹ t젴i ngy một gi yếu hơn. Vࠬ ti biết rằng một ngy kia, t䠴i cũng phải qun những điều khng hay v괠 sống với những kỷ niệm m ti đണ từng c trong thời gian qua. Cầu mong cho cục tẩy sống lu hơn v㢠 Bt ch viết những điều tốt đẹp! Cầu mong cho cha mẹ sống lꬢu hơn v con ci sớm được nࡪn người ti ba, để cng t๴ ln vẽ đẹp cho đời, cho người mi đến ng꣠n sau.... ------------------------ The conversation between pencil and eraser Pencil: I'm sorry. Eraser: For what? You didn't do anything wrong. Pencil: I'm sorry because you get hurt because of me. Whenever I made a mistake, you're always there to erase it. But, as you make my mistakes vanish, you lose a part of yourself. You get smaller and smaller each time. Eraser: That's true. But I don't really mind. You see, I was made to do this. I was made to help you whenever you do something wrong. Even though one day, I know I'll be gone and you'll replace me with a new one, I'm actually happy with my assigned job. So please, stop worrying. I hate seeing you sad, dear. ******* I found this conversation between the pencil and the eraser very inspirational. Parents are like the ERASER. And Children are the PENCIL. They are always there for their children, cleaning up their mistakes. Sometimes along the way, they get hurt and become smaller/ older, and eventually pass on. Though their children will eventually find someone new (spouse), but parents are still happy with what they did for their children and will always hate seeing their precious ones worrying or sad. All my life, I've been the PENCIL. And it pains me to see the ERASER that is my parents getting smaller and smaller each day. For I know that one day, all that I'm left with would be eraser shavings and memories of what I used to have. May THE ERASERS live longer and The Pencils write good things!
0 Rating 203 views 3 likes 0 Comments
Read more
Anh thấy hạnh phc khi em bước song song mꠠ khng ni g䳬, nhưng nh mắt thỉnh thoảng lại nhn sang anh,như thể kh᬴ng muốn lạc mất anh.Anh hạnh phc khi em hỏi: anh c mệt kh곴ng?L:c đ d mệt anh vẫn cười rất tươi.Anh thấy hạnh ph㹺c khi em cha tay ra nắm lấy tay anh bứớc đi trn đường쪠Anh hạnh phc khi em gc lại cꡢu chuyện với bạn b chỉ để nhn anhAnh thấy hạnh ph謺c khi em vừa xa anh , chưa đủ l"uđể anh nhớ v đ gọi hỏi: em về tớinh㠠 chưa?Anh thấy hạnh phc khi em d kh깴ng ở gần anhnhưng anh lu4n biết em đang nghĩ về anh !Anh sẽ thấy hạnh phc khi em kh꠴ng bao giờ để anh lo lắng hay buồn v, phải chờ đợi.Anh sẽ thấy hạnh phc khi em lun muốn biết anh đang vui hay buồn v괠 lun lun kh䴴ngqu*n lm những g đଣ ni.Anh Hạnh phc l㺠 khi em đọc đếnđ"y rồi mỉm cười, (^_^) hjhj, khi khun mặt anh bất chợt hiện ln trong đầu...! Anh rất Hạnh ph䪺c được yu em ! nhớ em rất nhiềuTP,HCM Ngy 4/11/ 2012 PHꠚC TRƯỢNG VĂN PHC
0 Rating 167 views 3 likes 0 Comments
Read more
Yu l hai người c꠹ng ăn để cng... bo!!!Y驪u l mặc d anh rất lạnh, nhưng v๬ em cũng lạnh, anh sẵn sng... cởi o khoࡡc nhường cho em (lạnh .. ..i!!!)...Yꡪu l anh lun kiപn nhẫn chờ em, nhưng tại sao muộn thế ny rồi m em vẫn kh࠴ng đến...Phải kin nhẫn, kin nhẫn...Yꪪu l... thực ra anh cũng rất sợ, nhưng v trước mặt em, anh nhất định phải dũng cảm, anh sẽ mଣi mi ở bn bảo vệ em!!!Y㪪u l... mặc d anh thấy em cứ xem ti vi ho๠i , chẳng c thời gian tr� chuyện với anh, nhưng anh sẽ vẫn ngồi bn cạnh v đợi... em!!!Y꠪u l khi anh sẵn sng "sࠠi" mỳ ăn liền, để dnh tiền lm m࠳n ăn ngon cho em... "Ăn cũng nhớ, l m cũng nhớ, thậm ch tro l�n giường... anh cũng nhớ về em"!
0 Rating 191 views 3 likes 0 Comments
Read more
Có rất nhiều cách để giải tỏa nỗi buồn, chỉ là ta có dám mạnh mẽ đối diện hay chỉ trốn tránh sự thật. Thay cho những suy nghĩ tiêu cực muộn phiền, ta có dám ngước lên để tìm cho mình niềm tin yêu vào cuộc sống. Thời gian trôi qua thật nhanh, ta trưởng thành nhiều hơn ta nghĩ. Ta nhận ra nhiều sự thật cuộc đời và cảm nhận cuộc sống ngày càng phong phú hơn.Ta biết, cuộc đời không chỉ đơn thuần là những dải nhung lụa, không chỉ là dòng sông lóng lánh lúc chiều sang, không chỉ là ánh đèn hào hoa, rạng rỡ. Cuộc đời còn là cả một chuỗi những chông gai và thử thách, mà không ít khi con người tưởng chừng như gục ngã. Có sao đâu? Vì đó là hương vị cuộc sống.Ta biết, ta có nhiều những niềm vui. Niềm vui từ gia đình, từ tri kỉ và từ cả những người bạn mà ta chưa từng gặp mặt. Dù là đối diện hàng ngày hay chưa từng chạm mặt, thì tất cả vẫn mang cho ta một niềm động viên không nhỏ. Ta biết, ta có nhiều những cách để ta giải tỏa nỗi buồn. Đọc sách, nghe nhạc hay xem phim có thể là một mình hay là cùng với một ai đó. Có thể là viết ra những nỗi buồn để rồi mong nàng gió vô tình lướt nhẹ, mang đi dùm ta. Ta không cần phải đau đớn, quằn quại trong cái vỏ ốc đơn côi kia, bởi ta xứng đáng được nhận tình yêu thương của mọi người, của cuộc đời.Ta biết, ta có không ít những nỗi buồn. Nhưng nếu là buồn, ta hãy đem nỗi buồn đó hòa tan vào trong bầu khí quyển, có gió, cỏ cây và hơi nước. Đem nỗi buồn cá nhân hòa vào nỗi buồn chung, một chút thôi cho đời thêm hương vị. Hạnh phúc đầu tiên là sự trải lòng. Ta không chỉ có một mình, ta không phải là ta của cô đơn. Ta có thời gian để cảm nhận những khoảng lặng một mình, và biết cảm nhận hạnh phúc với những gì ta đang có.Ta biết. Đôi khi, tình yêu riêng tư  phải là tất cả. Ta từng đọc nhiều câu chuyện, từng xem nhiều bộ phim và nhiều cuốn tiểu thuyết. Ta nhận ra rằng bên cạnh những tình yêu đẹp như mộng như mơ, còn có  ít cặp tình nhân khổ sở vì yêu, có đến được với nhau lại nảy sinh vô cùng điều không thể tưởng. Trên đời này, không gì là toàn vẹn, là hoàn thiện hoàn mỹ. Vậy thì, có gì là không nên nếu ta sống với lý tưởng của riêng ta, và sống để làm đẹp thêm cho cuộc đời này?
0 Rating 207 views 3 likes 0 Comments
Read more
Đời người cần c 5 c: - C㳳 hiểu biết: sống ở đời phải c hiều biết...khn cũng chết, dại cũng chết..cần biết sống....Biết người - biết ta...trăm trận trăm thắng. Biết đi-biết đến...biết tiến -biết lui...biết cho - biết nhận. - C㴳 ci tm - Cᢳ sự nghiệp - C mi nh㡠 - C bạn tri kỷ.
0 Rating 206 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On March 11, 2015
Ariya Hatai Paran Hadas Ka Lok   Thanh Phu Ba Panuec akhan:          Liwik, liwik puec wek ariya Cam, mboh padrut padruai dalam hatai. Sanâng tel ra taha mâng kal déh biak glaong illimo, gleng mboh dahlau ka dom gruk ga-ndi kadha tamuh tagok sa bla di grep bhum palei Cam harei ni. Blaoh di nan panâh jieng Ariya tuer tabiak ka bhap bini thau pieh khik ramik. Hu ralo ariya ndom ka Campa lihik aia, blaoh anâk Cam laik tamâ janâk kho ra-mbah. Ong kei jang oh wer adan yah saong anak tacaow juai ac hatai, marat khik hai drep ar, nâm mâk muk kei.  Dalam kadha ni dahlak likau nâh ba tabiak sa pet (paragraph) ariya “Hatai Paran Hadas Ka Lok” pieh ka mikwa puec yaom blaoh tabur sanâng.  Ariya :              Panâh mâleng di dalam ariya,  Panuec mâng ra taha, Po gru tuek tabiak  Nâm mâk po nabi patrun sarak,  Payua wek khik ngap, adat ca-mbat po nabi.  Dalam tapuk sak karay, sak kawi  Adat ca-mbat Cam Bani, Ahier Awal.  Khik kahria ngap bingun ngan klem,  Juai luai pamâjrem, khik hai ka paran.  Basaih adhia nan gah bimong yang,  Imâm katip gru acar nan gah sang magik.  Po nabi parabha mâng liwik,  Adat ca-mbat mâtuaw mânrik ka dua gru khik anguei.  Juai klak padanan wan juai,  Tadhiai bibiak di ca-mbuai, tana rakun mâng liwik. Pajai Mâli Kraong Panrang ngan Parik, Bani sa baoh sang magik, Cam sa baoh mânraong mânrac. Basaih adhia, Imâm katip gru lac, Agal tapuk khik bac, juai luai pamâjua. Mâng kal dahlau, Cam hu patao bia, Krâh anuec Norapa (king), plek likuk klak paran. Adat ca-mbat mâda thun mâda karang, Cam Bani lihik paran, dom di ndua janâk ra-mbah. Nde phun kayau riya, libuh talah, Taklok agha blaoh libuah, lihik abih jeh angan. O thau ka rai halei wek tabem, Tamuh wek jieng phun, lah than pamâkei   (Daok Wek) ---------***------------ ar[y hEt pr# hd( k Ol` Thanh Phu Ba  l[w[` , l[w[` pW-! w-` ar[y c. , OvH pRdU@ pERdW dl. hEt ; snI~ t-& r th mI~ k& Od-H bY` OgL= ilL[Om , gL-) OvH dhL-U k Od. RgU` gV[ kD tmUH tOg` s bLd{ Rg-$ B.U pl] c. hr] n{ ; ObL_H d{ n# pnIH jY-~ ar[y tW-^ tbY` k B$ b[n{ T-U pY-H K[` rm[` ; hU rOl ar[y OV. k c.p l[h[` aY , ObL_H anI` c. El` tmI jnI` OK rvH ; o) k] j) oH w-^ ad# yH Os= an` tOc_* EjW a! hEt , mr@ K[` Eh Rd-$ a^ , n.I mI` mU` k] ; dl. kD n{ dhL` l[k-U nIH b tbY` s p-@ (paragraph) ar[y “hatai pr# hd( k lok” pY-H k m[`w pW-! Oy+ ObL_H tbU^ snI~ ; ar[y :  pnIH mIl-) d{ dl. ar[y , pnW-! mI~ r th , Op RgU tW-` tbY`  n.I mI` Of- nb{ pRtU# sr` , pyW w-` K[` q$ , ad@ cv@ Of- nb{ ; dl. tpU` s` kr% , s` kw[  ad@ cv@ c. bn[ , ahY-^ aw& ; K[` kRhY q$ b[qU# q# kL< , EjW ElW pmIRj< , K[` Eh k pr# ; bEsH aDY n# gH b[Om~ y) , im.I kt[$ RgU ac^ n# gH s) mg[` ; Op nb{ prB mI~ l[w[` , ad@ cv@ mItW* mIRn[` k dW RgU K[` aqW] ; EjW kL` pdn# w# EjW , tadhiai b[bY` d{ cEvW , tn rkU# mI~ l[w[` ; pEj mIl{ ORk= pRn) q# pr[` , bn[ s Ob_H s) mg[` , c. s Ob_H  mIORn= mIRn! ; bEsH aDY , im.I kt[$ RgU l! , ag& tpU` K[` b! , EjW ElW pmIjW ; mI~ k& dhL-U , c. hU pOt_ bY , RkIH anW-! Onrp ( k{~ ) , pL-` l[kU` kL` pr# ; ad@ cv@ mId TU# mId kr) , c. bn[ l[h[` pr# , Od. d{ VW jnI` rvH ; V- PU# ky-U r[y , l[bUH tlH , tOkL` aG ObL_H l[bWH , l[h[` ab[H j-H aq# ; o T-U k Er hl] w-` tb< , tmUH w-` jY-~ PU# , lH T# pmIk]  ( Od_` w-` )
0 Rating 561 views 3 likes 0 Comments
Read more
GỬI NGƯỜI CON GI ANH YU !HOʀNG PHƯƠNG Trong tm tr, l⭺c no anh cũng chỉ muốn ni với em rằng Hೣy yu anh, em nh”. Em trẻ con, rất nhạy cảm nꩪn hay nghĩ vẩn vơ, khiến anh lo lắng. Bn em, anh muốn mnh thật mạnh mẽ , lꬠ bờ vai vững chắc để em tựa vo. Nhưng … anh chỉ lm được những điều đ࠳ khi c em bn cạnh. V㪬 vậy …. Hy yu anh, em nh㪩! Để khi em khc, em sẽ c một bờ vai để tựa v㳠o. Cảm gic được nhn thấy bờ vai đang rung lᬪn, thổn thức trn vai mnh lꬠm anh thấy mnh mạnh mẽ hơn để c thể an ủi em. E h쳣y lun bn anh để khi th䪠nh cng hay thất bại trn đường đời, người chia sẻ những gi䪢y pht đ với anh chỉ c곳 thể l em. V như thế anh biết mࠬnh khng c đơn. Chỉ cần c䴳 em cng ngồi ngắm hong h頴n ngoi biển, mỗi sớm mai thức dạy được l người đầu tiࠪn em nghĩ đến v l người cuối c࠹ng em nghĩ đến trước khi đi ngủ - như vậy thi l anh thấy m䠬nh hạnh phc rồi.Hy y꣪u anh, em nh!Bn tay em b頩 nhỏ, hay lạnh gi mỗi khi đng về, bᴠn tay anh d khng đủ to, kh鴴ng nắm hết tay em nhưng anh sẽ nắm thật chặt, sẽ mang hơi ấm cho tay em bớt gi rt.Mỗi khi em giận dỗi, anh sẽ được dịp “ trổ t᩠i” lm tr tếu, khiến em mỉm cười. Vಬ em biết khng, những nụ cười của em sẽ xua tan những mệt mỏi v sưởi ấm tr䠡i tim anh mỗi khi lạc nhịp.Hy yu anh, em nh㪩!Để anh biết giữ hẹn sau một lần em giận dỗi. Để tất cả những nỗi lo u trong một ngy sẽ tan biến khi em v⠲ng tay m lấy anh, dịu dng, nhỏ nhẹ: “D䠹 c chuyện g xảy ra em vẫn lu㬴n ở bn anh m, cố l꠪n anh nh”.Để anh được l ch頭nh mnh, v c쬳 những lc anh khng mạnh mẽ, cũng c괳 những khi anh mệt mỏi v muốn bung xuഴi tất cả. Sau những pht giy như vậy. anh lại cꢳ động lực để cố gắng hơn nữa, v em – tnh y쬪u của anh.Để mỗi chiếc l vng rơi trước hiᠪn nh, xoay xoay theo ln gi࠳ nhẹ v dịu dng rơi ngay dưới chࠢn, cũng khiến anh nghĩ đến em v mỉm cười hạnh phc.Vậy, hຣy yu anh, em nh ….
0 Rating 220 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On August 27, 2012
3 bu vật hong tộc Chăm xuất hiện ở Đᠠ Lạt? Dư luận ở L"m Đồng trong những ngy gần đy khࢴng ngớt đồn đại về 3 bu vật hong tộc Chăm đang được một nhᠠ sưu tầm đồ cổ ở Đ Lạt sở hữu. ࠔng Nguyễn Đăng Thanh kể về 3 mn hng độc m㠠 ng đang sở hữu. Người m dư luận nhắc đến l䠠 ng Nguyễn Đăng Thanh, ngụ tại 86 Hong Diệu, TP. Đ䠠 Lạt – hội vin Cu lạc bộ UNESCO Nghiꢪn cứu bảo tồn cổ vật Việt Nam tỉnh Lm Đồng. Đ lⳠ tấm x rng của Vua Chăm, dao lệnh của Vua Chăm vഠ bộ ching arap của hong tộc Chăm. Về tấm xꠠ rng được cho l trang phục của Vua Chăm, 䠴ng Thanh tỏ ra d dặt: “Giới đồ cổ th n謳i vậy. Cn ti, tⴴi chưa khẳng định một cch chắc chắn rằng đ l᳠ tấm x rng của Vua Chăm. Nhưng chắc chắn lഠ n rất qu v㽠 c lin quan đến cộng đồng người Churu ở huyện Đơn Dương, tỉnh L㪢m Đồng – những người từng được hong thn quốc thࢭch của Vua Chăm giao giữ những đồ vật của triều đnh khi chạy ln đ쪢y trong lịch sử xa xưa”. Theo ng Thanh, ng đ䴣 mua lại tấm x rng nഠy từ một người bạn cũng chuyn sưu tầm đồ cổ. Chng t꺴i quan st: Tấm x rᠴng c chiều rộng 95cm v d㠠i 174cm; được dệt bằng lụa tơ tằm, kh mịn v cᠳ trang tr nhiều hoa văn với nhiều mu sắc kh� sặc sỡ. Về bộ ching arap, ng Thanh n괳i rằng cch nay chưa lu, trong một chuyến đi chơi ở Ninh Thuận, ᢴng v tnh gặp được một gia đ䬬nh người Churu ngỏ lời bn bộ ching 12 chiếc m᪠ theo họ ni l “truyền từ đời n㠠y sang đời khc”; l bộ chiᠪng được sử dụng trong cc dịp lễ hội của hong triều Chăm. Qua quan sᠡt, chng ti thấy, bộ chi괪ng ny gồm 12 chiếc ching bằng (kh઴ng c nm), đặt tr㺹ng kht ln nhau từ nhỏ đến lớn. Hiện trong tay �ng Nguyễn Đăng Thanh c hơn 10.000 hiện vật sưu tầm được, trong đ c㳳 rất nhiều hiện vật lin quan đến đời sống v văn h꠳a cc dn tộc ᢭t người, đặc biệt l cc hiện vật của người Chăm vࡠ cc tộc người thiểu số Nam Ty Nguyᢪn. Theo Dn Việt http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/86149/3-bau-vat-hoang-toc-cham-xuat-hien-o-da-lat-.html
0 Rating 322 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On April 16, 2013
Tc Giả: T. N. Tiến Nước Sng Pa vᴠ Cường ĐLa 䠠 Lm sao ti cള thể kể cho cc em biết rằng người Kinh của chng tẴi đang giết chết dn tộc cc em từng ng⡠y từng giờ Amai B’lan Hơn nửa cuộc đời của ti sống trong Thung Lũng Điện Tử (Silicon Valley) tại pha Nam của Vịnh San Francisco. Ở một nơi c䭳 vi chục giống dn sống cạnh bࢪn nhau – v tiếng Anh được dng như ng๴n ngữ chnh – ti dễ c� cảm tưởng mnh l một c젴ng dn quốc tế, cng với niềm x⹡c tn rằng những phương tiện giao thng (v� truyền thng) hiện đại đ khiến cho quả địa cầu nhỏ lại tựa như một ng䣴i lng:a global village Niềm xࠡc tn ny (vừa) hơi bị lung lay ch�t đỉnh, sau khi ti nghe một c gi䴡o trẻ – nơi một bun lng heo h䠺t – kể chuyện qu nh: ꠠBun nằm cạnh quốc lộ 25, bn cạnh con đường r䪡ch nt y như bản thn m᢬nh vậy. Đi ngang qua nhn vo bu젴n, sẽ thấy những ngi nh s䠠n nhỏ b đứng cạnh nhau, rm r麳, buồn b v n㠭n nhịn. Cả bun c khoảng 70 n䳳c nh. 99% l người Jrai vࠠ một gia đnh người Kinh đến bn tạp h졳a giữa lng… Giữa bun cള trường lng, chỉ một phng học. Lớp một học buổi sಡng. Lớp hai học buổi chiều. Ln lớp ba th qua học kꬩ Phm Ang cch đ顳 chừng hai cy số. Ln lớp s⪡u th phải vo Ia R’siơm học. Cả bu젴n từ trước đến nay chưa c ai tốt nghiệp lớp 12… Một hm, t㴴i hỏi cc em c biết c᳡c em đang sống ở nước no khng. Cả lớp im phăng phắc nhബn nhau, phải gợi mi, cuối cng một em ngập ngừng n㹳i: -Nước Việt Nam phải kh4ng c? Ti hỏi tiếp: - Ai biết, tr䴪n thế giới cn nước no kh⠡c? Lần ny th cả lớp hଠo hứng hẳn ln, rồi một em nhanh miệng ni: - Dạ, nước s곴ng Pa ạ. Ti khng t䴠i no nhịn được cười bởi cu trả lời ngࢢy thơ ấy, nhưng ngẫm lại th thấy chua xt qu쳡. Bun lng của c䠡c em bị những ngọn ni chất ngấtkiaꠠbủa vy, cuộc sống của cc em chỉ c⡳ nương rẫy, tru b vⲠ dng sng miệt mⴠi chảy. Mọi biến chuyển của thế giới bn ngoi kh꠴ng lọt tới cuộc sống của cc em được.(Amai B’lan.Nước Mắt Của Rừng.ᠠCalifornia: Nhn Ảnh, 2013). ⠔ hay! Nếu đng như thế th (chả lẽ) trong cꬡi lng địa cầu hiện nay khng cള ci bun Phᴹm Gi sao? Nhn loại dường như khng ai biết đến địa danh nⴠy, v v “bị những ngọn n଺i chất ngất kia bủa vy, cuộc sống… chỉ c nương rẫy, trⳢu b v d⠲ng sng miệt mi chảy” n䠪n cc em cũng chả biết đến ai (khc) cả. ᡠ Global village: Ảnh:baogialai.com Vẫn cứ theo lời c4 gio Amai B’lan: Cả Phm Gi khṴng c lấy một ci giếng. Đất nơi đ㡢y ton đ, đࡠo giếng rất cực m chẳng c nước, n೪n tất cả mọi sinh hoạt đều dng nước sng Pa. S鴡ng sng, trước khi ln nương, những c᪴ gi trong bun đeo gᴹi ra sng lấy nước. Họ vt một hố c䩡t, ngồi chờ nước thấm vo, rồi mc từng gມo nước đổ vo quả bầu kh gഹi về nh. Nước để nguyn trong quả bầu, kh઴ng nấu nướng g hết. Khi nouống cứ việc x젡ch quả bầu ln tu một hơi căng bụng đ đời. Ai chịu khꣳ hơn th cho thuyền qua s쨴ng, tm tới những con suối trn n쪺i. Người ta ni nước suối uống ngon nhất, sau đ mới tới nước s㳴ng, nước giếng xếp hạng ba. Địu con lấy nước: Ảnh Trần Thị Trung Thu Cứ chiều đến, t4i lại ra sng nhn người d䬢n từ bờ bn kia cho thuyền về. Nắng vꨠng trải xuống lng sng sⴳng snh như lụa. Trời cao xanh. Ni ngẺt ngn. Cảnh tượng trng bബnh yn đến lạ. Con nt giờ đꭳ cũng ra sng tắm rửa, mong ngng bố mẹ. Phụ nữ tranh thủ lấy nước, giặt giũ quần 䳡o. Bến sng trở nn nhộn nhịp hẳn. Cũng ở đ䪢y, ti nghe người dn kể về s䢴ng Pa với giọng điệu tiếc nuối. Họ ni:“Ngy trước s㠴ng Pa trong xanh lắm, lại c nhiều c nữa. 㡠Gần đy c một cⳡi thc rất đẹp gọi l thᠡc tin. By giờ thꢬ hết rồi. Mấy năm trở lại đy, sng Pa bắt đầu đục ngầu v⴬ nhiễm, nhưng người dn đ䢢u cn cch n⡠o khc l cứ phải tiếp tục uống thứ nước đᠳ. Nguồn nước nhiễm ko theo bệnh tật. Vi䩪m khớp, đau thận, đau bao tử l những bệnh t người thoୡt được. Theo họ, th chết từ từ v bệnh cଲn hơn l chết ngay tại chỗ v khଡt. Trong bu4n hầu như khng c người gi䳠 bởi lẽ đu ai sống thọ tới 60. Phn nửa học tr⢲ của ti mồ ci cha hoặc mẹ từ khi c䴲n rất nhỏ… Cuộc sống của họ nếu cứ thế tr4i qua th cũng đ bần c죹ng lắm rồi. Thế m một ngy kia, cࠡch đy khoảng hai năm, cng ty Hoⴠng Anh Gia Lai lập dự n xy thủy điện. Để cᢳ đất xy thủy điện, chnh quyền lấy đất của d⭢n lại m khng hề đền bഹ một xu, rồi bn lại cho Hong Anh Gia Lai. Kết quả, dự ᠡn đ nuốt hết một nửa bun Ph㴹m Gi v nuốt lun cả sự linh thiപng ở đy… Con sng Pa dⴠi 374 cy số chảy qua ba tỉnh Kontum, Gia Lai, Ph Y⺪n, nhưng lại phải đeo tới năm ci gng thủy điện vᴠo cổ. Thủy điện Đồng Cam, thủy điện Ba Hạ, thủy điện An Kh, thủy điện Ayun Hạ, thủy điện Ayun Thượng. By giờ thꢪm một ci cạnh Phm Gi nṠy nữa l su. T࡭nh ra, trung bnh cứ hơn 60 cy số l좠 bị một đập. Ngy nay, cc nước trࡪn thế giới khng chơi thủy điện nữa v nhiều t䬡c hại, đến cả người dn nơi đy cũng biết. Họ thấp thỏm lo sợ tới một ng⢠y mnh phải bỏ bun ra đi v촬 đập trn. V điều đ࠳ đ tới trước khi ti rời nơi đ㴢y một tuần. D2ng sng ma kh乴 cạn đến mức tru b cⲳ thể lội qua, nay dng nước lnh l⪡ng trn bờ. Người ta đ ngăn đập lại. Con đập c࣡ch bun chừng 200 mt n䩪n Phm Gi gnh chịu hậu quả nặng nề nhất v顠 nhanh nhất của việc ngăn dng. Nước dng l⢪n tới sau nh dn, bࢲ vo vườn tược v gieo rắc nỗi kinh hoࠠng… D2ng sng hiền ha ng䲠y đm c tiếng th곡c đổ nay hết rồi. Những chiều ra sng lấy nước nay cũng hết rồi. Dng s䲴ng by giờ l một đường băng nước khổng lồ, dơ bẩn v⠠ đục ngầu. Nước đ dng l㢪n hơn hai mt. Mọi người khng c鴲n thấy con sng Pa quen thuộc đu nữa, m䢠 chỉ thấy một con qui vật lc nẠo cũng chực chờ muốn nuốt chửng bun lng…( S.đ.d trang 103-109). 䠠 Thủy điện Hong Anh Gia Lai: Trần Thị Trung Thu Sự c mặt bất ngờ của Hoೠng Anh Gia Lai, trong phần cuối cu truyện của c giⴡo ở bản lng xa khiến ti (thốt nhiപn) nghĩ lại. Thn Phm Ghi, t乩 ra, đu c bị thi⳪n hạ lng qun. Sự c㪳 mặt bất ngờ của Hong Anh Gia Lai, trong phần cuối cu chuyện của cố giࢡo ở bản lng xa khiến ti (thốt nhiപn) nghĩ lại. Thn Phm Ghi, t乩 ra, đu c bị thi⳪n hạ lng qun. 㪠 (Xin bỏ một đoạn nhậy cảm…) Lớp Học PhmGi 頠 “Ti khng đổ lỗi cho c䴡c em, v cc em chỉ l졠 những tờ giấy trắng. Người ta c viết g l㬪n đ đu m㢠 hy vọng cc em c chữ nghĩa. Nếu nền gi᳡o dục Việt Nam khng thể dạy cho một học sinh lớp su người Jrai biết 15 – 8 bằng bao nhi䡪u th đy chỉ l좠 một nền gio dục tồi. i, một đất nước chỉ mới đᔢy thi tự ho l䠠 quốc gia đoạt giải Nobel ton học m dᠢn chng th chẳng biết 4 + 7 bằng bao nhiꬪu.” Amai B’Lan —————————– Hơn mười năm trước, bo Nhn Dᢢn (số ra ngy 9 thng 12 năm 2000) ࡡi ngại đi tin:“Cc dn tộc Ba Na, Cᢠ Dong, Chu Ru, C Tu, H Nhࠬ, X Đăng, Thổ Chỉ c từ hai đến ba học sinh đạt ti곪u chuẩn. Đng ch ẽ, mỗi dn tộc: Cơ Lao, Xting, Gi⪡y, Cơ-ho, Lo, La Ch chỉ c୳ một học sinh đủ tiu chuẩn cử tuyển vo học cꠡc trường đại học, cao đẳng.” Mẩu tin ảm đạm (v hiếm hoi) thượng dẫn, ng bộ, kh೴ng tạo ra sự tin tưởng v an vui g mấy cho những người dଢn đang sống trong một quốc gia Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phc. V chắc v꠬ thế, từ đ đến nay, khng thấy những cơ quan truyền th㴴ng của nh nước Việt Nam đề cập đến tin tức lin quan tới người dઢn bản địa (“được cử tuyển vo học cc trường đại học”)ࡠnhư trước nữa. Tuy thế, độc giả vẫn c thể đon được cuộc sống, cũng như t㡬nh trạng học vấn của học sinh miền ni, qua nhiều nguồn thng tin kh괡c: - Ngy 15 thng 1 năm 2013,ࡠvnexpressđi tin:”Trẻ em v9ng cao phong phanh trong gi rt.Cᩳ em cn đi chn đất, mặc mỗi một chiếc ⢡o mỏng tang.” - Trước đ một hm, h㴴m14 th!ng 1 năm 2013, boĐất Việtᠠcũng đ buồn b cho hay: “Kh㣴ng c thức ăn, hết măng ớt, cc em học sinh v㡹ng cao phải dng bẫy bắt chuột lm thức ăn chống r頩t.” Cơm v chuột. Ảnh:baodatviet Đời sống c3 những nhu cầu theo theo thứ tự ưu tin sắp sẵn: ăn – mặc, ăn – học… Ăn/mặc đều thiếu thốn như thế th học/hꬠnh ra sao? Cu trả lời c thể tⳬm được trong một lớp học ở thn Phm Gi, thuộc T乢y Nguyn, qua cuốn bt k꺽Nước Mắt Của Rừng(*) của Amai B’Lan – một c4 gio trẻ, đến từ miền xui: Phᴹm Gi cch bun Nu khoảng sᴡu cy số thi nhưng cⴳ tới hai kiểu đường. Hai cy số đầu l đường nhựa l⠡ng o, khoảng bốn cy số sau th lởm chởm đ⬡, ổ g v mịt m࠹ bụi bặm. Bun nằm cạnh quốc lộ 25, bn cạnh con đường r䪡ch nt y như bản thn m᢬nh vậy. Đi ngang qua nhn vo bu젴n, sẽ thấy những ngi nh s䠠n nhỏ b đứng cạnh nhau, rm r麳, buồn b v n㠭n nhịn. Cả bun c khoảng 70 n䳳c nh. Chn mươi ch୭n phần trăm l người Jrai v một gia đࠬnh người Kinh đến bn tạp ha giữa l᳠ng… Cũng như những bu4n khc, Phm Gi sống bằng nghề nṴng. Trước kia họ trồng la, cn b겢y giờ chuyển qua trồng m v m쬬 c gi hơn. Họ cũng trồng th㡪m la, m, bắp, hột dưa vꨠ nui b d䲪 tăng thu nhập. Nương rẫy Phm Gi nằm bn kia s骴ng Pa, dưới dy ni cao ngất, v㺬 đất bn ny bꠡn cho người Kinh hết rồi. Muốn ln rẫy, họ phải vượt sng bằng chiếc ghe nhỏ, hai tay hai m괡i cho bơi đi như vịt, trng rất nguy hiểm. Rẫy xa, bố mẹ đi l贠m từ sng đến chiều mới về, mấy đứa nhỏ ở nh tự tᠬm ci ăn. Nấu cơm được th ăn, kh᬴ng th chạy qua nh h젠ng xm ăn k. C㩳 bữa ti thấy tụi nhỏ ăn xoi trừ cơm. B䠭 qu khng kiếm được cᴡi g bỏ vo miệng th젬 nhịn. Ăn uống thất thường, thiếu chất, nn đứa no đứa nấy cũng bụng ỏng đ꠭t beo, khng lớn ln được m䪠 cứ quắt lại. Người Jrai thương con v4 cng nhưng lại khng biết c鴡ch chăm sc con ci. Họ để quần 㡡o chng rch rưới, đầu tꡳc dơ bẩn, mặt my lem luốc. Mỗi chiều tắm xong, đm trẻ đứng trࡪn những tảng đ cao ngng bố mẹ từ bờ bᳪn kia cho về như những con chin lạc kh誴ng người chăn dắt… Tối đến, t4i cn đang ăn dở chn cơm th⩬ cc em tới. Tất cả l 25 em cả trai lẫn gᠡi, một con số kh ấn tượng trong buổi gặp đầu tin. Đứa lớn nhất 19 tuổi v᪠ nhỏ nhất năm tuổi. Học cao nhất lớp tm v cᠳ tới một nửa chưa biết chữ l g. Cଡc em tới, rất v tư v tự nhi䠪n ngồi xuống xung quanh ti, lu lo như một đ䭠n chim. Cc em tới v biết h᬴m nay c người đến bun của c㴡c em v dạy một ci g࡬ đ, chỉ vậy thi. C㴡c em tới với đi mắt to trn, đen l䲡y v hng l࠴ng mi cong vt lc n꺠o cũng mở ra nhn ti. C촡c em tới, đi chn đất, mặc nguyn bộ quần ⪡o cn ẩm ướt lc chiều tắm b⺪n sng Pa. Cc em tới với hai b䡠n tay trắng, thừa sự ho hức nhưng đầy vẻ ngại ngng. Ṡ Viết nằm: Ảnh: Trần Thị Trung Thu Chng ti ngồi b괪n nhau, lm quen v phࠡc họa rất nhanh chương trnh học. Một tuần sẽ học năm buổi. Từ thứ hai tới thứ su. L졺c bảy giờ đến chn giờ tối v ban ng�y cc em đều bận đi chăn b. Sau giờ học sẽ sinh hoạt vᲲng trn, tập ht, kể chuyện hay chiếu phim t⡹y nhu cầu. Ti biết trong bun c䴡c em yếu nhất hai mn ton v䡠 tiếng Việt nn chỉ tập trung dạy hai mn đ괳. Ban ngy ti rảnh, ai cần học cứ tới, tഴi dạy hết. Bọn trẻ khoi ch, vỗ tay rần rần v᭠ hẹn tối mai rủ thm bạn tới. Khi bọn trẻ về hết v chỉ c꠲n lại một mnh trong ngi nh촠 trống trải, th ti tự hỏi ch촭nh mnh:“Thế l lớp học của t젴i bắt đầu thật rồi sao?” Bắt đầu m chẳng c g೬ cả. Khng bn kh䠴ng ghế. Khng phấn khng bảng. Kh䴴ng sch vở bt viết. Đến cả ạnh sng cũng nhờ nhợ như một v sao xa. Chᬺa ơi, Cha đ dẫn con tới đ꣢y th xin Cha cũng h캣y chỉ bảo cho con biết con phải lm g nh଩. V Cha đຣ nhận lời. Ngi chỉ cho ti biết việc đầu tiപn l ti hണy qu giang xe về Ia R’siơm vo sᠡng hm sau để mua sch vở, b䡺t viết cho bọn trẻ, sau đ về nh ama t㠬m một tấm vn lm bảng. Tᠴi khng qun mang theo 䪭t thuốc Panadol phng ốm đau. Anh Wing xung phong l⪠m xe m chở ti về lại Ph䴹m Gi với bao nhiu thứ lỉnh kỉnh trn người. Qua tới nơi mới biết cꪲn thiếu một thứ rất quan trọng, đ l b㠠n học. Thế l c trല h hục vc những tấm v졡n ở chuồng b nh ami H’hot ra s⠴ng Pa cọ rửa, lau kh. Ti mượn ba c䴡i ghế nhựa nh ami H’hot lm trụ mࠠ vẫn khng đủ, liền mượn lun cả c䴡i cối gi gạo của nh b㠪n cạnh. Vậy l c những cೡi bn ngon lnh. Tưởng thế lࠠ ổn, ai d học tr đ貴ng qu, ln tới 35 em, kh᪴ng c đủ bn, th㠠nh thử, khoảng một phần ba lớp học phải nằm, quỳ hoặc b ra m viết. Học tr⠲ của ti viết trn những c䪡i bn th kệch ấy. Những dലng chữ ngoằn ngoo, đi khi dơ bẩn, tẩy x贳a tm lum, duy chỉ c đ鳴i mắt l sng như sao vࡠ sự chăm chỉ đến t người. Nhn học trꬲ lăn lc viết, ti như chết lặng. 㴠i! CԳ nơi đu đi kiếm con chữ m khổ sở đến vậy kh⠴ng hả trời? Sinh hoạt v2ng trn: Trần Thị Trung Thu T⠴i pht cho mỗi em một cy viết vᢠ một cuốn vở, bắt cc em viết tn của m᪬nh vo vở, khi học xong ti thu bഺt vở lại, kẻo bọn trẻ mang về x vở lm diều hết. Bữa sau tới học, t頴i lại pht ra. Thế l bảo toᠠn được lực lượng. Cứ nhn gương mặt ho hức nhận vở của bọn nh졳c m thấy vui ly. Cࢳ nhiều em chưa biết viết, phải nhờ mấy bạn lớn viết hộ tn. Người Jrai c nhiều c곡i tn đọc muốn mo miệng mꩠ vẫn khng trng, tiếng Việt cũng kh亴ng biết phải viết thế no. Những em chưa biết viết khng theo kịp anh chị lớp lớn, tഴi cho ngồi ring ra một gc rồi cầm tay tập viết cho từng đứa. C곳 cầm tay bọn nhc, c đặt mũi v㳠o mi tc ch᳡y nắng v bộ quần o khࡩt lẹt, lấm lem bn đất v sực nức m頹i phn b của bọn nhⲳc, mới thấy xt xa cho cc em. C㡲n bọn trẻ th cứ nắm chặt bt, m캭m chặt mi viết như sợ từng chữ bay đi mất. Học xong, ti cho sinh hoạt v䴲ng trn. Từ trước đến giờ, chưa c ai đến với cⳡc em, dạy dỗ cc em v cho cᠡc em chơi cc tr chơi mᲠ đng l tuổi của c᭡c em phải được chơi… Qua một ngy vất vả ngược xui, sau dണi dầu mưa nắng, th giờ đy, c좡c em được tha hồ sống thật với bản tnh hồn nhin v� tư của tuổi thơ. Cc em khng cᴲn vẻ lam lũ của những đứa trẻ chăn b nữa, m thay v⠠o đ l những gương mặt linh hoạt, nụ cười rạng rỡ v㠠 nh mắt lung linh. Ti thᴭch đứng một mnh nhn c쬡c em ra về sau khi giải tn, v lᬺc đ, men chơi cn chất ngất, khiến đứa n㲠y chọc ghẹo đứa kia, để rồi cả đm đuổi bắt nhau, tiếng cười gin tan như bắp nổ rộn rᲣ trn đường lng. B꠳ng bọn trẻ khuất lấp trong mn đm rồi đậu xuống dưới một mડi nh, mang theo vo giấc ngủ nụ cười trࠪn mi. Hm nay trăng s䴡ng, tha hồ chơi, gần mười giờ rưỡi cc em mới chịu về. Mấy chục ci miệng thi nhau ch᡺c ti “pit hiam” (ngủ ngon) rồi a chạy đi tr乪n con đường lng đầy nh trăng, tiếng cười trong veo như nước suối cứ trầm bổng rồi tan theo nࡺi rừng vo thinh khng. Tối nഠo cũng c vi chục người ch㠺c ngủ ngon. Khng muốn cũng sẽ ngủ rất ngon, hỡi những thin thần Jrai.(Amai B’lan.䪠Nước Mắt Của Rừng.San Jose: Nh"n Ảnh, 2013.) Trong giấc ngủ, tất nhin,những thin thần Jrai cꪳ thể mơ đến một ngy được bước chn vࢠo ngưỡng cửa đại học – một thứ đại học c tầm vc quốc tế, theo như lời của người đại diện của hội đồng s㳡ng lập Dự n Đại Học Tư Thục Trm Việt (Tri Viet International University Project): “Gọi l trường quốc tế bởi v sẽ dạy bằng tiếng Anh kể từ năm thứ 2, với lập luận rằng thanh nin Việt Nam thời hội nhập phải c쪳 tiếng Anh như l một ngn ngữ lഠm việc của mnh, ngoi tiếng mẹ đẻ…” Tất nhi젪n, đy l một giấc mơ xa. Cũng xa vời (v⠠ mịt mờ) như ci chủ nghĩa x hội mᣠ Đảng v Bc (k࡭nh yu) đ chọn. Tạm thời, ng꣠y mai, khi vo lớp những cc em hࡣy cứ nhẩn nha học php ton xem 15 trừ 8 c顲n bao nhiu (trước đ) để đỡ bị c꣡i nạn hay bị người Kinh thối lộn tiền – khi đi mua muối! K’ Tien(*)Nước Mắt Của Rừng. B:t K của Amai B’Lan.Tựa: Phan Ni Tấn.Nhn Ảnh Xuất Bản. B�a v tranh: Khnh Trường.Tr࡬nh By: L Hઢn & Tạ Quốc Quang.Copyright @ 2013 by Trung Thu. ISBN: 978-0-9811982-9-3.Ấn ph v bưu ph� 15 M.K.S!ch c thể đặt mua theo địa chỉ sau: Mr. L H㪢n375 Destino Circle,San Jose, CA 95133U.S.A or han.le3359@gmail.com Theo Gocnhinalan.com
0 Rating 198 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On July 23, 2013
“United We’re Cham” July 12, 2013 Dear all, On behalf of Sacramento Cham Youths, we would like to thank everyone for the dedication of your time, participation, support, and donation in the 8th Annual Champa Youth Camp that took place at Rancho Seco Park in Sacramento, California on July 5th to 7th of 2013. The purpose of this camping event is for Cham youths and families getting together, having fun, meeting and making new friends regardless of religious affiliation, organization, distance, and age. At first, we thought there wouldn't be many people show up due to long holiday weekend. People could choose taking their kids to other places for fun instead but they decided to come to the 8th Annual Champa Youth Camp in Sacramento. This made us believe that all of you have the same thought as we do that getting together with Cham people is more important than spending time at other places. People not only showed up but they were also very cooperative. They partici- pated in all the games, sang Cham songs, and danced traditional Cham dances. They also enjoyed eating authentic Cham foods. People were getting along very well at the campsite. This truly makes us even happier because all of our hard works are well worth it. Once again we would like to thank everyone who drove and flew to Sacramento from far places like Los Ange- les, southern california cities, San Jose, Modesto, Patterson, Washington, Hawaii, and Alaska states. We also would like to thank the Cham Community of Sacramento for helping and preparing lunch for the whole Camp. Last but not least, we would like to thank everyone that helped raise money for this camping event. We would not do it successfully without your support and contribution. We hope you will continue to support and contribute to the Champa Youth Camping in the future regardless of wherever place it will be taken. Best regards, Kayden Phu & Sacramento Cham Youth Team July 12, 2013 Knh goi Người Chăm Thn Thương Thay mặt Thanh Thiếu Ni�n Champa tại Sacramento, chng ti ch괢n thnh cảm ơn tất cả mọi người đ bỏ nhiều thời gian, cࣴng sức v chi ph để đến dự Trại H୨ lần thứ tm của Thanh Thiếu Nin Champa được tổ chức tại Rancho Seco Park a thủ phủ Sacramento, California, Hoa Kỳ từ ng᪠y 5 đến ngy 7 thng 7 năm 2013. Mục đ࡭ch của trại h l tạo th蠪m cơ hội cho thế hệ trẻ Champa v những gia đnh đến gần nhau cହng chung vui, lm quen, kết thm bạn mới dહ khng cng t乴n gio, hội đon, địa phương, hay tuổi tᠡc. Chng ti tưang rằng sẽ kh괴ng nhiều người đến tham dự v đy l좠 dịp Lễ lớn cuối tuần của Mỹ (Independence Day) thường th mọi người cha con ci đi chơi những chổ kh졡c vui hơn. Tuy nhin rất đng người Chăm đ괣 đến tham dự hội trại với chủ đề ‘oРn Kết Chng ta l Nguời Chăm’. ꠐiều ny lm cho ch࠺ng ti tin rằng mọi người c c䳹ng một suy nghĩ l ‘đến trại h Champa vui với người Chăm lਠ nghĩa nhất’. Mọi người khng chỉ đến chung vui m� hết lng ho quyện c⠹ng nhau chơi cc tr chơi, hᲡt Chăm v ma Chăm. Mọi người đຣ rất vui khi được thưang thức cc mn ăn truyền thống Chăm. Mọi người sinh hoạt vui vẻ v᳠ ha đồng lm ch⠺ng ti vui lay v kh䠴ng uổng bao cng sức chuẩn bị cho trại h năm nay. Một lần nữa ch䨺ng ti chn th䢠nh cảm ơn tất cả mọi người đ li xe hay bay đến Sacramento từ nhiều nơi như Los Angeles v㡠 vng phụ cận, San Jose, Modesto, Patterson... hay từ tiểu bang Washington, Hawaii, v Alaska. Ch頺ng ti cũng khng qu䴪n cảm ơn cộng đồng Chăm Sacramento đ gip đỡ thanh ni㺪n v c một bữa ăn trưa Chăm thật đặm đೠ bản sắc. Theo đ chng t㺴i cũng xin cảm ơn mọi người đ hảo tm đ㢳ng gp gy qũy cho chương tr㢬nh trại h Champa. Trại h sẽ kh訴ng thnh cng tốt đẹp nếu khഴng c sự đng g㳳p nhiệt tnh của mọi người. Chng t캴i hy vọng v mong muốn rằng mọi người sẽ tiếp tục ủng hộ hết lng cho Trại Hನ Champa trong tương lai, khng cần biết Trại H Champa sẽ được tổ chức nơi đ䨢u. Knh Mến Ph B�nh Khả v tất cả thanh thiếu nin Champa Sacramento <h> Danh sડch ủng hộ Trại h 2013 Below is a list of contributors to the 8th Annual Champa Youth Camp in Sacramento 2013 1. Tan Quang & Thuy Luu (Sacramento) $50 2. Tan Lam & Loan Luu (Sacramento) $50 3. Dang Quoc Huy (Tracy) $50 4. Cham Muslim organization (San Jose) $400 5. Mr. Luu Quang Sang & wife (Sacramento) $50 6. Thanh Ngoc Co & family (San Jose) $100 7. Duong Nhu Ngoc & Qua Dinh Nam (Sacramento) $50 8. Nguyen, Phao family (Alaska) $200 9. Tai Dai An family (LA) $100 10. Nguyen, Hau family (LA) $100 11. Thanh, Si family $50 12. Tu, Qasim family (LA) $50 13. Duong Tan An & Dung (Sacramento) $50 14. Chau Van Thu & Lieu family (Sacramento) $50 15. Mr. Thanh Phu Ba $30 16. Phuc Truong & Binh Duong (Sacramento) $50 17. Mai & Don family $20 18. Ba, Ali family (San Jose) $40 19. Ba, Trung Tuyen family (San Jose) $60 20. Ba, Mong Huy family (San Jose) $40 21. Tuan Dang & Phuong Duong( Seatle) $50 22. Mai & Thanh family $50 23. Hoa Luu & Truong Dong family (Sacramento) $50 24. Kit & Tu Duong family (Sacramento) $60 25. Da & Quang Kieu family (Sacramento) $20 26. Hali Lam & Thi (Pensylvania) $50 27. Thuy Truong & Sara Don (Pennsylvania) $50 28. Khiem Truong & Trang (Pennsylvania) $50 29. Thanh Pa (Ve) (Pennsylvania) $50 30. Mr. Ba, Dong family (Sacramento) $40 31. Tu, Cong Nhuong family (LA) $20 32. Mr. Thach Ngoc Xuan & Giai family (Modesto) $50 33. Chinh Kieu & Truc Luu (Sacramento) $50 34. Ba, Van Thieu family (San Jose) $50 35. Dao, Van Hien family (San Jose) $50 36. Mr. Phu,Van Luu family (Sacramento) $100 37. Trang & Khanh Kieu (San Jose) $50 38. Mrs. Lai $20 39. Mrs. Bao family $100 40. Ariya Chau (Sacramento) $40 41. Kayden Phu & Lillian Chau (Sacramento) $50 42. Sang Luu Jr. & Quynh family (Sacramento) $100 43. Son Truong & Vy Quang (Sacramento) $50
0 Rating 425 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 17, 2015
Hader Wek Ka Kadha Adaoh Gru Dang Nang Qua Thekwa Palei Ram Di kraong gah ka Bruh hu ralo banek nduec trun marai tel banek patau. Banek patau nan nduec aia nao ka dua mblang hamu, nan mblang hamu palei hamu Tanran saong mblang hamu palei hamu Craok.Tel di thun banek patau ni pacalah, gah hamu palei hamu Craok di hu aia ngap hamu pala padai o. Yau nan ye gru Dang Nang Qua hu panâh kadha adaoh “Palei Dahlak” yau ni: "Palei dahlak takik hamu o padaiGaok ndua pak thun dak raiTanâh len raong pa-ndar ni maraiMada nagar urang , kasaot min palei drei.Juai wer tanâh aia muk keiKhik kajep adei sa-ai manaok drei." Palei hamu Craok nan sa palei ngap gaok glah mâng haluk tanâh len hu pajieng mâng ong muk kei caik marai tel harei ni. Wak di harei dua, bulan sapluh, thun dua ribau sa pluh pak. Bel Seattle, Washington  --------------------------------------------***-------------------------------------------- hd-^ w-` k\ kD aOd_H RgU d) N-) k\W  d[ ORk= gH k\ RbUH hU rOl bn-` VW-! RtU# mEr t-& bn-` pt-U ; bn-` pt-U N# VW-! aY On_ k\ dW vL) hmU ; N# vL) hmU pl] hmU tRn# Os= vL) hmU pl] hmU ORc_` ;t-& d{ TU# bn-` pt-U n{ pclH ; gH hmU pl] hmU ORc_` d{ hU aY Q$ hmU pl pEd o ; y-U N# y| RgU d) N-) k\W hU pnIH kD aOd_H “pl] dhL`” y-U n{ :  pl] dhL` tk[` hmU o pEd Og_` VW p` TU# d` Er tnIH l-# Or= pV^ n{ mEr md ng^ ur) ; kOs_@ m[# pl] Rd] EjW w-^ tnIH aY mU` k] K[` kj-$ ad] SEA mOn_` Rd]  ; pl] hmU ORc_` N# s pl] Q$ Og_` gLH mI~ hlU` tnIH l-# hU pjY-~ mI~ o) mU` k] Ec` mEr t-& hr] n{ ; w` d{ hr] 2 ; bUl# 10 TU# 2014 ; b-& Seattle, Washington  
0 Rating 291 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On February 3, 2015
KHÓC NÀNG MỴ Ê                                            “Châu Giang một giải sông dài,                         Thuyền ai than thở một người Cung phi!...”                                                              Tản Đà.   Gió Châu giang, gió gào cung oán Trong sương mờ ai khóc thảm thương. Có phải nàng Mỵ Ê của Chiêm Thành năm ấy? Đã gieo mình xuống bãi sông đây. Ta nghe đâu đây, tiếng Chiêm nương than thở, Và lại buồn tiếc nhớ thuỡ xa xưa: “ - Cái thuở giang sơn còn chiến loạn, Phận má đào tựu cánh bèo trôi. Kẻ ngang tàn vùi hoa, dập liễu, Để Hoa Vàng rụng xuống bến sông sâu. Và từ đó tiếng lòng sông vang vọng, Như tiếng người con gái khóc đêm trăng.” Ta đứng đây, nơi Chiêm nương tuẫn tiết, Để khóc người thiếu nữ liệt trinh. Nàng không chết dù xác thân đã mất, Vẫn sống hoài sống mãi với non sông. Đây dưới đáy Châu giang thăm thẳm, Anh linh nàng vẫn khóc với nhân gian.  Ja shaklikei    
0 Rating 385 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On March 15, 2015
Madeh Hatai Indrapura Chau Dahlak hu sa dalukal ni kieng kalak wek saong mik wa peng aiek yaom. Kadha ni ngap ka dahlak caik di dalam hatai tel harei ni. Hadei di graduat (graduate) sang bac highschool, dahlak jang yau hadom ayut dam dara daok dalam palei tabiak nao magru di sang bac university pak Bai-gaor (Saigon). Tel bulan Ramavan marai, dahlak da-a hadom anâk saih ayut Yuen daok bac saong gep pieh marai riwang palei dahlak. Hadom anâk saih ayut Yuen jang kieng thau, kieng aiek anâk Cam yau haber, khan aw, anguei Cam cuk yau halei jang ngap yau adat ca-mbat Cam Awal rei. Blaoh di nan, khaol dahlak jak gep marai mbeng harei Muk Kei. Biruw di trun radéh yam takai tamâ palei, khaol dahlak talak mboh hu paning panuec (banner) wak mâng akhar Thrah praong biak praong tuer di angaok mbeng jang palei (gate of village). Mboh hadom akhar wak hagait blaoh karei lo nan, hadom ayut Yuen mâng ta-nyi dahlak “sa-ai ley, akhar hagait wak di angaok nan?”, dahlak mang akhan lac, “nan ye akhar Cam”. Blaoh di nan, sa urang ayut karei ta-nyi dahlak wek “Sa-ai thau puec halei?”, dahlak lac “Sa-ai di thau puec o”. Tuk nan dahlak mâng dah mata thau ka rup drei pataok akhar Cam ngap ka hadom urang Yuen klao balei gah likuk. Apakar di harei nan ngap ka dahlak malau, pa-ndik pa-ndua di hatai. Hadei mâng nan, dahlak mâk gruk nan marai sanâng wek, ralo anâk saih Cam nao bac glaong akhar tapuk urang li-ngiw, mayai ndom yaih rup lac drei ni “ngaon” min di hu thau puec akhar Cam drei o! Ndom Cam maluk Yuen biak ralo blaoh lac drei ni “ngaon” wek! Mayah drei ni di hu bac magru akhar Cam drei o, ngap haber drei si thau! Tanâh aia Campa drei lihik biak, min sap puec panuec ndom, akhar wak drei di hu thei paoh blah o. Yau panuec Cam drei hu pa-ndit lac:  “Pataok danaok alah, krah danaok tarieng”. Kaoh mâng harei nan, dahlak khaom bac, ramik tuk wak pieh magru akhar Cam. Harei ni hu hadom adei sa-ai pacheh gep wak akhar Cam ngap ka dahlak hader wek hadom gruk tapa mâng dahlau. Dalukal dahlak taluic pak ni, tadhuw ayuh mik wa kajap karo, kheng kadeng.  -------***------- md-H hEt dhL` h\U s\ dlUk& n{ kY-) kl` w-` Os= m[` w\ p-) aY-` Oy+ ; kD\ n{ Q$ k\ dhL` Ec` d{ dl, hEt t-& hr] n{;; hd] d{ RgdW@ s) b! highschooldhL` j) y-U hOd, ayU@ d, dr\ Od_` dl, pl] tbY` On_ mRg\U d{ s) b! university p` EbOg_^;;  t-& bUl# rmw# mEr; dhL` da\ hOd, an` EsH ayU@ yW-# Od_` b! Os= g-$ pY-H MEr r[w-) pl] dhL`; hOd, an` EsH ayU@ yW-# j) kY-) T-U kY-) aY-` an` c. y-U hb-^ ;K# a*; aqW] cU` c. y-U hl] j) Q$ y-U ad@ cv@ c. aw& r];; ObL_H d{ N# OK_& dhL` j` g-$ mEr v-) hr] mU` k];; b[rU* d{ RtU# rd-H y, tEk tmI\ pl]; OK_& dhL` tl` OvH h\U pn[~ pnW-! w` m-) aK^ RTH ORp= bY` ORp= tW-^ d{ aOq_` v-) j) pl];; OvH hOd, aK^ w` hEg@ ObL_H kr] Ol\ N#;; hOd, ayU@ yW-# m-) tz{ dhL` “SEA l-% aK^ hEg@ w` d{ aOq_` N#”  dhL` m-) aK# l! “N# y| aK^ c.” ; ObL_H d{ N# s\ ur) ayU@ kr] tz{ dhL` w-` “SEA T-U pW-! hl]” dhL` l! “SEA d{ T-U pW-! o” ;; tU` N# dhL` m-) dH mt\ T-U k\ rU$ Rd] pOt_` aK^ c. Q$ k\ hOd, ur) yW-# OkL_ bl] gH l[kU`;; a\pk^ d{ hr] N# Q$ k\ dhL` ml-U ; pV[` pV\W d{ hEt ; hd] m-) N# dhL` m` RgU` N# MEr SnI) w-`; rOl\ ur) an` ESH c. On_ b! OgL= aK^ tpU` ur) l[q[*; m-Ey OV, EyH rU$ l! Rd] n{ “Oq_#” m[# d{ h\U T-U pW-! aK^ c. Rd] o;; OV, c. mlU` yW-# bY` rOl\ ObL_H l! Rd] n{ “Oq_#” w-`;; myH Rd] d{ h\U b! mRg\U aK^ c. Rd] o; Q$ hb-^ Rd] s{ TU-;; tnH aY\ cf\, Rd] l[h[` bY` m[# S$ pW-! pnW-! OV,; aK^ w` Rd] h\U T] Op_H bLH o; y-U pnW-! c. Rd] hU\ pV[@ l!: “pOt_` dOn_` alH; RkH dOn_` trY-)”;; Ok_H m-) hr] N#dhL` OK+ b! ; rm[` tU` w` pY-H mRg\U aK^ c.;; hr] n{ hU\ hOd, ad] SEA pC-H g-$ w` aK^ c. Q$ k\ dhL` hd-^ w-` hOd, RgU` tp\ m-) dhL-U ;; dlUk& dhL` tlW[! p` n{ ; tDU* ayUH m[` w\ kj$ kOr\ ; K-) kd-);;  
0 Rating 383 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On December 21, 2017
D?ch sang ti?ng Vi?t b
0 Rating 1.1k+ views 2 likes 0 Comments
Read more