Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On October 13, 2012
P-B. Lafont Từ l:c hnh thnh quốc gia cho đến ng젠y sụp đổ thủ đ Vijaya vo năm 1471, vương quốc Champa kh䠴ng ngừng vy mượn những yếu tố tn ngưỡng của Ấn ⭐ộ để xy dựng hệ thống tn giⴡo của mnh. Hon to젠n tri ngược lại với những g mᬠ một số nh nghin cứu đણ hiểu lầm, cc nghi thức Ấn Gio nᡠy chỉ dnh ring cho cડc thnh phần qu tộc vୠ giai cấp thượng lưu Champa m thi. Vബ rằng cc tầng lớp thần dn thᢴng thường vẫn tiếp tục duy tr tn ngưỡng địa phương của họ đ쭣 c sẵn trước thời kỳ Ấn Ha. Mặc d㳹 chấp nhận một số ảnh hưởng của Ấn Gio, nhưng tầng lớp nhn dᢢn thng thường ny kh䠴ng ngừng cải biến một số yếu tố của Ấn Gio trở thnh hệ thống tᠭn ngưỡng bản địa của mnh. Trong suốt mười hai thế kỷ, cc giai cấp qu졭 tộc v thượng lưu Champa thường thực hiện hai nghi lễ Ấn Gio rất lࡠ r rệt: Nghi thức tn ngưỡng ho孠ng gia v tục tn thờ cഡ nhn. Nghi thức tn ngưỡng ho⭠ng gia l nghi lễ mang tnh cୡch quốc gia thường diễn ra trong thnh địa của Mĩ Sơn, vốn l trung tᠢm tn gio của vương quốc n䡠y. Trong suốt thời kỳ Ấn Ha, tục thờ đấng Shiva được xem như vị thần quan trọng nhất, cấu thnh một hệ thống t㠭n ngưỡng của Champa thời đ. Việc tn thờ thần Shiva thường gắn liền với sự thờ c㴺ng phu nhn (Sakti) của ngi, tức l⠠ vị nữ thần được tn vinh thnh th䠡nh mẫu của vương quốc Champa. Tn thờ đấng Shiva đ trở th䣠nh một nghi lễ quan trọng nhất trong vương quốc Champa so với việc thờ cng những vị thần khc như Brahma vꡠ Vishnu của Ấn Gio được tổ chức tại quốc gia ny (L. Finot, “Inscription de My-sơn”, trongBEFEO II, 1902, trg. 190). Cᠡc bia k cũng như cc h�nh tượng thần linh cn lưu lại đ x⣡c nhận điều đ. Trong suốt thời kỳ Champa Ấn Ha, thần Shiva thường biểu tượng qua một bức tượng c㳳 thn thể như con người với con mắt thứ ba nằm ngay trn tr⪡n, c hai hay nhiều cnh tay cầm c㡡c lễ vật, thng thường l c䠳 sợi dy buộc của Brahman (cordon brahmanique). Thần Shiva cn biểu tượng qua hⲬnh dạng của Linga, tức l một bức tượng hnh trụ cଳ mũ chỏm hnh bn cầu giống như tượng dương vật, c졳 phần chạm trổ giản dị hay cầu kỳ. Tượng Linga đi lc đứng ri亪ng rẻ một mnh nhưng hầu hết thường kết liền trn một c쪡i chậu dng tẩy thể (cuve ả ablution). Mỗi Linga thường mang một tn gọi ri骪ng. Một số tượng Linga nằm trong thnh địa Mĩ Sơn thường biểu tượng cho một triều đại, hoặc ni theo ng᳴n từ hiện đại hơn, tượng trưng cho một "quốc gia", như tượng Linga mang tn Bhadresvara, tức l biểu tượng của nhꠠ vua Bhadravarman I v vương quốc Champa. Phu nhn (Sakti) của Shiva cũng đࢳng một vai tr quan trọng trong tn ngưỡng của Champa. Vị nữ thần n⭠y thường được trnh by dưới h젬nh thể con người hoặc đơn độc hoặc ngồi trn lưng của Nandin, tức l con b꠲ dng lm phương tiện di chuyển của Shiva. Phu nh頢n của thần Siva thường được tn thờ qua nhiều tn gọi kh䪡c nhau, đặc biệt nhất l nữ thần mang tn Bhagavati ở miền nam của Champa. Cho đến thế kỷ thứ X, tપn nữ thần ny thường dnh liền với việc thờ c୺ng Po Nagar ở Nha Trang, tức l “B Ch࠺a Nữ Thần” (Maitre de la Desse), sau ny trở th頠nh vị nữ thần được tn vinh nhất ở miền nam Champa dưới danh nghĩa l Yang Po Nagara (Th䠡nh mẫu của vương quốc). Sau thế kỷ thứ X, nữ thần Yang Po Nagara thường st nhập vo việc thờ cᠺng vị nam thần Bhadresvara của đền Mĩ Sơn m mục đch lୠ dựa vo sự ha đồng của tಭn ngưỡng để tăng cường việc thống nhất hai miền bắc nam của Champa. Ring về tục thờ c nhꡢn, cc nghi lễ ny thường được tổ chức bởi cᠡc vua cha, cc vị hoꡠng tử v cc giới chức cao cấp trong triều đ࡬nh. Những nghi lễ ny chỉ mang một tầm quan trọng tương đối m th࠴i, mặc d cc bia k顽 khng ngừng nhắc đến. Một số nghi lễ tn thờ c䴡 nhn thường dnh ri⠪ng cho nam thần Vishnu, nhất l vo cࠡc thế kỷ VII-VIII (E. Huber, “ tudes Indochinoises. IX Trois nouvelles inscriptions du roi Prakacadharma du Campaɡ: L’inscription de ương Mong” trongРBEFEO1911, trg. 262). V nghi lễ ny cũng thường p dụng cho nữ thần Laksmi, tức lࡠ phu nhn của Vishnu m c⠡c ti liệu thường nhắc đến vo thế kỷ VIII vࠠ XIV. Người ta cũng khng qun t䪴n thờ nam thần Brahma, mặc d khng thường xuy鴪n cho lắm v một số vị thần linh khc mࡠ bia k thường nu ra. Nhưng nội dung của c�c lễ nghi ny thường mang tnh cୡch văn chương tn ngưỡng hơn l nghi lễ t�n gio. Trong số cc tục thờ cᡡ nhn ny, nghi lễ d⠠nh cho mn phi Phật Gi䡡o cũng chiếm một vị tr rất l quan trọng v�o một số thời kỳ, đặc biệt nhất l vo cuối thế kỷ thứ IX dưới triều đại của Indravarman II, tức lࠠ vị vua Champa đ dnh một ưu đ㠣i đặc biệt cho Phật Gio đại thừa (mahayana) v rất tᠴn sng Avalokitesvara, một vị Bồ Tt rất được t顴n knh tại vương quốc ny. Indravarman II l� người đ xy dựng tại 㢐ồng Dương, pha nam Tr Kiệu, một th�nh địa Phật Gio lớn nhất để thờ phượng đức Laksmindra-Lokesvara m H. Parmentier đᠣ viết một số bi nghin cứu, thiết kế họa đồ về thડnh địa ny cũng như kiểm k lại những di tભch v tượng Phật đ t࣬m thấy trong quần thể hnh chữ nhật tại ồng Dương, để đăng tải trong t쐡c phẩm L’Inventaire archeologique de l’Indochine. II Monuments cam de l’Annam (Paris, Leroux, 1909-1918). Phật Gio đại thừa (mahayana) l hệ thống tᠭn ngưỡng đ từng giữ một vai tr ưu thế tại Champa cho đến năm 914, tức l㲠 năm đnh dấu cho sự biến mất bia k Phật Giὡo tại vương quốc ny. iều nРy khng c nghĩa l䳠 tn ngưỡng Phật Gio bị suy sụp hẳn, v� cc tượng bằng đồng v một số bảo vật Phật Giᠡo vẫn tiếp tục xuất hiện vo thế kỷ X v XI. Ch࠭nh đ l dữ kiện đ㠣 chứng minh rằng Phật Gio vẫn cn hiện hữu tại Champa cho đến thế kỷ thứ XI. BᲪn cạnh những nghi lễ m chng tິi vừa đề cập đến, cc vua cha Champa cũng xẢy dựng nhiều điện thờ tn gio quan trọng trong suốt thời kỳ Ấn H䡳a, đặc biệt tại thnh địa Mĩ Sơn v Po Nagar ở Nha trang, nhằm tᠴn vinh cc vị thần linh v dᠢng lời knh cẩn đến bậc tiền nhn hiển th�nh với niềm hy vọng l cc vị vࡴ hnh ny sẽ đem lại sự an b젬nh cho vương quốc v triều đại của họ. Nối gt những c೴ng trnh xy dựng do vua ch좺a Champa đ thực hiện, cc ho㡠ng tử v quan chức cao cấp trong triều đnh cũng từng gଳp phần vo chương trnh thiết kế cଡc điện thờ hoặc dng tặng cho cc đền th⡡p những tượng Linga m một số c vೠng bao bọc bn ngoi để thờ c꠺ng đấng Shiva. ối với cСc vị hong tử, cử chỉ dng tặng Linga cho đền thࢡp thường nhắm vo mục tiu nhằm t઴n vinh dng tộc qu ph⭡i của họ. ối với quan chức cao cấp trong triều đЬnh, đy l h⠠nh động nhằm biểu dương vị tr v quyền lực của họ trong x� hội. Ngoi ra, cc bia kࡽ thường ghi rằng vua cha v d꠲ng qu tộc Champa cũng thường trợ cấp cho cc đền th�p nhiều đất đai canh tc, gia sc, người phục dịch, gạo thẳc, vng bạc, v.v. Số lượng hiện vật ny thường vượt quࠡ mức đ lm hao m㠲n đi một phần ti nguyn của quốc gia Champa thời đળ (E. Huber,BEFEO XI,1911, trg. 19-20). Ấn Gio thể hiện qua cc nghi lễ hoᡠng gia Champa chỉ l tn ngưỡng dୠnh ring cho tầng lớp qu tộc. Một khi cꭡc giai cấp qu tộc nắm giữ quyền hnh bị ti�u diệt trong cuộc viễn chinh của ại Việt vРo thế kỷ thứ XV, người ta nhận thấy rằng truyền thống Ấn Gio m triều đᠬnh Champa thường dựa vo đ từ ngೠy lập quốc để lm nền mng cho tổ chức quốc gia của m೬nh cũng biến mất. Cng trong thời điểm đ, khu vực miền nam của Champa (tức l鳠 Panduranga v Kauthara) chưa bị rơi vo nền đ࠴ hộ của ại Việt, tЬm cch xy dựng cho m᢬nh một quốc gia hon ton mới mẻ vࠠ một hệ thống tn ngưỡng mang nhiều yếu tố tiến ha hầu gi�p nhn dn Champa kh⢴ng phn biệt giai cấp đều c quyền gia nhập vⳠ tham gia. M hnh t䬴n gio vừa mới ra đời sau năm 1471 thường thể hiện qua đức tin vo cᠡc đấng v hnh gọi l䬠 yang. Theo triết l của tn ngưỡng n�y, thần linh l tập thể siu hબnh lc no cũng “hiện diện b꠪n cạnh vạn vật v nhn loại” bất cứ nơi nࢠo trn lnh thổ của Kauthara v꣠ Panduranga (CM 35 -14). Chnh v thế, tục thờ thần linh thường nhắm v�o mục tiu nhằm nng cao sự che chở của thần linh hay lꢡnh xa những sự trừng phạt của cc vị v hᴬnh ny. Тy chỉ l tn ngưỡng của “những người dୢn bản địa дng dương” đ c sẵn trước ng㳠y du nhập của Ấn Gio v tiếp tục tồn tại như những lễ nghi dᠢn gian trong suốt thời kỳ Ấn Ha, mặc d triều đ㹬nh Champa khng cng nhận n䴳 như tn ngưỡng chnh thức của quốc gia n�y (P. Mus, “L’Inde vue de l’Est. Cultes indiens et indigenes au Champa”, trongBEFEO XXXIII, 1933, trg. 367, 374). Sau ng y hợp thức ha tục thờ thần linh bởi cc giới l㡣nh đạo tn gio v䡠 chnh trị ở miền nam Champa (CAM 104: 4-5), tục thờ thần linh n�y dường như pht triển dần dần thnh một hệ thống tᠭn ngưỡng trong đ cc nh㡢n vật v hnh quan trọng nhất trở th䬠nh cc đấng thần linh c đủ quyền lực nhằm can thiệp một c᳡ch trực tiếp vo đời sống của con người. iều nРy đ giải thch rằng tại sao người ta phải quan t㭢m rất nhiều đến cc thần linh bảo vệ cc mương đập vᡠ những nghi lễ dnh cho cc vị thần nࡠy. Miền nam Champa l khu vực c kh೭ hậu rất kh cằn. Chỉ c c䳡c bậc thần linh mới c đủ quyền lực trn hệ thống dẫn thủy nhập điền v㪠 mang lại ma mng tr頹 ph hầu nui sống người d괢n. Chnh v thế, c�c bậc v hnh c䬳 trch nhiệm bảo tồn mương đập thường giữ một vị tr h᭠ng đầu trong danh sch phong thần của vương quốc ny. ᠐ cũng l nguy㠪n nhn để giải thch rằng b⭪n cạnh cc lễ tế gia sc (dẪ v g) thường diễn ra vࠠo thng ging v᪠ thng bảy của lịch Chăm, người ta cn lᲠm lễ tế một con tru hằng năm dnh cho thần linh bảo vệ mương đập nằm trong khu vực Phan Rang (CAM 22-4). V⠠ cứ bảy năm một lần, người ta cn tiến hnh một đại lễ long trọng hơn gọi l⠠ lễ tế con tru bạch tạng (CAM 30-13). Bn cạnh tục thờ c⪡c vị thần linh mang tnh cch địa phương cấu th�nh một hệ thống tn ngưỡng rất l phổ biến trong quần ch�ng dn gian của miền nam Champa, người ta cn thấy xuất hiện một thể loại tⲭn ngưỡng mới nữa, đ l tục thờ c㠺ng cc tượng thần linh Ấn Gio khᡴng bị tn ph trước cuộc Nam Tiến của dࡢn tộc Việt. Trước thế kỷ thứ XV, mỗi bức tượng đều mang tn của vị nam thần hay nữ thần m n꠳ biểu tượng. Nhưng sau thế kỷ thứ XV, qui chế tn ngưỡng ny kh�ng cn tồn tại nữa. Hầu hết quần chng d⺢n gian ở miền nam Champa khng quen thuộc cho lắm với cc lễ nghi ho䡠ng gia do giai cấp qu tộc Champa thường tổ chức nhằm vinh danh tam thần (Brahma, Vishnu v Siva) hay t�n thờ một số thần linh khc nằm trong hệ thống Ấn Gio. Vᡠ dn chng miền nam Champa cũng kh⺴ng biết tn tuổi, chn dung vꢠ nguồn gốc lai lịch của cc vị thần Ấn Gio cấu thᡠnh biểu tượng của bức tượng ny. Mặc d vẫn biết những bức tượng đ๳ thường tượng trưng cho cc đấng siu h᪬nh v thing liપng dưới thời Ấn Ha, nhưng dn tộc Chăm ở miền nam Champa vẫn t㢬m cch nhn cᢡch ha những hiện vật ny th㠠nh những vị thần linh hon ton mang phong cࠡch địa phương của họ. Chnh v thế, họ thường g�n cho bức tượng Ấn Gio một tn gọi của c᪡c vị thần linh địa phương Panduranga-Kauthara hay tn gọi của những nhn vật mang tꢭnh cch huyền thoại hay những nhn vật cᢳ thật trong lịch sử mang nhiều đức tnh xuất chng v� đ từng đng g㳳p cng lao nhằm bảo vệ cho nhn d䢢n miền nam của vương quốc ny. Vo thế kỷ XIX vࠠ XX, một số nh nghin cứu cho rằng việc thờ c઺ng cc tượng thần ny chỉ lᠠ sự tiếp nối của cc tập tục tn ngưỡng Champa dưới thời k᭽ Ấn Ha. Kể từ đ, họ thường gọi những người Chăm thực hiện việc thờ c㳺ng cc tượng thần Ấn Gio lᡠ "Chăm B La Mn”. ഐy l giả thuyết ho⠠n ton sai lầm. V rằng dଢn tộc Champa ở miền nam khng tn thờ đấng Siva hay những vị thần linh Ấn Gi䴡o trong nghĩa rộng của n, m ngược lại họ chỉ t㠴n thờ cc bậc thần linh địa phương của họ qua cc tượng vật mang phong cᡡch thần linh Ấn Gio m thᠴi. Тy l 2 th dụ điển h୬nh nhất: Bức tượng của Po In Nagar (B Ch⠺a Xứ) tại đền Nha Trang l vị nữ thần Ấn Gio mang tࡪn l Bhagavati (phu nhn của đấng Shiva) xࢢy dựng vo thế kỷ X v thứ XI. Tuy nhiࠪn, người Chăm hm nay chỉ xem như một vị nữ thần sinh ra từ bọt nước biển v c䠡c từng my, c chức năng tạo ra vũ trụ vⳠ được tn vinh như một vị thần quan trọng nhất tại miền nam Champa (CAM 57-3). Mặc d người Chăm hằng năm thường đến d乢ng hiến cc lễ vật cho Po In Nagar, nhưng họ cũngỳ khᢴng biết thế no l lai lịch vࠠ tn tuổi thật sự của vị nữ thần Ấn Gio nꡠy. Bức tượng của Po Klaung Garai (CAM microfilm 15-5) l th dụ điển h୬nh thứ hai. Theo ti liệu viết bằng tiếng Chăm, Po Klaung Garai l vị vua huyền thoại đࠣ dạy cho dn tộc ny phương c⠡ch xy dựng đập nước, dẫn thủy nhập điền, được xếp vo nh⠢n vật hng đầu trong danh sch thần linh của miền nam Champa. Nhưng trࡪn thực tế, Po Klaung Garai chỉ một Mukhalinga (tượng c khun mặt con người) của đấng Shiva nằm trong hệ thống Ấn Gi㴡o m người Chăm khng cần biết đến. Những thഭ dụ khc c nguồn gốc tương tự như bức tượng Shiva trong đền Po Rome (1625-1651) m᳠ người Chăm cho đ l tượng của vua Po Rome (CAM 152-7) tức l㠠 vị lnh tụ thật sự của vương quốc Champa miền nam đ c㣳 cng thống nhất lại thức hệ đo你n kết giữa hai cộng đồng Chăm Ahier (tạm gọi l B La M࠴n) v Chăm Awal (Hồi Gio khࡴng chnh thống). Người ta cũng khng qu�n nhắc đến một th dụ khc nữa đ� l tượng thần Shiva lin kết với chậu tẩy thể được thờ phượng trong một cડi đền tại Phan R m d�n tộc Chăm cho đ l bức tượng của vua Po Nraup (1652-1653). Th㠪m vo đ, quần ch೺ng Chăm thường cho rằng tất cả những tượng thần Nandin (b thần), Ganesa (thần c đầu voi), Makara (thần biển) hay một số tượng mang phong cⳡch Ấn Gio được tm thấy từ lᬲng đất ở miền nam Champa đều l tượng thần địa phương của dn tộc nࢠy, bởi v người Chăm tin rằng những bảo vật ny mọc từ dưới đất l젪n. Dưới thời Ấn Ha, mọi nghi lễ trong triều đnh Champa thường đ㬲i hỏi c sự hiện diện của những vị tu sĩ Brahman. Chnh v㭬 thế, những đại lễ tại miền nam Champa nhằm vinh danh cc thần linh địa phương thường đặt dưới quyền chủ tr của cᬡc chức sắc tn gio Chăm Ahier, như Po Adhia v䡠 Ong Basaih c sự hiện diện của Ong Camnei (phụ trch bảo tồn lễ vật), Ong Kadhar (phụ tr㡡ch về m nhạc v b⠠i xướng ca) v một số chức sắc phụ thuộc khc trợ giࡺp. Trong cc nghi lễ ny, tất cả chức sắc Chăm Ahier đều mặc những loại lễ phục rất lᠠ đặc biệt m người ta c thể t೬m thấy trong tc phẩm Busana Campa = Cc trang phục Champa xuất bản tại Kuala Lumpur (Muzium dan Antikuiti & EFEO, 1998). Vᡠo khoảng cuối thế kỷ XVI, một số tn đồ Chăm Ahier bắt đầu tiếp thu ảnh hưởng văn ha Hồi Gi�o qua trung gian của cc nh thương thuyền Mᠣ Lai v Ả Rập thường gh qua c੡c bờ biển Champa, ko theo sự ra đời của một cộng đồng Chăm Awal cn gọi l鲠 Chăm Bani (tức l Chăm theo Hồi Gio khࡴng chnh thống) tại Panduranga v c� thể cả khu vực Kauthara xưa kia (P-Y. Manguin, “L’introduction de l’islam au Campa” trongBEFEO LXVI,1979, trg. 255-287). Nhưng người ta vẫn cn đưa ra bao nghi vấn c chăng vương quốc Champa thời đⳳ đ theo Hồi Gio thật sự? C㡢u trả lời chắc chắn l khng. Vബ rằng người Chăm vo thời kỳ đ chỉ tiếp nhận vೠo tn ngưỡng bản địa của mnh một số chương mục của kinh th�nh Koran m đa số cc bản văn đều viết bằng ngࡴn ngữ Chăm pha lẫn với ngn ngữ Ả Rập đầy lỗi chnh tả. Ngo䭠i ra, người ta cn thấy ấng Allah xuất hiện trong văn chương Chăm kh␴ng mang một nghĩa như l Thượng �ế duy nhất theo nghĩa rộng trong gio l của Hồi Giὡo m chỉ l một ࠐấng siu hnh đứng hꬠng đầu trong danh sch thần linh quan trọng của người Chăm ở Panduranga m thᠴi. Thm vo đ꠳ người Chăm Bani ny chỉ thực hiện một số gio điều cơ bản của Hồi Giࡡo m thi, chẳng hạn như việc bố thഭ (zakat) m nghĩa của nཱི khng cn nguy䲪n thủy nữa. Họ khng thi hnh lễ nguyện 5 lần trong một ng䠠y. Lễ nhịn chay vo thng Ramadan chỉ dࡠnh cho cc vị Imam v cᠡc tăng lữ. Lễ cắt b (circoncision) cho phi nam của họ chỉ l졠 một nghi thức tượng trưng. Họ cũng khng thi hnh việc h䠠nh hương tại Makkah ở vng Trung 鐴ng, v sự hiện diện của họ sẽ lm mất đi bản t젭nh thing ling của thꪡnh địa ny. Mặc d tự nhận m๬nh l Chăm Bani (Bani l tiếng Ả Rập, c࠳ nghĩa cc đứa con) theo Hồi Gio, nhưng họ vẫn tiếp tục duy trᡬ chế độ mẫu hệ v mẫu cư, một qui chế tổ chức gia đnh vଠ x hội hon to㠠n đi ngược lại với phong tục của Hồi Gio. Thm v᪠o đ, khng ai c㴳 thể nhập đạo Hồi Gio của người Chăm Bani, nếu thn mẫu của họ khᢴng phải l Chăm Bani (CAM microfilm 6-2). Cuối cng, người Chăm Awal l๠ một cộng đồng c một tn ngưỡng ri㭪ng nhưng lc no cũng sống li꠪n kết chặt chẽ với người Chăm Ahier, tức l Chăm Ba La Mn chấp nhận Po Auluah (Allah) như đấng tạo hളa địa phương của họ. Người Chăm Awal cũng thường tham gia trong cc nghi lễ ring của Chăm Ahier, mặc d᪹ nghi lễ ny khng liപn hệ g với gio l졽 của Islam. Vo dịp lễ ma rija (CAM 27-30) hoặc cມc lễ tế thần nng, cc vị chức sắc Chăm Bani như Po Gru, Imam v䡠 Katib đều c mặt trong cc lễ tục n㡠y bn cạnh cc chức sắc Chăm Ahier. Hoꡠn ton khc biệt với cộng đồng Chăm Bani ở miền trung Việỳt Nam, hầu hết người Chăm sinh sống tại Campuchia đều theo Hồi Giࡡo chnh thống, ngoại trừ một vi th�n xm lẻ loi cn theo phong tục tập qu㲡n Chăm Bani. Họ tn trọng đng mức thực hiện 5 lễ nguyện trong một ng亠y như gio điều của Islam, tun lệnh gắt gao những điều cấm kỵ trong t᢭n ngưỡng ny v cࠡc nghĩa vụ khc của gio phᡡi Hồi Gio Sunni. Sự gia nhập Islam của người Chăm tại Campuchia pht xuất từ mối quan hệ chặt chẽ với người Mᡣ Lai sinh sống tại vương quốc ny, vốn l cộng đồng đࠣ đng gp t㳭ch cực vo việc truyền b t࡭n ngưỡng Hồi Gio vo vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ XVI. Thᠪm vo đ, người Mೣ Lai cũng khng ngừng khuyến khch cộng đồng Chăm Campuchia n䭪n học hỏi gio l với cὡc Ulama (chuyn gia về luật Hồi Gio) tại Kelantan vꡠ Terengganu (hai tiểu bang của M Lai) để gia tăng đức tin của họ. iều n㐠y cấu thnh yếu tố để giải thch rằng tại sao người Chăm Campuchia đୣ từng trải qua từ mấy chục năm qua, dưới bao p lực của một số phong tro cải cᠡch Islam c địa bn hoạt động trong khu vực 㠐ng Nam . Khu vực T䁢y Nguyn ở miền trung Việt Nam l nơi mꠠ người ta tm thấy một số hiện vật v đền th젡p Champa. iều nРy đ chứng minh rằng tại vng cao của Champa thời đ㹳 cũng c những tập tục tn ngưỡng Ấn Gi㭡o, rất gần gũi với văn ha ở vng đồng bằng ven biển của vương quốc n㹠y. Tấm bia viết bằng Phạn Ngữ ở Klon Klor gần Kontum đ xc nhận sự hiện diện của Ấn Gi㡡o trn khu vực Ty Nguyꢪn, mặc d bia k n魠y chỉ nhắc đến một nhn vật mang tn l⪠ Mahindravarman v cũng khng cho biết ai lഠ người sng tc cᡡc bia k Phạn ngữ nằm trong lng chảo của s�ng Ba, thuộc tỉnh Gia Lai. Chnh v thế người ta thường n�u ra bao cu hỏi c chăng tⳡc giả của bia k ny l� người Ty Nguyn mang ảnh hưởng văn h⪳a Chăm hay họ l người Chăm từ vng đồng bằng sang định cư tr๪n miền cao của Champa vo những thời kỳ đ. Ai cũng biết, vೠo cc thế kỷ XVIII, XIX v XX, Tᠢy Nguyn vẫn l khu vực c꠳ một nguồn gốc tn ngưỡng bản địa ring biệt. �ối với dn tộc ny, vũ trụ l⠠ một khng gian hon to䠠n nằm trong tay của đấng v hnh, của c䬡c bậc thần linh v vong linh m dࠢn tộc bản địa Ty Nguyn phải t⪴n vinh v qui phục hay tm cଡch lnh xa những sự hung c của nᡳ (J. Boulbet,Pays des Maa, Domaine des genies, Nggar Maa, Nggar Yang, Paris, Publications de EFEO, vol. LXII, 1967). Họ tin rằng phương c!ch hữu hiệu nhất để đạt được lng tin của thế giới v h⴬nh l tổ chức những nghi lễ tế vật nhằm tn vinh cഡc bậc thần linh km theo lời khấn nguyện của một trong cc người tham dự. 衐iều ny đ giải th࣭ch nguyn nhn sự ra đời của nhiều lễ tế trꢪn khu vực Ty Nguyn cho đến khi Cộng H⪲a X Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đưa ra chiến dịch chống ph m㡪 tn dị đoan bằng cch ngăn cấm c�c tập tục ny vo cuối thế kỷ XX. ࠠ (Nguồn tư liệu : P-B Lafont, Vương Quốc Champa. Địa Dư, Dˢn Cư v Lịch Sử,໠Champaka số 11, 2011, tr. 71-85) Nguồn: Champaka.info
0 Rating 256 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2012
P-B. Lafont Từ l:c hnh thnh quốc gia cho đến ng젠y sụp đổ thủ đ Vijaya vo năm 1471, vương quốc Champa kh䠴ng ngừng vy mượn những yếu tố tn ngưỡng của Ấn ⭐ộ để xy dựng hệ thống tn giⴡo của mnh. Hon to젠n tri ngược lại với những g mᬠ một số nh nghin cứu đણ hiểu lầm, cc nghi thức Ấn Gio nᡠy chỉ dnh ring cho cડc thnh phần qu tộc vୠ giai cấp thượng lưu Champa m thi. Vബ rằng cc tầng lớp thần dn thᢴng thường vẫn tiếp tục duy tr tn ngưỡng địa phương của họ đ쭣 c sẵn trước thời kỳ Ấn Ha. Mặc d㳹 chấp nhận một số ảnh hưởng của Ấn Gio, nhưng tầng lớp nhn dᢢn thng thường ny kh䠴ng ngừng cải biến một số yếu tố của Ấn Gio trở thnh hệ thống tᠭn ngưỡng bản địa của mnh. Trong suốt mười hai thế kỷ, cc giai cấp qu졭 tộc v thượng lưu Champa thường thực hiện hai nghi lễ Ấn Gio rất lࡠ r rệt: Nghi thức tn ngưỡng ho孠ng gia v tục tn thờ cഡ nhn. Nghi thức tn ngưỡng ho⭠ng gia l nghi lễ mang tnh cୡch quốc gia thường diễn ra trong thnh địa của Mĩ Sơn, vốn l trung tᠢm tn gio của vương quốc n䡠y. Trong suốt thời kỳ Ấn Ha, tục thờ đấng Shiva được xem như vị thần quan trọng nhất, cấu thnh một hệ thống t㠭n ngưỡng của Champa thời đ. Việc tn thờ thần Shiva thường gắn liền với sự thờ c㴺ng phu nhn (Sakti) của ngi, tức l⠠ vị nữ thần được tn vinh thnh th䠡nh mẫu của vương quốc Champa. Tn thờ đấng Shiva đ trở th䣠nh một nghi lễ quan trọng nhất trong vương quốc Champa so với việc thờ cng những vị thần khc như Brahma vꡠ Vishnu của Ấn Gio được tổ chức tại quốc gia ny (L. Finot, “Inscription de My-sơn”, trongBEFEO II, 1902, trg. 190). Cᠡc bia k cũng như cc h�nh tượng thần linh cn lưu lại đ x⣡c nhận điều đ. Trong suốt thời kỳ Champa Ấn Ha, thần Shiva thường biểu tượng qua một bức tượng c㳳 thn thể như con người với con mắt thứ ba nằm ngay trn tr⪡n, c hai hay nhiều cnh tay cầm c㡡c lễ vật, thng thường l c䠳 sợi dy buộc của Brahman (cordon brahmanique). Thần Shiva cn biểu tượng qua hⲬnh dạng của Linga, tức l một bức tượng hnh trụ cଳ mũ chỏm hnh bn cầu giống như tượng dương vật, c졳 phần chạm trổ giản dị hay cầu kỳ. Tượng Linga đi lc đứng ri亪ng rẻ một mnh nhưng hầu hết thường kết liền trn một c쪡i chậu dng tẩy thể (cuve ả ablution). Mỗi Linga thường mang một tn gọi ri骪ng. Một số tượng Linga nằm trong thnh địa Mĩ Sơn thường biểu tượng cho một triều đại, hoặc ni theo ng᳴n từ hiện đại hơn, tượng trưng cho một "quốc gia", như tượng Linga mang tn Bhadresvara, tức l biểu tượng của nhꠠ vua Bhadravarman I v vương quốc Champa. Phu nhn (Sakti) của Shiva cũng đࢳng một vai tr quan trọng trong tn ngưỡng của Champa. Vị nữ thần n⭠y thường được trnh by dưới h젬nh thể con người hoặc đơn độc hoặc ngồi trn lưng của Nandin, tức l con b꠲ dng lm phương tiện di chuyển của Shiva. Phu nh頢n của thần Siva thường được tn thờ qua nhiều tn gọi kh䪡c nhau, đặc biệt nhất l nữ thần mang tn Bhagavati ở miền nam của Champa. Cho đến thế kỷ thứ X, tપn nữ thần ny thường dnh liền với việc thờ c୺ng Po Nagar ở Nha Trang, tức l “B Ch࠺a Nữ Thần” (Maitre de la Desse), sau ny trở th頠nh vị nữ thần được tn vinh nhất ở miền nam Champa dưới danh nghĩa l Yang Po Nagara (Th䠡nh mẫu của vương quốc). Sau thế kỷ thứ X, nữ thần Yang Po Nagara thường st nhập vo việc thờ cᠺng vị nam thần Bhadresvara của đền Mĩ Sơn m mục đch lୠ dựa vo sự ha đồng của tಭn ngưỡng để tăng cường việc thống nhất hai miền bắc nam của Champa. Ring về tục thờ c nhꡢn, cc nghi lễ ny thường được tổ chức bởi cᠡc vua cha, cc vị hoꡠng tử v cc giới chức cao cấp trong triều đ࡬nh. Những nghi lễ ny chỉ mang một tầm quan trọng tương đối m th࠴i, mặc d cc bia k顽 khng ngừng nhắc đến. Một số nghi lễ tn thờ c䴡 nhn thường dnh ri⠪ng cho nam thần Vishnu, nhất l vo cࠡc thế kỷ VII-VIII (E. Huber, “ tudes Indochinoises. IX Trois nouvelles inscriptions du roi Prakacadharma du Campaɡ: L’inscription de ương Mong” trongРBEFEO1911, trg. 262). V nghi lễ ny cũng thường p dụng cho nữ thần Laksmi, tức lࡠ phu nhn của Vishnu m c⠡c ti liệu thường nhắc đến vo thế kỷ VIII vࠠ XIV. Người ta cũng khng qun t䪴n thờ nam thần Brahma, mặc d khng thường xuy鴪n cho lắm v một số vị thần linh khc mࡠ bia k thường nu ra. Nhưng nội dung của c�c lễ nghi ny thường mang tnh cୡch văn chương tn ngưỡng hơn l nghi lễ t�n gio. Trong số cc tục thờ cᡡ nhn ny, nghi lễ d⠠nh cho mn phi Phật Gi䡡o cũng chiếm một vị tr rất l quan trọng v�o một số thời kỳ, đặc biệt nhất l vo cuối thế kỷ thứ IX dưới triều đại của Indravarman II, tức lࠠ vị vua Champa đ dnh một ưu đ㠣i đặc biệt cho Phật Gio đại thừa (mahayana) v rất tᠴn sng Avalokitesvara, một vị Bồ Tt rất được t顴n knh tại vương quốc ny. Indravarman II l� người đ xy dựng tại 㢐ồng Dương, pha nam Tr Kiệu, một th�nh địa Phật Gio lớn nhất để thờ phượng đức Laksmindra-Lokesvara m H. Parmentier đᠣ viết một số bi nghin cứu, thiết kế họa đồ về thડnh địa ny cũng như kiểm k lại những di tભch v tượng Phật đ t࣬m thấy trong quần thể hnh chữ nhật tại ồng Dương, để đăng tải trong t쐡c phẩm L’Inventaire archeologique de l’Indochine. II Monuments cam de l’Annam (Paris, Leroux, 1909-1918). Phật Gio đại thừa (mahayana) l hệ thống tᠭn ngưỡng đ từng giữ một vai tr ưu thế tại Champa cho đến năm 914, tức l㲠 năm đnh dấu cho sự biến mất bia k Phật Giὡo tại vương quốc ny. iều nРy khng c nghĩa l䳠 tn ngưỡng Phật Gio bị suy sụp hẳn, v� cc tượng bằng đồng v một số bảo vật Phật Giᠡo vẫn tiếp tục xuất hiện vo thế kỷ X v XI. Ch࠭nh đ l dữ kiện đ㠣 chứng minh rằng Phật Gio vẫn cn hiện hữu tại Champa cho đến thế kỷ thứ XI. BᲪn cạnh những nghi lễ m chng tິi vừa đề cập đến, cc vua cha Champa cũng xẢy dựng nhiều điện thờ tn gio quan trọng trong suốt thời kỳ Ấn H䡳a, đặc biệt tại thnh địa Mĩ Sơn v Po Nagar ở Nha trang, nhằm tᠴn vinh cc vị thần linh v dᠢng lời knh cẩn đến bậc tiền nhn hiển th�nh với niềm hy vọng l cc vị vࡴ hnh ny sẽ đem lại sự an b젬nh cho vương quốc v triều đại của họ. Nối gt những c೴ng trnh xy dựng do vua ch좺a Champa đ thực hiện, cc ho㡠ng tử v quan chức cao cấp trong triều đnh cũng từng gଳp phần vo chương trnh thiết kế cଡc điện thờ hoặc dng tặng cho cc đền th⡡p những tượng Linga m một số c vೠng bao bọc bn ngoi để thờ c꠺ng đấng Shiva. ối với cСc vị hong tử, cử chỉ dng tặng Linga cho đền thࢡp thường nhắm vo mục tiu nhằm t઴n vinh dng tộc qu ph⭡i của họ. ối với quan chức cao cấp trong triều đЬnh, đy l h⠠nh động nhằm biểu dương vị tr v quyền lực của họ trong x� hội. Ngoi ra, cc bia kࡽ thường ghi rằng vua cha v d꠲ng qu tộc Champa cũng thường trợ cấp cho cc đền th�p nhiều đất đai canh tc, gia sc, người phục dịch, gạo thẳc, vng bạc, v.v. Số lượng hiện vật ny thường vượt quࠡ mức đ lm hao m㠲n đi một phần ti nguyn của quốc gia Champa thời đળ (E. Huber,BEFEO XI,1911, trg. 19-20). Ấn Gio thể hiện qua cc nghi lễ hoᡠng gia Champa chỉ l tn ngưỡng dୠnh ring cho tầng lớp qu tộc. Một khi cꭡc giai cấp qu tộc nắm giữ quyền hnh bị ti�u diệt trong cuộc viễn chinh của ại Việt vРo thế kỷ thứ XV, người ta nhận thấy rằng truyền thống Ấn Gio m triều đᠬnh Champa thường dựa vo đ từ ngೠy lập quốc để lm nền mng cho tổ chức quốc gia của m೬nh cũng biến mất. Cng trong thời điểm đ, khu vực miền nam của Champa (tức l鳠 Panduranga v Kauthara) chưa bị rơi vo nền đ࠴ hộ của ại Việt, tЬm cch xy dựng cho m᢬nh một quốc gia hon ton mới mẻ vࠠ một hệ thống tn ngưỡng mang nhiều yếu tố tiến ha hầu gi�p nhn dn Champa kh⢴ng phn biệt giai cấp đều c quyền gia nhập vⳠ tham gia. M hnh t䬴n gio vừa mới ra đời sau năm 1471 thường thể hiện qua đức tin vo cᠡc đấng v hnh gọi l䬠 yang. Theo triết l của tn ngưỡng n�y, thần linh l tập thể siu hબnh lc no cũng “hiện diện b꠪n cạnh vạn vật v nhn loại” bất cứ nơi nࢠo trn lnh thổ của Kauthara v꣠ Panduranga (CM 35 -14). Chnh v thế, tục thờ thần linh thường nhắm v�o mục tiu nhằm nng cao sự che chở của thần linh hay lꢡnh xa những sự trừng phạt của cc vị v hᴬnh ny. Тy chỉ l tn ngưỡng của “những người dୢn bản địa дng dương” đ c sẵn trước ng㳠y du nhập của Ấn Gio v tiếp tục tồn tại như những lễ nghi dᠢn gian trong suốt thời kỳ Ấn Ha, mặc d triều đ㹬nh Champa khng cng nhận n䴳 như tn ngưỡng chnh thức của quốc gia n�y (P. Mus, “L’Inde vue de l’Est. Cultes indiens et indigenes au Champa”, trongBEFEO XXXIII, 1933, trg. 367, 374). Sau ng y hợp thức ha tục thờ thần linh bởi cc giới l㡣nh đạo tn gio v䡠 chnh trị ở miền nam Champa (CAM 104: 4-5), tục thờ thần linh n�y dường như pht triển dần dần thnh một hệ thống tᠭn ngưỡng trong đ cc nh㡢n vật v hnh quan trọng nhất trở th䬠nh cc đấng thần linh c đủ quyền lực nhằm can thiệp một c᳡ch trực tiếp vo đời sống của con người. iều nРy đ giải thch rằng tại sao người ta phải quan t㭢m rất nhiều đến cc thần linh bảo vệ cc mương đập vᡠ những nghi lễ dnh cho cc vị thần nࡠy. Miền nam Champa l khu vực c kh೭ hậu rất kh cằn. Chỉ c c䳡c bậc thần linh mới c đủ quyền lực trn hệ thống dẫn thủy nhập điền v㪠 mang lại ma mng tr頹 ph hầu nui sống người d괢n. Chnh v thế, c�c bậc v hnh c䬳 trch nhiệm bảo tồn mương đập thường giữ một vị tr h᭠ng đầu trong danh sch phong thần của vương quốc ny. ᠐ cũng l nguy㠪n nhn để giải thch rằng b⭪n cạnh cc lễ tế gia sc (dẪ v g) thường diễn ra vࠠo thng ging v᪠ thng bảy của lịch Chăm, người ta cn lᲠm lễ tế một con tru hằng năm dnh cho thần linh bảo vệ mương đập nằm trong khu vực Phan Rang (CAM 22-4). V⠠ cứ bảy năm một lần, người ta cn tiến hnh một đại lễ long trọng hơn gọi l⠠ lễ tế con tru bạch tạng (CAM 30-13). Bn cạnh tục thờ c⪡c vị thần linh mang tnh cch địa phương cấu th�nh một hệ thống tn ngưỡng rất l phổ biến trong quần ch�ng dn gian của miền nam Champa, người ta cn thấy xuất hiện một thể loại tⲭn ngưỡng mới nữa, đ l tục thờ c㠺ng cc tượng thần linh Ấn Gio khᡴng bị tn ph trước cuộc Nam Tiến của dࡢn tộc Việt. Trước thế kỷ thứ XV, mỗi bức tượng đều mang tn của vị nam thần hay nữ thần m n꠳ biểu tượng. Nhưng sau thế kỷ thứ XV, qui chế tn ngưỡng ny kh�ng cn tồn tại nữa. Hầu hết quần chng d⺢n gian ở miền nam Champa khng quen thuộc cho lắm với cc lễ nghi ho䡠ng gia do giai cấp qu tộc Champa thường tổ chức nhằm vinh danh tam thần (Brahma, Vishnu v Siva) hay t�n thờ một số thần linh khc nằm trong hệ thống Ấn Gio. Vᡠ dn chng miền nam Champa cũng kh⺴ng biết tn tuổi, chn dung vꢠ nguồn gốc lai lịch của cc vị thần Ấn Gio cấu thᡠnh biểu tượng của bức tượng ny. Mặc d vẫn biết những bức tượng đ๳ thường tượng trưng cho cc đấng siu h᪬nh v thing liપng dưới thời Ấn Ha, nhưng dn tộc Chăm ở miền nam Champa vẫn t㢬m cch nhn cᢡch ha những hiện vật ny th㠠nh những vị thần linh hon ton mang phong cࠡch địa phương của họ. Chnh v thế, họ thường g�n cho bức tượng Ấn Gio một tn gọi của c᪡c vị thần linh địa phương Panduranga-Kauthara hay tn gọi của những nhn vật mang tꢭnh cch huyền thoại hay những nhn vật cᢳ thật trong lịch sử mang nhiều đức tnh xuất chng v� đ từng đng g㳳p cng lao nhằm bảo vệ cho nhn d䢢n miền nam của vương quốc ny. Vo thế kỷ XIX vࠠ XX, một số nh nghin cứu cho rằng việc thờ c઺ng cc tượng thần ny chỉ lᠠ sự tiếp nối của cc tập tục tn ngưỡng Champa dưới thời k᭽ Ấn Ha. Kể từ đ, họ thường gọi những người Chăm thực hiện việc thờ c㳺ng cc tượng thần Ấn Gio lᡠ "Chăm B La Mn”. ഐy l giả thuyết ho⠠n ton sai lầm. V rằng dଢn tộc Champa ở miền nam khng tn thờ đấng Siva hay những vị thần linh Ấn Gi䴡o trong nghĩa rộng của n, m ngược lại họ chỉ t㠴n thờ cc bậc thần linh địa phương của họ qua cc tượng vật mang phong cᡡch thần linh Ấn Gio m thᠴi. Тy l 2 th dụ điển h୬nh nhất: Bức tượng của Po In Nagar (B Ch⠺a Xứ) tại đền Nha Trang l vị nữ thần Ấn Gio mang tࡪn l Bhagavati (phu nhn của đấng Shiva) xࢢy dựng vo thế kỷ X v thứ XI. Tuy nhiࠪn, người Chăm hm nay chỉ xem như một vị nữ thần sinh ra từ bọt nước biển v c䠡c từng my, c chức năng tạo ra vũ trụ vⳠ được tn vinh như một vị thần quan trọng nhất tại miền nam Champa (CAM 57-3). Mặc d người Chăm hằng năm thường đến d乢ng hiến cc lễ vật cho Po In Nagar, nhưng họ cũngỳ khᢴng biết thế no l lai lịch vࠠ tn tuổi thật sự của vị nữ thần Ấn Gio nꡠy. Bức tượng của Po Klaung Garai (CAM microfilm 15-5) l th dụ điển h୬nh thứ hai. Theo ti liệu viết bằng tiếng Chăm, Po Klaung Garai l vị vua huyền thoại đࠣ dạy cho dn tộc ny phương c⠡ch xy dựng đập nước, dẫn thủy nhập điền, được xếp vo nh⠢n vật hng đầu trong danh sch thần linh của miền nam Champa. Nhưng trࡪn thực tế, Po Klaung Garai chỉ một Mukhalinga (tượng c khun mặt con người) của đấng Shiva nằm trong hệ thống Ấn Gi㴡o m người Chăm khng cần biết đến. Những thഭ dụ khc c nguồn gốc tương tự như bức tượng Shiva trong đền Po Rome (1625-1651) m᳠ người Chăm cho đ l tượng của vua Po Rome (CAM 152-7) tức l㠠 vị lnh tụ thật sự của vương quốc Champa miền nam đ c㣳 cng thống nhất lại thức hệ đo你n kết giữa hai cộng đồng Chăm Ahier (tạm gọi l B La M࠴n) v Chăm Awal (Hồi Gio khࡴng chnh thống). Người ta cũng khng qu�n nhắc đến một th dụ khc nữa đ� l tượng thần Shiva lin kết với chậu tẩy thể được thờ phượng trong một cડi đền tại Phan R m d�n tộc Chăm cho đ l bức tượng của vua Po Nraup (1652-1653). Th㠪m vo đ, quần ch೺ng Chăm thường cho rằng tất cả những tượng thần Nandin (b thần), Ganesa (thần c đầu voi), Makara (thần biển) hay một số tượng mang phong cⳡch Ấn Gio được tm thấy từ lᬲng đất ở miền nam Champa đều l tượng thần địa phương của dn tộc nࢠy, bởi v người Chăm tin rằng những bảo vật ny mọc từ dưới đất l젪n. Dưới thời Ấn Ha, mọi nghi lễ trong triều đnh Champa thường đ㬲i hỏi c sự hiện diện của những vị tu sĩ Brahman. Chnh v㭬 thế, những đại lễ tại miền nam Champa nhằm vinh danh cc thần linh địa phương thường đặt dưới quyền chủ tr của cᬡc chức sắc tn gio Chăm Ahier, như Po Adhia v䡠 Ong Basaih c sự hiện diện của Ong Camnei (phụ trch bảo tồn lễ vật), Ong Kadhar (phụ tr㡡ch về m nhạc v b⠠i xướng ca) v một số chức sắc phụ thuộc khc trợ giࡺp. Trong cc nghi lễ ny, tất cả chức sắc Chăm Ahier đều mặc những loại lễ phục rất lᠠ đặc biệt m người ta c thể t೬m thấy trong tc phẩm Busana Campa = Cc trang phục Champa xuất bản tại Kuala Lumpur (Muzium dan Antikuiti & EFEO, 1998). Vᡠo khoảng cuối thế kỷ XVI, một số tn đồ Chăm Ahier bắt đầu tiếp thu ảnh hưởng văn ha Hồi Gi�o qua trung gian của cc nh thương thuyền Mᠣ Lai v Ả Rập thường gh qua c੡c bờ biển Champa, ko theo sự ra đời của một cộng đồng Chăm Awal cn gọi l鲠 Chăm Bani (tức l Chăm theo Hồi Gio khࡴng chnh thống) tại Panduranga v c� thể cả khu vực Kauthara xưa kia (P-Y. Manguin, “L’introduction de l’islam au Campa” trongBEFEO LXVI,1979, trg. 255-287). Nhưng người ta vẫn cn đưa ra bao nghi vấn c chăng vương quốc Champa thời đⳳ đ theo Hồi Gio thật sự? C㡢u trả lời chắc chắn l khng. Vബ rằng người Chăm vo thời kỳ đ chỉ tiếp nhận vೠo tn ngưỡng bản địa của mnh một số chương mục của kinh th�nh Koran m đa số cc bản văn đều viết bằng ngࡴn ngữ Chăm pha lẫn với ngn ngữ Ả Rập đầy lỗi chnh tả. Ngo䭠i ra, người ta cn thấy ấng Allah xuất hiện trong văn chương Chăm kh␴ng mang một nghĩa như l Thượng �ế duy nhất theo nghĩa rộng trong gio l của Hồi Giὡo m chỉ l một ࠐấng siu hnh đứng hꬠng đầu trong danh sch thần linh quan trọng của người Chăm ở Panduranga m thᠴi. Thm vo đ꠳ người Chăm Bani ny chỉ thực hiện một số gio điều cơ bản của Hồi Giࡡo m thi, chẳng hạn như việc bố thഭ (zakat) m nghĩa của nཱི khng cn nguy䲪n thủy nữa. Họ khng thi hnh lễ nguyện 5 lần trong một ng䠠y. Lễ nhịn chay vo thng Ramadan chỉ dࡠnh cho cc vị Imam v cᠡc tăng lữ. Lễ cắt b (circoncision) cho phi nam của họ chỉ l졠 một nghi thức tượng trưng. Họ cũng khng thi hnh việc h䠠nh hương tại Makkah ở vng Trung 鐴ng, v sự hiện diện của họ sẽ lm mất đi bản t젭nh thing ling của thꪡnh địa ny. Mặc d tự nhận m๬nh l Chăm Bani (Bani l tiếng Ả Rập, c࠳ nghĩa cc đứa con) theo Hồi Gio, nhưng họ vẫn tiếp tục duy trᡬ chế độ mẫu hệ v mẫu cư, một qui chế tổ chức gia đnh vଠ x hội hon to㠠n đi ngược lại với phong tục của Hồi Gio. Thm v᪠o đ, khng ai c㴳 thể nhập đạo Hồi Gio của người Chăm Bani, nếu thn mẫu của họ khᢴng phải l Chăm Bani (CAM microfilm 6-2). Cuối cng, người Chăm Awal l๠ một cộng đồng c một tn ngưỡng ri㭪ng nhưng lc no cũng sống li꠪n kết chặt chẽ với người Chăm Ahier, tức l Chăm Ba La Mn chấp nhận Po Auluah (Allah) như đấng tạo hളa địa phương của họ. Người Chăm Awal cũng thường tham gia trong cc nghi lễ ring của Chăm Ahier, mặc d᪹ nghi lễ ny khng liപn hệ g với gio l졽 của Islam. Vo dịp lễ ma rija (CAM 27-30) hoặc cມc lễ tế thần nng, cc vị chức sắc Chăm Bani như Po Gru, Imam v䡠 Katib đều c mặt trong cc lễ tục n㡠y bn cạnh cc chức sắc Chăm Ahier. Hoꡠn ton khc biệt với cộng đồng Chăm Bani ở miền trung Việỳt Nam, hầu hết người Chăm sinh sống tại Campuchia đều theo Hồi Giࡡo chnh thống, ngoại trừ một vi th�n xm lẻ loi cn theo phong tục tập qu㲡n Chăm Bani. Họ tn trọng đng mức thực hiện 5 lễ nguyện trong một ng亠y như gio điều của Islam, tun lệnh gắt gao những điều cấm kỵ trong t᢭n ngưỡng ny v cࠡc nghĩa vụ khc của gio phᡡi Hồi Gio Sunni. Sự gia nhập Islam của người Chăm tại Campuchia pht xuất từ mối quan hệ chặt chẽ với người Mᡣ Lai sinh sống tại vương quốc ny, vốn l cộng đồng đࠣ đng gp t㳭ch cực vo việc truyền b t࡭n ngưỡng Hồi Gio vo vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ XVI. Thᠪm vo đ, người Mೣ Lai cũng khng ngừng khuyến khch cộng đồng Chăm Campuchia n䭪n học hỏi gio l với cὡc Ulama (chuyn gia về luật Hồi Gio) tại Kelantan vꡠ Terengganu (hai tiểu bang của M Lai) để gia tăng đức tin của họ. iều n㐠y cấu thnh yếu tố để giải thch rằng tại sao người Chăm Campuchia đୣ từng trải qua từ mấy chục năm qua, dưới bao p lực của một số phong tro cải cᠡch Islam c địa bn hoạt động trong khu vực 㠐ng Nam . Khu vực T䁢y Nguyn ở miền trung Việt Nam l nơi mꠠ người ta tm thấy một số hiện vật v đền th젡p Champa. iều nРy đ chứng minh rằng tại vng cao của Champa thời đ㹳 cũng c những tập tục tn ngưỡng Ấn Gi㭡o, rất gần gũi với văn ha ở vng đồng bằng ven biển của vương quốc n㹠y. Tấm bia viết bằng Phạn Ngữ ở Klon Klor gần Kontum đ xc nhận sự hiện diện của Ấn Gi㡡o trn khu vực Ty Nguyꢪn, mặc d bia k n魠y chỉ nhắc đến một nhn vật mang tn l⪠ Mahindravarman v cũng khng cho biết ai lഠ người sng tc cᡡc bia k Phạn ngữ nằm trong lng chảo của s�ng Ba, thuộc tỉnh Gia Lai. Chnh v thế người ta thường n�u ra bao cu hỏi c chăng tⳡc giả của bia k ny l� người Ty Nguyn mang ảnh hưởng văn h⪳a Chăm hay họ l người Chăm từ vng đồng bằng sang định cư tr๪n miền cao của Champa vo những thời kỳ đ. Ai cũng biết, vೠo cc thế kỷ XVIII, XIX v XX, Tᠢy Nguyn vẫn l khu vực c꠳ một nguồn gốc tn ngưỡng bản địa ring biệt. �ối với dn tộc ny, vũ trụ l⠠ một khng gian hon to䠠n nằm trong tay của đấng v hnh, của c䬡c bậc thần linh v vong linh m dࠢn tộc bản địa Ty Nguyn phải t⪴n vinh v qui phục hay tm cଡch lnh xa những sự hung c của nᡳ (J. Boulbet,Pays des Maa, Domaine des genies, Nggar Maa, Nggar Yang, Paris, Publications de EFEO, vol. LXII, 1967). Họ tin rằng phương c!ch hữu hiệu nhất để đạt được lng tin của thế giới v h⴬nh l tổ chức những nghi lễ tế vật nhằm tn vinh cഡc bậc thần linh km theo lời khấn nguyện của một trong cc người tham dự. 衐iều ny đ giải th࣭ch nguyn nhn sự ra đời của nhiều lễ tế trꢪn khu vực Ty Nguyn cho đến khi Cộng H⪲a X Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đưa ra chiến dịch chống ph m㡪 tn dị đoan bằng cch ngăn cấm c�c tập tục ny vo cuối thế kỷ XX. ࠠ (Nguồn tư liệu : P-B Lafont, Vương Quốc Champa. Địa Dư, Dˢn Cư v Lịch Sử,໠Champaka số 11, 2011, tr. 71-85) Nguồn: Champaka.info
0 Rating 256 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2012
P-B. Lafont Từ l:c hnh thnh quốc gia cho đến ng젠y sụp đổ thủ đ Vijaya vo năm 1471, vương quốc Champa kh䠴ng ngừng vy mượn những yếu tố tn ngưỡng của Ấn ⭐ộ để xy dựng hệ thống tn giⴡo của mnh. Hon to젠n tri ngược lại với những g mᬠ một số nh nghin cứu đણ hiểu lầm, cc nghi thức Ấn Gio nᡠy chỉ dnh ring cho cડc thnh phần qu tộc vୠ giai cấp thượng lưu Champa m thi. Vബ rằng cc tầng lớp thần dn thᢴng thường vẫn tiếp tục duy tr tn ngưỡng địa phương của họ đ쭣 c sẵn trước thời kỳ Ấn Ha. Mặc d㳹 chấp nhận một số ảnh hưởng của Ấn Gio, nhưng tầng lớp nhn dᢢn thng thường ny kh䠴ng ngừng cải biến một số yếu tố của Ấn Gio trở thnh hệ thống tᠭn ngưỡng bản địa của mnh. Trong suốt mười hai thế kỷ, cc giai cấp qu졭 tộc v thượng lưu Champa thường thực hiện hai nghi lễ Ấn Gio rất lࡠ r rệt: Nghi thức tn ngưỡng ho孠ng gia v tục tn thờ cഡ nhn. Nghi thức tn ngưỡng ho⭠ng gia l nghi lễ mang tnh cୡch quốc gia thường diễn ra trong thnh địa của Mĩ Sơn, vốn l trung tᠢm tn gio của vương quốc n䡠y. Trong suốt thời kỳ Ấn Ha, tục thờ đấng Shiva được xem như vị thần quan trọng nhất, cấu thnh một hệ thống t㠭n ngưỡng của Champa thời đ. Việc tn thờ thần Shiva thường gắn liền với sự thờ c㴺ng phu nhn (Sakti) của ngi, tức l⠠ vị nữ thần được tn vinh thnh th䠡nh mẫu của vương quốc Champa. Tn thờ đấng Shiva đ trở th䣠nh một nghi lễ quan trọng nhất trong vương quốc Champa so với việc thờ cng những vị thần khc như Brahma vꡠ Vishnu của Ấn Gio được tổ chức tại quốc gia ny (L. Finot, “Inscription de My-sơn”, trongBEFEO II, 1902, trg. 190). Cᠡc bia k cũng như cc h�nh tượng thần linh cn lưu lại đ x⣡c nhận điều đ. Trong suốt thời kỳ Champa Ấn Ha, thần Shiva thường biểu tượng qua một bức tượng c㳳 thn thể như con người với con mắt thứ ba nằm ngay trn tr⪡n, c hai hay nhiều cnh tay cầm c㡡c lễ vật, thng thường l c䠳 sợi dy buộc của Brahman (cordon brahmanique). Thần Shiva cn biểu tượng qua hⲬnh dạng của Linga, tức l một bức tượng hnh trụ cଳ mũ chỏm hnh bn cầu giống như tượng dương vật, c졳 phần chạm trổ giản dị hay cầu kỳ. Tượng Linga đi lc đứng ri亪ng rẻ một mnh nhưng hầu hết thường kết liền trn một c쪡i chậu dng tẩy thể (cuve ả ablution). Mỗi Linga thường mang một tn gọi ri骪ng. Một số tượng Linga nằm trong thnh địa Mĩ Sơn thường biểu tượng cho một triều đại, hoặc ni theo ng᳴n từ hiện đại hơn, tượng trưng cho một "quốc gia", như tượng Linga mang tn Bhadresvara, tức l biểu tượng của nhꠠ vua Bhadravarman I v vương quốc Champa. Phu nhn (Sakti) của Shiva cũng đࢳng một vai tr quan trọng trong tn ngưỡng của Champa. Vị nữ thần n⭠y thường được trnh by dưới h젬nh thể con người hoặc đơn độc hoặc ngồi trn lưng của Nandin, tức l con b꠲ dng lm phương tiện di chuyển của Shiva. Phu nh頢n của thần Siva thường được tn thờ qua nhiều tn gọi kh䪡c nhau, đặc biệt nhất l nữ thần mang tn Bhagavati ở miền nam của Champa. Cho đến thế kỷ thứ X, tપn nữ thần ny thường dnh liền với việc thờ c୺ng Po Nagar ở Nha Trang, tức l “B Ch࠺a Nữ Thần” (Maitre de la Desse), sau ny trở th頠nh vị nữ thần được tn vinh nhất ở miền nam Champa dưới danh nghĩa l Yang Po Nagara (Th䠡nh mẫu của vương quốc). Sau thế kỷ thứ X, nữ thần Yang Po Nagara thường st nhập vo việc thờ cᠺng vị nam thần Bhadresvara của đền Mĩ Sơn m mục đch lୠ dựa vo sự ha đồng của tಭn ngưỡng để tăng cường việc thống nhất hai miền bắc nam của Champa. Ring về tục thờ c nhꡢn, cc nghi lễ ny thường được tổ chức bởi cᠡc vua cha, cc vị hoꡠng tử v cc giới chức cao cấp trong triều đ࡬nh. Những nghi lễ ny chỉ mang một tầm quan trọng tương đối m th࠴i, mặc d cc bia k顽 khng ngừng nhắc đến. Một số nghi lễ tn thờ c䴡 nhn thường dnh ri⠪ng cho nam thần Vishnu, nhất l vo cࠡc thế kỷ VII-VIII (E. Huber, “ tudes Indochinoises. IX Trois nouvelles inscriptions du roi Prakacadharma du Campaɡ: L’inscription de ương Mong” trongРBEFEO1911, trg. 262). V nghi lễ ny cũng thường p dụng cho nữ thần Laksmi, tức lࡠ phu nhn của Vishnu m c⠡c ti liệu thường nhắc đến vo thế kỷ VIII vࠠ XIV. Người ta cũng khng qun t䪴n thờ nam thần Brahma, mặc d khng thường xuy鴪n cho lắm v một số vị thần linh khc mࡠ bia k thường nu ra. Nhưng nội dung của c�c lễ nghi ny thường mang tnh cୡch văn chương tn ngưỡng hơn l nghi lễ t�n gio. Trong số cc tục thờ cᡡ nhn ny, nghi lễ d⠠nh cho mn phi Phật Gi䡡o cũng chiếm một vị tr rất l quan trọng v�o một số thời kỳ, đặc biệt nhất l vo cuối thế kỷ thứ IX dưới triều đại của Indravarman II, tức lࠠ vị vua Champa đ dnh một ưu đ㠣i đặc biệt cho Phật Gio đại thừa (mahayana) v rất tᠴn sng Avalokitesvara, một vị Bồ Tt rất được t顴n knh tại vương quốc ny. Indravarman II l� người đ xy dựng tại 㢐ồng Dương, pha nam Tr Kiệu, một th�nh địa Phật Gio lớn nhất để thờ phượng đức Laksmindra-Lokesvara m H. Parmentier đᠣ viết một số bi nghin cứu, thiết kế họa đồ về thડnh địa ny cũng như kiểm k lại những di tભch v tượng Phật đ t࣬m thấy trong quần thể hnh chữ nhật tại ồng Dương, để đăng tải trong t쐡c phẩm L’Inventaire archeologique de l’Indochine. II Monuments cam de l’Annam (Paris, Leroux, 1909-1918). Phật Gio đại thừa (mahayana) l hệ thống tᠭn ngưỡng đ từng giữ một vai tr ưu thế tại Champa cho đến năm 914, tức l㲠 năm đnh dấu cho sự biến mất bia k Phật Giὡo tại vương quốc ny. iều nРy khng c nghĩa l䳠 tn ngưỡng Phật Gio bị suy sụp hẳn, v� cc tượng bằng đồng v một số bảo vật Phật Giᠡo vẫn tiếp tục xuất hiện vo thế kỷ X v XI. Ch࠭nh đ l dữ kiện đ㠣 chứng minh rằng Phật Gio vẫn cn hiện hữu tại Champa cho đến thế kỷ thứ XI. BᲪn cạnh những nghi lễ m chng tິi vừa đề cập đến, cc vua cha Champa cũng xẢy dựng nhiều điện thờ tn gio quan trọng trong suốt thời kỳ Ấn H䡳a, đặc biệt tại thnh địa Mĩ Sơn v Po Nagar ở Nha trang, nhằm tᠴn vinh cc vị thần linh v dᠢng lời knh cẩn đến bậc tiền nhn hiển th�nh với niềm hy vọng l cc vị vࡴ hnh ny sẽ đem lại sự an b젬nh cho vương quốc v triều đại của họ. Nối gt những c೴ng trnh xy dựng do vua ch좺a Champa đ thực hiện, cc ho㡠ng tử v quan chức cao cấp trong triều đnh cũng từng gଳp phần vo chương trnh thiết kế cଡc điện thờ hoặc dng tặng cho cc đền th⡡p những tượng Linga m một số c vೠng bao bọc bn ngoi để thờ c꠺ng đấng Shiva. ối với cСc vị hong tử, cử chỉ dng tặng Linga cho đền thࢡp thường nhắm vo mục tiu nhằm t઴n vinh dng tộc qu ph⭡i của họ. ối với quan chức cao cấp trong triều đЬnh, đy l h⠠nh động nhằm biểu dương vị tr v quyền lực của họ trong x� hội. Ngoi ra, cc bia kࡽ thường ghi rằng vua cha v d꠲ng qu tộc Champa cũng thường trợ cấp cho cc đền th�p nhiều đất đai canh tc, gia sc, người phục dịch, gạo thẳc, vng bạc, v.v. Số lượng hiện vật ny thường vượt quࠡ mức đ lm hao m㠲n đi một phần ti nguyn của quốc gia Champa thời đળ (E. Huber,BEFEO XI,1911, trg. 19-20). Ấn Gio thể hiện qua cc nghi lễ hoᡠng gia Champa chỉ l tn ngưỡng dୠnh ring cho tầng lớp qu tộc. Một khi cꭡc giai cấp qu tộc nắm giữ quyền hnh bị ti�u diệt trong cuộc viễn chinh của ại Việt vРo thế kỷ thứ XV, người ta nhận thấy rằng truyền thống Ấn Gio m triều đᠬnh Champa thường dựa vo đ từ ngೠy lập quốc để lm nền mng cho tổ chức quốc gia của m೬nh cũng biến mất. Cng trong thời điểm đ, khu vực miền nam của Champa (tức l鳠 Panduranga v Kauthara) chưa bị rơi vo nền đ࠴ hộ của ại Việt, tЬm cch xy dựng cho m᢬nh một quốc gia hon ton mới mẻ vࠠ một hệ thống tn ngưỡng mang nhiều yếu tố tiến ha hầu gi�p nhn dn Champa kh⢴ng phn biệt giai cấp đều c quyền gia nhập vⳠ tham gia. M hnh t䬴n gio vừa mới ra đời sau năm 1471 thường thể hiện qua đức tin vo cᠡc đấng v hnh gọi l䬠 yang. Theo triết l của tn ngưỡng n�y, thần linh l tập thể siu hબnh lc no cũng “hiện diện b꠪n cạnh vạn vật v nhn loại” bất cứ nơi nࢠo trn lnh thổ của Kauthara v꣠ Panduranga (CM 35 -14). Chnh v thế, tục thờ thần linh thường nhắm v�o mục tiu nhằm nng cao sự che chở của thần linh hay lꢡnh xa những sự trừng phạt của cc vị v hᴬnh ny. Тy chỉ l tn ngưỡng của “những người dୢn bản địa дng dương” đ c sẵn trước ng㳠y du nhập của Ấn Gio v tiếp tục tồn tại như những lễ nghi dᠢn gian trong suốt thời kỳ Ấn Ha, mặc d triều đ㹬nh Champa khng cng nhận n䴳 như tn ngưỡng chnh thức của quốc gia n�y (P. Mus, “L’Inde vue de l’Est. Cultes indiens et indigenes au Champa”, trongBEFEO XXXIII, 1933, trg. 367, 374). Sau ng y hợp thức ha tục thờ thần linh bởi cc giới l㡣nh đạo tn gio v䡠 chnh trị ở miền nam Champa (CAM 104: 4-5), tục thờ thần linh n�y dường như pht triển dần dần thnh một hệ thống tᠭn ngưỡng trong đ cc nh㡢n vật v hnh quan trọng nhất trở th䬠nh cc đấng thần linh c đủ quyền lực nhằm can thiệp một c᳡ch trực tiếp vo đời sống của con người. iều nРy đ giải thch rằng tại sao người ta phải quan t㭢m rất nhiều đến cc thần linh bảo vệ cc mương đập vᡠ những nghi lễ dnh cho cc vị thần nࡠy. Miền nam Champa l khu vực c kh೭ hậu rất kh cằn. Chỉ c c䳡c bậc thần linh mới c đủ quyền lực trn hệ thống dẫn thủy nhập điền v㪠 mang lại ma mng tr頹 ph hầu nui sống người d괢n. Chnh v thế, c�c bậc v hnh c䬳 trch nhiệm bảo tồn mương đập thường giữ một vị tr h᭠ng đầu trong danh sch phong thần của vương quốc ny. ᠐ cũng l nguy㠪n nhn để giải thch rằng b⭪n cạnh cc lễ tế gia sc (dẪ v g) thường diễn ra vࠠo thng ging v᪠ thng bảy của lịch Chăm, người ta cn lᲠm lễ tế một con tru hằng năm dnh cho thần linh bảo vệ mương đập nằm trong khu vực Phan Rang (CAM 22-4). V⠠ cứ bảy năm một lần, người ta cn tiến hnh một đại lễ long trọng hơn gọi l⠠ lễ tế con tru bạch tạng (CAM 30-13). Bn cạnh tục thờ c⪡c vị thần linh mang tnh cch địa phương cấu th�nh một hệ thống tn ngưỡng rất l phổ biến trong quần ch�ng dn gian của miền nam Champa, người ta cn thấy xuất hiện một thể loại tⲭn ngưỡng mới nữa, đ l tục thờ c㠺ng cc tượng thần linh Ấn Gio khᡴng bị tn ph trước cuộc Nam Tiến của dࡢn tộc Việt. Trước thế kỷ thứ XV, mỗi bức tượng đều mang tn của vị nam thần hay nữ thần m n꠳ biểu tượng. Nhưng sau thế kỷ thứ XV, qui chế tn ngưỡng ny kh�ng cn tồn tại nữa. Hầu hết quần chng d⺢n gian ở miền nam Champa khng quen thuộc cho lắm với cc lễ nghi ho䡠ng gia do giai cấp qu tộc Champa thường tổ chức nhằm vinh danh tam thần (Brahma, Vishnu v Siva) hay t�n thờ một số thần linh khc nằm trong hệ thống Ấn Gio. Vᡠ dn chng miền nam Champa cũng kh⺴ng biết tn tuổi, chn dung vꢠ nguồn gốc lai lịch của cc vị thần Ấn Gio cấu thᡠnh biểu tượng của bức tượng ny. Mặc d vẫn biết những bức tượng đ๳ thường tượng trưng cho cc đấng siu h᪬nh v thing liપng dưới thời Ấn Ha, nhưng dn tộc Chăm ở miền nam Champa vẫn t㢬m cch nhn cᢡch ha những hiện vật ny th㠠nh những vị thần linh hon ton mang phong cࠡch địa phương của họ. Chnh v thế, họ thường g�n cho bức tượng Ấn Gio một tn gọi của c᪡c vị thần linh địa phương Panduranga-Kauthara hay tn gọi của những nhn vật mang tꢭnh cch huyền thoại hay những nhn vật cᢳ thật trong lịch sử mang nhiều đức tnh xuất chng v� đ từng đng g㳳p cng lao nhằm bảo vệ cho nhn d䢢n miền nam của vương quốc ny. Vo thế kỷ XIX vࠠ XX, một số nh nghin cứu cho rằng việc thờ c઺ng cc tượng thần ny chỉ lᠠ sự tiếp nối của cc tập tục tn ngưỡng Champa dưới thời k᭽ Ấn Ha. Kể từ đ, họ thường gọi những người Chăm thực hiện việc thờ c㳺ng cc tượng thần Ấn Gio lᡠ "Chăm B La Mn”. ഐy l giả thuyết ho⠠n ton sai lầm. V rằng dଢn tộc Champa ở miền nam khng tn thờ đấng Siva hay những vị thần linh Ấn Gi䴡o trong nghĩa rộng của n, m ngược lại họ chỉ t㠴n thờ cc bậc thần linh địa phương của họ qua cc tượng vật mang phong cᡡch thần linh Ấn Gio m thᠴi. Тy l 2 th dụ điển h୬nh nhất: Bức tượng của Po In Nagar (B Ch⠺a Xứ) tại đền Nha Trang l vị nữ thần Ấn Gio mang tࡪn l Bhagavati (phu nhn của đấng Shiva) xࢢy dựng vo thế kỷ X v thứ XI. Tuy nhiࠪn, người Chăm hm nay chỉ xem như một vị nữ thần sinh ra từ bọt nước biển v c䠡c từng my, c chức năng tạo ra vũ trụ vⳠ được tn vinh như một vị thần quan trọng nhất tại miền nam Champa (CAM 57-3). Mặc d người Chăm hằng năm thường đến d乢ng hiến cc lễ vật cho Po In Nagar, nhưng họ cũngỳ khᢴng biết thế no l lai lịch vࠠ tn tuổi thật sự của vị nữ thần Ấn Gio nꡠy. Bức tượng của Po Klaung Garai (CAM microfilm 15-5) l th dụ điển h୬nh thứ hai. Theo ti liệu viết bằng tiếng Chăm, Po Klaung Garai l vị vua huyền thoại đࠣ dạy cho dn tộc ny phương c⠡ch xy dựng đập nước, dẫn thủy nhập điền, được xếp vo nh⠢n vật hng đầu trong danh sch thần linh của miền nam Champa. Nhưng trࡪn thực tế, Po Klaung Garai chỉ một Mukhalinga (tượng c khun mặt con người) của đấng Shiva nằm trong hệ thống Ấn Gi㴡o m người Chăm khng cần biết đến. Những thഭ dụ khc c nguồn gốc tương tự như bức tượng Shiva trong đền Po Rome (1625-1651) m᳠ người Chăm cho đ l tượng của vua Po Rome (CAM 152-7) tức l㠠 vị lnh tụ thật sự của vương quốc Champa miền nam đ c㣳 cng thống nhất lại thức hệ đo你n kết giữa hai cộng đồng Chăm Ahier (tạm gọi l B La M࠴n) v Chăm Awal (Hồi Gio khࡴng chnh thống). Người ta cũng khng qu�n nhắc đến một th dụ khc nữa đ� l tượng thần Shiva lin kết với chậu tẩy thể được thờ phượng trong một cડi đền tại Phan R m d�n tộc Chăm cho đ l bức tượng của vua Po Nraup (1652-1653). Th㠪m vo đ, quần ch೺ng Chăm thường cho rằng tất cả những tượng thần Nandin (b thần), Ganesa (thần c đầu voi), Makara (thần biển) hay một số tượng mang phong cⳡch Ấn Gio được tm thấy từ lᬲng đất ở miền nam Champa đều l tượng thần địa phương của dn tộc nࢠy, bởi v người Chăm tin rằng những bảo vật ny mọc từ dưới đất l젪n. Dưới thời Ấn Ha, mọi nghi lễ trong triều đnh Champa thường đ㬲i hỏi c sự hiện diện của những vị tu sĩ Brahman. Chnh v㭬 thế, những đại lễ tại miền nam Champa nhằm vinh danh cc thần linh địa phương thường đặt dưới quyền chủ tr của cᬡc chức sắc tn gio Chăm Ahier, như Po Adhia v䡠 Ong Basaih c sự hiện diện của Ong Camnei (phụ trch bảo tồn lễ vật), Ong Kadhar (phụ tr㡡ch về m nhạc v b⠠i xướng ca) v một số chức sắc phụ thuộc khc trợ giࡺp. Trong cc nghi lễ ny, tất cả chức sắc Chăm Ahier đều mặc những loại lễ phục rất lᠠ đặc biệt m người ta c thể t೬m thấy trong tc phẩm Busana Campa = Cc trang phục Champa xuất bản tại Kuala Lumpur (Muzium dan Antikuiti & EFEO, 1998). Vᡠo khoảng cuối thế kỷ XVI, một số tn đồ Chăm Ahier bắt đầu tiếp thu ảnh hưởng văn ha Hồi Gi�o qua trung gian của cc nh thương thuyền Mᠣ Lai v Ả Rập thường gh qua c੡c bờ biển Champa, ko theo sự ra đời của một cộng đồng Chăm Awal cn gọi l鲠 Chăm Bani (tức l Chăm theo Hồi Gio khࡴng chnh thống) tại Panduranga v c� thể cả khu vực Kauthara xưa kia (P-Y. Manguin, “L’introduction de l’islam au Campa” trongBEFEO LXVI,1979, trg. 255-287). Nhưng người ta vẫn cn đưa ra bao nghi vấn c chăng vương quốc Champa thời đⳳ đ theo Hồi Gio thật sự? C㡢u trả lời chắc chắn l khng. Vബ rằng người Chăm vo thời kỳ đ chỉ tiếp nhận vೠo tn ngưỡng bản địa của mnh một số chương mục của kinh th�nh Koran m đa số cc bản văn đều viết bằng ngࡴn ngữ Chăm pha lẫn với ngn ngữ Ả Rập đầy lỗi chnh tả. Ngo䭠i ra, người ta cn thấy ấng Allah xuất hiện trong văn chương Chăm kh␴ng mang một nghĩa như l Thượng �ế duy nhất theo nghĩa rộng trong gio l của Hồi Giὡo m chỉ l một ࠐấng siu hnh đứng hꬠng đầu trong danh sch thần linh quan trọng của người Chăm ở Panduranga m thᠴi. Thm vo đ꠳ người Chăm Bani ny chỉ thực hiện một số gio điều cơ bản của Hồi Giࡡo m thi, chẳng hạn như việc bố thഭ (zakat) m nghĩa của nཱི khng cn nguy䲪n thủy nữa. Họ khng thi hnh lễ nguyện 5 lần trong một ng䠠y. Lễ nhịn chay vo thng Ramadan chỉ dࡠnh cho cc vị Imam v cᠡc tăng lữ. Lễ cắt b (circoncision) cho phi nam của họ chỉ l졠 một nghi thức tượng trưng. Họ cũng khng thi hnh việc h䠠nh hương tại Makkah ở vng Trung 鐴ng, v sự hiện diện của họ sẽ lm mất đi bản t젭nh thing ling của thꪡnh địa ny. Mặc d tự nhận m๬nh l Chăm Bani (Bani l tiếng Ả Rập, c࠳ nghĩa cc đứa con) theo Hồi Gio, nhưng họ vẫn tiếp tục duy trᡬ chế độ mẫu hệ v mẫu cư, một qui chế tổ chức gia đnh vଠ x hội hon to㠠n đi ngược lại với phong tục của Hồi Gio. Thm v᪠o đ, khng ai c㴳 thể nhập đạo Hồi Gio của người Chăm Bani, nếu thn mẫu của họ khᢴng phải l Chăm Bani (CAM microfilm 6-2). Cuối cng, người Chăm Awal l๠ một cộng đồng c một tn ngưỡng ri㭪ng nhưng lc no cũng sống li꠪n kết chặt chẽ với người Chăm Ahier, tức l Chăm Ba La Mn chấp nhận Po Auluah (Allah) như đấng tạo hളa địa phương của họ. Người Chăm Awal cũng thường tham gia trong cc nghi lễ ring của Chăm Ahier, mặc d᪹ nghi lễ ny khng liപn hệ g với gio l졽 của Islam. Vo dịp lễ ma rija (CAM 27-30) hoặc cມc lễ tế thần nng, cc vị chức sắc Chăm Bani như Po Gru, Imam v䡠 Katib đều c mặt trong cc lễ tục n㡠y bn cạnh cc chức sắc Chăm Ahier. Hoꡠn ton khc biệt với cộng đồng Chăm Bani ở miền trung Việỳt Nam, hầu hết người Chăm sinh sống tại Campuchia đều theo Hồi Giࡡo chnh thống, ngoại trừ một vi th�n xm lẻ loi cn theo phong tục tập qu㲡n Chăm Bani. Họ tn trọng đng mức thực hiện 5 lễ nguyện trong một ng亠y như gio điều của Islam, tun lệnh gắt gao những điều cấm kỵ trong t᢭n ngưỡng ny v cࠡc nghĩa vụ khc của gio phᡡi Hồi Gio Sunni. Sự gia nhập Islam của người Chăm tại Campuchia pht xuất từ mối quan hệ chặt chẽ với người Mᡣ Lai sinh sống tại vương quốc ny, vốn l cộng đồng đࠣ đng gp t㳭ch cực vo việc truyền b t࡭n ngưỡng Hồi Gio vo vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ XVI. Thᠪm vo đ, người Mೣ Lai cũng khng ngừng khuyến khch cộng đồng Chăm Campuchia n䭪n học hỏi gio l với cὡc Ulama (chuyn gia về luật Hồi Gio) tại Kelantan vꡠ Terengganu (hai tiểu bang của M Lai) để gia tăng đức tin của họ. iều n㐠y cấu thnh yếu tố để giải thch rằng tại sao người Chăm Campuchia đୣ từng trải qua từ mấy chục năm qua, dưới bao p lực của một số phong tro cải cᠡch Islam c địa bn hoạt động trong khu vực 㠐ng Nam . Khu vực T䁢y Nguyn ở miền trung Việt Nam l nơi mꠠ người ta tm thấy một số hiện vật v đền th젡p Champa. iều nРy đ chứng minh rằng tại vng cao của Champa thời đ㹳 cũng c những tập tục tn ngưỡng Ấn Gi㭡o, rất gần gũi với văn ha ở vng đồng bằng ven biển của vương quốc n㹠y. Tấm bia viết bằng Phạn Ngữ ở Klon Klor gần Kontum đ xc nhận sự hiện diện của Ấn Gi㡡o trn khu vực Ty Nguyꢪn, mặc d bia k n魠y chỉ nhắc đến một nhn vật mang tn l⪠ Mahindravarman v cũng khng cho biết ai lഠ người sng tc cᡡc bia k Phạn ngữ nằm trong lng chảo của s�ng Ba, thuộc tỉnh Gia Lai. Chnh v thế người ta thường n�u ra bao cu hỏi c chăng tⳡc giả của bia k ny l� người Ty Nguyn mang ảnh hưởng văn h⪳a Chăm hay họ l người Chăm từ vng đồng bằng sang định cư tr๪n miền cao của Champa vo những thời kỳ đ. Ai cũng biết, vೠo cc thế kỷ XVIII, XIX v XX, Tᠢy Nguyn vẫn l khu vực c꠳ một nguồn gốc tn ngưỡng bản địa ring biệt. �ối với dn tộc ny, vũ trụ l⠠ một khng gian hon to䠠n nằm trong tay của đấng v hnh, của c䬡c bậc thần linh v vong linh m dࠢn tộc bản địa Ty Nguyn phải t⪴n vinh v qui phục hay tm cଡch lnh xa những sự hung c của nᡳ (J. Boulbet,Pays des Maa, Domaine des genies, Nggar Maa, Nggar Yang, Paris, Publications de EFEO, vol. LXII, 1967). Họ tin rằng phương c!ch hữu hiệu nhất để đạt được lng tin của thế giới v h⴬nh l tổ chức những nghi lễ tế vật nhằm tn vinh cഡc bậc thần linh km theo lời khấn nguyện của một trong cc người tham dự. 衐iều ny đ giải th࣭ch nguyn nhn sự ra đời của nhiều lễ tế trꢪn khu vực Ty Nguyn cho đến khi Cộng H⪲a X Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đưa ra chiến dịch chống ph m㡪 tn dị đoan bằng cch ngăn cấm c�c tập tục ny vo cuối thế kỷ XX. ࠠ (Nguồn tư liệu : P-B Lafont, Vương Quốc Champa. Địa Dư, Dˢn Cư v Lịch Sử,໠Champaka số 11, 2011, tr. 71-85) Nguồn: Champaka.info
0 Rating 256 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2012
P-B. Lafont Từ l:c hnh thnh quốc gia cho đến ng젠y sụp đổ thủ đ Vijaya vo năm 1471, vương quốc Champa kh䠴ng ngừng vy mượn những yếu tố tn ngưỡng của Ấn ⭐ộ để xy dựng hệ thống tn giⴡo của mnh. Hon to젠n tri ngược lại với những g mᬠ một số nh nghin cứu đણ hiểu lầm, cc nghi thức Ấn Gio nᡠy chỉ dnh ring cho cડc thnh phần qu tộc vୠ giai cấp thượng lưu Champa m thi. Vബ rằng cc tầng lớp thần dn thᢴng thường vẫn tiếp tục duy tr tn ngưỡng địa phương của họ đ쭣 c sẵn trước thời kỳ Ấn Ha. Mặc d㳹 chấp nhận một số ảnh hưởng của Ấn Gio, nhưng tầng lớp nhn dᢢn thng thường ny kh䠴ng ngừng cải biến một số yếu tố của Ấn Gio trở thnh hệ thống tᠭn ngưỡng bản địa của mnh. Trong suốt mười hai thế kỷ, cc giai cấp qu졭 tộc v thượng lưu Champa thường thực hiện hai nghi lễ Ấn Gio rất lࡠ r rệt: Nghi thức tn ngưỡng ho孠ng gia v tục tn thờ cഡ nhn. Nghi thức tn ngưỡng ho⭠ng gia l nghi lễ mang tnh cୡch quốc gia thường diễn ra trong thnh địa của Mĩ Sơn, vốn l trung tᠢm tn gio của vương quốc n䡠y. Trong suốt thời kỳ Ấn Ha, tục thờ đấng Shiva được xem như vị thần quan trọng nhất, cấu thnh một hệ thống t㠭n ngưỡng của Champa thời đ. Việc tn thờ thần Shiva thường gắn liền với sự thờ c㴺ng phu nhn (Sakti) của ngi, tức l⠠ vị nữ thần được tn vinh thnh th䠡nh mẫu của vương quốc Champa. Tn thờ đấng Shiva đ trở th䣠nh một nghi lễ quan trọng nhất trong vương quốc Champa so với việc thờ cng những vị thần khc như Brahma vꡠ Vishnu của Ấn Gio được tổ chức tại quốc gia ny (L. Finot, “Inscription de My-sơn”, trongBEFEO II, 1902, trg. 190). Cᠡc bia k cũng như cc h�nh tượng thần linh cn lưu lại đ x⣡c nhận điều đ. Trong suốt thời kỳ Champa Ấn Ha, thần Shiva thường biểu tượng qua một bức tượng c㳳 thn thể như con người với con mắt thứ ba nằm ngay trn tr⪡n, c hai hay nhiều cnh tay cầm c㡡c lễ vật, thng thường l c䠳 sợi dy buộc của Brahman (cordon brahmanique). Thần Shiva cn biểu tượng qua hⲬnh dạng của Linga, tức l một bức tượng hnh trụ cଳ mũ chỏm hnh bn cầu giống như tượng dương vật, c졳 phần chạm trổ giản dị hay cầu kỳ. Tượng Linga đi lc đứng ri亪ng rẻ một mnh nhưng hầu hết thường kết liền trn một c쪡i chậu dng tẩy thể (cuve ả ablution). Mỗi Linga thường mang một tn gọi ri骪ng. Một số tượng Linga nằm trong thnh địa Mĩ Sơn thường biểu tượng cho một triều đại, hoặc ni theo ng᳴n từ hiện đại hơn, tượng trưng cho một "quốc gia", như tượng Linga mang tn Bhadresvara, tức l biểu tượng của nhꠠ vua Bhadravarman I v vương quốc Champa. Phu nhn (Sakti) của Shiva cũng đࢳng một vai tr quan trọng trong tn ngưỡng của Champa. Vị nữ thần n⭠y thường được trnh by dưới h젬nh thể con người hoặc đơn độc hoặc ngồi trn lưng của Nandin, tức l con b꠲ dng lm phương tiện di chuyển của Shiva. Phu nh頢n của thần Siva thường được tn thờ qua nhiều tn gọi kh䪡c nhau, đặc biệt nhất l nữ thần mang tn Bhagavati ở miền nam của Champa. Cho đến thế kỷ thứ X, tપn nữ thần ny thường dnh liền với việc thờ c୺ng Po Nagar ở Nha Trang, tức l “B Ch࠺a Nữ Thần” (Maitre de la Desse), sau ny trở th頠nh vị nữ thần được tn vinh nhất ở miền nam Champa dưới danh nghĩa l Yang Po Nagara (Th䠡nh mẫu của vương quốc). Sau thế kỷ thứ X, nữ thần Yang Po Nagara thường st nhập vo việc thờ cᠺng vị nam thần Bhadresvara của đền Mĩ Sơn m mục đch lୠ dựa vo sự ha đồng của tಭn ngưỡng để tăng cường việc thống nhất hai miền bắc nam của Champa. Ring về tục thờ c nhꡢn, cc nghi lễ ny thường được tổ chức bởi cᠡc vua cha, cc vị hoꡠng tử v cc giới chức cao cấp trong triều đ࡬nh. Những nghi lễ ny chỉ mang một tầm quan trọng tương đối m th࠴i, mặc d cc bia k顽 khng ngừng nhắc đến. Một số nghi lễ tn thờ c䴡 nhn thường dnh ri⠪ng cho nam thần Vishnu, nhất l vo cࠡc thế kỷ VII-VIII (E. Huber, “ tudes Indochinoises. IX Trois nouvelles inscriptions du roi Prakacadharma du Campaɡ: L’inscription de ương Mong” trongРBEFEO1911, trg. 262). V nghi lễ ny cũng thường p dụng cho nữ thần Laksmi, tức lࡠ phu nhn của Vishnu m c⠡c ti liệu thường nhắc đến vo thế kỷ VIII vࠠ XIV. Người ta cũng khng qun t䪴n thờ nam thần Brahma, mặc d khng thường xuy鴪n cho lắm v một số vị thần linh khc mࡠ bia k thường nu ra. Nhưng nội dung của c�c lễ nghi ny thường mang tnh cୡch văn chương tn ngưỡng hơn l nghi lễ t�n gio. Trong số cc tục thờ cᡡ nhn ny, nghi lễ d⠠nh cho mn phi Phật Gi䡡o cũng chiếm một vị tr rất l quan trọng v�o một số thời kỳ, đặc biệt nhất l vo cuối thế kỷ thứ IX dưới triều đại của Indravarman II, tức lࠠ vị vua Champa đ dnh một ưu đ㠣i đặc biệt cho Phật Gio đại thừa (mahayana) v rất tᠴn sng Avalokitesvara, một vị Bồ Tt rất được t顴n knh tại vương quốc ny. Indravarman II l� người đ xy dựng tại 㢐ồng Dương, pha nam Tr Kiệu, một th�nh địa Phật Gio lớn nhất để thờ phượng đức Laksmindra-Lokesvara m H. Parmentier đᠣ viết một số bi nghin cứu, thiết kế họa đồ về thડnh địa ny cũng như kiểm k lại những di tભch v tượng Phật đ t࣬m thấy trong quần thể hnh chữ nhật tại ồng Dương, để đăng tải trong t쐡c phẩm L’Inventaire archeologique de l’Indochine. II Monuments cam de l’Annam (Paris, Leroux, 1909-1918). Phật Gio đại thừa (mahayana) l hệ thống tᠭn ngưỡng đ từng giữ một vai tr ưu thế tại Champa cho đến năm 914, tức l㲠 năm đnh dấu cho sự biến mất bia k Phật Giὡo tại vương quốc ny. iều nРy khng c nghĩa l䳠 tn ngưỡng Phật Gio bị suy sụp hẳn, v� cc tượng bằng đồng v một số bảo vật Phật Giᠡo vẫn tiếp tục xuất hiện vo thế kỷ X v XI. Ch࠭nh đ l dữ kiện đ㠣 chứng minh rằng Phật Gio vẫn cn hiện hữu tại Champa cho đến thế kỷ thứ XI. BᲪn cạnh những nghi lễ m chng tິi vừa đề cập đến, cc vua cha Champa cũng xẢy dựng nhiều điện thờ tn gio quan trọng trong suốt thời kỳ Ấn H䡳a, đặc biệt tại thnh địa Mĩ Sơn v Po Nagar ở Nha trang, nhằm tᠴn vinh cc vị thần linh v dᠢng lời knh cẩn đến bậc tiền nhn hiển th�nh với niềm hy vọng l cc vị vࡴ hnh ny sẽ đem lại sự an b젬nh cho vương quốc v triều đại của họ. Nối gt những c೴ng trnh xy dựng do vua ch좺a Champa đ thực hiện, cc ho㡠ng tử v quan chức cao cấp trong triều đnh cũng từng gଳp phần vo chương trnh thiết kế cଡc điện thờ hoặc dng tặng cho cc đền th⡡p những tượng Linga m một số c vೠng bao bọc bn ngoi để thờ c꠺ng đấng Shiva. ối với cСc vị hong tử, cử chỉ dng tặng Linga cho đền thࢡp thường nhắm vo mục tiu nhằm t઴n vinh dng tộc qu ph⭡i của họ. ối với quan chức cao cấp trong triều đЬnh, đy l h⠠nh động nhằm biểu dương vị tr v quyền lực của họ trong x� hội. Ngoi ra, cc bia kࡽ thường ghi rằng vua cha v d꠲ng qu tộc Champa cũng thường trợ cấp cho cc đền th�p nhiều đất đai canh tc, gia sc, người phục dịch, gạo thẳc, vng bạc, v.v. Số lượng hiện vật ny thường vượt quࠡ mức đ lm hao m㠲n đi một phần ti nguyn của quốc gia Champa thời đળ (E. Huber,BEFEO XI,1911, trg. 19-20). Ấn Gio thể hiện qua cc nghi lễ hoᡠng gia Champa chỉ l tn ngưỡng dୠnh ring cho tầng lớp qu tộc. Một khi cꭡc giai cấp qu tộc nắm giữ quyền hnh bị ti�u diệt trong cuộc viễn chinh của ại Việt vРo thế kỷ thứ XV, người ta nhận thấy rằng truyền thống Ấn Gio m triều đᠬnh Champa thường dựa vo đ từ ngೠy lập quốc để lm nền mng cho tổ chức quốc gia của m೬nh cũng biến mất. Cng trong thời điểm đ, khu vực miền nam của Champa (tức l鳠 Panduranga v Kauthara) chưa bị rơi vo nền đ࠴ hộ của ại Việt, tЬm cch xy dựng cho m᢬nh một quốc gia hon ton mới mẻ vࠠ một hệ thống tn ngưỡng mang nhiều yếu tố tiến ha hầu gi�p nhn dn Champa kh⢴ng phn biệt giai cấp đều c quyền gia nhập vⳠ tham gia. M hnh t䬴n gio vừa mới ra đời sau năm 1471 thường thể hiện qua đức tin vo cᠡc đấng v hnh gọi l䬠 yang. Theo triết l của tn ngưỡng n�y, thần linh l tập thể siu hબnh lc no cũng “hiện diện b꠪n cạnh vạn vật v nhn loại” bất cứ nơi nࢠo trn lnh thổ của Kauthara v꣠ Panduranga (CM 35 -14). Chnh v thế, tục thờ thần linh thường nhắm v�o mục tiu nhằm nng cao sự che chở của thần linh hay lꢡnh xa những sự trừng phạt của cc vị v hᴬnh ny. Тy chỉ l tn ngưỡng của “những người dୢn bản địa дng dương” đ c sẵn trước ng㳠y du nhập của Ấn Gio v tiếp tục tồn tại như những lễ nghi dᠢn gian trong suốt thời kỳ Ấn Ha, mặc d triều đ㹬nh Champa khng cng nhận n䴳 như tn ngưỡng chnh thức của quốc gia n�y (P. Mus, “L’Inde vue de l’Est. Cultes indiens et indigenes au Champa”, trongBEFEO XXXIII, 1933, trg. 367, 374). Sau ng y hợp thức ha tục thờ thần linh bởi cc giới l㡣nh đạo tn gio v䡠 chnh trị ở miền nam Champa (CAM 104: 4-5), tục thờ thần linh n�y dường như pht triển dần dần thnh một hệ thống tᠭn ngưỡng trong đ cc nh㡢n vật v hnh quan trọng nhất trở th䬠nh cc đấng thần linh c đủ quyền lực nhằm can thiệp một c᳡ch trực tiếp vo đời sống của con người. iều nРy đ giải thch rằng tại sao người ta phải quan t㭢m rất nhiều đến cc thần linh bảo vệ cc mương đập vᡠ những nghi lễ dnh cho cc vị thần nࡠy. Miền nam Champa l khu vực c kh೭ hậu rất kh cằn. Chỉ c c䳡c bậc thần linh mới c đủ quyền lực trn hệ thống dẫn thủy nhập điền v㪠 mang lại ma mng tr頹 ph hầu nui sống người d괢n. Chnh v thế, c�c bậc v hnh c䬳 trch nhiệm bảo tồn mương đập thường giữ một vị tr h᭠ng đầu trong danh sch phong thần của vương quốc ny. ᠐ cũng l nguy㠪n nhn để giải thch rằng b⭪n cạnh cc lễ tế gia sc (dẪ v g) thường diễn ra vࠠo thng ging v᪠ thng bảy của lịch Chăm, người ta cn lᲠm lễ tế một con tru hằng năm dnh cho thần linh bảo vệ mương đập nằm trong khu vực Phan Rang (CAM 22-4). V⠠ cứ bảy năm một lần, người ta cn tiến hnh một đại lễ long trọng hơn gọi l⠠ lễ tế con tru bạch tạng (CAM 30-13). Bn cạnh tục thờ c⪡c vị thần linh mang tnh cch địa phương cấu th�nh một hệ thống tn ngưỡng rất l phổ biến trong quần ch�ng dn gian của miền nam Champa, người ta cn thấy xuất hiện một thể loại tⲭn ngưỡng mới nữa, đ l tục thờ c㠺ng cc tượng thần linh Ấn Gio khᡴng bị tn ph trước cuộc Nam Tiến của dࡢn tộc Việt. Trước thế kỷ thứ XV, mỗi bức tượng đều mang tn của vị nam thần hay nữ thần m n꠳ biểu tượng. Nhưng sau thế kỷ thứ XV, qui chế tn ngưỡng ny kh�ng cn tồn tại nữa. Hầu hết quần chng d⺢n gian ở miền nam Champa khng quen thuộc cho lắm với cc lễ nghi ho䡠ng gia do giai cấp qu tộc Champa thường tổ chức nhằm vinh danh tam thần (Brahma, Vishnu v Siva) hay t�n thờ một số thần linh khc nằm trong hệ thống Ấn Gio. Vᡠ dn chng miền nam Champa cũng kh⺴ng biết tn tuổi, chn dung vꢠ nguồn gốc lai lịch của cc vị thần Ấn Gio cấu thᡠnh biểu tượng của bức tượng ny. Mặc d vẫn biết những bức tượng đ๳ thường tượng trưng cho cc đấng siu h᪬nh v thing liપng dưới thời Ấn Ha, nhưng dn tộc Chăm ở miền nam Champa vẫn t㢬m cch nhn cᢡch ha những hiện vật ny th㠠nh những vị thần linh hon ton mang phong cࠡch địa phương của họ. Chnh v thế, họ thường g�n cho bức tượng Ấn Gio một tn gọi của c᪡c vị thần linh địa phương Panduranga-Kauthara hay tn gọi của những nhn vật mang tꢭnh cch huyền thoại hay những nhn vật cᢳ thật trong lịch sử mang nhiều đức tnh xuất chng v� đ từng đng g㳳p cng lao nhằm bảo vệ cho nhn d䢢n miền nam của vương quốc ny. Vo thế kỷ XIX vࠠ XX, một số nh nghin cứu cho rằng việc thờ c઺ng cc tượng thần ny chỉ lᠠ sự tiếp nối của cc tập tục tn ngưỡng Champa dưới thời k᭽ Ấn Ha. Kể từ đ, họ thường gọi những người Chăm thực hiện việc thờ c㳺ng cc tượng thần Ấn Gio lᡠ "Chăm B La Mn”. ഐy l giả thuyết ho⠠n ton sai lầm. V rằng dଢn tộc Champa ở miền nam khng tn thờ đấng Siva hay những vị thần linh Ấn Gi䴡o trong nghĩa rộng của n, m ngược lại họ chỉ t㠴n thờ cc bậc thần linh địa phương của họ qua cc tượng vật mang phong cᡡch thần linh Ấn Gio m thᠴi. Тy l 2 th dụ điển h୬nh nhất: Bức tượng của Po In Nagar (B Ch⠺a Xứ) tại đền Nha Trang l vị nữ thần Ấn Gio mang tࡪn l Bhagavati (phu nhn của đấng Shiva) xࢢy dựng vo thế kỷ X v thứ XI. Tuy nhiࠪn, người Chăm hm nay chỉ xem như một vị nữ thần sinh ra từ bọt nước biển v c䠡c từng my, c chức năng tạo ra vũ trụ vⳠ được tn vinh như một vị thần quan trọng nhất tại miền nam Champa (CAM 57-3). Mặc d người Chăm hằng năm thường đến d乢ng hiến cc lễ vật cho Po In Nagar, nhưng họ cũngỳ khᢴng biết thế no l lai lịch vࠠ tn tuổi thật sự của vị nữ thần Ấn Gio nꡠy. Bức tượng của Po Klaung Garai (CAM microfilm 15-5) l th dụ điển h୬nh thứ hai. Theo ti liệu viết bằng tiếng Chăm, Po Klaung Garai l vị vua huyền thoại đࠣ dạy cho dn tộc ny phương c⠡ch xy dựng đập nước, dẫn thủy nhập điền, được xếp vo nh⠢n vật hng đầu trong danh sch thần linh của miền nam Champa. Nhưng trࡪn thực tế, Po Klaung Garai chỉ một Mukhalinga (tượng c khun mặt con người) của đấng Shiva nằm trong hệ thống Ấn Gi㴡o m người Chăm khng cần biết đến. Những thഭ dụ khc c nguồn gốc tương tự như bức tượng Shiva trong đền Po Rome (1625-1651) m᳠ người Chăm cho đ l tượng của vua Po Rome (CAM 152-7) tức l㠠 vị lnh tụ thật sự của vương quốc Champa miền nam đ c㣳 cng thống nhất lại thức hệ đo你n kết giữa hai cộng đồng Chăm Ahier (tạm gọi l B La M࠴n) v Chăm Awal (Hồi Gio khࡴng chnh thống). Người ta cũng khng qu�n nhắc đến một th dụ khc nữa đ� l tượng thần Shiva lin kết với chậu tẩy thể được thờ phượng trong một cડi đền tại Phan R m d�n tộc Chăm cho đ l bức tượng của vua Po Nraup (1652-1653). Th㠪m vo đ, quần ch೺ng Chăm thường cho rằng tất cả những tượng thần Nandin (b thần), Ganesa (thần c đầu voi), Makara (thần biển) hay một số tượng mang phong cⳡch Ấn Gio được tm thấy từ lᬲng đất ở miền nam Champa đều l tượng thần địa phương của dn tộc nࢠy, bởi v người Chăm tin rằng những bảo vật ny mọc từ dưới đất l젪n. Dưới thời Ấn Ha, mọi nghi lễ trong triều đnh Champa thường đ㬲i hỏi c sự hiện diện của những vị tu sĩ Brahman. Chnh v㭬 thế, những đại lễ tại miền nam Champa nhằm vinh danh cc thần linh địa phương thường đặt dưới quyền chủ tr của cᬡc chức sắc tn gio Chăm Ahier, như Po Adhia v䡠 Ong Basaih c sự hiện diện của Ong Camnei (phụ trch bảo tồn lễ vật), Ong Kadhar (phụ tr㡡ch về m nhạc v b⠠i xướng ca) v một số chức sắc phụ thuộc khc trợ giࡺp. Trong cc nghi lễ ny, tất cả chức sắc Chăm Ahier đều mặc những loại lễ phục rất lᠠ đặc biệt m người ta c thể t೬m thấy trong tc phẩm Busana Campa = Cc trang phục Champa xuất bản tại Kuala Lumpur (Muzium dan Antikuiti & EFEO, 1998). Vᡠo khoảng cuối thế kỷ XVI, một số tn đồ Chăm Ahier bắt đầu tiếp thu ảnh hưởng văn ha Hồi Gi�o qua trung gian của cc nh thương thuyền Mᠣ Lai v Ả Rập thường gh qua c੡c bờ biển Champa, ko theo sự ra đời của một cộng đồng Chăm Awal cn gọi l鲠 Chăm Bani (tức l Chăm theo Hồi Gio khࡴng chnh thống) tại Panduranga v c� thể cả khu vực Kauthara xưa kia (P-Y. Manguin, “L’introduction de l’islam au Campa” trongBEFEO LXVI,1979, trg. 255-287). Nhưng người ta vẫn cn đưa ra bao nghi vấn c chăng vương quốc Champa thời đⳳ đ theo Hồi Gio thật sự? C㡢u trả lời chắc chắn l khng. Vബ rằng người Chăm vo thời kỳ đ chỉ tiếp nhận vೠo tn ngưỡng bản địa của mnh một số chương mục của kinh th�nh Koran m đa số cc bản văn đều viết bằng ngࡴn ngữ Chăm pha lẫn với ngn ngữ Ả Rập đầy lỗi chnh tả. Ngo䭠i ra, người ta cn thấy ấng Allah xuất hiện trong văn chương Chăm kh␴ng mang một nghĩa như l Thượng �ế duy nhất theo nghĩa rộng trong gio l của Hồi Giὡo m chỉ l một ࠐấng siu hnh đứng hꬠng đầu trong danh sch thần linh quan trọng của người Chăm ở Panduranga m thᠴi. Thm vo đ꠳ người Chăm Bani ny chỉ thực hiện một số gio điều cơ bản của Hồi Giࡡo m thi, chẳng hạn như việc bố thഭ (zakat) m nghĩa của nཱི khng cn nguy䲪n thủy nữa. Họ khng thi hnh lễ nguyện 5 lần trong một ng䠠y. Lễ nhịn chay vo thng Ramadan chỉ dࡠnh cho cc vị Imam v cᠡc tăng lữ. Lễ cắt b (circoncision) cho phi nam của họ chỉ l졠 một nghi thức tượng trưng. Họ cũng khng thi hnh việc h䠠nh hương tại Makkah ở vng Trung 鐴ng, v sự hiện diện của họ sẽ lm mất đi bản t젭nh thing ling của thꪡnh địa ny. Mặc d tự nhận m๬nh l Chăm Bani (Bani l tiếng Ả Rập, c࠳ nghĩa cc đứa con) theo Hồi Gio, nhưng họ vẫn tiếp tục duy trᡬ chế độ mẫu hệ v mẫu cư, một qui chế tổ chức gia đnh vଠ x hội hon to㠠n đi ngược lại với phong tục của Hồi Gio. Thm v᪠o đ, khng ai c㴳 thể nhập đạo Hồi Gio của người Chăm Bani, nếu thn mẫu của họ khᢴng phải l Chăm Bani (CAM microfilm 6-2). Cuối cng, người Chăm Awal l๠ một cộng đồng c một tn ngưỡng ri㭪ng nhưng lc no cũng sống li꠪n kết chặt chẽ với người Chăm Ahier, tức l Chăm Ba La Mn chấp nhận Po Auluah (Allah) như đấng tạo hളa địa phương của họ. Người Chăm Awal cũng thường tham gia trong cc nghi lễ ring của Chăm Ahier, mặc d᪹ nghi lễ ny khng liപn hệ g với gio l졽 của Islam. Vo dịp lễ ma rija (CAM 27-30) hoặc cມc lễ tế thần nng, cc vị chức sắc Chăm Bani như Po Gru, Imam v䡠 Katib đều c mặt trong cc lễ tục n㡠y bn cạnh cc chức sắc Chăm Ahier. Hoꡠn ton khc biệt với cộng đồng Chăm Bani ở miền trung Việỳt Nam, hầu hết người Chăm sinh sống tại Campuchia đều theo Hồi Giࡡo chnh thống, ngoại trừ một vi th�n xm lẻ loi cn theo phong tục tập qu㲡n Chăm Bani. Họ tn trọng đng mức thực hiện 5 lễ nguyện trong một ng亠y như gio điều của Islam, tun lệnh gắt gao những điều cấm kỵ trong t᢭n ngưỡng ny v cࠡc nghĩa vụ khc của gio phᡡi Hồi Gio Sunni. Sự gia nhập Islam của người Chăm tại Campuchia pht xuất từ mối quan hệ chặt chẽ với người Mᡣ Lai sinh sống tại vương quốc ny, vốn l cộng đồng đࠣ đng gp t㳭ch cực vo việc truyền b t࡭n ngưỡng Hồi Gio vo vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ XVI. Thᠪm vo đ, người Mೣ Lai cũng khng ngừng khuyến khch cộng đồng Chăm Campuchia n䭪n học hỏi gio l với cὡc Ulama (chuyn gia về luật Hồi Gio) tại Kelantan vꡠ Terengganu (hai tiểu bang của M Lai) để gia tăng đức tin của họ. iều n㐠y cấu thnh yếu tố để giải thch rằng tại sao người Chăm Campuchia đୣ từng trải qua từ mấy chục năm qua, dưới bao p lực của một số phong tro cải cᠡch Islam c địa bn hoạt động trong khu vực 㠐ng Nam . Khu vực T䁢y Nguyn ở miền trung Việt Nam l nơi mꠠ người ta tm thấy một số hiện vật v đền th젡p Champa. iều nРy đ chứng minh rằng tại vng cao của Champa thời đ㹳 cũng c những tập tục tn ngưỡng Ấn Gi㭡o, rất gần gũi với văn ha ở vng đồng bằng ven biển của vương quốc n㹠y. Tấm bia viết bằng Phạn Ngữ ở Klon Klor gần Kontum đ xc nhận sự hiện diện của Ấn Gi㡡o trn khu vực Ty Nguyꢪn, mặc d bia k n魠y chỉ nhắc đến một nhn vật mang tn l⪠ Mahindravarman v cũng khng cho biết ai lഠ người sng tc cᡡc bia k Phạn ngữ nằm trong lng chảo của s�ng Ba, thuộc tỉnh Gia Lai. Chnh v thế người ta thường n�u ra bao cu hỏi c chăng tⳡc giả của bia k ny l� người Ty Nguyn mang ảnh hưởng văn h⪳a Chăm hay họ l người Chăm từ vng đồng bằng sang định cư tr๪n miền cao của Champa vo những thời kỳ đ. Ai cũng biết, vೠo cc thế kỷ XVIII, XIX v XX, Tᠢy Nguyn vẫn l khu vực c꠳ một nguồn gốc tn ngưỡng bản địa ring biệt. �ối với dn tộc ny, vũ trụ l⠠ một khng gian hon to䠠n nằm trong tay của đấng v hnh, của c䬡c bậc thần linh v vong linh m dࠢn tộc bản địa Ty Nguyn phải t⪴n vinh v qui phục hay tm cଡch lnh xa những sự hung c của nᡳ (J. Boulbet,Pays des Maa, Domaine des genies, Nggar Maa, Nggar Yang, Paris, Publications de EFEO, vol. LXII, 1967). Họ tin rằng phương c!ch hữu hiệu nhất để đạt được lng tin của thế giới v h⴬nh l tổ chức những nghi lễ tế vật nhằm tn vinh cഡc bậc thần linh km theo lời khấn nguyện của một trong cc người tham dự. 衐iều ny đ giải th࣭ch nguyn nhn sự ra đời của nhiều lễ tế trꢪn khu vực Ty Nguyn cho đến khi Cộng H⪲a X Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đưa ra chiến dịch chống ph m㡪 tn dị đoan bằng cch ngăn cấm c�c tập tục ny vo cuối thế kỷ XX. ࠠ (Nguồn tư liệu : P-B Lafont, Vương Quốc Champa. Địa Dư, Dˢn Cư v Lịch Sử,໠Champaka số 11, 2011, tr. 71-85) Nguồn: Champaka.info
0 Rating 256 views 0 likes 0 Comments
Read more