Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On February 8, 2014
Ngày 4.2 vừa qua người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp theo đúng phong tục truyền thống của đồng bào Chăm, tiếc rằng tháp chưa được làm lễ mở cửa mà đã bị mở toang để phục vụ cho khách du lịch trong dịp tết Nguyên Đán của người Kinh. Đoàn chúng tôi gồm các chức sắc Chăm phục vụ cho buổi lễ mở cửa tháp như Po Adhia, Po Bac, Paxeh cùng Inra Jaka, Jayam Padra đến phụ giúp cho nghi lễ và tìm hiểu thêm những phong tục truyền thống của người Chăm. Lúc 7h 30 sáng đến tháp chúng tôi ngỡ ngàng khi cửa tháp đã bị mở toang, một vài khách du lịch người Kinh cũng đã có mặt, ngoài những vị khách sẵn dịp tìm hiểu thêm phong tục và văn hóa Chăm thì còn có những vị khách với những trang phục và thái độ vô văn hóa đến tạo dáng trên những ngôi tháp linh thiêng và vô tư đi qua đi lại trên những khu vực hành lễ. Cửa tháp mở toang trước giờ hành lễ. Đối với người Chăm, tháp là nơi thực hiện những lễ nghi tôn giáo như lễ Yuer Yang (tháng 4 Chăm lịch) lễ Katé (tháng 7 Chăm lịch) lễ Cambur (tháng 9 Chăm lịch) và lễ Peh Pabah Mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch) và là nơi linh thiêng, bất khả xâm phạm đối với đời sống tâm linh của họ. Theo đúng phong tục truyền thống, người Chăm có 4 lần làm lễ mở cửa tháp trong một năm theo lịch Chăm như trên và chỉ có Po Adhia cùng Ong Camnai, Muk Pajuw và Ong Kadhar, phải hội tụ đủ 4 vị chức sắc trên lễ mở cửa tháp mới được tiến hành và cửa tháp mới được mở. Ngày hôm nay, được sự quan tâm của Nhà Nước nên tháp Po Klaong Garai đã được tu bổ và tôn tạo, trở thành điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Thuận và giao cho Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển du lịch, tăng thu nhập cho tỉnh qua nguồn du lịch thì cơ quan chủ quản tháp cũng cần chú trọng vào việc tạo điều kiện cho người Chăm thực hiện nghi lễ cúng tế trên tháp, tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Chăm trên tháp này. Ong Camnai trao đổi với bảo vệ tháp vì đơn đã được gởi nhưng tháp vẫn mở toang trước giờ hành lễ. Theo đúng lịch Chăm ngày 4.2 vừa qua là ngày người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp- Peh Pabah mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch), biết trước là trùng với dịp tết của người Kinh nên Ban phong tục Chăm và Hội đồng chức sắc đã gởi đơn đề nghị đóng cửa tháp trước 1 ngày cho Ban quan lý di tích tháp Po Klaong Garai, đơn do chính Ban phong tục viết và ngài Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai Đổng Bạ ký gởi trước một ngày, vậy mà đến tháp lúc sáng sớm đoàn người làm lễ vẫn thấy cửa tháp mở toang, điều đó cho thấy rằng tiếng nói của Cả Sư trụ trì tháp và Ban phong tục tế lễ không được coi trọng trên chính ngôi tháp của người Chăm vào đúng ngày người Chăm làm những nghi lễ quan trọng trên đền tháp. Với người Chăm tháp là một quần thể thiêng liêng của dân tộc, là nơi trú ngụ của Thần Yang Chăm, là nơi để tổ chức các nghi lễ tôn giáo của dân tộc, là niềm tự hào của những người con Champa và là chứng nhân lịch sử còn tồn tại suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngoài tháp Chăm Po Adhia còn là vị Cả Sư mà người Chăm kính trọng, là một vị lãnh đạo tinh thần cao quý. Vậy mà tiếc thay những người và tháp mà cả dân tộc Chăm bày lòng kính trọng, ngưỡng mộ và có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Chăm thì Ban quản lý di tích tháp và bảo vệ tháp những người được coi là “ăn nhờ ở đậu” trên di sản thiêng liêng của dân tộc Chăm lại bày tỏ thái độ vô văn hóa, không tôn trọng lời nói của những vị ấy, xem thường nghi lễ, lễ tục của người Chăm trên chính tháp Chăm. Chức sắc Chăm chuẩn bị làm lễ Mở cửa tháp. Qua những quá trình tiếp biến của lịch sử người Chăm đã mất tất cả, chỉ còn lại vài ngôi tháp để thờ tự và cúng kiếng cho trọn đạo hiếu với các bậc tiền nhân Chăm vậy mà những người ăn nhờ ở đậu trên các ngôi tháp Chăm lại là những kẻ vô văn hóa, ăn cháo đá bát khi hàng năm họ thu tiền vé hàng trăm triệu đồng trên những ngôi tháp Chăm vậy mà chỉ vài giờ đóng cửa tháp để người Chăm làm lễ họ lại không quan tâm, không màng đến những tiếng nói của Ban phong tục, cũng như vị Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai. Mong rằng những cơ quan đại diện cho Chăm, mang danh là Chăm dám nói và dám thể hiện những chính kiến để bảo tồn những di sản văn hóa Chăm đang bị cưỡng bức trong hôm nay và mai sau. Putra Jatrai Nguon: Gulpataom.com
0 Rating 448 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 8, 2014
Ngày 4.2 vừa qua người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp theo đúng phong tục truyền thống của đồng bào Chăm, tiếc rằng tháp chưa được làm lễ mở cửa mà đã bị mở toang để phục vụ cho khách du lịch trong dịp tết Nguyên Đán của người Kinh. Đoàn chúng tôi gồm các chức sắc Chăm phục vụ cho buổi lễ mở cửa tháp như Po Adhia, Po Bac, Paxeh cùng Inra Jaka, Jayam Padra đến phụ giúp cho nghi lễ và tìm hiểu thêm những phong tục truyền thống của người Chăm. Lúc 7h 30 sáng đến tháp chúng tôi ngỡ ngàng khi cửa tháp đã bị mở toang, một vài khách du lịch người Kinh cũng đã có mặt, ngoài những vị khách sẵn dịp tìm hiểu thêm phong tục và văn hóa Chăm thì còn có những vị khách với những trang phục và thái độ vô văn hóa đến tạo dáng trên những ngôi tháp linh thiêng và vô tư đi qua đi lại trên những khu vực hành lễ. Cửa tháp mở toang trước giờ hành lễ. Đối với người Chăm, tháp là nơi thực hiện những lễ nghi tôn giáo như lễ Yuer Yang (tháng 4 Chăm lịch) lễ Katé (tháng 7 Chăm lịch) lễ Cambur (tháng 9 Chăm lịch) và lễ Peh Pabah Mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch) và là nơi linh thiêng, bất khả xâm phạm đối với đời sống tâm linh của họ. Theo đúng phong tục truyền thống, người Chăm có 4 lần làm lễ mở cửa tháp trong một năm theo lịch Chăm như trên và chỉ có Po Adhia cùng Ong Camnai, Muk Pajuw và Ong Kadhar, phải hội tụ đủ 4 vị chức sắc trên lễ mở cửa tháp mới được tiến hành và cửa tháp mới được mở. Ngày hôm nay, được sự quan tâm của Nhà Nước nên tháp Po Klaong Garai đã được tu bổ và tôn tạo, trở thành điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Thuận và giao cho Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển du lịch, tăng thu nhập cho tỉnh qua nguồn du lịch thì cơ quan chủ quản tháp cũng cần chú trọng vào việc tạo điều kiện cho người Chăm thực hiện nghi lễ cúng tế trên tháp, tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Chăm trên tháp này. Ong Camnai trao đổi với bảo vệ tháp vì đơn đã được gởi nhưng tháp vẫn mở toang trước giờ hành lễ. Theo đúng lịch Chăm ngày 4.2 vừa qua là ngày người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp- Peh Pabah mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch), biết trước là trùng với dịp tết của người Kinh nên Ban phong tục Chăm và Hội đồng chức sắc đã gởi đơn đề nghị đóng cửa tháp trước 1 ngày cho Ban quan lý di tích tháp Po Klaong Garai, đơn do chính Ban phong tục viết và ngài Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai Đổng Bạ ký gởi trước một ngày, vậy mà đến tháp lúc sáng sớm đoàn người làm lễ vẫn thấy cửa tháp mở toang, điều đó cho thấy rằng tiếng nói của Cả Sư trụ trì tháp và Ban phong tục tế lễ không được coi trọng trên chính ngôi tháp của người Chăm vào đúng ngày người Chăm làm những nghi lễ quan trọng trên đền tháp. Với người Chăm tháp là một quần thể thiêng liêng của dân tộc, là nơi trú ngụ của Thần Yang Chăm, là nơi để tổ chức các nghi lễ tôn giáo của dân tộc, là niềm tự hào của những người con Champa và là chứng nhân lịch sử còn tồn tại suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngoài tháp Chăm Po Adhia còn là vị Cả Sư mà người Chăm kính trọng, là một vị lãnh đạo tinh thần cao quý. Vậy mà tiếc thay những người và tháp mà cả dân tộc Chăm bày lòng kính trọng, ngưỡng mộ và có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Chăm thì Ban quản lý di tích tháp và bảo vệ tháp những người được coi là “ăn nhờ ở đậu” trên di sản thiêng liêng của dân tộc Chăm lại bày tỏ thái độ vô văn hóa, không tôn trọng lời nói của những vị ấy, xem thường nghi lễ, lễ tục của người Chăm trên chính tháp Chăm. Chức sắc Chăm chuẩn bị làm lễ Mở cửa tháp. Qua những quá trình tiếp biến của lịch sử người Chăm đã mất tất cả, chỉ còn lại vài ngôi tháp để thờ tự và cúng kiếng cho trọn đạo hiếu với các bậc tiền nhân Chăm vậy mà những người ăn nhờ ở đậu trên các ngôi tháp Chăm lại là những kẻ vô văn hóa, ăn cháo đá bát khi hàng năm họ thu tiền vé hàng trăm triệu đồng trên những ngôi tháp Chăm vậy mà chỉ vài giờ đóng cửa tháp để người Chăm làm lễ họ lại không quan tâm, không màng đến những tiếng nói của Ban phong tục, cũng như vị Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai. Mong rằng những cơ quan đại diện cho Chăm, mang danh là Chăm dám nói và dám thể hiện những chính kiến để bảo tồn những di sản văn hóa Chăm đang bị cưỡng bức trong hôm nay và mai sau. Putra Jatrai Nguon: Gulpataom.com
0 Rating 448 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 8, 2014
Ngày 4.2 vừa qua người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp theo đúng phong tục truyền thống của đồng bào Chăm, tiếc rằng tháp chưa được làm lễ mở cửa mà đã bị mở toang để phục vụ cho khách du lịch trong dịp tết Nguyên Đán của người Kinh. Đoàn chúng tôi gồm các chức sắc Chăm phục vụ cho buổi lễ mở cửa tháp như Po Adhia, Po Bac, Paxeh cùng Inra Jaka, Jayam Padra đến phụ giúp cho nghi lễ và tìm hiểu thêm những phong tục truyền thống của người Chăm. Lúc 7h 30 sáng đến tháp chúng tôi ngỡ ngàng khi cửa tháp đã bị mở toang, một vài khách du lịch người Kinh cũng đã có mặt, ngoài những vị khách sẵn dịp tìm hiểu thêm phong tục và văn hóa Chăm thì còn có những vị khách với những trang phục và thái độ vô văn hóa đến tạo dáng trên những ngôi tháp linh thiêng và vô tư đi qua đi lại trên những khu vực hành lễ. Cửa tháp mở toang trước giờ hành lễ. Đối với người Chăm, tháp là nơi thực hiện những lễ nghi tôn giáo như lễ Yuer Yang (tháng 4 Chăm lịch) lễ Katé (tháng 7 Chăm lịch) lễ Cambur (tháng 9 Chăm lịch) và lễ Peh Pabah Mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch) và là nơi linh thiêng, bất khả xâm phạm đối với đời sống tâm linh của họ. Theo đúng phong tục truyền thống, người Chăm có 4 lần làm lễ mở cửa tháp trong một năm theo lịch Chăm như trên và chỉ có Po Adhia cùng Ong Camnai, Muk Pajuw và Ong Kadhar, phải hội tụ đủ 4 vị chức sắc trên lễ mở cửa tháp mới được tiến hành và cửa tháp mới được mở. Ngày hôm nay, được sự quan tâm của Nhà Nước nên tháp Po Klaong Garai đã được tu bổ và tôn tạo, trở thành điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Thuận và giao cho Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển du lịch, tăng thu nhập cho tỉnh qua nguồn du lịch thì cơ quan chủ quản tháp cũng cần chú trọng vào việc tạo điều kiện cho người Chăm thực hiện nghi lễ cúng tế trên tháp, tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Chăm trên tháp này. Ong Camnai trao đổi với bảo vệ tháp vì đơn đã được gởi nhưng tháp vẫn mở toang trước giờ hành lễ. Theo đúng lịch Chăm ngày 4.2 vừa qua là ngày người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp- Peh Pabah mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch), biết trước là trùng với dịp tết của người Kinh nên Ban phong tục Chăm và Hội đồng chức sắc đã gởi đơn đề nghị đóng cửa tháp trước 1 ngày cho Ban quan lý di tích tháp Po Klaong Garai, đơn do chính Ban phong tục viết và ngài Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai Đổng Bạ ký gởi trước một ngày, vậy mà đến tháp lúc sáng sớm đoàn người làm lễ vẫn thấy cửa tháp mở toang, điều đó cho thấy rằng tiếng nói của Cả Sư trụ trì tháp và Ban phong tục tế lễ không được coi trọng trên chính ngôi tháp của người Chăm vào đúng ngày người Chăm làm những nghi lễ quan trọng trên đền tháp. Với người Chăm tháp là một quần thể thiêng liêng của dân tộc, là nơi trú ngụ của Thần Yang Chăm, là nơi để tổ chức các nghi lễ tôn giáo của dân tộc, là niềm tự hào của những người con Champa và là chứng nhân lịch sử còn tồn tại suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngoài tháp Chăm Po Adhia còn là vị Cả Sư mà người Chăm kính trọng, là một vị lãnh đạo tinh thần cao quý. Vậy mà tiếc thay những người và tháp mà cả dân tộc Chăm bày lòng kính trọng, ngưỡng mộ và có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Chăm thì Ban quản lý di tích tháp và bảo vệ tháp những người được coi là “ăn nhờ ở đậu” trên di sản thiêng liêng của dân tộc Chăm lại bày tỏ thái độ vô văn hóa, không tôn trọng lời nói của những vị ấy, xem thường nghi lễ, lễ tục của người Chăm trên chính tháp Chăm. Chức sắc Chăm chuẩn bị làm lễ Mở cửa tháp. Qua những quá trình tiếp biến của lịch sử người Chăm đã mất tất cả, chỉ còn lại vài ngôi tháp để thờ tự và cúng kiếng cho trọn đạo hiếu với các bậc tiền nhân Chăm vậy mà những người ăn nhờ ở đậu trên các ngôi tháp Chăm lại là những kẻ vô văn hóa, ăn cháo đá bát khi hàng năm họ thu tiền vé hàng trăm triệu đồng trên những ngôi tháp Chăm vậy mà chỉ vài giờ đóng cửa tháp để người Chăm làm lễ họ lại không quan tâm, không màng đến những tiếng nói của Ban phong tục, cũng như vị Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai. Mong rằng những cơ quan đại diện cho Chăm, mang danh là Chăm dám nói và dám thể hiện những chính kiến để bảo tồn những di sản văn hóa Chăm đang bị cưỡng bức trong hôm nay và mai sau. Putra Jatrai Nguon: Gulpataom.com
0 Rating 448 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 8, 2014
Ngày 4.2 vừa qua người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp theo đúng phong tục truyền thống của đồng bào Chăm, tiếc rằng tháp chưa được làm lễ mở cửa mà đã bị mở toang để phục vụ cho khách du lịch trong dịp tết Nguyên Đán của người Kinh. Đoàn chúng tôi gồm các chức sắc Chăm phục vụ cho buổi lễ mở cửa tháp như Po Adhia, Po Bac, Paxeh cùng Inra Jaka, Jayam Padra đến phụ giúp cho nghi lễ và tìm hiểu thêm những phong tục truyền thống của người Chăm. Lúc 7h 30 sáng đến tháp chúng tôi ngỡ ngàng khi cửa tháp đã bị mở toang, một vài khách du lịch người Kinh cũng đã có mặt, ngoài những vị khách sẵn dịp tìm hiểu thêm phong tục và văn hóa Chăm thì còn có những vị khách với những trang phục và thái độ vô văn hóa đến tạo dáng trên những ngôi tháp linh thiêng và vô tư đi qua đi lại trên những khu vực hành lễ. Cửa tháp mở toang trước giờ hành lễ. Đối với người Chăm, tháp là nơi thực hiện những lễ nghi tôn giáo như lễ Yuer Yang (tháng 4 Chăm lịch) lễ Katé (tháng 7 Chăm lịch) lễ Cambur (tháng 9 Chăm lịch) và lễ Peh Pabah Mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch) và là nơi linh thiêng, bất khả xâm phạm đối với đời sống tâm linh của họ. Theo đúng phong tục truyền thống, người Chăm có 4 lần làm lễ mở cửa tháp trong một năm theo lịch Chăm như trên và chỉ có Po Adhia cùng Ong Camnai, Muk Pajuw và Ong Kadhar, phải hội tụ đủ 4 vị chức sắc trên lễ mở cửa tháp mới được tiến hành và cửa tháp mới được mở. Ngày hôm nay, được sự quan tâm của Nhà Nước nên tháp Po Klaong Garai đã được tu bổ và tôn tạo, trở thành điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Thuận và giao cho Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển du lịch, tăng thu nhập cho tỉnh qua nguồn du lịch thì cơ quan chủ quản tháp cũng cần chú trọng vào việc tạo điều kiện cho người Chăm thực hiện nghi lễ cúng tế trên tháp, tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Chăm trên tháp này. Ong Camnai trao đổi với bảo vệ tháp vì đơn đã được gởi nhưng tháp vẫn mở toang trước giờ hành lễ. Theo đúng lịch Chăm ngày 4.2 vừa qua là ngày người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp- Peh Pabah mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch), biết trước là trùng với dịp tết của người Kinh nên Ban phong tục Chăm và Hội đồng chức sắc đã gởi đơn đề nghị đóng cửa tháp trước 1 ngày cho Ban quan lý di tích tháp Po Klaong Garai, đơn do chính Ban phong tục viết và ngài Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai Đổng Bạ ký gởi trước một ngày, vậy mà đến tháp lúc sáng sớm đoàn người làm lễ vẫn thấy cửa tháp mở toang, điều đó cho thấy rằng tiếng nói của Cả Sư trụ trì tháp và Ban phong tục tế lễ không được coi trọng trên chính ngôi tháp của người Chăm vào đúng ngày người Chăm làm những nghi lễ quan trọng trên đền tháp. Với người Chăm tháp là một quần thể thiêng liêng của dân tộc, là nơi trú ngụ của Thần Yang Chăm, là nơi để tổ chức các nghi lễ tôn giáo của dân tộc, là niềm tự hào của những người con Champa và là chứng nhân lịch sử còn tồn tại suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngoài tháp Chăm Po Adhia còn là vị Cả Sư mà người Chăm kính trọng, là một vị lãnh đạo tinh thần cao quý. Vậy mà tiếc thay những người và tháp mà cả dân tộc Chăm bày lòng kính trọng, ngưỡng mộ và có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Chăm thì Ban quản lý di tích tháp và bảo vệ tháp những người được coi là “ăn nhờ ở đậu” trên di sản thiêng liêng của dân tộc Chăm lại bày tỏ thái độ vô văn hóa, không tôn trọng lời nói của những vị ấy, xem thường nghi lễ, lễ tục của người Chăm trên chính tháp Chăm. Chức sắc Chăm chuẩn bị làm lễ Mở cửa tháp. Qua những quá trình tiếp biến của lịch sử người Chăm đã mất tất cả, chỉ còn lại vài ngôi tháp để thờ tự và cúng kiếng cho trọn đạo hiếu với các bậc tiền nhân Chăm vậy mà những người ăn nhờ ở đậu trên các ngôi tháp Chăm lại là những kẻ vô văn hóa, ăn cháo đá bát khi hàng năm họ thu tiền vé hàng trăm triệu đồng trên những ngôi tháp Chăm vậy mà chỉ vài giờ đóng cửa tháp để người Chăm làm lễ họ lại không quan tâm, không màng đến những tiếng nói của Ban phong tục, cũng như vị Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai. Mong rằng những cơ quan đại diện cho Chăm, mang danh là Chăm dám nói và dám thể hiện những chính kiến để bảo tồn những di sản văn hóa Chăm đang bị cưỡng bức trong hôm nay và mai sau. Putra Jatrai Nguon: Gulpataom.com
0 Rating 448 views 0 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 27, 2014
    Ngày 23-1-2014, mạng web Dân Làm Báo đăng bài viết « Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm » trong đó tác giả đề cập đến chủ quyền Hoàng Sa và Trường Xa của vương quốc Champa nhưng bị Việt Nam chiếm đóng ; vấn đề khủng hoảng chử viết Chăm cải biến của Ban Biên Soạn ; vấn đề sinh viên Chăm ra trường không có việc làm ; vấn đề lò hạt nhận ở Ninh Thuận ; vấn đề người Kinh chiếm đất người Chăm để xây chùa, v.v.   Đây là bài viết mang tính trào phúng nhưng đã nói lên thực trạng của xã hội Chăm vào năm 2013. Chúng tôi xin trích lại bài viết của Dân Làm Báo :   Ngọc Hoàng chất vấn Táo Việt Nam về xã hội Chăm   Glang Anak (Danlambao) - Hai mươi ba tháng chạp năm Quý Tỵ, các Táo Việt về chầu thiên đình. Ngọc Hoàng đã nghe các báo cáo của các Táo Y tế, Giao thông, Kinh tế, Giáo dục... trong năm qua. Và đặc biệt, năm nay có thêm Táo “Người dân” đại diện cho quần chúng nhân dân vốn quen bị “đè đầu cưỡi cổ”, đã quen với thân phận “thấp cổ bé họng”, nay cũng có mặt tại thiên đình để tận mắt chứng kiến những “chiêu trò”, những bản báo cáo “làm hàng” của các Táo.   Táo Quân 2014 điểm qua hầu hết sự kiện thời sự nổi bật trong năm qua... Tuy nhiên, Ngọc Hoàng vẫn thấy thiếu nhiều vụ việc nổi cộm nên tiếp tục truy hỏi các Táo Việt về những vấn đề nhạy cảm trong năm qua. Dưới đây là đoạn hội thoại giữa Ngọc Hoàng và các Táo Việt liên quan đến vấn đề “xã hội Chăm”, xin được ghi lại cho thần dân Chăm được rõ.   Ngọc Hoàng: này Táo Giáo dục, ta đã lệnh cho Thủ tướng Chính phủ ban hành lệnh đưa lịch sử Hoàng sa, Trường Sa vào chương trình sách giáo khoa, Táo đã hay chưa?   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã nhận thông báo số 24/TB-VPCP của Văn phòng chính phủ ngày 30/12/2013 v/v Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đưa vấn đề Biển Đông và chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vào sách giáo khoa các cấp học rồi ạ.   Nhưng thật là khó Ngọc Hoàng ơi… cái công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 thừa nhận hai quần đảo này thuộc Trung Quốc rồi, giờ làm sao???   Ngọc Hoàng: Nhà ngươi phải thông minh lên chứ!!! Phải lập luận là Hoàng Sa, Trường Sa trước đây là thuộc vương quốc Champa, sau này Đại Việt xâm chiếm Champa thì chiếm luôn hai đảo này. Chứ Trung Quốc có xâm chiếm Champa đâu mà có hai quần đảo này.   Táo Giáo dục: Nhưng trong tài liệu “Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa” của Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1995, trong đó chương III bàn về Danh nghĩa Lịch sử và Pháp lý của 2 quần đảo thì không thấy một từ nào nhắc đến Champa, hay nói rằng hai quần đào này thuộc Champa, vậy thì làm sao đây Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Tại sao lại hèn nhát đến thế! phải tôn trọng sự thật lịch sử; Dám làm thì phải dám chịu; Đã xâm chiếm nước Champa để có toàn bộ lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay thì cũng phải đưa lịch sử Champa vào chương trình phổ thông để thế hệ sau được biết. Rõ chưa!   Táo Giáo dục: Vâng ạ!   Ngọc Hoàng: Còn vấn đề “cải biên chữ viết Chăm” Ta nghe các bên tranh luận đến điên hết cả đầu. Táo giải quyết thế nào rồi?   Táo Giáo dục: Dạ vẫn triển khai thường niên chữ viết “cải biến” ạ.   Ngọc Hoàng: Cha chả, Táo có bị điếc tai không? Hay vô cảm đến vậy. Phải tiến hành chỉnh sửa chữ viết Chăm cho hợp lý để không phải mất công sức và tiền của, lại còn làm hỏng cả một thế hệ trẻ. Đó là chưa nói Táo dùng quyền lực để xóa văn hóa, chữ viết dân tộc bản địa. Biết chưa.   Còn điều này nữa, ta nghe Táo Chăm than phiền về việc giáo viên Chăm ra trường không xin được việc làm; người Chăm khó mà làm được chức vụ quan trọng ngay cả trong ngành giáo dục ở xã, huyện… điều này thế nào, Táo báo ta nghe xem.   Táo Giáo dục: Muôn tâu Ngọc Hoàng, điều này ràng buộc nhiều khâu liên quan, nhiều chỉ thị, thông tư liên ngành nên ngoài tầm kiểm soát của Táo.   Ngọc Hoàng: Ta biết, nhưng là giáo dục thì phải công bằng; Táo phải có trách nhiệm tham vấn việc này nghe chưa?   Táo Giáo dục: Đội ơn Ngọc Hoàng.   Ngọc Hoàng: Này Táo điện lực, Ta nghe Táo mang thông điệp về “An ninh năng lượng quốc gia” đến cho mọi người trong năm nay. Nhưng ta cũng nghe Táo Chăm phàn nàn về vấn đề Nhà máy điện hạt nhân – Ninh Thuận – nguy cơ hủy diệt dân tộc Chăm. Táo thấy vấn đề này thế nào?   Táo Điện lực: Muôn tâu Ngọc Hoàng, Thủ tướng đã thông báo “Có thể hoãn nhà máy điện hạt nhân tới 2020”, để chuẩn bị các điều kiện an toàn rồi à.   Ngọc Hoàng: Ta đã lệnh dẹp luôn rồi mà chỉ mới trì hoãn thôi à! Ngay cả Đức, Nhật còn đóng cửa nhà máy điện hạt nhân vậy mà Việt Nam lại đi mua công nghệ rác ấy về, hao tốn bạc tiền, hậu họa khôn lường; đời đời, kiếp kiếp con cháu oán hận nếu xảy ra sự cố. Mà vùng duyên hải Ninh Thuận có an toàn gì đâu, bão lụt quanh năm, thềm lục địa nhiều dư chấn,…thì tìm đâu ra điều kiện an toàn…   Táo Điện lực: Thần sẽ về cho hủy ngay dự án tiềm ẩn độc hại này để cho thần dân muôn nơi nhất là đồng bào Ninh Thuận được ăn tết cho vui vẻ ạ.   Ngọc Hoàng: Hay hay, khá khen cho Táo đã thức thời.   Táo điện lực: Ngọc Hoàng anh minh! Anh Minh!   Ngọc Hoàng: này Táo Y tế: Năm nay ta thấy buồn vì Táo đã để xảy ra quá nhiều vụ việc như: các vụ tiêm nhầm vacxin, ăn bớt vacxin, nhân bản giấy xét nghiệm, vụ bác sĩ Cát Tường đến tình trạng bác sĩ không bằng cấp người Trung Quốc hành nghề ở Việt Nam,…   Ta nghe Táo Chăm báo cáo, đa số công chức Chăm là nghề Y và nghề giáo, bác sĩ Chăm có tay nghề cao, y đức, trách nhiệm lớn. Vậy mà ra trường không xin được việc làm. Táo có biết thực trạng này không?   Táo Y tế: Muôn tâu Ngọc Hoàng, hôm nay Táo mới nghe Ngọc Hoàng nói về việc này. Vì Bác sĩ Chăm không đến thăm “các thủ trưởng” nên xin việc là khó khăn thôi đấy ạ!   Ngọc Hoàng: Người Chăm nghèo khó vì mất đất đai, mất quyền làm chủ trên đất họ thì lấy tiền đâu “thăm viếng”. Ta đã lệnh phải trừng trị nghiêm khắc các vụ việc tham nhũng vừa rồi, Táo chưa rõ à.   Táo Y tế: Thần sai rồi ạ. Thần sẽ sửa chữa vào năm tới ạ.   Ngọc Hoàng: Riêng vấn đề văn hóa người Chăm, Táo chỉ đạo thực hiện năm qua thế nào?     Táo Văn hóa: Dạ muôn tâu Ngọc Hoàng, Thần đã cho đưa các thư tịch cổ về Hà Nội để xử lý kỹ thuật, tu bổ, bồi nền; và nay đã bàn giao lại vào ngày 30.12 để cho Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Chăm tỉnh Ninh Thuận tiếp tục khai thác, bảo tồn và phát huy.    Ngọc Hoàng: Tốt… tốt; thế nhưng việc trùng tu, xây chùa Bửu Sơn mới ở Bình Thuận lấn chiếm không gian di tích lịch sử tháp Po Sah Anaih, coi thường luôn chữ ký đình chỉ xây dựng của Táo, Táo có biết không?    Táo Văn hóa: Dạ… dạ… chuyện đó thần có biết nhưng… lực bất tòng tâm, chuyện đã rồi xin Ngọc Hoàng lượng xét.    Ngọc Hoàng: Không được, không được Thần trông coi chuyện văn hóa nước nhà mà để xảy ra việc lớn thế thì không được. Táo có biết ta lệnh cho việc cưỡng chế, giải tỏa ngôi nhà thờ họ xây dựng bất hợp pháp ở Hà Nội không?    Bình Định cũng đã giải tỏa Chùa Tháp Đôi để trả lại không gian di tích lịch sử Tháp Đôi rồi và ta đã có lời khen.    Vậy Táo nhanh về mà giải quyết cho rõ vụ việc Chùa Bửu Sơn ở Phan Thiết, Bình Thuận và báo cáo sớm cho ta và cũng là tốt cho Táo để lấy lại niềm tin người dân.    Táo Văn hóa: Dạ Thần đội ơn Ngọc Hoàng chỉ bảo ạ!    Ngọc Hoàng: Còn cái vụ “Đàn Tiên Nông” ở xã Phan Hòa, Bắc Bình, Bình Thuận” sao ta không nghe Táo báo cáo. Có phải hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa này còn “lờ mờ” như nhiều người tố phải không? Ta nghe chuyện lấy ông già người Kinh đi chỉ vị trí Đàn Tiên Nông để quay truyền hình phát sóng tuyên truyền gây phản cảm trong dân chúng, chắc Táo biết rồi chứ!    Táo Văn hóa: Dạ… dạ…   Ngọc Hoàng: Đã sai rồi, dự án không chịu từ bỏ; còn đi “mua chuộc” ông già người Chăm để chỉ vị trí khác để thực hiện dự án; làm lung tung xèng, không khoa học, không rõ ràng, làm mất lòng tin người dân… Táo thử xem, di tích không có, vị trí không rõ, vậy thì quyết định công nhận di tích lịch sử Đàn Tiên Nông trong làng người Chăm có giá trị gì?    Ta đã nghe phản ảnh nhiều về tiềm ẩn xung đột tín ngưỡng trong dự án này, vậy mà Táo đã để các quan lại tung hoành, cố đấm ăn xôi thì có nghĩa gì.    Táo về kiểm tra cẩn thận dự án này, kẻo ta nhận thêm kháng nghị thư, đơn tố cáo, rồi lại mở phiên tòa, phiền phức.    À, còn chuyện Táo Chăm phàn nàn về các vụ lấn chiếm đất đai, nào là đất mồ mả thôn Chất Thường, khu mồ mả Tánh Linh, khu mộ địa Tuy Phong;… Táo quan chức xử lý sao rồi?    Táo Quan Chức: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, Táo cũng mới nhận đơn phúc trình, lại bận rộn cuối năm nên chưa kịp xử lý ạ.    Ngọc Hoàng: Thế sao cái vụ Công ty TNHH South Fork của Hoa Kỳ đi kiện UBND tỉnh Bình Thuận về vụ giao đất ở xã Hòa Thắng sau đó lại cho công ty khác khai thác Titan, báo chí đưa tin rùm beng rằng Bình Thuận được thắng kiện 4 tỷ USD. Táo biết rồi chứ.    Táo Quan Chức: Dạ chuyện đó có biết ạ.    Ngọc Hoàng: Thế thì cái vụ Động cát xã Phan Hòa mà người Chăm đang canh tác, chính quyền Bình Thuận viện lý do “mượn” của dân mà mãi đến giờ chưa trả… việc này có liên quan gì đến việc bán hoặc cho công ty nước ngoài thuê như ở Hòa Thắng không?    Táo Quan chức: Ngọc Hoàng thật tỏ tường mọi việc; Cái động cát này cũng dự định….. dạ… thưa… Táo quên rồi; Để Táo về kiểm tra lại ạ.    Ngọc Hoàng: Chuyện quan trọng vậy, sao lại quên. Táo về giải quyết vụ này cho người dân có đất canh tác, xóa đói giảm nghèo. Chứ ta đọc báo cáo năm nào tỷ lệ hộ đói nghèo của người Chăm cũng cao, xót xa lắm. Họ là người bản địa mà.    Này Nam Tào Bắc Đẩu, ghi lại hết các vụ việc này để năm sau các Táo Việt phải bổ sung thêm phần báo cáo về tình hình thần dân Champa ở hạ giới cho ta rõ.    Nam Tào Bắc Đẩu: Tuân lệnh Ngọc Hoàng, Ngọc Hoàng sáng suốt.    Ngọc Hoàng: Này các Táo Việt ngày xưa vì Thiên Lôi của ta mải mê bên vườn hồng mà để cho cuộc “Nam Tiến” phi nghĩa của các ngươi xóa sổ đi một quốc gia Champa đã từng cường thịnh, gây bao nỗi khốn cùng cho thần dân Champa. Nay họ chỉ còn hơn 100 ngàn người, là thần dân thuộc quyền cai trị của các Táo. Các Táo nên nhớ: đất đai cả vùng Nam trung bộ từ Quảng Bình đến Biên Hòa là của tổ tiên người Champa khai phá và gầy dựng từ đầu thế kỷ thứ II và bị chính Đại Việt xâm chiếm và tước đoạt chính thức vào năm 1832, chỉ mới 182 năm thôi. Họ là người bản địa và phải được hưởng quyền bản địa như công ước mà ta đã ban.    Uống nước phải nhớ nguồn, Ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây; các Táo Việt có được chủ quyền lãnh thổ to lớn như ngày hôm nay, thì phải nhớ cội nguồn, nhớ công người Champa khai phá ở phía Nam;    Nay, ta thấy các Táo đã chiếm đất của dân tộc khác rồi, lại còn cư xử vô đạo đức, vô văn hóa với dân tộc họ, bất chấp luân thường đạo lý như thế là không được. Các Táo nên nhớ ở đời “có vay, có trả”; của người khác lấy làm của mình sao được.    Các Táo Việt: Dạ bẩm Ngọc Hoàng, chúng Thần xin hứa ạ!    Ngọc Hoàng: Được! Nam Tào, Bắc Đẩu “record” lời hứa này. Ta bãi triều ở đây.    Chúc các Táo về hạ giới đón một năm mới An khang Thịnh Vượng.   23/1/2014   Glang Anak danlambaovn.blogspot.com (Champaka.info)    
0 Rating 224 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
Uncategorized
By: On January 16, 2014
Từ câu chuyện gia đình của tôi mà nghĩ đến những mẩu chuyện của bậc cha anh đã qua một thời và hôm nay bao chàng trai thanh niên đến tuổi trưởng thành phải gạ vợ lấy chồng đó là một bài toán khó . Xây dựng gia đình để duy trì bảo tồn nòi giống của dân tộc .HayChọn chồng lấy vợ yuôn đẹp giàu sang có danh vọng để thoát khỏi cảnh đói nghèo cơ hàn.Qua nhiều năm đã tìm hiểu từ Thành phố Sài Gòn cho tận miền quê tỉnh lẻ , những mẩu chuyện gia đình người thân của tôi , trong các vùng palei chăm đã có con số bao ngừời đã quay về lại cội nguồn mang tấm thân tàng cho nguoi than họ hàng sưởi ấm những ngày cuối đời cô đơn.Thân làm Osin Nô lệ tình dụcLàm thân đẻ mướn Nghĩ cho cùng đi không rồi cũng về không . Bao đấng mày râu hào hoa phong nhã tuấn kiệt bằng cấp chức tước vinh danh một thời Oanh Oanh liệt liệt hét ra lữa cả họ hàng phải ngậm ngùi thương tiếc .Các cô nàng chân ngắn chân dài eo thon da mịn mắt đỏ môi hồng . Đi về xứ lạ làm dâu nhà người trở thành tỷ phú triệu phú có mấy ai hay . Con cháu lớn lên quên cội quên nguồn không nhận ra mặt tổ tiên .Rồi sẽ đi về đâu hởi em khi trong lòng không còn chút nắng. Ôi cuộc đời của một nguời đàn ông đàn bà chăm như thế sao.Lỗi lầm . Lầm lỗi .
0 Rating 79 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 584 views 3 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 4, 2014
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/inter-office-champ-forum-minority-ha-11262012123600.html?searchterm:utf8:ustring=champa Văn phòng Quốc Tế Champa, International Office of Champa (gọi tắt là IOC), sẽ tham dự Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 5 về Dân tộc Thiểu số ở Geneva, Thụy Sĩ trong 2 ngày 27 và 28/11.uộc phỏng vấn này. Văn phòng Quốc tế Champa được xem là một tổ chức tiếng nói của cộng đồng người Chăm. Đây là lần thứ 3, tổ chức IOC được Liên Hiệp Quốc mời tham dự Diễn đàn về Dân tộc Thiểu số. Thông điệp của IOC Trả lời phỏng vấn từ Paris, Tiến sĩ Po Dharma, Đại diện tổ chức IOC, cho biết nhận xét của tổ chức IOC về chính sách của Nhà nước Việt Nam dành cho cộng đồng dân tộc Chăm ở trong nước hiện nay: Theo chúng tôi nghĩ là nhà nước Việt Nam lúc nào cũng tuyên bố, phát biểu trước diễn đàn LHQ, cũng viết trên báo chí là Nhà nước Việt Nam luôn luôn trung thành với những gì mà nhất là “Quyền của Dân tộc Thiểu số” do LHQ đưa ra. Tiếc rằng trong chính sách đó khi thực hiện lại không hoàn hảo, không phù hợp với yêu cầu của dân tộc thiểu số, với những điều lệ do hiến chương của LHQ liên quan đến vấn đề dân tộc thiểu số. Đó là vấn đề rắc rối nhất và khó khăn nhất. Hòa Ái: Trong lần tham dự này thì thông điệp mà tổ chức IOC muốn mang đến LHQ là gì, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng. Trong những phần chính phủ Việt Nam đang giúp đỡ thì chúng tôi rất cảm ơn. Chúng tôi không dám nói là nhà nước Việt Nam không chăm lo cho dân tộc thiểu số nhưng tiếc rằng trong các dự án lo cho dân tộc thiểu số, nhất là dân tộc thiểu số người Chăm là chính sách đó chưa phát triển nhiều và không đem lại kết quả mỹ mãn. Như vậy, chúng tôi sẽ đề nghị lại với Diễn đàn LHQ 6 vấn đề đối với nhà nước Việt Nam. Hòa Ái:Theo như Tiến sĩ chia sẻ, lần này tổ chức IOC sẽ trình bày 6 điểm. Vậy 6 điểm cụ thể là gì? Tiến sĩ Po Dharma: Cụ thể thứ nhất là dân tộc người Chăm là một thành phần dân tộc thiểu số ở Việt Nam lâu đời, có chiều dài lịch sử là thần dân của Vương quốc Champa thời trước, ở miền Trung Việt Nam. Đó là điều chúng ta cần phải biết. Trong diễn đàn lần này, chúng tôi muốn điểm lại những gì Nhà nước Việt Nam đã giúp cho dân tộc thiểu số tại Việt Nam nói chung và dân tộc thiểu số người Chăm nói riêng.Tiến sĩ Po Dharma Điểm thứ hai, sau ngày Vương quốc Champa bị mất nước-1832, Vua Thiệu Trị  đã lập lại quy ước mới là cho lại quy chế đặc biệt cho dân tộc Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Và quy chế đặc biệt này trong suốt thời kỳ Thiệu Trị, Từ Đức, Khải Định, Bảo Đại và cho đến thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn áp dụng. Sau 1975, quy ước đó không còn nữa. Dân tộc Chăm hôm nay chỉ yêu cầu Nhà nước Việt Nam nghiên cứu thế nào đó là tái lập lại quy ước-chính sách đặc biệt do Vua Thiệu Trị ban hành để cho họ có một cuộc sống thoải mái hơn, có kinh tế phát triển hơn và nhất là đất đai của họ, riêng trong vùng Bình Thuận, Ninh Thuận mà thôi. Vấn đề thứ ba, Nhà nước Việt Nam với danh nghĩa là một quốc gia có chính quyền, Nhà nước Việt Nam có quyền quốc hữu hóa hay thu phục lại tất cả đất đai người Chăm, đó quyền của Nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng, đất đai của người Chăm, ruộng nương của họ, chính họ là người tự tạo ra, do mồ hôi nước mắt họ tạo ra, Nhà nước lấy hết đất đai của họ mà không bồi thường gì hết. Họ sống nhờ ruộng nương, họ không biết làm nghề gì hết ngoài vấn đề cày ruộng. Đó là điểm thứ ba chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam cứu xét lại. Thứ tư, một cộng đồng thôn quê không có đất đai, không có tiền bạc, không có gì để sống, làm sao họ thoát khỏi ra được vấn đề nghèo đói? Từ chỗ đó, chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam nếu không giúp về đất đai được thì ít ra Nhà nước Việt Nam phải tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm để có kinh tế ưu đãi hơn. Riêng về thứ năm, chúng tôi yêu cầu muốn cho dân tộc Chăm được sống lại thì dân tộc Chăm phải có lực lượng dân sự mạnh, phải có những người trí thức, phải có những người nghiên cứu, phải có những sinh viên tại đại học. Có như thế, những trí thức đó trở lại để giúp làng xã của họ được. Về yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, nhất là trong lực lượng dân sự của hệ thống Nhà nước Việt Nam hôm nay, từ cấp xã, cấp quận, cấp tỉnh, cho tới cấp trung ương không có người Chăm trong đó. Tất cả những vấn đề liên quan đến vấn đề người Chăm thì hoàn toàn người Chăm không biết gì hết. Chúng tôi yêu cầu Nhà nước Việt Nam làm thế nào để cho người Chăm có một tiếng nói cho biết quan điểm của họ như thế nào về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị. Phù hợp luật pháp   Một lễ hội của người Chăm tại Việt Nam. Photo courtesy of cinet.gov.vn Hòa Ái: Có thể nói 6 yêu cầu mà tổ chức IOC đệ trình lần này không mang tính chất yêu sách quá mức, trọng điểm là cộng đồng người Chăm mong muốn Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện cho cuộc sống dân sinh của  họ được ổn định và phát triển. Tuy nhiên, có những thông tin chống phá tổ chức IOC vì cho rằng tổ chức hoạt động với mục đích chống đối lại chính phủ Việt Nam. Ý kiến của Tiến sĩ như thế nào trước sự việc này?   Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi chỉ góp phần với tư cách là nhà khoa học, vì tôi là nhà khoa học. Quan điểm của chúng tôi về vấn đề văn hóa, xã hội, kinh tế mà chúng tôi thấy Nhà nước Việt Nam chưa thực hiện đúng mức, chứ không phải là tôi chỉ trích nhà nước Việt Nam. Nhưng rất tiếc rằng khi chúng tôi đề nghị ra vấn đề gì đó thì người ta lại cho là phản động. Nhà nước Việt Nam không chấp nhận điều đó, cho tôi là người không có đồng tình với chính phủ Việt Nam. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. IOC không bao giờ làm bất cứ điều gì mà đi ngược lại với quy chế hiệp ước, ngược lại với chính sách nhà nước, hoàn toàn phù hợp với luật lệ Nhà nước Việt Nam và luôn luôn phù hợp với luật lệ LHQ. Tiến sĩ Po Dharma Hòa Ái: Với tư cách là một người đã tham dự Diễn đàn nhiều lần, Tiến sĩ thấy rằng sẽ có hy vọng nào cho cộng đồng người Chăm với 6 yêu cầu của tổ chức IOC đệ trình lần này không, thưa Tiến sĩ? Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi rất hy vọng. Chúng tôi hy vọng rằng lần này, Nhà nước Việt Nam phải công nhận rằng dù sao đi nữa trên dải đất Việt Nam hôm nay có đến 45 Dân tộc Thiểu số. Mỗi Dân tộc Thiểu số có lịch sử riêng của họ. Và Dân tộc Thiểu số là thành phần dân tộc đã từng góp phần đấu tranh, bảo vệ, nhất là bảo vệ di sản văn hóa Việt Nam. Tất cả những người Dân tộc Thiểu số hôm nay đã đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình hình thành cơ sở Việt Nam. Khi chúng tôi đã tham gia vào công trình xây dựng lịch sử Việt Nam thì Nhà nước Việt Nam phải suy xét lại điều này. Hòa Ái: Cảm ơn Tiến sĩ Po Dharma đã dành thời gian cho cuộc phỏng vấn này.
0 Rating 258 views 0 likes 0 Comments
Read more