Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On September 3, 2015
  Người Chàm trong mắt tôi Nguyễn Ngọc Chính Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ Quay về xem non nước giống dân Chàm (Chế Lan Viên) Ngoài tên gọi “Chàm” ta còn dùng các danh xưng như “Chăm”, “Hời”, “Chiêm Thành”… để chỉ một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử, có nền văn hóa phát triển và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt.            Ngoài Việt Nam, người Chàm ngày nay còn tản mát đi các nước như Campuchia, Mã Lai, Thái Lan và Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra năm 1999 là 132.873 người và theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.            Vấn đề đặt ra là giữa “Chàm” và “Chăm” thuật ngữ nào đúng? Thật ra thì từ năm 1979 người miền Nam mới thấy xuất hiện chữ “Chăm” từ chính quyền mới sau 30/4/1975. Trước đó, từ miền Trung trở vào Nam, chữ “Chàm” đã từng xuất hiện trong các địa danh, tên gọi cũng như danh từ riêng như Tháp Chàm, Cù Lao Chàm, giếng Chàm, vàng Chàm…            Để chỉ người Chàm, người Việt tại miền Nam còn dùng những tên gọi như “Hời”, “Chiêm”, “Người đàng thổ” (khác với Người đàng quê là người Việt)… Theo một giải thích thì những chữ đó được dùng một cách “miệt thị” nhưng tôi thiết nghĩ đó là một nhận xét sai lệch, suy diễn bất hợp lý.            Trước năm 1975 đã có những công trình học thuật như Từ điển Chàm – Việt – Pháp (của Cham Dohamide và Dorohiêm), Nguyễn Khắc Ngữ nghiên cứu về dân tộc học qua tác phẩm “Mẫu hệ Chàm” hoặc học giả Thiên Sanh Cảnh có một loạt bài về “Đám ma Chàm”… Rõ ràng là chữ Chàm ở đây không thể nào được dùng một cách “miệt thị” trong nghiên cứu.            Lại nữa, một số tác giả người gốc Chàm đã dùng chữ Chàm hay Chiêm trong bút hiệu của mình như Khaly Chàm, Chiêm Nhân… Không lý nào các tác giả đó lại tự miệt thị mình! Nhưng một khi nhận xét về sự “miệt thị” này xuất phát từ những người “có quyền” thì nó trở thành một quyết định và ngành văn hóa chỉ biết gọi là Chăm thay vì Chàm như lúc trước.            Trong bài viết “Tiếng Chăm của bạn” trên Tuyển tập Tagalau [1], Inrasara cho rằng: “Dù sao, quy định của Nhà nước vẫn phải được tuân thủ. Tuân thủ, nhưng nếu có ai dùng từ “Chàm” trong bài viết, nhất là khi có người viết đúng các tên gọi cũ như Trung tâm Văn hóa Chàm, Ma Lâm Chàm chẳng hạn, ta phải chấp nhận và không biên tập. Bởi sự thể không có gì sai hay miệt thị người Chàm cả”.  Tagalau 12: Tuyển tập Sáng tác – Sưu tầm  – Nghiên cứu văn hóa Chàm            Khi còn nhỏ, người Chàm trong mắt tôi là những ông “Hời” ngồi bán thuốc dạo bên cạnh những chiếc giỏ đặc biệt… kiểu Chàm. Họ là những người có vẻ “thần bí” với những câu tiếng Việt lơ lớ, một cách rao hàng vừa tức cười nhưng cũng không kém phần… đe dọa: “Này, ngồi xuống đây tôi coi bệnh cho, mặt của anh có bệnh rồi…”. Tôi sợ lắm nên không trả lời, vội bước đi mà không dám ngoảnh đầu trở lại.            Lớn lên khi tìm hiểu thêm, người Chàm ở Ninh Thuận lại cùng quê hương với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Thêm một phát hiện khiến nhiều người phải ngạc nhiên, trong đó có tôi, về mối tương quan giữ chiếc áo dài của người Chàm và người Việt.           Các nhà nghiên cứu cho thấy chiếc áo dài Việt Nam là sự tổng hợp từ chiếc áo dài của người Chàm và chiếc “xường xám” của Thượng Hải. Theo Bùi Minh Đức trong Từ điển tiếng Huế, NXB Văn Học, 2009:            “Chiếc áo dài của đàn bà Việt Nam khởi phát từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (cuối thế kỷ XVIII) với nền tảng là chiếc áo dài phụ nữ Chàm, kết hợp với chiếc áo tứ thân ở Bắc… Áo dài hai vạt của đàn bà Huế có được là do ảnh hưởng Chàm…”           Lê Quý Đôn viết: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát hùng cứ ở xứ Đàng Trong, sau khi chiếm trọn nước Chiêm Thành, mở mang bờ cõi về phương Nam… Để chứng tỏ tinh thần độc lập, Chúa Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã chú trọng đến vấn đề cải cách xã hội, phong tục mà điều quan trọng là cải cách về y phục…”            Lần tìm trong “Đại Nam thực lục tiền biên” ta bắt gặp đoạn văn sau đây: “Chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, ông đã triệu tập quần thần tìm phương thức xưng vương và dựng một tân đô. Ông đã thay đổi lễ nhạc, văn hóa và trang phục.            Để thay đổi, phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống đàn ông. Võ Vương đã gây ra một cuộc khủng hoảng về trang phục. Phụ nữ đã phản đối kịch liệt.                     Về sau Võ Vương không ưng ý với trang phục đó, Ngài giao cho triều thần nghiên cứu, tham khảo chiếc áo dài của người Chàm (giống hệt áo dài hiện nay nhưng không xẻ nách), và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để chế ra áo dài của phụ nữ miền Nam”.             Do đó, những chiếc áo dài đầu tiên của người Việt giống như áo dài người Chàm và có xẻ tà. Vậy là chiếc áo dài Việt Nam ngày nay có đủ hai yếu tố văn hóa phương Bắc và phương Nam.  Chiếc áo dài của người Chàm            Nói đến người Chàm là phải nói đến Chế Lan Viên [2], một hiện tượng thơ văn Việt Nam nhưng lại đậm nét Chàm với tập thơ Điêu tàn được xuất bản năm 1937. Bút hiệu Chế Lan Viên khiến người đọc thơ của ông liên tưởng đến Chế Bồng Nga, tên hiệu của vị vua thứ 3 thuộc vương triều thứ 12 (tức là vị vua đời thứ 39) của Chiêm Thành.            Trong thời kỳ Chế Bồng Nga cầm quyền, đất nước Chiêm Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Ông hy sinh năm 1390 khi tấn công Thăng Long lần thứ 4.            Điểm đặc biệt ở chỗ Chế Lan Viên lại là một nhà thơ mang dòng họ Việt, Phan Ngọc Hoan, nhưng đã mượn hình ảnh của người Chàm để thể hiện một trường phái thơ mà ông gọi là Trường Thơ Loạn trong tập thơ Điêu tàn. Đặc biệt hơn nữa, khi xuất bản Điêu tàn, Chế Lan Viên chỉ mới 17 tuổi!                 “Ta hãy nghe, trong lòng bao đỉnh Tháp                Tiếng thở than, lời oán trách cơ trời                Ta hãy nghe, trong gạch Chàm rơi lác đác                Tiếng máu Chàm ri rỉ chảy không thôi”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                  “Bên cửa Tháp ngóng trông người Chiêm Nữ                Ta vẩn vơ nhìn không khí bâng khuâng”                (Chế Lan Viên, “Đợi người Chiêm nữ” trong tập thơ Điêu tàn)                “Chiêm nương ơi, cười lên đi, em hỡi!                Cho lòng anh quên một phút buồn lo!                Nhìn chi em chân trời xa vòi vọi                Nhớ chi em sầu hận nước Chàm ta?”                (Chế Lan Viên, “Đêm tàn” trong tập thơ Điêu tàn)                “Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt                Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ”                (Chế Lan Viên – “Bóng tối” trong tập thơ Điêu tàn)                “Tháng ngày qua, gạch Chàm đua nhau rụng                Tháp Chàm đua nhau đổ dưới trăng mờ!                …                Tạo hóa hỡi! Hãy trả tôi về Chiêm quốc!                Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!”                (Chế Lan Viên, “Những sợi tơ lòng” trong tập thơ Điêu tàn)   Chế Lan Viên (1920 – 1989)            Thành Đồ Bàn là tên kinh đô của Chàm trong thời kỳ có quốc hiệu là Chiêm Thành. Thành Đồ Bàn, hay Vijaya, còn gọi là Thành cổ Chà Bàn hoặc thành Hoàng Đế, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, Thị xã An Nhơn và cách thành phố Qui Nhơn (tỉnh Bình Định) khoảng hơn 20km.            Trong lãnh vực âm nhạc, nhạc sĩ Xuân Tiên đã để lại cho hậu thế một tác phẩm bất hủ mang tên Hận Đồ Bàn với những lời thống thiết của người dân Chàm:                 “Rừng hoang vu, vùi lấp chôn bao uất căm hận thù                Ngàn gió ru, muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù                Vạc kêu sương, buồn nhắc đây bao lúc xưa quật cường                Đèn đóm vương, như bóng ai trong lúc đêm trường về…            Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam trước năm 1975 có rất ít những bản nhạc mang tính cách lịch sử của một dân tộc “vong quốc” với những ca từ diễn tả tỉ mỷ đến từng chi tiết như một bài thơ:                 “Rừng rậm cô tình, đèo cao thác sâu, đồi hoang suối reo hoang vắng cheo leo                Ngàn muôn tiếng âm, tháng năm buồn ngân, âm thầm hòa bài hận vong quốc ca                Người xưa đâu, mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu                Lầu tháp đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”                “Về kinh đô, ngàn thớt voi uy hiếp quân giặc thù                Triệu sóng xô, muôn lớp quân Chiêm tiến như tràn bờ                Tiệc liên hoan, nhạc tấu vang trên xứ thiêng Đồ Bàn                Dạ yến ban, cung nữ dâng lên khúc ca về Chàm                “Một thời oanh liệt người dân nước Chiêm lừng ghi chiến công vang khắp non sông                Mộng kia dẫu tan cuốn theo thời gian nhưng hồn ngàn đời còn theo nước non                Người xưa đâu, mộ đắp cao nay đã sâu thành hào                Lầu các đâu, nay thấy chăng rừng xanh xanh một màu…”  Kiến trúc và điêu khắc ở thân tháp Po Klaung Garai, thế kỷ 13            Không một ca sĩ nào hát Hận Đồ Bàn "có hồn" bằng Chế Linh [3]. Lý do cũng dễ hiểu vì anh mang tâm sự của một người Chàm với tên thật là Chà Len (Jamlen) và tên Việt là Lưu Văn Liên. Anh ra đời năm 1942 tại làng Hamu Tanran thuộc Phan Rang, nay là tỉnh Ninh Thuận.            Người ta biết nhiều đến Chế Linh qua dòng nhạc ca tụng những người lính trong quân lực VNCH mặc dù anh chẳng đi lính ngày nào vì thuộc dạng “miễn dịch” dành cho “dân tộc thiểu số”. Về dòng nhạc này, có người khó tính lại bảo Chế Linh thuộc thành phần… “lính chê”.            Người thương thì nói rõ ràng là anh bị “lính chê” nên mới được “miễn dịch”, một số khác, trong đó có cả những người đang mặc áo lính, lại không ưa những ca từ anh ca tụng họ. Họ bảo những bài hát đó được trình bày theo phong cách… “sến”.            Nhưng với Hận Đồ Bàn, mọi người đều có một nhận xét chung: bài hát đã đưa tên tuổi Chế Linh thâm nhập vào làng ca nhạc Việt Nam với tâm trạng của một người Chàm “vong quốc”. Chỉ tiếc một điều, những bài hát có tầm vóc như Hận Đồ Bàn rất hiếm trong nền ca nhạc nên Chế Linh phải bước sang một dòng nhạc gây nhiều tranh cãi [4].            Người ca sĩ gốc Chàm, được gọi là “tài hoa” cũng có một đời tư thật… “hào hoa”: Chế Linh nổi tiếng là người có nhiều vợ con, tính cho đến năm 2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con. Ta khám phá được nhiều điều về Chế Linh qua bài viết của Jaya Bahasa, “Mừng sinh nhật lần thứ 57 của chị Nguyễn Thị Thúy Hằng” trên trang web Inrasara [5].            Vào giữa thập niên 1970 Chế Linh kết hôn với cô Nguyễn Thị Thúy Hằng (sinh ngày 1/12/1953, mất ngày 26/4/1974). Cuộc hôn nhân giữa một ca sĩ người gốc Chàm với một cô gái người Việt đã khiến giới báo chí Sài Gòn tốn khá nhiều giấy mực.            Jaya Bahasa viết: “Như một định mệnh hai dân tộc, hạnh phúc này nhanh chóng đổ vỡ bởi những mù khơi mà không ai có thể biết được. Vì muốn minh chứng cho tình yêu của mình được sống mãi, chị Thuý Hằng quyết định quyên sinh bằng một liều thuốc ngủ mà luyến tiếc để lại hai đứa con trai thơ dại.                     Cái chết của Thuý Hằng đến quá đột ngột và bất ngờ, một lần nữa, cánh báo chí và giới nghệ sĩ Sài Gòn thêm bàn tán rôm rả. Nhưng không người nào biết được căn nguyên. Bởi chị không một lời nào trăn trối ngoài ba lá thư để lại cho gia đình.             Lá thư thứ nhất viết cho người mẹ mà chị gọi bằng Mợ, xin tha thứ vì những lỗi lầm này và mong mợ hãy yêu thương đứa con của chị để được thấy chị qua hình ảnh đứa con. Lá thư thứ hai viết riêng cho hai đứa con yêu quý mà chị đặt tên là Sơn và Ca, một loài chim có giọng hót tuyệt vời. Lá thư thứ ba viết riêng cho ca sĩ Chế Linh, vài dòng ngắn ngủi với sự muộn màng và chỉ xin Chế Linh cho một nắm đất đắp lên mộ”.  Thúy Hằng và Chế Linh (Ảnh trên trang web Inrasara)             Chuyện tình Chế Linh – Thúy Hằng với đoạn kết đầy nước mắt khiến người ta liên tưởng đến một chuyện tình vương giả trong lịch sử Việt-Chàm. Huyền Trân là một công chúa đời nhà Trần, con gái của vua Trần Nhân Tông. Năm 1306, Huyền Trân được gả cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô và Lý (từ đèo Hải Vân, Thừa Thiên đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).            Một năm sau đó, khi hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5/1307, quốc vương Chế Mân băng hà. Theo tục lệ nước Chiêm, khi vua chết hoàng hậu phải lên giàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân.            Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền về Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm (?) và theo “Đại Việt Sử ký Toàn thư” thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.           Theo di mệnh của Thượng hoàng Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.             Trong dân gian, có lẽ vì thời đó người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém, nên đã có câu:            Tiếc thay cây quế giữa rừng             Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo  Đền thờ Huyền Trân Công chúa                      Nói đến lãnh vực âm nhạc của người Chàm như trường hợp của ca sĩ Chế Linh tôi lại nhớ đến nhạc sĩ Từ Công Phụng, vốn là bạn học năm Đệ Nhất tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt. Chúng tôi chỉ quen nhau trong một niên học nhưng có nhiều chuyện để nhớ khi tuổi tác ngày một cao.            Từ Công Phụng ngày đó là một học sinh từ Ninh Thuận lên Đà Lạt học năm cuối trung học. Có lẽ anh là gốc người Chàm nên hình như luôn có một khoảng cách vô hình với đám học sinh chúng tôi. Anh “góp tiếng” tham gia ban nhạc nhà trường bằng giọng hát và chúng tôi rất ngạc nhiên khi nghe một giọng trầm, buồn và còn đặc biệt hơn nữa chỉ hát những bài “lạ”…             Đó là hai bài “Bây giờ tháng mấy” và “Mùa thu mây ngàn” do chính anh sáng tác. Thật không ngờ, khi mới 16 tuổi anh đã tự học về âm nhạc qua một cuốn sách của Robert de Kers, viết bằng tiếng Pháp, với tựa đề “Harmonie et Orchestration”. Đến năm 17 tuổi anh đã có nhạc phẩm đầu tay “Bây giờ tháng mấy”…             Hồi đó đang có cuộc thi tài giữa “trường Ta” là Trần Hưng Đạo và “trường Tây” của các sư huynh dòng La San là trường College d’Adran trên sân khấu thành phố Đà Lạt. Vì là trường Tây nên Adran chơi nhạc Beatles, đàn cũng là kiểu Beatles còn Trần Hưng Đạo chúng tôi khiêm tốn hơn, chơi đàn Fender theo các bản hòa tấu của The Shadows.             Có thêm Từ Công Phụng “chuyên trị” nhạc Việt thể loại “tình cảm” trở thành… “hoa thơm cỏ lạ” trong chương trình văn nghệ. Thoạt đầu Từ Công Phụng “khớp” không dám lên sân khấu nhưng anh em trong ban nhạc cứ khen những bài “tự biên, tự diễn” của Phụng và bảo đảm là sẽ nổi bật trong đêm văn nghệ.           Từ Công Phụng bỗng trở thành một hiện tượng tại Đà Lạt. Khán giả hoan nghênh nhiệt liệt đến độ Đài phát thanh Đà Lạt mời anh ghi âm để phổ biến qua làn sóng điện, tên tuổi của Từ Công Phụng được người Đà Lạt biết đến cùng với Lê Uyên Phương trong ban nhạc Ngàn Thông trên Đài phát thanh.             Cuối năm Đệ Nhất ban nhạc của chúng tôi tản mát mỗi người một phương. Họ Từ về Sài Gòn và ngay sau đó nổi lên như một nhạc sĩ ăn khách cùng thời với Vũ Thành An, Ngô Thụy Miên, Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương.            Sau 30/4/1975, các sáng tác của Từ Công Phụng bị cấm lưu hành tại Việt Nam và mãi cho đến năm 2003 mới được… “cởi trói”. Anh rời Việt Nam năm 1980 và định cư tại Portland, Oregon. Năm 1998, anh trở về thăm quê hương Ninh Thuận và năm 2008, anh trở lại với chương trình "45 năm tình ca Từ Công Phụng" tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.             Nhạc sĩ kiêm ca sĩ Từ Công Phụng đã 2 lần vượt qua căn bệnh ung thư gan và ung thư túi mật nhưng vẫn mong đủ sức khỏe để sáng tác trong những ngày cuối đời. Với tình bạn học của buổi thiếu thời tôi chỉ mong anh sẽ sống mãi với chúng ta, chuyện sáng tác chỉ là vấn đề phụ vì những tác phẩm đã ra đời của anh đã là chứng nhân cho một nhạc sĩ tài hoa người Chàm.  Từ Công Phụng            Hồi còn đi học tại Ban Mê Thuột, tôi có một vị giáo sư người gốc Chàm. Thầy Nguyễn Văn Tỷ, quê quán tại Ninh Chữ, một bãi biển thuộc thôn Bình Sơn, thị trấn Khánh Hải, tỉnh Ninh Thuận.            Tôi cùng thầy Bùi Dương Chi đã dẫn đoàn sinh viên Mỹ đến bãi biển Ninh Chữ được coi là một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam. Kết hợp với địa danh Bình Sơn, Ninh Chữ đã trở thành cụm du lịch Bình Sơn - Ninh Chữ đem lại diện mạo, thương hiệu và thu nhập cho tỉnh Ninh Thuận.            Thầy Nguyễn Văn Tỷ đã về hưu và sinh sống tại Ninh Chữ. Ông trở thành một “nhân sĩ” trong làng và vẫn tiếp tục nghiên cứu văn hóa Chàm để truyền bá lại cho lớp trẻ người Chàm. Ông cũng là một cộng tác viên kỳ cựu của Tuyển tập Tagalau như đã nói ở trên.            Tháng 10/2009 ông đến California để tham dự lễ Katê của cộng đồng người Việt gốc Chàm tại đây. Ông đã được mời phát biểu cảm tưởng tại buổi lễ. Theo ông, dân tộc Chàm muốn sống với nhau tốt, muốn tồn tại tốt cần thể hiện 3 yếu tố: Đoàn kết, Bảo tồn và Phát triển.             Đối với người Chàm, đoàn kết được thì sẽ được tất cả, và không đoàn kết thì sẽ mất tất cả. Điều này mang ý nghĩa sau khi bị “vong quốc” sẽ lại phải “vong thân”.            Người Chàm cần bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết của mình, vì “tiếng Chàm còn thì người Chàm còn; tiếng Chàm mất thì người Chàm mất”.             Nếu tồn tại được mà không phát triển thì chỉ “tồn tại như một dân tộc bần cùng”, “vùi dập trong cuộc sống lạc hậu, tối tăm”.            Có lẽ đó cũng chính là lời kết của bài viết này về… “Người Chàm trong mắt tôi”.  Thánh địa Mỹ Sơn *** Chú thích: [1] Tagalau tiếng Chàm là cây bằng lăng hoa tím, mọc nhiều ở miền núi Ninh Thuận và Bình Thuận. Tuyển tập mang tên Tagalau vì nó tượng trưng cho tính dân dã, sức chịu đựng, sự khiêm tốn: nỗ lực nở hoa dù phải mọc trên mảnh đất nghèo cằn.Tagalau là Tuyển tập chứ không phải là Tạp chí nên không ra định kỳ, mà chỉ được xuất bản khi tập hợp đủ bài vở. Số đầu tiên của Tuyển tập Tagalau ra mắt vào lễ Katê của người Chàm năm 2000. [2] Chế Lan Viên (1920 – 1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, ra đời tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung rồi đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Trước năm 1945, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": Kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát của tháp Chàm. Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý, "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng. [3] Hận Đồ Bàn do ca sĩ Chế Linh trình bày: http://mp3.zing.vn/bai-hat/Ha-n-Do-Ba-n-Che-Linh/IW7AZZCO.html [4] Tham khảo về Chế Linh tại: http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/08/sen-hay-sang.html [5] Tham khảo trang web của Inrasara về chuyện Chế Linh và Nguyễn Thị Thúy Hằng:http://inrasara.com/2010/11/26/theo nguoidongbang.blogspot.com.au (Nguồn: Chinhhoiuc)    
0 Rating 3.9k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 31, 2016
Vua Chế Bồng Nga tài ba của Champa đã bảy lần chiếm thành Thăng Long, bị chết như thế nào?----------------------------" VUA CHẾ BỒNG NGA TỬ TRẬN "(Nguồn: facebook Pham Vinh Loc) -Chúng giết con tôi, xin bệ hạ báo thù! -Được rồi, bà hãy yên tâm. Chế Bồng Nga ôn tồn phủ dụ người đàn bà đang vật vã gào khóc dưới ngai vàng. Vua Chăm cho gọi Mục Bà Ma vào nghe tâu trình. -Lúc trước ngươi đi đòi lại đất Hoá Châu thì nhà Trần thái độ ra sao? -Cương quyết không trả. -Đã bắt Huyền Trân công chúa đem về, lại không trả của hồi môn, ngang ngược! Chế Bồng Nga quát lớn. Nay nhân dịp mẹ của Dương Nhật Lễ sang méc việc Trần Nghệ Tông cướp ngôi con trai và báo cáo sự rệu rã của quân đội Đại Việt, Chế Bồng Nga quyết ý xuất quân bình định thiên hạ. Chăm Pa là một nước lớn và có nền văn hiến lâu đời. Họ là những kiến trúc sư xuất sắc và thuỷ thủ lành nghề với những chiến thuyền hải tặc hoành hành suốt biển Đông. Một giống dân quật cường, phản kháng mạnh mẽ ách đô hộ của Trung Quốc nhưng cuối cùng lại bị Đại Nam tiêu diệt, thật là đáng tiếc. Nhưng bài này đang nói đến thời kỳ hoàng kim của họ dưới sự thống lĩnh của đại vương Chế Bồng Nga. -Cướp hết, thẳng tay cướp, ta cho phép! Quân Chăm rẽ sóng vượt biển tiến vào địa phận nước Việt, cập bến cửa Đại An và binh lính đổ bộ, tràn về kinh thành. Chế Bồng Nga cười lớn khi bước vào Thăng Long, thì ra vua quan nhà Trần bỏ chạy sạch sẽ cả rồi. Lính Chăm toả ra khắp vương đô như đàn kiến, kẻ khuân vàng người vác bạc, phóng hoả đốt cung điện lẫn sách vở. Chán chê thì hốt đàn bà con nít đem về nước. Sau vụ đó Chế Bồng Nga thấy dễ ăn quá nên tiếp tục lặp lại và lần này cũng y như cũ, khoắng được một mẻ đem về. Nhà Trần sợ hãi gần như tê liệt. -Ngày nay người An Nam lại đem binh sang chiếm đất chúng tôi, cướp bóc nhân dân tôi. Vì thế thần xin bệ hạ giúp cho vũ khí, nhạc khí và nhạc sư để người An Nam thấy Chiêm Thành là phiên thuộc của bệ hạ mà không quấy nhiễu nữa. Chế Bồng Nga vu khống cho vua Minh nghe và tiếp tục chinh phạt lần thứ ba. Trần Duệ Tông nổi giận: -Lần này ta phải đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông! Khống chế Chiêm Thành mãi mãi. Ông vua mới này anh hùng nhưng nóng máu, muốn dẹp yên một lần này cho xong chuyện luôn. Quân Trần 12 vạn người hùng hậu vượt biển tới cửa Thị Nại ở Quy Nhơn, nơi 400 năm sau Nguyễn Phúc Ánh huỷ diệt đoàn thuyền lừng danh của Tây Sơn. Mục Bà Ma giả đầu hàng, đến cấp báo: -Thưa hoàng thượng, Chế Bồng Nga đã bỏ chạy khỏi Đồ Bàn! Nay thành trống rỗng, đánh gấp ắt lấy được. Duệ Tông cười: -Nó sợ ta đây mà, chuẩn bị chiếm thủ đô Đồ Bàn. Đại tướng Đỗ Lễ can: -Nó hàng là vì muốn bảo toàn đất nước. Quân ta đi vào sâu để đánh phá thành là việc bất đắc dĩ, vậy xin hãy sai một người mang thư đến hỏi tội để xem thật giả ra sao, cũng như kế của Hàn Tín phá nước Yên thuở xưa, không phải khó nhọc mà vẫn thành công. Cổ nhân nói lòng giặc khó lường, thần xin bệ hạ hãy xét kĩ lại. Duệ Tông gắt: -Ta mình mặc giáp, tay cầm gươm, dãi gió dầm mưa, lội sông trèo núi, vào sâu trong đất giặc, không một người nào dám chống lại thì đó là trời giúp. Huống chi nay vua giặc nghe tiếng bỏ trốn, không có lòng đánh lại. Cổ nhân nói "Dụng binh quý ở nhanh chóng". Nay lại dùng dằng không tiến nhanh, thế là trời cho mà không lấy, để nó lại có mưu khác thì hối không kịp! Đỗ Lễ cay đắng bỏ ra ngoài ngửa mặt lên trời than rằng: -Nhà Trần nguy mất. Duệ Tông bực mình liền phát áo đàn bà cho Đỗ Lễ mặc, rồi tiếp tục tiến binh. Vua mặc áo đen, cưỡi ngựa hắc bạch, tự mình xung phong dẫn tất cả vào Đồ Bàn. Kinh thành Chăm Pa yên ắng, tựa hồ một thành phố chết. Vua ngạc nhiên: -Chúng nó đâu cả rồi? Bỗng pháo lệnh nổ vang lên, từ bốn phương tám hướng phục binh đổ ra, cắt quân Trần thành từng đoạn như xâu cá. Máu phun đầy một bãi đất. Đội vệ vương đổ xô lại hộ giá, vua Duệ Tông hoảng hốt khi chiến sự đổi chiều. Chế Bồng Nga tay xách đại đao, mình mặc chiến phục sặc sỡ hăng hái xông lên. Duệ Tông rút gươm sẵn sàng nghênh chiến thì bỗng tuấn mã hí vang, lồng lên hất vua té lăn. Tướng Đỗ Lễ xoay tít cây thương rồi quát: -Bồng Nga dừng tay! Duệ Tông khóc to: -Thứ lỗi vì trẫm đã làm nhục ngươi trước ba quân. -Chuyện đó không quan trọng, hoàng thượng chạy khỏi thành Đồ Bàn đi, chạy mau, bên ngoài có quân của Quý Ly đấy! Đỗ Lễ gầm lớn rồi đâm mạnh cây thương, ác chiến cùng Chế Bồng Nga mười hiệp không phân thắng bại. Quân Trần bấy giờ hoàn toàn tan vỡ, không còn ra một đội hình nào cả. Bất ngờ hàng loạt mũi dao đâm xối xả vào lưng Lễ, quốc vương Chăm Pa chém mạnh thêm nhát nữa kết liễu người anh hùng. Duệ Tông được đội vệ vương mở đường máu cho chạy về cổng thành. Chế Bồng Nga nói lớn: -Chạy đâu cho thoát? Rồi ông rút cây cung quý trên vai ra, nheo mắt nhắm. Một, hai, ba, Bồng Nga lẩm nhẩm đếm rồi buông dây. Mũi tên vẽ thành một đường cầu vồng vọt lên không trung rồi xé gió lao vùn vụt xuống trong ánh nắng cuối ngày. -Hự! Ngạnh sắc đâm thẳng vào lưng vua Trần, xuyên từ trước ra sau xé toạc lá phổi. Duệ Tông gục xuống, mắt mở lớn, lệ chảy ướt má, phun ra một đấu máu, lát sau thì tắt thở. Kết cục bi thảm như Bàng Thống bị bắn chết ở đồi Lạc Phụng ngày xưa. Đội vệ vương cũng bị bao vây và không còn người nào sống sót. 12 vạn quân bị phục kích trong thành Đồ Bàn, chết hết 10 vạn người. Một bước ngoặt cực lớn cho nhà Trần và cả lịch sử Việt Nam. Hồ Quý Ly nghe tin dữ liền bỏ chạy, tuy nhiên được Trần Nghệ Tông xá tội cho. Lại nói Chu Nguyên Chương tuy đoạt được cả thiên hạ từ tay giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nhưng vẫn muốn mở rộng thêm về phương nam nhân nước ta có đại tang. -Thấy em chết vì việc nước, anh lại lập con của em lên ngôi, xem nhân sự đối xử tốt với nhau như thế, thì đủ biết lòng trời hãy còn tựa nước người ta. Thái sư Lý Thiên Trường can ngăn nên Chu Nguyên Chương tạm gác việc đó lại. Chế Bồng Nga sau đại thắng Đồ Bàn thì không còn ngán Đại Việt một chút nào nữa. Lập tức bắc tiến lần thứ tư, Thăng Long thất thủ và mất sạch của cải. Tuy năm đó đi về gặp bão và đắm thuyền, nhưng ít ra họ Chế đã lấy lại toàn bộ đất cũ, thu thêm Nghệ An, và vàng ngọc đủ để tiến cống Minh triều năm đó. Lần thứ năm bắc tiến, tiếp tục Bồng Nga vào được Thăng Long, lần này ông ta muốn sỉ nhục Đại Việt: -Quỳ xuống lạy rồi ta tha cho! Quan kinh doãn Lê Giốc cương quyết không quỳ và bị chém chết ngay. Bồng Nga lại được dịp tham quan "Hà Nội ba sáu phố phường", đồng thời không quên xin đểu thêm tiền bạc. Bị cướp quá nhiều lần khiến Trần Nghệ Tông cực kỳ stress, ông buộc phải sai người đem tiền bạc của mình vào núi Thiên Kiến và động Khả Lăng để giấu bớt. Lần thứ sáu bắc tiến, Chế Bồng Nga bị Hồ Quý Ly đẩy lui, nhưng vẫn giữ được các phần đất đã chiếm của Đại Việt. Quan quân nhà Trần vội vàng đem cất giấu bài vị và tượng thờ các tiên đế để phòng người Chăm phá lăng mộ trong những lần tấn công sau. Chế Bồng Nga đi Đại Việt như đi chợ, ra vào như chỗ không người, không cần visa passport gì cả, nên chuyện này sớm muộn cũng có thể xảy đến. Lần thứ bảy bắc tiến, Hồ Quý Ly giằng co với Chế Bồng Nga được tầm 20 ngày thì Bồng Nga bỏ đi. Quý Ly phấn khởi truy kích thì bất ngờ gặp phục binh, bị đánh cho tan tác ôm đầu máu bỏ chạy. Trần Nguyên Diệu đem quân ra đầu hàng. Trần Nghệ Tông khóc vì khiếp hãi: -Nguy to rồi! Ông vội vàng bỏ Thăng Long lại như mọi lần và như một thói quen. Riêng Trần Khát Chân vẫn bình tĩnh ở lại cự địch. Nếu thua lần này nữa là mất trắng, nhà Trần sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Bồng Nga cùng 100 chiến thuyền hùng hậu tiến đến sông Luộc ở tỉnh Thái Bình bây giờ: -Nhà Trần tới đây là kết thúc. Bồng Nga cười và dùng bữa. Thế nhưng ông lập tức phun ra, quát: -Thằng nào nấu món này? Dở không chấp nhận được. Tên đầu bếp sợ hãi rúm người, Bồng Nga thét lôi ra đánh đòn. Toác da rách thịt, hắn khóc lóc đau đớn. Sau trận đòn thừa sống thiếu chết, tay đầu bếp bi phẫn. Đêm hôm đó hắn lẻn ra khỏi thuỷ trại Chăm Pa, rẽ thuyền nhỏ đến xin hàng quân Việt và yết kiến Trần Khát Chân. -Thuyền của Chế vương màu xanh lục, xin ông chớ nghi ngờ. -Nếu đúng là như thế thì ngươi phú quý vinh hoa cả đời hưởng không hết. Trần Khát Chân được chỉ điểm, sáng hôm sau khi Chế Bồng Nga kéo thuyền đến, lập tức ông tập trung toàn bộ hoả lực và bắn. Sau một loạt tiếng nổ long trời lở đất, con thuyền ngự nát bươm như tàu lá chuối. Chế Bồng Nga lảo đảo bước lên đầu thuyền, mình mẩy nhuộm máu, rồi ngã sấp xuống, chấm dứt cuộc đời bi tráng của vị vua giỏi nhất Chăm Pa từng có. Trần Nguyên Diệu cắt lấy đầu và trở về Đại Việt. Lại nói Nghệ Tông đang ngủ thì bị đánh thức, ông hét lên vì tưởng quân Chăm tới bắt. Trấn an mãi mới nguôi, thấy đầu Chế Bồng Nga thì cười toe toét: -Ta với Bồng Nga cầm cự đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi! Tổng kết lại quá trình tiêu diệt Chăm Pa: 1. Lê Đại Hành san phẳng kinh đô Indrapura. 2. Lý Thánh Tông hạ Chế Ma Na, sáp nhập Quảng Bình và Quảng Trị. Sau đó Chiêm Thành chịu thần phục nhưng vẫn nhiều lần khởi binh đòi lại đất. 3. Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và được tặng Huế. 4. Cha con Hồ Quý Ly chiếm lấy Đà Nẵng - Quảng Nam và Quảng Ngãi. 5. Lê Thánh Tông thân chinh hạ kinh đô Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, lấy đất tới Phú Yên. 6. Nguyễn Phúc Tần tiến sâu vào Nam đến Nha Trang - Khánh Hoà. 7. Nguyễn Phúc Chu bắt vua Chiêm, chiếm đất Bình Thuận, lấy nốt Phan Rí, Phan Rang. Từ nay kể như nước Chiêm Thành bị xóa tên trên bản đồ. 8. Minh Mạng xoá sổ Thuận Thành Trấn, chấm dứt lịch sử Chăm Pa. "Ðây, những tháp gầy mòn vì mong đợiNhững đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên than Ðây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọnMuôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng hương đưa, rộn rã tiếng từ qui."        
0 Rating 3.5k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 9, 2012
NỘI QUY ĂN NHẬU Đã là đàn ông trong cuộc sống không ai không đã và sẽ tham gia vào bàn nhậu. Vì vậy muốn trở thành một người hay được nhậu cần thực hiện đầy đủ 10 điều sau: Điều 1: Để công bằng và hợp lý, tất cả các tay ăn nhậu bất kể là bạn bè, các chiến hữu tâm tình… đều phải thực hiện sòng phẳng “Kẻ rượu người Mồi” để bày ra buổi tiệc và phải bầu ra chủ xị để điều khiển cuộc nhậu. Điều 2: Khi nhận được tin báo hay tin nhấn điện thoại của chiến hữu thì phải lập tức đi ngay không được chậm trể, tránh tình trạng “Gà sống đá Gà chết”. Điều 3: Trong khi ăn nhậu phải tỏ ra văn minh, lịch sử, giữ gìn vệ sinh chung: Không khạc, nhổ, phun… xung quanh bàn nhậu. Tránh tình trạng cầm lâu, kê tán, rót lưng, bưng đổ, câu giờ… hoặc qua vòng khi chưa được phép của chủ xị. Điều 4: Khi nhậu trong bàn cần phải: “Ăn xem Nồi, ngồi xem Hướng” phải tỏ ra “Kính Lão đắc thọ” đối với những người lớn tuổi, tuyệt đối không được “Say mồi”. Điều 5: Trong bàn nhậu tuyệt đối không được cầm lộn, cầm nhầm nhất là bật lửa, giày, dép, mũ và điện thoại di động. Điều 6: Trong bàn nhậu tuyệt đối không được mang theo vợ, con hoặc cháu gây phiền hà cho bạn nhậu, ngược lại khuyến cáo được mang theo em vợ, em nuôi hoạc em gái (chưa chồng). Điều 7: Trong bàn nhậu tuyệt đối không được cải cọ, nói chuyện riêng hoặc những chuyện gây mất đoàn kết đối với những chiến hữu trong bàn nhậu, ngược lại phải kể chuyện có tính hài hước. Điều 8: Khi tan tiệc rượu về nhà không được lớn tiếng, chửi mắng, cải cọ vợ con hoặc làm mất trật tự ở địa phương… Gây ảnh hưởng đến uy tín bạn nhậu, ngược lại phải khuyến khích những chuyện làm hài lòng bà xã… để lần sau đi nhậu được bà xã khuyến khích. Điều 9: Phải thường xuyên vận động thể dục – thể thao để đảm bảo sức khỏe và tuổi thọ để nhậu bền lâu. Điều 10: Đến lúc trả tiền không được mượn cớ đi vệ sinh, nghe điện thoại, làm bộ say xịn để ngủ hay sang bàn khác để lẩn tránh… * Lưu ý: Nếu vi phạm các điều trên, nhẹ thì khiển trách tại chổ từ 1 – 3 ly, nặng thì phạt tại chổ từ 50.000 ngàn đồng đến 100.000 ngàn đồng (số tiền này được sung vào công quỹ thanh toán cho cuộc nhậu). Trường hợp đặc biệt, buộc phải cắm tham gia từ 3 – 7 ngày kể từ hôm nhậu. Nơi nhận: - Các quý ông bợm nhậu. - Hội độc thân Việt Nam. - Lưu văn thư: http://www.nguoicham.com
0 Rating 3.4k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On November 17, 2013
  Đây là tiểu thuyết thám hiểm đầu tiên về kho báu bí ẩn của người Chămpa cổ. Mỗi một nền văn minh xuất hiện và biến mất đều để lại một dấu ấn mãnh liệt, cái chúng ta nhìn thấy của nền văn minh Chămpa còn lưu lại cho đời sau là kiến trúc đền tháp, nghệ thuật điêu khắc và nhiều tác phẩm nghệ thuật phi vật thể khác. Còn kho báu thì sao? Các bia kí tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ cùng với sử liệu Đại Việt và nhà Hán đều mô tả hàng tấn vàng bạc, đồ thờ cúng và hàng vạn cuốn kinh quý đã bị thất lạc và cướp bóc bởi các cuộc xâm lược. Rất nhiều báu vật khác mà triều đình còn giữ được và cất dấu là có cơ sở. Lần theo tư liệu của các nhà khảo cổ Pháp từ Viện Viễn Đông Bác Cổ và các bia kí, thư tịch cổ, chúng tôi đã hình dung được sự thật và điều huyền bí chưa lí giải qua một câu truyện tạm gọi là ‘’Mật mã Champa’’  Chương 1- Phần 1. Tuân thủ một cách tuyệt đối những di chỉ bằng tiếng Phạn lưu lại trên một tấm da dê cổ vẽ tay, viên kiến trúc sư người Pháp cùng với phu nhân đã bước qua cánh cổng đá cuối cùng của hành trình khám phá kho báu Champa cổ xưa. Trong hang đá tối đen như mực, người phụ nữ trẻ tỏ ra sợ sệt khi nhìn lại cánh cửa đã sập xuống sau lưng. Một dải sáng lân tinh bò ngoằn ngoèo trên vách đá hiện một dòng chữ Phạn lờ nhờ: ‘’Dâng máu cho Ngài! kẻ nào xúc phạm đến thần linh sẽ bị rút sạch máu ba đời dâng lên Ngài’’ -Anh nhìn kìa...- cô gái chỉ tay nói. Viên kiến trúc sư đến từ Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) rùng mình khi đọc xong dòng chữ khắc sâu trên mặt đá. Từng bỏ ra hàng chục năm để nghiên cứu bia mộ cổ, ông liên tưởng đến một lời nguyền được cho là thần bí nhất lịch sử, đó là câu khắc trên bia mộ các hoàng đế Ai Cập ‘’Bất cứ người nào đến quấy nhiễu sự yên ổn của Pharaông, thì cánh cửa tử thần sẽ giáng xuống đầu người đó’’ Đó không phải là lời dọa suông. Hàng ngàn năm nay, lời nguyền bí ẩn kia vẫn là bản án tử hình siêu linh đã giáng phạt bao nỗi chết chóc kinh hoàng cho giới khảo cổ và cả những tên săn trộm dám phớt lờ nó. Viên kiến trúc sư chiếu ánh đèn pin rồi xích lại gần, ông nhìn thấy những vẩy máu khô loang lổ trên vách cửa đúng vị trí mà ông và vợ vừa nhảy qua. Ông biết rằng mình không phải là người đầu tiên bước qua đây và số phận những kẻ trước đó ra sao thì đã rõ. Ông trấn an người vợ đang run rẩy trong làn hơi ẩm lành lạnh dưới độ sâu gần chục mét trong lòng núi. -Đừng để tâm, anh đã có cách khắc chế cánh cửa đó. Người đàn bà đầu tiên đặt chân nơi cung cấm này vẫn chưa hết sợ hãi. Cô nói: - Cửa đá đã sập xuống, làm sao chúng ta mở được để về? - Anh đã nghiên cứu tấm bản đồ cổ rất kĩ rồi, phía sau bức tường trước mặt kia là cỗ máy chạy bằng sức nước dùng để điều khiên cánh cửa đá. Mặc dù chiếc đèn pin công suất sao, chùm sáng dường như tắt lụi trong khoảng không mịt mù. Họ mò mẫm theo hướng nam như trong trí nhớ, đi qua một không gian rộng không rõ hình thù, cuối cùng một bức tường đá xám xịt đã hiện ngay trước mắt họ. Men theo bức tường cho tới khi nhận ra một cánh cửa vòm, ông liền đẩy mạnh. Tiếng nước rào rào bất ngờ phả ra từ một đoạn suối ngầm chảy qua lòng núi. Trước mắt ông là một guồng nước khổng lồ đang chuyển động để đưa dòng chảy lên một hệ thống phức tạp nằm trên cao mà ông không thể nào nhìn rõ. Trục quay guồng nước được kê trên hai trụ đá lớn song song mọc lên từ lòng suối giúp cho chiếc bánh xe nặng hàng chục tấn vận hành suốt mấy trăm năm nay. Thấy một chiếc thang đá dựng đứng và chìm khuất trong bóng tối, ông lội xuống bám tay vào những thanh giằng để tìm cách trèo lên. Thận trọng leo đến bậc cuối cùng, từ độ cao của một ngôi nhà ba tầng nhìn xuống, những lá guồng gạt nước trắng xóa dưới ánh đèn bàng bạc làm ông cảm tưởng như đang lạc vào một gầm máy của một chiến hạm không lồ thời Trung cổ đang nhởn nhơ vô định giữa đêm đen trên đại dương. Nước từ hệ thống ống máng chằng chịt trên cao dội xuống ào ào xen lẫn với dòng suối réo von tạo thành một bản hòa tấu hoang sơ đến kì dị. Nhìn quanh, viên kiến trúc sư ngạc nhiên khi phát hiện trước mặt là một bế chứa nước bằng đá rất lớn mà trước đó ông ngỡ là một tầng lầu. Tuy nhiên bể nước này đã cạn khô và chỉ có mọt dòng nước đang nhỏ giọt vào bể. Chỉ mất vài phút, viên kiến trúc sư đã phát hiện ra quy luật vận hành của chiếc đồng hồ nước cổ xưa đã được phác họa chi tiết trong tấm thư tịch quý báu. Nắm được cấu tạo và nguyên lí hoạt động khắc sẽ điều khiển được nó. Trên chiếc bàn điều khiển, ông tìm cách cài chế độ mở cửa đá. Tháo chiếc ống nhỏ đang rỉ nước đặt sang bên cạnh rồi ông dùng hết sức xoay một ống đồng có đường kính rất lớn vào vị trí. Một thác nước mới từ chiếc ống tuôn ào ào vào bể chứa. Toàn bộ lan can và hành lang đá dưới chân ông bắt đầu rung lên nhè nhẹ. Chỉ vài chục phút nữa thôi, mực nước sẽ đạt ngưỡng cực điểm để đẩy bật một chiếc lẫy. Mấy trăm khối nước cùng hàng chục tấn đá sẽ trút xuống để khởi động một chiếc đòn bẩy có khả năng ném bay một tòa nhà với một sức mạnh khủng khiếp. Năng lượng đang tích tụ với một tốc độ rất nhanh tỉ lệ thuận với nhịp rung của chiếc sàn đá dưới chân ông. Mặc dù muốn nán thêm vài phút để đo lại thể tích và vận tốc nước nhưng một giọng rất thanh át tiếng thác vọng lên cùng ánh đèn pin loang loáng. -Xuống ngay, nó sẽ sập xuống mất! Nhìn qua luồng sáng yếu ớt chiếu qua đám bụi nước trắng xóa, ông phát hiện trước mặt có một máng nước dốc chéo xuống dưới. Không chần chừ, ông chạy dọc hành lang đang chao đảo rồi bò qua một dầm đá trơn nhẫy để nhảy vào lòng máng. Trong tích tắc, ông gần như rơi ùm xuống lòng suối làm nước bắn tung tóe lên mặt người vợ. -Xin lỗi!...- Ông vùng đứng lên đưa tay vuốt mặt. – Tốt rồi, cách cửa lát nữa sẽ tự mở ra. -Cửa tự động ư? Hệ thống gì mà lạ vậy? -Một cỗ máy bằng đá chạy bằng sức nước rất cổ xưa. Tổ tiên người Chăm đã chế tác ra nó đấy! -Nó đủ sức nhấc cánh cửa mấy chục tấn kia sao? Anh cam đoan là chúng ta không bị kẹt lại đây chứ? -Yên tâm, nếu cỗ máy kia chạy đúng, khoảng nửa tiếng nữa cửa sẽ mở ra. -Sao nhanh vậy? liệu chúng ta còn thời gian đi khắp cung điện này không? -Chỉ có hai ống đồng cho hai chế độ mở. Đây là chế độ mở nhanh nhất, hoặc sẽ phải đợi thêm nhiều năm nữa. Thôi đừng hỏi nữa, nhanh chân lên! Họ chui trở lại tiền sảnh, do thiếu oxy và vận động mạnh nên ông đã có dấu hiệu rối loạn phương hướng. Tránh mất thời gian, trong khi cúi mặt xuống ông tranh thủ mở tấm bản đồ cổ ra định vị lại lần nữa. -Đằng kia kìa – Người vợ trẻ chỉ tay phía sau lưng ông. Ông quay lại bắt gặp một khoảng tối đen đặc đang phả hơi lạnh vào mặt mình, ông xoay đèn về hướng đó và lờ mờ nhận ra một vòng tròn trũng xuống như miệng giếng. Biết rằng đây là lối đi duy nhất, ông nắm tay vợ đi nhanh về phía đó và thấy một một dải đi hẹp hình xoắn ốc dẫn xuống dưới. Không rời một bước theo chồng, mắt cô sợ sệt nhìn theo ánh đèn nhấp nhoáng trên các phiến đá ẩm ướt và cố không để trượt chân rơi xuống cái hố mà cô chưa nhìn thấy đáy. Để thêm an toàn, cô bám tay kia lên lan can nhưng vội rụt lại khi chạm vào đầu một con rắn. Chỉ trong tích tắc, cô kịp nhận ra và thở phào khi đó là tay vịn bằng đá. Con rắn bảy đầu bằng đá hoa cương ngoằn nghèo khắc khoải men theo mép thang xuống sâu hun hút như đang cố ngoi lên từ địa ngục từ suốt mấy trăm năm nay. Bất chấp lối đi hiểm trở, cô nhắm mắt đi theo chồng cho đến khi ông ghìm tay cô lại. -Kia mới là kẻ giữ đền đích thực, rắn thần Naga! – ông nói. Người phụ nữ nhìn theo tay chồng, dưới ánh đèn yếu ớt xuyên qua không khí đặc quánh, một dải trắng như lụa bềnh bệch hiện lên. -Trong truyền thuyết rắn Naga giữ đền có tới bảy đầu cơ mà. - Người phụ nữ sợ hãi hỏi.- Con này lớn nhưng chỉ một đầu. -Đúng thế, nhưng đây là con rắn thật đang sống! Cô gái thất kinh ôm chặt hông chồng mình. Người đàn ông từ tốn gỡ nhẹ tay cô: - Đừng sợ, đây chính là rắn khổng lồ sống trong hang động và rừng sâu hạ lưu sông Mê Kông. Trước đây xuất hiện thường xuyên tại rừng U minh Hạ nhưng nay gần như tuyệt chủng. Truyền thuyết rắn thần Naga lấy cảm hứng từ loài bò sát khổng lồ có thật này. Sách cổ của người khmer còn mô tả những con long xà to như cây Thốt nốt. Vẫn nhìn con vật qua vai chồng mình, giọng cô chưa hết run rẩy: -Nó đang ăn? -Chính con dê trắng mà ta vừa thả xuống khi qua cửa đấy thôi, đây là bữa điểm tâm đầu tiên của nó sau 12 năm đấy. Cô gái mắt mở to nhìn con rắn bất động, chỉ có mang tai đang phập phồng đẩy dần con vật bé bỏng ngày càng khuất sâu trong chiếc miệng đang há rộng kia. -Đây là giống rắn quen sống nơi không có ánh sáng nhưng mắt nó có thẻ nhìn xa hàng cây số trong bóng đêm. Cô gái nhè nhẹ lùi xa hơn, mắt vẫn không rời con vật, cô hỏi. -Nó nhịn đói tới 12 năm sao?... -Giữa chu kì mở cửa tháp, làm gì có ai cho nó ăn, nó rất đói. Nếu hôm nay chúng ta quên mang con dê cho nó, em có biết thức ăn của nó sẽ là gì không? Người phụ nữ định kéo chồng mình trở lên nhưng người đàn ông to cao vẫn không hề nhúc nhích. Viên kiến trúc sư biết rằng họ đã rơi vào phạm vi tấn công của con vật từ lâu, nhưng hôm nay nó sẽ tha mạng cho họ. Ông chỉ khe hở đủ một người đi phía sau con rắn và nói. -Muốn vào thánh địa phải đi qua mặt con rắn này. Người vợ định bỏ chạy, nhưng cô vội nhận ra phía sau là cánh cửa đã khép chặt. Đã vào đến đây dù chết cũng phải đi đến tận cùng. Chẳng phải mười mấy năm nay cô cũng chỉ mong điều đó đấy thôi. -Đi tiếp! – cô nói. Tuy lấy hết can đảm, không chỉ cô mà người đàn ông đầy chất thép kia cũng phải co mình nín thở để lách qua lưng con rắn đang phả hơi tanh nồng nặc cả góc hang. Họ nhanh nhẹn lách vào khe hở và bắt gặp một hành lang rộng dẫn sâu vào điện thờ. Ngay vừa đặt chân vào khu tiền điện, viên kiến trúc sư đã ngỡ ngàng sửng sốt với vô số pho tượng các vị thần Balamon giáo xếp trang trọng trong các khám thờ ăn sâu trong đá. Tượng Siva, bò Nadin, dấu triện cổ và các thanh kiếm ánh lên màu sắc đặc trưng của vàng thật. Do thời gian có hạn nên không thể xem kĩ từng chi tiết, ông muốn đi thật nhanh để bao quát quy mô thánh địa nhưng một pho tượng nữ thần vàng óng làm ông sững người lại. Đúng là pho tượng này được đúc bằng vàng khối, với kích cỡ lớn bằng người thật như vậy làm ông nghĩ đến tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng tại Po Nagar đã bị quân Khmer băng qua cao nguyên Langbian đến tấn công nam Champa năm 945. Sự tập trung của ông bị cắt ngang khi có tiếng động vang lên từ xa. Lúc này ông mới giật mình nhớ lại người vợ đã biến đi đâu mất. May thay, nỗi sợ của ông tan biến khi thấy nàng đang ôm một thứ gì đó nặng trĩu trước ngực. Ông lia đèn sang nhìn thứ trên tay vợ và không thể tin nổi vào mắt mình nữa. -Lạy chúa! Em bê cái này từ đâu ra?                                                                                                                                                                                               Mật mã Chămpa - Chương 1- p1  Mật mã Chămpa - Chương 1- p2  Mật mã Champa - Chương 2 - p1  Mật mã Champa - Chương 2 p-2  Mật mã Champa - Chương 3 -p1  Mật mã Champa - Chương 3 - p2 Mật mã Champa - Chương 4 - p1
0 Rating 1.7k+ views 5 likes 0 Comments
Read more
By: On December 21, 2017
D?ch sang ti?ng Vi?t b
0 Rating 1.1k+ views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 31, 2014
 Trên đời không thiếu câu chuyện chỉ nghe thoáng qua một lần và không bao giờ còn được nhắc đến.  Dẫu vậy, có những câu chuyện mà cứ phải nghe lại mãi dù đã thật xa xưa.  Một trong những câu chuyện ấy phải nói là của Huyền Trân công chúa, dù đã xảy ra hơn 700 năm về trước. Chuyện tình Huyền Trân công chúa đã được nhắc tới nhiều trong dân gian Việt Nam dưới nhiều góc độ nhìn khác nhau.  Người thì ca ngợi công chúa đã thay mặt triều đình nhà Trần thực hiện công tác ngoại giao, tạo hòa bình giữa hai nước đã thường xuyên tranh chấp với nhau lâu đời. Cũng có người tiếc cho công chúa xinh đẹp, lá ngọc cành vàng phải xa quê hương trao thân gởi phận cho người chồng xa lạ.  Về mặt tình cảm thì nhiều người thương tiếc, nhưng chuyện tình Huyền Trân cũng thường được hâm nóng lại và gây nhiều tranh cãi qua những bài viết đó đây.   Cách đây không lâu nhân chuyến đi họp xa tôi có dịp ghé thăm cộng đồng Việt Nam và nhận được tờ Viet Lifestyles Magazine số 31 đem về khách sạn. Nhưng cho đến khi ngồi trên chuyến bay trở về tôi mới có thì giờ mở ra lật từng trang và bắt gặp bài “NHỚ VỀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA” của Mường Giang từ Hạ Uy Di.  Viết về công chúa Huyền Trân, cả chính sử và dã sử đã tốn khá nhiều giấy mực để luận “công” và “tội” của nàng.  Nhưng đây là một bài viết mà theo tôi là rất trung thực, tác giả ghi lại câu chuyện tình xa xưa và cố trình bày sự thật cách rõ ràng theo như mình tìm hiểu được.  Ông cũng đưa ra những lời nhận định chân tình của một người cầm bút, không thiên lệch nhưng rất công tâm khi xét về lý lẽ và sự kiện đã xảy ra trong lịch sử. Ca dao Việt Nam có câu: Có con mà gả chồng gần, Có bát canh cần nó cũng đem cho.                                  Về việc vua Trần Nhân Tông hứa gả công chúa yêu quý nhất của ngài cho vua Chế Mân xa xứ, theo tác giả Mường Giang thì “cũng không ngoài việc anh hùng trọng anh hùng, qua cái tư cách hào hoa mã thượng của nhà vua trẻ này đã thể hiện vào năm 1283, vua Chế Mân đã lãnh đạo quân dân Chiêm Quốc chống lại quân Mông Cổ khi chúng xâm lăng nước này.”   Đọc Việt sử tới những trang viết về cuộc tình của Huyền Trân công chúa và vua Chế Mân, không hiểu là tại sao bên lề câu chuyện chính sử lại có kèm theo những câu ca dao không rõ xuất xứ này:   Tiếc thay cây quế giữa rừng, Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.   Khác với câu ca dao trên, có thể nói vua Trần Nhân Tông là người hiểu rõ về cốt cách và tài năng của Chế Mân.  Ông chẳng những là một vị anh hùng có tài thao lược, mà lại còn là một vị vua có lòng hiếu khách nữa.  Năm 1301 khi Trần Nhân Tông đặt chân đến kinh đô của vương quốc Champa để tận mắt chiêm ngưỡng những ngọn tháp nguy nga tráng lệ ở đây, thì chính Chế Mân long trọng đích thân đến mời ngài vào cung điện của mình đón tiếp và dẫn đi du ngoạn khắp các đền đài.  Nên trong gần chín tháng lưu lại nơi đây, đến ngày về, cảm động trước tấm thịnh tình của Chế Mân, nhà vua đã hứa gả cô công chúa xinh đẹp của mình là Huyền Trần cho vua xứ Vijaya.  Hôm ấy trên không trung trong lòng máy bay giữa bầu trời cao ngất, đọc xong bài viết của tác giả Mường Giang, tôi ngồi chiêm nghiệm lại những bài viết mà mình đã từng đọc trước đây cũng về cùng một câu chuyện mà không ít băn khoăn.  Trong ấy có những bài viết mà tác giả chỉ muốn nói lên sự thật như một bài học lịch sử, một số bài viết thì tác giả muốn đi tìm sự thật với những câu hỏi chân tình về những điều bí ẩn bên trong.  Dẫu vậy, cũng có những tác giả đã không nhẹ tay chút nào khi phóng ra nét bút của mình trên trang giấy, nặng lời kết án không chỉ những nhân vật trong câu chuyện mà còn lây lan đến làm đau lòng cho cả một dân tộc cách không thương xót.   Dĩ nhiên, trong chúng ta không ai có thể thay đổi được quá khứ.  Điều mà mỗi chúng ta có thể, ấy là cùng nhau làm cho ngày mai tốt đẹp hơn.  Chuyện Huyền Trân công chúa phải nói là đã xảy ra vào một giai đoạn lịch sử mà ngày hôm nay nhắc lại làm cho mỗi chúng ta ngậm ngùi và hối tiếc.  Đối với người Việt, thì không ít người xót xa cho một Huyền Trân vì chữ hiếu mà đành phải xa quê để đi lấy một người xa xứ.  Nên người sau cảm thông nỗi niềm ấy mà trút cạn lòng mình trong lời ca bi thiết:   Nước non ngàn dặm ra đi, Mối tình chi. Mượn màu son phấn, Đền nợ Ô Ly. Xót thay vì, Đương độ xuân thì…   Đối với người Chăm, thì lại tiếc thay vì một Huyền Trân mà mảnh đất thân thương là hai châu Ô và Lý đành phải vĩnh viễn lìa xa đất tổ.  Hoàng Thái Xuyên viết:   Hai châu Ô Lý vuông nghìn dặm, Một gái Huyền Trân đáng mấy mươi…   Việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đã khiến quần thần trong triều Việt xôn xao bàn tán, và dĩ nhiên việc dâng hai châu Ô và Lý làm sính lễ cũng không tránh khỏi nhiều sự bất bình trong thần dân Champa.  Cuộc hôn nhân này quả là một thiên bi hài kịch, gây hệ lụy đau buồn cho nhiều người qua nhiều thế hệ.  Nên những người cầm bút dù là một sử gia, hay là một văn nghệ sĩ muốn mượn câu chuyện tình này làm nguồn cảm hứng để cảm tác một bài thơ, sáng tác một dòng nhạc hay dựng nên một tác phẩm thì cũng hãy nên lấy công tâm mà viết.  Đây là câu chuyện tình lịch sử có liên quan đến hai nước láng giềng khi xưa và hai dân tộc đang sống với nhau trong cùng một cộng đồng bây giờ.  Nên khi viết đừng theo trí nhớ mà diễn đạt, nhưng cần phải tra cứu lịch sử để khi dệt thành văn nó trở nên giá trị đem lại bài học lịch sử cho mọi người, chứ không thì theo trí nhớ mà sai lệch sẽ đem lại nhức nhối cho nhiều người.  Hơn nữa khi viết phải ý tứ trong cách dùng từ, vì đây là một vấn đề nhạy cảm.  Dù sao dân tộc Chăm một thời là thần dân của một vương quốc rất oai hùng đã bị mất, và nay đang sống chung trong cộng đồng của một đất nước Việt Nam.  Từ khi mất nước dân tộc Chăm đã từng sát cánh với dân tộc Việt chiến đấu trong nhiều cuộc chiến khác nhau, cùng gắng công xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh thời trước 1975.  Bây giờ một số đã cùng bỏ nơi chôn nhau cắt rốn của mình để cùng đoàn người dân Việt ra đi lưu lạc khắp phương trời, và nơi ấy họ cũng cùng chung sinh hoạt sát cánh với người Việt để xây dựng một cộng đồng hải ngoại vững mạnh ở xứ người.  Còn những ai đang ở lại quê nhà, thì họ cũng đều chịu chung số phận với muôn triệu người Việt khác ở trong cùng hoàn cảnh.  Nên hãy quan tâm đến nhau, giúp đỡ lẫn nhau, dùng ngòi bút đem lại sự cảm thông để hóa giải những bất đồng.  Hầu có thể cùng kéo nhau lại gần hơn nữa trong cuộc sống bươn bả ở quê người, hay là cuộc sống lo âu ở quê nhà.  Chúng ta cần có nhau, người Chăm hay là người Việt, dù ở bất cứ đâu trên quả địa cầu.  Thật chúng ta từ ngàn xưa có những bắt đầu khác nhau, tổ tiên chúng ta sinh ra không cùng chung một vùng địa lý.  Nhưng rồi thì theo cái vận chung của thời cuộc, Trời đã xui cho hai dân tộc cùng sống chung với nhau như láng giềng trên chung một mảnh đất, nên không chi tốt bằng là hãy sống vui khỏe bên nhau để cùng chung hưởng những tốt đẹp mà Trời đã ban cho mỗi chúng ta./.
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On December 17, 2013
Những tượng cổ, kho tàng, báu vật của vương quốc Chămpa xa xưa luôn là mơ ước của dân buôn bán. Sưu tầm đồ cổ. Cơn sốt truy tìm kho báu Chămpa đã bắt đầu từ hàng trăm năm về trước và âm ỉ mãi cho đến ngày nay. Trên vùng kinh đô Vijaya (huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay), những huyền thoại hư ảo đầy hấp dẫn về kho báu Chămpa khiến người ta mỗi khi nhìn những kiến trúc đền tháp Chămpa cổ rãi rác trên những “ngọn đồi của các vị thần” lại bật lên câu hỏi “kho báu Chămpa - sự thật hay chỉ là huyền thoại?” Tháng 12 – 1997, khi phóng sự Lời nguyền trên các kho báu Chăm được đăng trên Thế Giới Mới số 264 ít lâu thì tại nhà riêng, qua điện thoại, tôi nhận được một lời đề nghị hấp dẫn từ một người đàn ông (tạm gọi là ông X). Ông X đề nghị tôi xác minh một số thông tin về vương quốc Chăm ở một số tư liệu mà ông không có điều kiện tiếp xúc, đổi lại ông sẽ giúp tôi một số thông tin mới về con tàu Mekong. Trong lời nguyền trên các kho báu Chăm có đoạn: “Sau này người ta không sao tìm lại được những thùng cổ vật ấy và một bí mật đã bao trùm lên con tàu Mekong bởi danh sách hàng hoá trên tàu cũng bị thất lạc”. Vì vậy, tôi đã chấp nhận lời đề nghị này và hẹn ngày trao đổi thông tin. Rất may mắn cho tôi là khi ấy anh Mậu, ngưòi phụ trách phòng tư liệu phổ biến hạn chế (Thư viện Bình Định) cũng đang quan tâm đến vấn đề này và sẵn lòng giúp tôi tiếp xúc với số tư liệu về vương quốc Chăm mà tôi cần. Sau đó, cuộc trao đổi thông tin giữa tôi và ông X đã diễn ra như hẹn ước. Có lẽ, chúng tôi chưa trở lại với câu chuyện kho báu Chăm nếu chừng một tháng sau đó huyện Vĩnh Thạnh (một huyện miền núi của tỉnh Bình Định) không xẩy ra cơn sốt săn vàng, đồng thời ở vùng kinh thành Vijaya cũ, những người thợ rà phế liệu kim loại không phát hiện được một bộ áo giáp – mũ chiến bằng vàng…Trong tác phẩm Le Royaume de Champa (vương quốc Chămpa), học giả người Pháp Georges Maspero đã mô tả: “Các cánh rừng miền thượng du của vương quốc (Chămpa) chứa đựng những kho tàng vô giá, đó là gỗ mun và nhiều loại cây quý khác như đinh hương, giáng hương, long não, đặc biệt là trầm hương… Nhưng sự giàu có thực sự của đất nước là là sản phẩm lấy từ lòng đất – vàng. Vàng ở đây không hề hiếm và người Trung Hoa kể lại một cách kỳ lạ rằng người ta đã tìm thấy ở đây một núi vàng, tất cả các hòn đá theo họ nói đều có màu đỏ và ở giữa là vàng ròng. Vàng còn trôi trong các con sông, muốn thu được chỉ cần tát nước và gạn lấy…” Sự giàu có của vương quốc Chăm cổ là điều hầu như không cần phải minh chứng. Giống như một sự minh hoạ cho các luận chứng khoa học về sự giàu có của vương quốc Chăm, theo một số cư dân ở Vĩnh Thạnh, khoảng năm 1980 – 1983, nhiều người đã nhặt được những cục vàng tự nhiên nặng tới 2 - 3 kg (!?); sự vụ này đã gây xôn xao dư luận suốt một thời gian dài. Cho đến ngày nay, ở suối Vàng (Hoài Nhơn), trên dòng sông Kim Sơn và một số điểm khác ở Vĩnh Thạnh những người đãi vàng sa khoáng vẫn tiếp tục chắt lọc được khá nhiều thứ kim loại qúy giá này.Để đi tìm hy vọng từ các kho báu Chăm, giới săn tìm đồ cổ thường phối hợp với những người chuyên đi rà phế liệu kim loại (thợ rà) hoặc đặt hàng cho họ. Chính vì mối quan hệ này mà mỗi khi phát hiện thấy cổ vật thì nhà chức trách, giới chuyên môn thường chỉ là người đến sau những tay buôn bán cổ vật trái phép. Khu vực được thợ rà quan tâm nhiều trong các cuộc truy lùng của mình là những nơi có tháp cổ Chămpa toạ lạc, có tàn tích đền tháp hoặc là vùng xuất phát những truyền thuyết dân gian về kho báu Chăm. Tháp Phốc Lốc (Nhơn Thành, An Nhơn, Bình Định) – hay như cách gọi đầy hấp dẫn của người Pháp, tháp Vàng – là ngôi tháp được giới thợ rà cày xới nhiều nhất. Dù đi bằng ô tô hay tàu hỏa trên đường Bắc-Nam, khi đến vùng giáp ranh giữa hai huyện Phù Cát, An Nhơn, bất cứ ai cũng có thể chiêm ngưỡng ngôi tháp kỳ vỹ này. Khi chúng tôi hỏi thăm đường lên tháp, chủ một quán nước dưới chân đồi đã mách: “Các anh đi tìm đồ cổ à? Không còn gì nữa đâu. Thợ rà đã cào nát trên đó hết rồi. Ba bốn năm nay, hết dân ở đây rồi đến dân Phù Cát, Phù Mỹ vào đào xới lung tung, đến sắt vụng cũng không còn nữa là…”. Sau một hồi chúng tôi đi ngược dốc, sừng sững trước mặt chúng tôi là ngôi tháp cổ uy nghi. Phốc Lốc là ngôi tháp duy nhất của một quần thể gồm nhiều tháp. Một nửa của đỉnh đồi có lẽ đã bị các công trình sư Chămpa xưa cho san phẳng tạo thành hai nấc nên phía dưới của ngôi tháp là một không gian rộng lớn bằng phẳng. Những dấu tích còn lại cho phép người ta liên tưởng đến một quảng trường dành cho các dịp cử hành trọng thể những nghi thức nào đó (tháp Phốc Lốc rất gần kinh đô Vijaya). Tuy nhiên, điều đáng buồn là giờ đây, trên “quảng trường” nhan nhản những hố sâu do thợ rà để lại, những đống lớn gạch Chăm đổ nát. Gần chân tháp, một nhóm người đang húy hoáy đào xới.Phát hiện thấy tôi giương máy ảnh lên, lập tức những người này chui ngay vào bụi rậm gần đó giấu mặt. Dù vậy, khi lại gần, họ vẫn vui vẻ trò chuyện. Tư, một thanh niên vạm vỡ, phân trần: “Tuị em tưởng là công an, mà các anh chụp ảnh bọn em làm gì, xúi quẩy lắm… Không có việc gì làm, tụi em mượn máy lên đây rà cầu may ấy mà. Khoảng năm 1998, khi đào tìm gạch Chăm về xây nhà, một số nông dân đã phát hiện ở chân tháp một bức phù điêu tượng thần rất lớn. Cán bộ văn hoá huyện nói đó là tượng Nữ thần vàng (? ). Không biết cổ vật ấy có phải là vàng thật không, hay chỉ là tên gọi, nhưng ngay sau đó nhiều người đã rùng rùng kéo lên đây tìm vàng Hời. Không nghe thấy ai nói đã tìm được vàng, mà có lẽ tìm được họ cũng không dại gì mà nói ra, nhưng phù điêu, tượng cổ thì có. Khi ấy mọi người đã đổi đời chỉ nhờ một cái tượng. Tụi em rà hoài chỉ thấy gạch và đá”. Nằm cách tháp Phốc Lốc không xa về hướng Nam là Gò Tháp, một phế tích của nền văn hoá Chămpa lừng danh. Những người dân ở thôn Châu Thành cho chúng tôi biết, xưa kia nơi này có rất nhiều gạch Chăm vỡ vụn xếp thành đống lớn nằm rải rác trên gò. Theo ông bà kể lại thì từ nhiều đời trước nơi ấy có những ngôi tháp cổ của dân Hời, đã sụp đổ từ rất lâu. Cứ một vài năm, thường là đến mùa mưa, lại nghe có người nhặt được vàng Hời, nhưng hỏi ra thì không ai nhận cả.Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les tours Kiames delaprov-ince de Binh Dinh (Sài Gòn 1890) như sau: “Trong các tháp có các tượng. Rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi sau đó. Người ta đã đào các bức tường để dỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó… Các tháp Bạc (người Việt quen gọi là Tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo Tàng Lyon đã được tàu Mekong chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của tiến sĩ Maurice. Tàu Mekong bị đắm ở Hồng Hải và những người Somali tưởng rằng đã tìm thấy một mối lợi lớn nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”. Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mekong đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mekong có GS. Robert Stenout. Sau hơn 30 năm cày xới ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển…, đến tháng 10 – 1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí tàu Mekong bị đắm tại mũi Guardaqui ở Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mekong là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương – Pháp là một hành trình dài mất nhiều ngày, nên Mekong được xây dựng bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến hải hành định mệnh của Mekong năm 1886 có 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách, chở theo nhiều tấn cổ vật và một khoang hàng bí mật chứa đầy vàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mekong đã lan truyền là hoàn toàn có thể tin tưởng được. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mekong và kho báu bí mật thì quốc gia có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mekong đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc khai quật kho báu trên tàu Mekong đành dừng lại… kho báu mà tàu Mekong có nhiệm vụ đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya và chắc chắn đây chưa phải là toàn bộ kho báu huyền thoại của vương quốc Chăm.Như chúng ta đã biết lịch sử hơn 14 thế kỷ của vương quốc Chăm gần như được kết nối bằng vô số cuộc chiến tranh, chiến tranh với những người Đại Việt láng giềng, với cả những cư dân Khmer xa xôi hoặc là nội chiến tranh giành vương quyền giữa các thế lực trấn giữ các vùng trong vương quốc. Chính vì chiến tranh nên các kho báu của vương quốc được di dời liên tục, chôn xuống đào lên nhiều lần, nhất là lần dời đô năm 1282 ra khỏi Vijaya về phía vùng rừng núi phía Bắc vương quốc để tổ chức kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Lịch sử đã ghi nhận rằng Tọa Độ, viên tướng chỉ huy cuộc xâm lược vương quốc Chăm, đã chiếm được một kinh đô trống rỗng và hoang vắng bởi người Chăm đã thực hiện cuộc tiêu thổ kháng chiến trước đó khá lâu. Sau cuộc chiến này, người Chăm vẫn để lại trên kinh đô kháng chiến và rải rác khắp vương quốc phần lớn kho báu của mình vì e ngại những cuộc tập kích bất ngờ của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh. Các kho tàng ở Vijaya cũng được chôn giấu trong lòng đất, lưu giữ trong các hầm bí mật trong hoặc dưới các ngôi tháp cổ. Những tư liệu lịch sử, những kết quả nghiên cưú của các nhà khảo cổ học, bảo tàng học, sử học và những phỏng đoán khoa học nói chung dường như đã được thực tế minh họa. Và một lần nữa, những cuộc săn lùng kho báu trên đất Vijaya lại bùng nổ trong âm thầm.Tháng 2- 1998, khi nghe tin có người rà được một bộ áo giáp - mũ chiến bằng vàng trên khu vực tháp cánh Tiên, chúng tôi liền đi xác minh, nhưng đáng tiếc là người phát hiện ra cổ vật đã bán sang tay cho thợ vàng phân kim. Một cán bộ của ngành văn hóa – thông tin tỉnh Bình Định cho biết: “Một vài năm trở lại đây, dân Bình Định đã phát hiện ra nhiều cổ vật quý. Ban đầu chỉ là do sự tình cờ khi đào đất đắp đường, sản xuất… và người dân thường giữ nguyên hiện trường, nhanh chóng thông báo cho chính quyền biết sự việc. Đây là nghĩa vụ công dân, nhưng ở nhiều địa phương, các cấp chính quyền đã xem nhẹ việc thực hiện trách nhiệm của mình - tưởng thưởng xứng đáng cho người đã thực hiện tốt nghiã vụ công dân. Vì vậy, sau này người ta không còn nhiệt tình như trước nữa. Câu chuyện “phân kim cổ vật” là một ví dụ. Khi nghề rà tìm phế liệu liên tục phát triển, hiện tượng thất thoát cổ vật còn nhiều hơn trước hàng chục lần, trước sự bất lực của chúng tôi. Cho đến nay cơ quan chức năng vẫn chưa làm sao thu hồi được số cổ vật phát hiện được ở Phù Cát gồm hai hủ lớn - một bằng đồng, một bằng sành – bên trong chứa nhiều cổ vật bằng gốm, đá và kim loại có màu vàng nặng hơn 3kg, do một nhóm nông dân khai quật được và bán cho những người lạ mặt trước khi cơ quan chức năng kịp can thiệp. Theo tin tức lan truyền trong giới mua bán đồ cổ ở TP Hồ Chí Minh thì ngay trong lần mua bán sang tay đầu tiên, lô hàng này đã được ngã giá với con số kỷ lục gần 1 tỷ đồng”… Trong khung viên vòng thành bảo vệ Vijaya ngày xưa nay chỉ còn lại duy nhất một ngôi tháp, đó là tháp Cánh Tiên tọa lạc ở một vị trí rất đặc biệt – ngay ở điểm trung tâm kinh đô, vì vậy, vùng quanh chân tháp thường bị giới thợ rà, những người đi tìm cổ vật đào tới đào lui trong nhiều năm liền mà dấu vết còn lại là hàng chục hố sâu rải rác xung quanh tháp. Trong lần khai quật chính thức dưới sự kiểm soát của Bảo tàng Bình Định, người ta đã phát hiện nhiều hiện vật gốm sứ tuyệt đẹp kèm một số hiện vật khác mà biên bản khai quật sơ bộ ghi nhận đó là những mẫu kim loại khá nặng có màu vàng. Thông tin này lập tức lọt đến tai giới săn lùng cổ vật Chăm và vùng xung quanh tháp một lần nữa lại sôi động hẳn lên. Cứ như một trò đùa dai đầy ác ý của tạo hoá, chẳng ai tìm thấy được thứ gì đáng giá ngoài những mẫu vụn gạch Chăm, những mẫu đá nhỏ có nguồn gốc từ các kiến trúc điêu khắc đá Chămpa. Thế rồi, người ta gần như ngã lòng thì trong một lần đào huyệt ở nghĩa trang cách chân tháp Cánh Tiên chừng 100m, một nhóm phu đào huyệt đã tìm thấy khá nhiều cổ vật bằng đá. Khi chúng tôi hỏi thăm tin tức ở ông V.H.T, một thợ điêu khắc đá ở An Nhơn nổi tiếng về tài chế tác các pho tượng Chăm giả cổ và khả năng thẩm định xuất xứ của tượng cổ Chămpa thì được biết cách đây chừng 60 năm người Pháp đã đến và đào được vùng đất tọa lạc Thập Tháp Di Đà tự (Đập Đá) rất nhiều tượng cổ. Tương truyền chúng nhiều đến mức họ chỉ đóng thùng những pho tượng thật đẹp, thật quý còn lại những cái hơi sứt mẻ, xấu xí… họ dồn vào các hố thám sát rồi chôn lại, xóa dấu tích. Nơi được người Pháp khai quật nằm ở ven kinh đô Vijaya, cách tháp Cánh Tiên chưa đến 5km theo đường chim bay, nguyên thủy có ít nhất là 10 ngôi tháp, chúng đã sụp đổ trước khi người ta đến dựng chùa Thập Tháp. Trên những gò đống gạch đá đổ nát tưởng như vĩnh viễn vô dụng ấy, nhiều người đã đào được khá nhiều cổ vật Chăm. Tương truyền thôn Vân Sơn, Nhạn Tháp (Nhơn Hậu, An Nhơn) là nơi tồn tại nhiều tòa tháp cổ không lớn nhưng tuyệt đẹp. Ở đây, dân địa phương rất e ngại khi nhắc đến cổ vật Chăm, vàng Chăm. Một cụ già ở Nhạn Tháp cho chúng tôi biết: “xưa nay ai cũng nghe đến chuyện vàng từ kho báu, từ đền tháp của người Chăm bay ra đồng. Ông bà tổ tiên khi khai phá vùng này chắc cũng gặp những chuyện ấy. Nhưng hàng trăm năm nay đã có ai giàu lên vì vàng Hời đâu. Thôn này có nghề truyền thống lâu đời là nghề làm đồ gốm đất. Để có đất sản xuất, chúng tôi đã đào đến cạn sạch đất sét tốt ở Nhạn Tháp, tất nhiên là đã có một vài lần gặp cổ vật của người Chăm. Nhưng sau khi có vài người gặp xui rủi do giữ những thứ ấy trong nhà đem bán những thứ ấy nên dần dần không ai hám. Vả lại, nghe bảo những thứ ấy là đồ thờ của người ta, mình giữ, mua bán như vậy là phải tội…”. Tuy không sôi động như vùng kinh đô Vijaya, nhưng với những di tích, phế tích đền tháp Chămpa như Dương Long, Thủ Thiện…, huyện Tây Sơn cũng là nơi thu hút khá nhiều sự quan tâm của giới buôn bán cổ vật, đội ngũ thợ rà ở đây hầu như không kém gì so với An Nhơn. Hiện nay ở khu tháp Dương Long chỉ còn lại 3 ngôi tháp chính nhưng với những dấu vết của các phế tích còn sót lại, ta có thể dễ dàng biết rằng nơi này vốn có nhiều công trình kiến trúc hỗ trợ cho nhóm đền tháp chính. Vào quãng năm 1901-1906, nhà nghiên cứu người Pháp-Henry Parmentier-đã khảo sát rất kỹ ngôi tháp xinh đẹp này. Theo H.Parmentier, tháp Ngà (theo cách phân loại định danh của người Pháp) là ngôi tháp hầu như không hề giống với bất kỳ ngôi tháp cổ Chămpa nào đang tồn tại. Được đánh giá là hiện tượng đặc biệt duy nhất trong lịch sử kiến trúc đền tháp Chămpa, Dương Long nổi bật lên với sự phong phú của hàng ngàn tấm phù điêu điêu khắc đá mà vào thời điểm H.Parmentier có mặt để khảo sát nghiên cứu, học giả người Pháp này đã cho thu gom, sắp xếp thành những đóng lớn bên cạnh tòa tháp cổ. Điều đáng tiếc là H.Parmentier đã mô tả nội dung chi tiết các tấm phù điêu ấy trong các tài liệu khoa học của mình. Cùng với sự hủy hoại của mưa nắng, thời gian, việc những người dân địa phương sử dụng gạch đá Chăm vào mục đích xây dựng, dùng các mảnh đá, khối đá vỡ ra từ các cột đá, diềm đá… để làm cối đá dân dụng, những người thợ đục đá hầu như đã dọn sạch tất cả những gì mà ngày xưa các nhà khoa học đã nhắc đến. Tệ hơn, trước năm 1975, một viên tướng Ngụy đã đặt thuốc nổ phá tung một nhóm tượng trên than tháp. Khối tượng lớn được mang đi, nhiều tượng phù điêu nhỏ thì được vứt lại quanh chân tháp. Năm 1985, khi chuẩn bị tùng tu tháp Dương Long, cán bộ của Bảo tàng Bình Định và đoàn chuyên gia Ba Lan đã phát hiện ra một số bức phù điêu khá lớn. Nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã nói về giá trị của các phù điêu Dương Long như sau: “trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa, có không ít tác phẩm đẹp, nhưng chúng tôi chưa thấy một bức phù điêu nào thể hiện tâm trạng các nhân vật thành công như hình phù điêu trên đây của tháp Dương Long… Chắc hẳn xưa kia trên mặt tháp Dương Long phải có nhiều hình phù điêu như bức phù điêu may mắn còn lại. Chúng tôi tin rằng, nếu có những cuộc khai quật thật sự khoa học ở Dương Long, chúng ta sẽ tìm thấy những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đá như những tác phẩm đã tình cờ phát hiện ra năm 1985…”. Nhiều kiến nghị tương tự của các nhà khoa học được đưa ra liên tục, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, công tác quản lý khu vực di tích cũng như việc tiến hành khai quật các di chỉ được triển khai một cách nhỏ giọt và gặp nhiều vướng mắt, nhất là về kinh phí, nên những kết quả cũng rất hạn chếTrong khi cơ quan chuyên môn còn đang đánh vật với những khó khăn của mình thì tháng 10 – 1997, ông L.V.A (Tây Sơn) và một người đàn ông quê ở Thanh Hoá đã âm thầm khai quật một kho báu trên núi Hòn Gà (Bình Thành, Tây Sơn). Số lượng cổ vật, theo lời khai ông L.V.A với cơ quan chức năng, gồm 9 pho tượng cổ cao từ 30 – 35 cm, đường kính thân tượng từ 4 – 5cm, 4 lục bình lớn hơn số tượng kia một chút và ngay sau khi tìm thấy, họ đã khẳng định được ngay rằng số cổ vật mà họ tìm thấy đều làm bằng vàng vòng. Cũng như nhiều vụ việc tương tự trước đó. Số cổ vật này đã được bán sang tay cho một kẻ lạ mặt với giá nhiều triệu đồng. Thông qua một người bạn ở Tây Sơn, chúng tôi làm quen với N.X.H, một thợ rà phế liệu kim loại, quê ở An Nhơn, đang đi tìm vận may trên núi Cấm thuộc xã Bình Nghi (Tây Sơn) H đã bật cười ha hả khi nghe ý định giả trang làm thợ rà để săn tư liệu của tôi: “ Làm sao mà các anh có đôi bàn tay đầy chai sần do đào đất, đục đá, nước da đen cháy do suốt cả ngày phơi mình dưới nắng như bọn tui. Thợ rà như bọn tui ngay cả lỗ tai cũng chai nữa kia (do cứ phải đeo tai nghe máy rà liên tục). Vả lại lúc nào cũng rà được, chỗ nào cũng được phép rà. Những vụ nổ lưụ đạn, mìn pháo còn sót lại sau chiến tranh do thợ rà bất cần hoặc quá tham lam gây ra đã để lại cho chính quyền, công an các xã vô khối chuyện phiền phức. Vì vậy hễ cứ thấy bóng dáng bọn tui, vui vẻ thì họ xua đi, còn ngược lại thì họ gọi vào xét giấy tờ, hỏi tới, hỏi lui, có khi họ còn đòi giữ lại máy móc, phải xin gãy cả lưỡi. Các anh cũng chẳng thể nào đóng vai trò người đi mua đồ cổ được đâu… Mua bán hàng cấm mà mấy anh, đâu có đơn giản vậy. Làm gì có chuyện vừa tìm thấy đã bán được ngay như… báo chí các anh viết. Đồ cổ chứ có phải sắt vụn phế liệu đâu mà bán cho ai cũng được? Ngay cả những người được ứng tiền của chủ các đại lý phế liệu kim loại để đi rà như tui cũng chỉ biết lờ mờ là phải qua nhiều trung gian. Thế thôi các anh ạ! Và họ mua bán cũng lẹ lắm, ngã giá xong là họ chồng tiền. Bây giờ còn có thêm kiểu này nữa, những người cần mua, biết đánh giá chất lượng cổ vật, thường cũng biết những nơi tập trung cổ vật. Tất nhiên cũng không phải rõ ràng như có bản đồ trong tay. Nhưng chắc chắn nhờ họ mà chúng tôi đỡ tốn công hơn. Những người này thường ứng tiền cho thợ rà đi làm và bao tiêu tất cả những gì chúng tôi rà được, gồm cổ vật và những thứ phế liệu kim loại. Cũng là chuyện “buôn có bạn, bán có phường” thôi! Năm ngoái, trong giới chúng tôi xẩy ra một chuyện rất buồn cười nhưng nghỉ lại mà thấy lạnh tóc gáy. Theo yêu cầu của một số chủ hàng, một nhóm thợ rà đã thay nhau đào xới trên một cánh đồng rộng ở Đập Đá. Đến giữa trưa một hôm nọ thì phát hiện có tín hiệu rất mạnh, đào một hồi thì gặp cổ vật, vừa gạt sơ lớp đất thì một màu vàng hấp dẫn hiện lên. Nhóm thợ rà sáng mắt lên vì cổ vật quá lớn nhưng chưa kịp reo mừng thì một dòng chữ bằng tiếng Anh hiện ra: Made n USA! Thế là không ai bảo ai, cả nhóm dọn đồ nghề và chạy đi báo Ủy ban xã, xã báo cho huyện, huyện báo ngay cho tỉnh và bộ đội công binh được cử về. Hóa ra cổ vật là một quả bom nặng tới 500kg. Hú vía…”Rời túp lều sơ sài của H, chúng tôi tìm đến tháp Thủ Thiện, một ngôi tháp cổ Chămpa cũng toạ lạc ở xã Bình Nghi. Những người dân địa phương khi nhận ra người bạn cùng đi với tôi là người quen của họ và nghe câu hỏi về hoạt động của những người đào tìm cổ vật đã ồ lên một cách vui vẻ. Tháp cổ nằm gần nhà dân, các thợ rà không dám vác máy, mang cuốc tới. Vả lại chắc cũng chẳng còn tìm được gì nữa. Một cụ già có nhà nằm sát tháp Thủ Thiện không xa kể lại: “Trước giải phóng, lính ngụy nhiều lần đục đẻo tượng cổ trên tháp đem bán cho người Tàu dưới Quy Nhơn. Chỗ nào đục được thì họ đục, còn không đục được thì họ đặt mìn để phá, có lần uống rượu say, đám lính còn ném lựu đạn lên đỉnh tháp để làm trò vui. Đến cơn bảo khủng khiếp năm Sửu (1985), cây đa cổ thụ trên nóc tháp bị gió giật ngã và ném ra xa. Dạo ấy cũng có vài người nhặt được đồ cổ từ trên tháp văng ra nhưng do những lời đồn đại về tai họa mà đồ Hời mang đến và có lẽ do chưa hết kinh hoàng vì cơn bão nên không ai lưu giữ làm gì. Có người kể lại là họ đã ném xuống sông Côn sau khi lỡ đem về nhà …”.Người Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng trang trí… Theo một số truyền thuyết mà Ch.Lemire sưu tầm được thì chóp đỉnh của tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, là một quả cầu lớn làm bằng vàng vòng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ da trắng của một chiếc tàu châu Âu cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Chămsau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Những điều mà truyền thuyết mô tả hầu như đã trùng khớp với sự trình bày của những người thợ rà may mắn phát hiện được những pho tượng vàng trên đất Bình Định. Những kho báu Chămpa được phát hiện đầu tiên không phải do tình cờ mà là kết quả của quá trình tìm tòi rất nghiêm túc của người Pháp. Tháng 2-1906, sau 23 ngày tổ chức khai quật quy mô ở tháp Pô Nagar (Khánh Hòa), H.Parmentier đã tìm thấy một căn hầm bí mật mà ông gọi là kho báu chứa đồ thánh, bên trong chứa nhiều hiện vật bằng vàng như nhẫn, vòng, độc bình,… Sau đó ít lâu, khi tiến hành phục chế tháp phía nam, cũng chính H.Parmentier đã tìm thấy một kho đồ thánh khác ở một vị trí mà không ai ngờ đến – trên đỉnh tháp. Kho báu thứ hai này có khối lượng lớn và phong phú hơn kho báu phát hiện trước đó, chứa nhiều đĩa vàng, bạc, đồng và một số vật dụng khác không xác định được nguyên liệu cấu thành, ngoài ra còn có một số tượng voi, các sấu cũng làm bằng vàng… Kho báu Chămpa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chăm, đã được khẳng định sự tồn tại bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923 (một quốc gia đã bị diệt vong người Chăm và nghệ thuật Chăm): “Do tình cờ ông H.Parmentier và hai người cộng sự trong một chuyến đi khảo sát tại Phan Rí đã được Nữ hoàng Chămpa cho phép tham quan kho báu ở một rừng phải mất nhiều ngày vượt núi mới đến được. Kho báu mà họ được xem tận mắt gồm 300 hiện vật. Đó là những cái bình, những vật trang sức bằng vàng, 4 tá bình bằng bạc, một bộ sưu tập lộng lẫy các vũ khí cổ được khắc hoặc khảm còn lưu lại những chổ bịt bằng vàng hoặc bằng kim loại quý… họ còn có những kho báu dự trữ khác mà người Châu Âu chúng ta không bao giờ được biết đến do tính hoài nghi và mê tín của những người bảo vệ rất nghiêm khắc của dân tộc Chăm”.Những thành tựu của các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, bảo tàng học trong hàng trăm năm qua dường như được các tay săn tìm cổ vật Chăm nghiền ngẫm rất kỹ. Giờ đây họ biết rất rõ rằng kho báu Chămpa không chỉ được chôn giấu trong lòng đất, bên trong hốc tường ở các đền tháp mà còn có ở đỉnh tháp, tường hậu sau khán thờ và ở phần diềm hoa văn chân tháp. Và có lẽ chính những người này là những kẻ đi trước những nhà khoa học khi phát hiện ở phần chân móng của các tháp cổ Chămpa còn có cả những hộc chìm chứa nhiều tượng cổ (?). Một người bạn của tôi trờ về sau một chuyến đi đào xới trên núi Bà (Phù Cát) đã thuật lại: “Ở những cánh rừng đại ngàn trên đỉnh núi hiện có đủ loại thợ thầy đang hành nghề - thợ săn thú quý hiếm, thợ cưa xẻ gỗ trái phép, các điệu săn trầm và đám thợ rà tụi mình. Khi được tin trên núi Bà có nhiều phế tích Chămpa hấp dẫn, tớ đã bán tín bán nghi. Những phế này nhiều người đã biết từ lâu, ngay cả khi cơn sốt săn lùng cổ vật Chăm nổ ra hồi mấy năm trước, tụi mình đã đào xới ở đó gần nửa tháng trời, mọi chuyện đã chấm dứt từ nhiều năm trước. Nghe tin có vàng Hời bay trên núi Bà do mấy tay phu trầm rỉ tai, rồi thấy người ta đi, mình cũng bấm bụng vác máy lên. Gần chục nhóm như vậy chia nhau rà tìm đào xới mà không nhóm nào thu được thứ gì đáng giá. Lần lượt các nhóm ở xa lưng vốn đã cạn rủ nhau xuống núi trước, nhóm của tụi mình là những người áp chót, mình vừa xuống xong thì được tin những kẻ ở lại phát hiện ra trong một hang đá có bộ xương của một chiến sĩ giải phóng nằm chết trên võng (có lẽ là đã hy sinh do sốt rét ác tính khi đi công tác một mình”, tay trưởng nhóm đã xuống báo cho UBND huyện Phù Cát. Nghe đồn nhờ đó mà trong cái ngày quyết định chấm dứt chuyến săn tìm cổ vật, họ đã tìm được một cái bình cổ. Chỉ một cái thôi nhưng đám thợ rà đã kháo nhau là đã bán được gần 100 triệu đồng…” Giữa những huyền thoại về kho báu Chămpa với sự thật lịch sử, nếu tách bỏ đi những yếu tố hoang đường, ly kỳ, rùng rợn như ma vàng Hời, ma vàng bay…, thì nhiều chi tiết của huyền thoại buột chúng ta phải xem xét vấn đề một cách nghiêm túc, đặt chúng ta trong mối quan hệ giữa các ngành khoa học có liên quan như văn học dân gian, khảo cổ học, dân tộc học, bảo tàng học…, để từ đó có thể đánh thức được những di sản văn hóa Chămpa còn thất lạc đâu đó trên các vùng di tích, phế tích. Nếu tổ chức tốt các khâu nghiên cứu, khảo sát, điều tra, khai quật, một điều chắc chắn là hiểu biết của chúng ta về nền văn minh Chămpa rực rỡ sẽ hoàn hảo lên. theo thuvienbinhdinh.com
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On February 12, 2012
Ch? M? Lan: Áo dài Ch?m Tagalau 11. V? ngu?n g?c áo dài Ch?m   Áo dài, tên tiêng Ch?m th??ng g?i là Aw kamei Cam. Cho ??n nay, ch?a có t? li?u nào ghi rõ ngu?n g?c ?ích th?c c?a nó. Ch? bi?t là áo dài Ch?m ?ã có t? xa x?a. Ghi nh?n c?a các nhà nghiên c?u cho th?y áo dài Vi?t Nam là s?n ph?m ch? ra t? chi?c áo dài Ch?m và áo dài Th??ng H?i. “Áo dài chi?c áo dài c?a ?àn bà Vi?t Nam hi?n nay kh?i phát t? th?i Chúa Nguy?n Phúc Khóat (cu?i th? k? XVIII) v?i n?n t?ng là chi?c áo dài ph? n? Chàm, k?t h?p v?i chi?c áo t? thân ? B?c “Áo dài hai v?t áo c?a ?àn bà Hu? có ???c là do ?nh h??ng Chàm”(1). Tr?nh Nguy?n phân tranh, mi?n Nam Chúa Nguy?n. “Chúa Nguy?n Phúc Khóat x?ng v??ng. Ông ?ã tri?u t?p qu?n th?n tìm ph??ng th?c x?ng v??ng và d?ng m?t tân ?ô. Ông ?ã thay ??i l? nh?c, v?n hóa và trang ph?c. ?? thay ??i ph? n? mi?n B?c m?c váy, ph? n? mi?n Nam ph?i m?c qu?n có ?áy (hai ?ng) gi?ng ?àn ông. Võ V??ng ?ã gây ra cu?c kh?ng ho?ng v? trang ph?c. Ph? n? ?ã ph?n ??i k?ch li?t. V? sau Võ V??ng không ?ng ý v?i trang ph?c ?ó. Ngài giao cho tri?u th?n nghiên c?u kham kh?o chi?c áo dài c?a ng??i Chàm (gi?ng h?t áo dài hi?n nay nh?ng không x? nách), và áo dài c?a ph? n? Th??ng H?i (x? ??n ??u g?i) ?? ch? ra áo dài cho ph? n? mi?n Nam. Chi?c áo dài ??u tiên gi?ng nh? áo dài ng??i Chàm và có x? nách. V?y là chi?c áo dài Vi?t Nam ?ã có ?? c? hai y?u t? v?n hóa c?a ph??ng B?c và ph??ng Nam”(2). Tôn Th?t Bính cho là: “Chi?c áo dài tha th??t xinh ??p hi?n nay ph?i qua m?t quá trình phát tri?n. Nó ???c hình thành t? ??i chúa Nguy?n Phúc Khóat. Chúa nghe ng??i Ngh? An truy?n câu s?m “Bát ??i th?i hoàn trung nguyên” th?y t? ?oàn Qu?c Công ??n nay v?a ?úng tám ??i. Ngài li?n h? l?nh cho trai gái hai x? ??i dùng áo qu?n B?c qu?c ?? t? s? bi?n ??i, khi?n ph? n? m?c áo ng?n h?p tay nh? ?àn ông thì B?c qu?c không có th?… là s?n ph?m dung hòa B?c Nam”.   Theo Lê Quý ?ôn: “Chúa Nguy?n Phúc Khóat hùng c? ? x? ?àng Trong, sau khi chi?m tr?n n??c Chiêm Thành, m? mang b? cõi v? ph??ng Nam, theo Lê Quý ?ôn, ?ã có ???c m?t th?i k? th?nh v??ng bình yên. Chúa Nguy?n Phúc Khóat , x?ng V??ng hi?u là V? V??ng, có c? ch? chính tr?, hành chính, xã h?i có k? c??ng, nh?ng ch?a có qu?c hi?u. Tuy nhiên, ng??i ngo?i qu?c t?i lui buôn bán t?i c?a H?i An th??ng g?i là “Qu?ng Nam qu?c”. ?? ch?ng t? tinh th?n ??c l?p, Chúa V? V??ng Nguy?n Phúc Khóat ?ã chú tr?ng ??n v?n ?? c?i cách xã h?i, phong t?c mà ?i?u quan tr?ng là c?i cách v? y ph?c”(3).   Y ph?c Ch?m Theo V?n Món: “Y ph?c ph?n ?nh rõ nét trình ?? k? thu?t d?t v?i, c?m xúc th?m m?, cách trang trí nh?ng ??c tr?ng v?n hóa, c?ng nh? ph?n ?nh v? tôn giáo, tín ng??ng Ch?m. Ngh? d?t Ch?m ?ã có m?t quá trình phát tri?n lâu ??i g?n li?n v?i m?t dân t?c ?ã có nhà n??c và ch?u ?nh h??ng nhi?u lo?i hình tôn giáo, v?n hóa khác nhau. Xã h?i Ch?m là m?t xã h?i có nhi?u giai c?p vua chúa, quý t?c, bình dân. Do ?ó m?i giai c?p, t?ng l?p, m?i ch?c s?c tu s? tôn giáo ng??i Ch?m ??u có y ph?c riêng. Chính v?y mà y ph?c Ch?m r?t phong phú và ?a d?ng. Trong ?ó, ??c s?c nh?t, cao quý nh?t và tuy?t m? nh?t là Áo (aw): Áo truy?n th?ng c?a ng??i ph? n? Ch?m là áo dài không x? tà, m?c chui ??u mà h? g?i là Aw lwak. Áo có ba l?: M?t l? chui ??u và hai ?ng tay. Áo này x?a kia ???c c?u t?o b?ng b?y m?nh v?i, may ghép v?i nhau, ng??i Ch?m g?i là Aw kaung. Lo?i áo này ? ph?n trên thân áo ch?y dài t? vai xu?ng ngang b?ng thì d?ng l?i. Vì kh? v?i c?a khung d?t ngày x?a không cho phép v?i r?ng quá m?t mét; ph?n th? hai t? ngang b?ng ??n quá ??u g?i ho?c ??n gót chân – ph?n này c?ng ???c may ghép hai ph?n, ? m?t tr??c và m?c sau; hai cánh tay ???c n?i l?i v?i hai ph?n vai và nách áo và cu?i cùng hai m?nh nh? ??p vào hai bên hông, ng??i Ch?m g?i b? ph?n này là “dwa baung”. C? áo th??ng khoét l? hình tròn ho?c hình trái tim. Do ?ó t?ng chi?c áo dài truy?n th?ng Ch?m ngày x?a ch? là nh?ng t?m v?i ghép l?i mà ng??i may quay tròn thành ?ng ?? bó thân ng??i m?c. Ngày x?a ng??i ta th??ng may ghép nhi?u màu trong cùng m?t chi?c áo c? truy?n. Nh?ng màu khác nhau nh? màu tr?ng, ?en, ??, vàng… th??ng ???c b? trí ? các n?i nh? hai cánh tay, thân trên (t? eo hông tr? lên) và thân d??i (ph?n còn l?i c?a thân áo). Ki?u áo nhi?u màu này, ng??i Ch?m g?i là Aw bak kwang mà ng??i Vi?t th??ng g?i là “Áo vá quàng”. ?ây là lo?i áo mà ng??i Ch?m th??ng dùng ?? lao ??ng s?n xu?t. Ngày nay, nh?ng ng??i ph? n? l?n tu?i v?n ?ang m?c áo vá quàng này ?? lao ??ng s?n xu?t trên ??ng ru?ng n??ng r?y ho?c công vi?c ? nhà. Nh?ng m?i cái áo luôn có hai màu (?en, ??, xanh, tr?ng ho?c tím vàng…). Áo ch? là nh?ng t?m v?i thô, tr?n không có trang trí hoa v?n. Các ph? n? tr? khi m?c áo dài truy?n th?ng trong các l? h?i th??ng choàng lo?i dây th?t l?ng có d?t hoa v?n tr??c ng?c và bu?c xung quanh l?ng g?i là talei tabak. Ngày nay áo dài truy?n th?ng Ch?m ?ã ???c c?i ti?n. Do k? thu?t d?t ?ã m? r?ng ???c kh? v?i cho nên Áo dài Ch?m không còn là nh?ng m?nh v?i n?i ghép (kauk kwang) n?a. Nh?ng ph? n? Ch?m tr? th??ng m?c áo dài ??n quá ??u g?i ph? lên váy m?c, may h?i bó tay, thân h?i phình r?ng. ? hai bên hông áo “dwa baung”, h? c?i ti?n b?ng cách m? m?t ???ng ngay eo hông, có may thêm hàng khuy b?m ho?c nút dính g?i là Aw aiw(4).  Các tác gi? khác cho là: Áo ph? n? Ch?m là lo?i áo dài không x? v?t, m?c chui ??u g?i là Aw lwak. V?i ???c nhu?m nh?ng màu t??i sáng nh? màu chà, xanh, l?c, h?ng. Áo m?c trong sinh ho?t h?ng ngày th??ng g?i là Aw kauh, áo m?c trong ngày l? g?i là Aw xah, áo dành riêng cho bà bó ng khi hành l? là Aw cam. C?u t?o áo ph? n? Ch?m g?m b?n m?nh v?i ghép d?c theo chi?u ??ng c?a thân ng??i, hai ? phía tr??c, hai ? phía sau, ngoài ra còn hai m?nh nh? ghép hai bên s??n. Áo ??n ??u g?i ho?c quá m?t chút g?i là Aw tah, l?p tr? n? gi?i th??ng m?c áo lo?i này. ?ng tay áo bó sát vào cánh tay, ph?n thân h?i r?ng h?n m?t ít. Lo?i áo dài ph? chùng gót chân ng??i m?c, g?i là Aw dwa baung. Aw dwa baung ôm sát thân ng??i khi m?c ph? trùm lên váy, t?o cho b??c ?i m?t dáng uy?n chuy?n và làm n?i b?t c? th?. ? hai bên hông Aw dwa baung có m?t ???ng m? ngay eo hông, có hàng khuy b?m, ho?c nút dính, khi m?c bó sát eo hông. C? áo ph? n? có nhi?u lo?i, hình lá tr?u, hình tròn, hình qu? tim, l?a tr? c? áo khoét r?ng hình tròn, hình qu? tim ?? l? các vòng dây trang s?c vàng, b?c ?eo quanh c?. Ph? n? Ch?m th??ng m?c áo lót Aw kl?m bên trong áo dài. Aw kl?m có tác d?ng gi? cho b? ng?c cân ??i và r?n ch?c. Váy, kh?n (aban, khan): có hai lo?i váy kín và m?. Váy m? (aban) là lo?i váy qu?n b?ng t?m v?i, hai mép v?i không may dính vào nhau. Khi m?c c?p váy ???c x?p vào và l?n vào bên trong gi? ch?t eo hông. Còn váy kín (khan) thì hai mép ??u v?i ???c may dính vào thành hình ?ng. Ph? n? l?n tu?i th??ng m?c váy m? (aban) còn váy kín dành cho ph? n? tr? tu?i. Ch? có váy m? có nhi?u hoa v?n trang trí và có may c?p váy còn váy kín thì không có hoa v?n trang trí (5).   Ý ngh?a nhân sinh c?a áo dài Ch?m Khi m?c áo dài, ph? n? Ch?m ??a hai tay gi? cao lên r?i t? t? chui ??u vào ch? không m?c gài nút. C? ch? ??a hai tay lên nh? kh?n nguy?n hay t? thái ?? bi?t ?n ??i v?i ng??i ?i tr??c. C?ng là m?t cách nhìn l?i b?n thân thân tr??c khi khóac lên trên mình y ph?c truy?n th?ng dân t?c. Ng??i n? Ch?m nh? lòng s? vô cùng th?n tr?ng và ý t? gi? gìn s? trinh nguyên ?ó. Ph?n chi?c áo t? c? xu?ng ngang l?ng ???c ch?n eo bó sát ng??i, hi?n rõ m?t s?c s?ng và nhi?t huy?t c?a l?a tu?i ?ang xuân. T? ph?n eo ch?y xu?ng qua ??u g?i là giai ?o?n ?ã l?p gia th?t. Ph?n này ???c che ph? b?i hai l?p: Chi?c váy ???c ch?ng thêm m?t l?p áo ? ngoài, t??ng tr?ng cho s? b?o b?c, che ch? cho gia ?ình. Ph? n? Ch?m làm b?t c? ?i?u gì c?ng không ngoài m?c ?ích ?y. ?ây là m?t s? hy sinh quên mình vì ng??i khác. Dây th?t l?ng ngang eo là ranh gi?i phân bi?t rõ nét tr??c và sau khi l?p gia ?ình. Ng??i n? Ch?m nh?n th?c rõ trách nhi?m và b?n ph?n c?a mình. Chi?c váy ? ph?n d??i v?i kích th??c ?? kho?ng cách ch?ng m?c cho m?t b??c ?i c? ??nh ch? không th? nào r?ng h?n tùy thích. Ph? n? Ch?m ch? b??c ?i trong ph?m vi cho phép. D?u cho ???ng ??i có g?p gh?nh th? nào ch?ng n?a, h? v?n c? b??c ?i tr??c sau nh? nh?t. Ch? ?? m?u h? Ch?m ??t lên vai ng??i n? nhi?u b?n ph?n quan tr?ng, ? ?ó lòng chung th?y là tiêu bi?u h?n c?. Khi ?ã có ch?ng, dù hoàn c?nh có éo le ??n ?âu, h? v?n không b??c ra ngoài cái ph?m vi váy cho phép. Hay nói cách khác, không b??c ra ngoài b?n ph?n và trách nhi?m c?a mình. Ph? n? Ch?m ch?u ??ng tr?m cay nghìn ??ng ?? làm tròn b?n ph?n ng??i v?, m?t ng??i m?. ? ph?n d??i c?a áo r?ng ra và c? ??nh, lúc nào c?ng bao dung và g?n bó v?i chi?c váy ph?n d??i. Nó bao la t?a nh? bi?n c?. Ph?n váy nh?p nhô uy?n chuy?n g?n sóng, là nh?ng c?n sóng c? v? v? ng??i ch?ng ?i chinh chi?n trôi gi?t vô ??nh. D?u th?, nh?ng bi?n v?n trung thành ch? ??i. H? d?n n?i nh? nhung nh?ng lúc v?ng bóng ch?ng. Lúc nào c?ng bao dung ôm ?p sóng vào lòng. M?t tình yêu tha thi?t và tr?n v?n. Áo dài Ch?m có m?t nét ??p kiêu sa, ??c ?áo, r?t riêng. Có ai ?ã t?ng ng?m n? sinh c?p ba trong gi? tan tr??ng m?i th?y ???c nét yêu ki?u e ?p ??n d??ng nào. Khóac lên chi?c áo dài truy?n th?ng dân t?c nh? làm cho các cô toát lên m?t nét ??p huy?n bí. Dáng ng??i tr? nên th?ng và cao h?n. M?t v? ??p thùy m? kín ?áo ôm sát châu thân, l? lên m?t nét g?i c?m c?a ph?n c? v?a thanh tao v?a h?p d?n. Tô ?i?m thêm cho nh?ng thi?u n? ???ng xuân ??y nh?a s?ng ? ph?n ng?c hi?n rõ nét cân ??i và r?n ch?c. Vòng eo hình nh? thon g?n l?i và t? t? xòe ra ph?n d??i c?a áo. Chi?c váy bên trong ???c may b?ng ch?t li?u bóng và m?m m?i t?o thành nh?ng ??t sóng v?a d?u dàng v?a uy?n chuy?n m?i b??c ?i.   Aw kamei Ch?m trong cu?c s?ng hôm nay Nét ??p áo dài Ch?m kín ?áo, kiêu sa nên không ph?i ai c?ng nhìn th?y h?t cái ??p c?a nó. Nh?t là th? h? tr? ?ã và ?ang s?ng trong m?t n?n v?n hóa t?c ??, qua s? chung ??ng ti?p xúc v?i th? gi?i bên ngoài nhi?u bi?n ??ng, qua ti vi truy?n hình, live shows th?i trang phim ?nh. H?n n?a, ki?n th?c m? h? v? l?ch s? dân t?c ?ã không ?ánh th?c ???c c?m quan th?m m? n?i th? h? m?i. Không có khái ni?m ?y, cho h? ?ánh m?t luôn ni?m kiêu hãnh v? c?i ngu?n. T? ?ó d?n ??n tình tr?ng các em d? sa ngã và ch?y theo trào l?u trang ph?c ngo?i lai. C? th? nh?t là tình tr?ng ?au lòng ?ã và ?ang di?n ra trên m?nh ??t Panduranga c? kính. Không ít em h?c sinh Trung h?c không còn m?n mà v?i chi?c áo dài c? truy?n Ch?m. Thay vì hãnh di?n khoe v?i các dân t?c b?n v? v? ??c ?áo c?a áo dài truy?n th?ng thì các em l?i ?i phô phang qu?n bò áo ch?n ch?ng chút ng?n ng?i hay x?u h?. Trông ch?ng h?n ai, nh?ng ta l?i coi ?ó là v?n minh, là th?c th?i. ?ây là m?t quan ?i?m sai l?m v?a ?u tr? v?a ngây ngô. Nó c?n ??n s? ?i?u ch?nh th?a ?áng. N?u không thì nét ??p y ph?c c? truy?n s? bi?n m?t m?t s?m m?t chi?u. E. Quinet: “Tôi là tôi, tôi không th? và không mu?n là cái gì khác”. V?y, ch? ?ánh m?t lòng t? tr?ng c?a b?n thân. Càng không nên t? ti v? dân t?c t?ng m?t th?i d?ng nên n?n v?n minh huy hoàng, dù nay ?ã mai m?t. Nh?n ra Aw kamei Cam ??p, nên ng??i Kinh m?i ti?p nh?n r?i “sáng t?o” thêm ?? thành chi?c áo dài n?i ti?ng hôm nay. Tôi không nói ng??i n? Ch?m c? mãi m?c áo dài dân t?c hay ch?i b? t?t c? lo?i y ph?c hi?n ??i. ?i?u tôi mu?n nh?n m?nh là cái ??c tr?ng Ch?m: Aw kamei. Không ph?i không lí do, khi Website Gilaipraung ??a v?n ?? Aw kamei Ch?m ra th?o lu?n, bao nhiêu b?n tr? ?ã nh?p cu?c hào h?ng(6). Và ý ki?n th?ng nh?t là: Aw kamei Cam chính là truy?n th?ng t?t ??p c?n b?o t?n. B?o t?n, cách ?i?u và tôn t?o nó lên. ?? ng??i n? Ch?m luôn kiêu hãnh khi v?n nó lên ng??i. Ta hãnh di?n ta là Ch?m, ta còn hãnh di?n v? thân hình ta trong chi?c Aw kamei kì tuy?t. D? nhiên không ph?i b?t c? m?t ng??i nào khi khóac lên áo dài truy?n th?ng ??u yêu dân t?c c?, nh?ng ch?c ch?n r?ng không có m?t n? sinh nào yêu dân t?c mà l?i t? ch?i Aw kamei Cam. Còn ngh? cái áo ch? là th? v? bên ngoài, thì hoàn toàn sai l?m. Hay cho là không c?n th? hi?n b?n s?c Ch?m ra ngoài mi?n là trong lòng th?c s? yêu dân t?c, là ch?a ?? chin ch?n. V?n hóa dân t?c hòa quy?n gi?a tinh th?n và v?t ch?t. Ngay các nguyên th? m?t n??c khi d? ??i l? qu?c gia hay qu?c t? c?ng v?n lên mình chi?c áo dân t?c. H? làm nh? v?y là l?c h?u ch?ng? Tình yêu dân t?c không ch?p nh?n nói suông mà ph?i th? hi?n t?i ?a ? m?i m?t, khía c?nh, trong ?ó y ph?c là m?t y?u t? quan y?u. Ph?i t?o cho mình thói quen g?n g?i v?i Aw kamei Ch?m b?ng cách dùng và nhìn ng?m nó m?i ngày, n?u không ta c?m th?y xa l? v?i nét ??p kia. ?? cu?i cùng t?t c? bi?n m?t không l?i t? bi?t. R?i m?t ngày nào ?ó, nh?ng ng?n tháp Chàm su?t d?i ??t mi?n Trung s? ngày càng tiêu ?i?u hiu qu?nh và ?áng th??ng, khi không còn bóng dáng th??t tha c?a ng??i n? Ch?m v?i chi?c áo dài trong b??c ?i uy?n chuy?n y?u ?i?u th?c n? r?t Ch?m n?a. Có em vi?n lý do r?ng m?c áo dài r?t khó kh?n trong v?n ?? ??p xe. Các em ? r?t xa tr??ng ?? T?i sao em không làm nh? Th?y Tiên? Mai Th?y Tiên hi?n ?ang s?ng ? Boston. Thu? Trung h?c, nhà Th?y Tiên ? T?nh M?, cách tr??ng kho?ng b?n cây s?. M?i sáng, Th?y Tiên ?ã m?c qu?n Tây, ??p xe xu?ng Phan Lý Chàm h?n n?a ti?ng ??ng h?, t?t qua nhà M? Ái thay vào cái áo dài Ch?m. R?i chúng tôi cùng t?i tr??ng. Ch?ng v?n ?? gì c?! V?a ??p v?a ti?n. Nên m?i lý do ??a ra ?? t? ch?i áo dài Ch?m ch? là ng?y bi?n. Còn lý do n?a là, b?i duy mình em là Ch?m, nên em s? d? ngh?. D? ngh? r?i b? l?c lõng ?? Chuy?n th? này: Niên khóa 1990 -1993, nguyên c? plây Ch?m mà ch? v?n v?n sáu n? sinh trung h?c. L?p tôi kho?ng ba m??i b?y h?c sinh, nh?ng ch? mình tôi là Ch?m. Lúc ?ó gh? h?c sinh hay b? ?ánh c?p, nên nhà tr??ng ?óng bàn và gh? dính li?n nhau. Không hi?u sao m?y ông th? m?c ?óng ch? dính nhau cao h?n ??u g?i c? hai gang tay. Th? là m?i l?n lên b?ng là tôi ph?i vén chi?c váy lên r?t cao m?i b??c ra ???c. Lúc ??u c?ng c?m th?y khó ch?u, do b?y m??i b?n con m?t d?n v? phía mình. Nh?ng ri?t r?i quen ?i. ?âu ph?i áo dài Vi?t không có cái b?t ti?n c?a nó. Gi? th? d?c ch?ng h?n, trong khi các b?n Kinh loay hoay mãi ?? g? t?ng khuy nút, tôi thì r?t loáng là xong. Và luôn là ng??i ?âu tiên! Chi?c áo dài Ch?m ti?n l?i là v?y: Ch? c?n ??a hai tay lên và kéo ra kh?i c?! Th? m?i nói, áo dài hai dân t?c, m?i th? ??u có cái ?u và cái b?t ti?n riêng c?a nó. Áo dài Ch?m, m?c dù có c?m giác b? khuôn kh? trong b??c ?i, nh?ng nó kín ?áo. R?t kín ?áo. Tóm l?i, có cái này thì m?t cái khác. ?i?u ch? y?u là mình bi?t ?i?m nào là khuy?t và c?i ti?n, ch? ??ng khóac lên mình m?y lo?i áo lai c?n mà ??n ng?c r?ng nh? v?y m?i mô-?en. Mô-?en hay tân th?i ?âu ch? bi?t, nh?ng các b?n b? c??i r?ng m?t g?c là cái ch?c. Tháp Chàm s? ??p h?n b?i ph?n khi Tháp ???c bóng nh?ng chi?c áo dài truy?n th?ng u?n mình theo t?ng ?i?u múa c? truy?n. Thi?u chúng, tháp s? cô qu?nh và ?ìu hiu bi?t bao!  B?n s?c v?n hóa c?a m?t dân t?c ???c nh?n bi?t qua các sinh ho?t và ???c bi?u l? qua các giá tr? v?n hóa v?t th? và phi v?t th?. T? hào v? nh?ng gì t? tiên ?? l?i ?ã ?ành, chúng ta c?ng c?n làm nh?ng gì cho anh linh t? tiên hãnh di?n. T? hào v? b?n s?c c? là c?n, bên c?nh ?ó ta c?ng bi?t h?c t?p thâu thái t? dân t?c khác ?? cách tân, làm m?i b?n s?c ??c ?áo kia. Bi?t ti?p nh?n, bi?t phát huy và sáng t?o khi c?n thi?t. N?u các b?n cho r?ng cái váy gò bó b??c chân c?a các b?n thì hãy cách ?i?u nó b?ng v?i thun giãn, hay thay ??i ???ng nét cho thanh thóat h?n. T?i sao không th? ch?!? Hãy nh? r?ng các b?n hãy là chính các b?n ch? ??ng bao gi? là ai h?t. “Có tìm hi?u d? vãng c?a chính mình thì m?i quý nó ???c, và có quý tr?ng d? vãng thì m?i tìm ???c h??ng ?i cho t??ng lai”. L?i c?a c? h?c gi? Nguy?n Hi?n Lê th?m thía ý ngh?a sâu s?c g?i ??n các b?n tr? và nh?ng ai quan tâm ??n vi?c b?o t?n và phát huy v?n hóa dân t?c. ___________ (1) Bùi Minh ??c, T? ?i?n ti?ng Hu?, NXB V?n h?c, 2009, in l?n th? 3, tr. 14. (2) ??i Nam Th?c l?c ti?n biên. (3) Tôn Th?t Bình, K? chuy?n chín Chúa – m??i ba vua Tri?u Nguy?n, NXB ?à N?ng, tr. 29. (4) V?n Món, Ngh? D?t c? truy?n c?a ng??i Ch?m, NXB V?n hóa Dân t?c, 2003, tr. 87. (5) Phan Xuân Biên, Phan An, Phan V?n D?p, V?n hóa Ch?m, NXB Khoa h?c Xã h?i, 1991, trang 114.   source: ilimochampa.org  
0 Rating 1.1k+ views 1 like 0 Comments
Read more