Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On December 17, 2013
Những tượng cổ, kho tàng, báu vật của vương quốc Chămpa xa xưa luôn là mơ ước của dân buôn bán. Sưu tầm đồ cổ. Cơn sốt truy tìm kho báu Chămpa đã bắt đầu từ hàng trăm năm về trước và âm ỉ mãi cho đến ngày nay. Trên vùng kinh đô Vijaya (huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay), những huyền thoại hư ảo đầy hấp dẫn về kho báu Chămpa khiến người ta mỗi khi nhìn những kiến trúc đền tháp Chămpa cổ rãi rác trên những “ngọn đồi của các vị thần” lại bật lên câu hỏi “kho báu Chămpa - sự thật hay chỉ là huyền thoại?” Tháng 12 – 1997, khi phóng sự Lời nguyền trên các kho báu Chăm được đăng trên Thế Giới Mới số 264 ít lâu thì tại nhà riêng, qua điện thoại, tôi nhận được một lời đề nghị hấp dẫn từ một người đàn ông (tạm gọi là ông X). Ông X đề nghị tôi xác minh một số thông tin về vương quốc Chăm ở một số tư liệu mà ông không có điều kiện tiếp xúc, đổi lại ông sẽ giúp tôi một số thông tin mới về con tàu Mekong. Trong lời nguyền trên các kho báu Chăm có đoạn: “Sau này người ta không sao tìm lại được những thùng cổ vật ấy và một bí mật đã bao trùm lên con tàu Mekong bởi danh sách hàng hoá trên tàu cũng bị thất lạc”. Vì vậy, tôi đã chấp nhận lời đề nghị này và hẹn ngày trao đổi thông tin. Rất may mắn cho tôi là khi ấy anh Mậu, ngưòi phụ trách phòng tư liệu phổ biến hạn chế (Thư viện Bình Định) cũng đang quan tâm đến vấn đề này và sẵn lòng giúp tôi tiếp xúc với số tư liệu về vương quốc Chăm mà tôi cần. Sau đó, cuộc trao đổi thông tin giữa tôi và ông X đã diễn ra như hẹn ước. Có lẽ, chúng tôi chưa trở lại với câu chuyện kho báu Chăm nếu chừng một tháng sau đó huyện Vĩnh Thạnh (một huyện miền núi của tỉnh Bình Định) không xẩy ra cơn sốt săn vàng, đồng thời ở vùng kinh thành Vijaya cũ, những người thợ rà phế liệu kim loại không phát hiện được một bộ áo giáp – mũ chiến bằng vàng…Trong tác phẩm Le Royaume de Champa (vương quốc Chămpa), học giả người Pháp Georges Maspero đã mô tả: “Các cánh rừng miền thượng du của vương quốc (Chămpa) chứa đựng những kho tàng vô giá, đó là gỗ mun và nhiều loại cây quý khác như đinh hương, giáng hương, long não, đặc biệt là trầm hương… Nhưng sự giàu có thực sự của đất nước là là sản phẩm lấy từ lòng đất – vàng. Vàng ở đây không hề hiếm và người Trung Hoa kể lại một cách kỳ lạ rằng người ta đã tìm thấy ở đây một núi vàng, tất cả các hòn đá theo họ nói đều có màu đỏ và ở giữa là vàng ròng. Vàng còn trôi trong các con sông, muốn thu được chỉ cần tát nước và gạn lấy…” Sự giàu có của vương quốc Chăm cổ là điều hầu như không cần phải minh chứng. Giống như một sự minh hoạ cho các luận chứng khoa học về sự giàu có của vương quốc Chăm, theo một số cư dân ở Vĩnh Thạnh, khoảng năm 1980 – 1983, nhiều người đã nhặt được những cục vàng tự nhiên nặng tới 2 - 3 kg (!?); sự vụ này đã gây xôn xao dư luận suốt một thời gian dài. Cho đến ngày nay, ở suối Vàng (Hoài Nhơn), trên dòng sông Kim Sơn và một số điểm khác ở Vĩnh Thạnh những người đãi vàng sa khoáng vẫn tiếp tục chắt lọc được khá nhiều thứ kim loại qúy giá này.Để đi tìm hy vọng từ các kho báu Chăm, giới săn tìm đồ cổ thường phối hợp với những người chuyên đi rà phế liệu kim loại (thợ rà) hoặc đặt hàng cho họ. Chính vì mối quan hệ này mà mỗi khi phát hiện thấy cổ vật thì nhà chức trách, giới chuyên môn thường chỉ là người đến sau những tay buôn bán cổ vật trái phép. Khu vực được thợ rà quan tâm nhiều trong các cuộc truy lùng của mình là những nơi có tháp cổ Chămpa toạ lạc, có tàn tích đền tháp hoặc là vùng xuất phát những truyền thuyết dân gian về kho báu Chăm. Tháp Phốc Lốc (Nhơn Thành, An Nhơn, Bình Định) – hay như cách gọi đầy hấp dẫn của người Pháp, tháp Vàng – là ngôi tháp được giới thợ rà cày xới nhiều nhất. Dù đi bằng ô tô hay tàu hỏa trên đường Bắc-Nam, khi đến vùng giáp ranh giữa hai huyện Phù Cát, An Nhơn, bất cứ ai cũng có thể chiêm ngưỡng ngôi tháp kỳ vỹ này. Khi chúng tôi hỏi thăm đường lên tháp, chủ một quán nước dưới chân đồi đã mách: “Các anh đi tìm đồ cổ à? Không còn gì nữa đâu. Thợ rà đã cào nát trên đó hết rồi. Ba bốn năm nay, hết dân ở đây rồi đến dân Phù Cát, Phù Mỹ vào đào xới lung tung, đến sắt vụng cũng không còn nữa là…”. Sau một hồi chúng tôi đi ngược dốc, sừng sững trước mặt chúng tôi là ngôi tháp cổ uy nghi. Phốc Lốc là ngôi tháp duy nhất của một quần thể gồm nhiều tháp. Một nửa của đỉnh đồi có lẽ đã bị các công trình sư Chămpa xưa cho san phẳng tạo thành hai nấc nên phía dưới của ngôi tháp là một không gian rộng lớn bằng phẳng. Những dấu tích còn lại cho phép người ta liên tưởng đến một quảng trường dành cho các dịp cử hành trọng thể những nghi thức nào đó (tháp Phốc Lốc rất gần kinh đô Vijaya). Tuy nhiên, điều đáng buồn là giờ đây, trên “quảng trường” nhan nhản những hố sâu do thợ rà để lại, những đống lớn gạch Chăm đổ nát. Gần chân tháp, một nhóm người đang húy hoáy đào xới.Phát hiện thấy tôi giương máy ảnh lên, lập tức những người này chui ngay vào bụi rậm gần đó giấu mặt. Dù vậy, khi lại gần, họ vẫn vui vẻ trò chuyện. Tư, một thanh niên vạm vỡ, phân trần: “Tuị em tưởng là công an, mà các anh chụp ảnh bọn em làm gì, xúi quẩy lắm… Không có việc gì làm, tụi em mượn máy lên đây rà cầu may ấy mà. Khoảng năm 1998, khi đào tìm gạch Chăm về xây nhà, một số nông dân đã phát hiện ở chân tháp một bức phù điêu tượng thần rất lớn. Cán bộ văn hoá huyện nói đó là tượng Nữ thần vàng (? ). Không biết cổ vật ấy có phải là vàng thật không, hay chỉ là tên gọi, nhưng ngay sau đó nhiều người đã rùng rùng kéo lên đây tìm vàng Hời. Không nghe thấy ai nói đã tìm được vàng, mà có lẽ tìm được họ cũng không dại gì mà nói ra, nhưng phù điêu, tượng cổ thì có. Khi ấy mọi người đã đổi đời chỉ nhờ một cái tượng. Tụi em rà hoài chỉ thấy gạch và đá”. Nằm cách tháp Phốc Lốc không xa về hướng Nam là Gò Tháp, một phế tích của nền văn hoá Chămpa lừng danh. Những người dân ở thôn Châu Thành cho chúng tôi biết, xưa kia nơi này có rất nhiều gạch Chăm vỡ vụn xếp thành đống lớn nằm rải rác trên gò. Theo ông bà kể lại thì từ nhiều đời trước nơi ấy có những ngôi tháp cổ của dân Hời, đã sụp đổ từ rất lâu. Cứ một vài năm, thường là đến mùa mưa, lại nghe có người nhặt được vàng Hời, nhưng hỏi ra thì không ai nhận cả.Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les tours Kiames delaprov-ince de Binh Dinh (Sài Gòn 1890) như sau: “Trong các tháp có các tượng. Rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi sau đó. Người ta đã đào các bức tường để dỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó… Các tháp Bạc (người Việt quen gọi là Tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo Tàng Lyon đã được tàu Mekong chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của tiến sĩ Maurice. Tàu Mekong bị đắm ở Hồng Hải và những người Somali tưởng rằng đã tìm thấy một mối lợi lớn nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”. Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mekong đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mekong có GS. Robert Stenout. Sau hơn 30 năm cày xới ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển…, đến tháng 10 – 1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí tàu Mekong bị đắm tại mũi Guardaqui ở Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mekong là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương – Pháp là một hành trình dài mất nhiều ngày, nên Mekong được xây dựng bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến hải hành định mệnh của Mekong năm 1886 có 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách, chở theo nhiều tấn cổ vật và một khoang hàng bí mật chứa đầy vàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mekong đã lan truyền là hoàn toàn có thể tin tưởng được. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mekong và kho báu bí mật thì quốc gia có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mekong đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc khai quật kho báu trên tàu Mekong đành dừng lại… kho báu mà tàu Mekong có nhiệm vụ đưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya và chắc chắn đây chưa phải là toàn bộ kho báu huyền thoại của vương quốc Chăm.Như chúng ta đã biết lịch sử hơn 14 thế kỷ của vương quốc Chăm gần như được kết nối bằng vô số cuộc chiến tranh, chiến tranh với những người Đại Việt láng giềng, với cả những cư dân Khmer xa xôi hoặc là nội chiến tranh giành vương quyền giữa các thế lực trấn giữ các vùng trong vương quốc. Chính vì chiến tranh nên các kho báu của vương quốc được di dời liên tục, chôn xuống đào lên nhiều lần, nhất là lần dời đô năm 1282 ra khỏi Vijaya về phía vùng rừng núi phía Bắc vương quốc để tổ chức kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Lịch sử đã ghi nhận rằng Tọa Độ, viên tướng chỉ huy cuộc xâm lược vương quốc Chăm, đã chiếm được một kinh đô trống rỗng và hoang vắng bởi người Chăm đã thực hiện cuộc tiêu thổ kháng chiến trước đó khá lâu. Sau cuộc chiến này, người Chăm vẫn để lại trên kinh đô kháng chiến và rải rác khắp vương quốc phần lớn kho báu của mình vì e ngại những cuộc tập kích bất ngờ của đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh. Các kho tàng ở Vijaya cũng được chôn giấu trong lòng đất, lưu giữ trong các hầm bí mật trong hoặc dưới các ngôi tháp cổ. Những tư liệu lịch sử, những kết quả nghiên cưú của các nhà khảo cổ học, bảo tàng học, sử học và những phỏng đoán khoa học nói chung dường như đã được thực tế minh họa. Và một lần nữa, những cuộc săn lùng kho báu trên đất Vijaya lại bùng nổ trong âm thầm.Tháng 2- 1998, khi nghe tin có người rà được một bộ áo giáp - mũ chiến bằng vàng trên khu vực tháp cánh Tiên, chúng tôi liền đi xác minh, nhưng đáng tiếc là người phát hiện ra cổ vật đã bán sang tay cho thợ vàng phân kim. Một cán bộ của ngành văn hóa – thông tin tỉnh Bình Định cho biết: “Một vài năm trở lại đây, dân Bình Định đã phát hiện ra nhiều cổ vật quý. Ban đầu chỉ là do sự tình cờ khi đào đất đắp đường, sản xuất… và người dân thường giữ nguyên hiện trường, nhanh chóng thông báo cho chính quyền biết sự việc. Đây là nghĩa vụ công dân, nhưng ở nhiều địa phương, các cấp chính quyền đã xem nhẹ việc thực hiện trách nhiệm của mình - tưởng thưởng xứng đáng cho người đã thực hiện tốt nghiã vụ công dân. Vì vậy, sau này người ta không còn nhiệt tình như trước nữa. Câu chuyện “phân kim cổ vật” là một ví dụ. Khi nghề rà tìm phế liệu liên tục phát triển, hiện tượng thất thoát cổ vật còn nhiều hơn trước hàng chục lần, trước sự bất lực của chúng tôi. Cho đến nay cơ quan chức năng vẫn chưa làm sao thu hồi được số cổ vật phát hiện được ở Phù Cát gồm hai hủ lớn - một bằng đồng, một bằng sành – bên trong chứa nhiều cổ vật bằng gốm, đá và kim loại có màu vàng nặng hơn 3kg, do một nhóm nông dân khai quật được và bán cho những người lạ mặt trước khi cơ quan chức năng kịp can thiệp. Theo tin tức lan truyền trong giới mua bán đồ cổ ở TP Hồ Chí Minh thì ngay trong lần mua bán sang tay đầu tiên, lô hàng này đã được ngã giá với con số kỷ lục gần 1 tỷ đồng”… Trong khung viên vòng thành bảo vệ Vijaya ngày xưa nay chỉ còn lại duy nhất một ngôi tháp, đó là tháp Cánh Tiên tọa lạc ở một vị trí rất đặc biệt – ngay ở điểm trung tâm kinh đô, vì vậy, vùng quanh chân tháp thường bị giới thợ rà, những người đi tìm cổ vật đào tới đào lui trong nhiều năm liền mà dấu vết còn lại là hàng chục hố sâu rải rác xung quanh tháp. Trong lần khai quật chính thức dưới sự kiểm soát của Bảo tàng Bình Định, người ta đã phát hiện nhiều hiện vật gốm sứ tuyệt đẹp kèm một số hiện vật khác mà biên bản khai quật sơ bộ ghi nhận đó là những mẫu kim loại khá nặng có màu vàng. Thông tin này lập tức lọt đến tai giới săn lùng cổ vật Chăm và vùng xung quanh tháp một lần nữa lại sôi động hẳn lên. Cứ như một trò đùa dai đầy ác ý của tạo hoá, chẳng ai tìm thấy được thứ gì đáng giá ngoài những mẫu vụn gạch Chăm, những mẫu đá nhỏ có nguồn gốc từ các kiến trúc điêu khắc đá Chămpa. Thế rồi, người ta gần như ngã lòng thì trong một lần đào huyệt ở nghĩa trang cách chân tháp Cánh Tiên chừng 100m, một nhóm phu đào huyệt đã tìm thấy khá nhiều cổ vật bằng đá. Khi chúng tôi hỏi thăm tin tức ở ông V.H.T, một thợ điêu khắc đá ở An Nhơn nổi tiếng về tài chế tác các pho tượng Chăm giả cổ và khả năng thẩm định xuất xứ của tượng cổ Chămpa thì được biết cách đây chừng 60 năm người Pháp đã đến và đào được vùng đất tọa lạc Thập Tháp Di Đà tự (Đập Đá) rất nhiều tượng cổ. Tương truyền chúng nhiều đến mức họ chỉ đóng thùng những pho tượng thật đẹp, thật quý còn lại những cái hơi sứt mẻ, xấu xí… họ dồn vào các hố thám sát rồi chôn lại, xóa dấu tích. Nơi được người Pháp khai quật nằm ở ven kinh đô Vijaya, cách tháp Cánh Tiên chưa đến 5km theo đường chim bay, nguyên thủy có ít nhất là 10 ngôi tháp, chúng đã sụp đổ trước khi người ta đến dựng chùa Thập Tháp. Trên những gò đống gạch đá đổ nát tưởng như vĩnh viễn vô dụng ấy, nhiều người đã đào được khá nhiều cổ vật Chăm. Tương truyền thôn Vân Sơn, Nhạn Tháp (Nhơn Hậu, An Nhơn) là nơi tồn tại nhiều tòa tháp cổ không lớn nhưng tuyệt đẹp. Ở đây, dân địa phương rất e ngại khi nhắc đến cổ vật Chăm, vàng Chăm. Một cụ già ở Nhạn Tháp cho chúng tôi biết: “xưa nay ai cũng nghe đến chuyện vàng từ kho báu, từ đền tháp của người Chăm bay ra đồng. Ông bà tổ tiên khi khai phá vùng này chắc cũng gặp những chuyện ấy. Nhưng hàng trăm năm nay đã có ai giàu lên vì vàng Hời đâu. Thôn này có nghề truyền thống lâu đời là nghề làm đồ gốm đất. Để có đất sản xuất, chúng tôi đã đào đến cạn sạch đất sét tốt ở Nhạn Tháp, tất nhiên là đã có một vài lần gặp cổ vật của người Chăm. Nhưng sau khi có vài người gặp xui rủi do giữ những thứ ấy trong nhà đem bán những thứ ấy nên dần dần không ai hám. Vả lại, nghe bảo những thứ ấy là đồ thờ của người ta, mình giữ, mua bán như vậy là phải tội…”. Tuy không sôi động như vùng kinh đô Vijaya, nhưng với những di tích, phế tích đền tháp Chămpa như Dương Long, Thủ Thiện…, huyện Tây Sơn cũng là nơi thu hút khá nhiều sự quan tâm của giới buôn bán cổ vật, đội ngũ thợ rà ở đây hầu như không kém gì so với An Nhơn. Hiện nay ở khu tháp Dương Long chỉ còn lại 3 ngôi tháp chính nhưng với những dấu vết của các phế tích còn sót lại, ta có thể dễ dàng biết rằng nơi này vốn có nhiều công trình kiến trúc hỗ trợ cho nhóm đền tháp chính. Vào quãng năm 1901-1906, nhà nghiên cứu người Pháp-Henry Parmentier-đã khảo sát rất kỹ ngôi tháp xinh đẹp này. Theo H.Parmentier, tháp Ngà (theo cách phân loại định danh của người Pháp) là ngôi tháp hầu như không hề giống với bất kỳ ngôi tháp cổ Chămpa nào đang tồn tại. Được đánh giá là hiện tượng đặc biệt duy nhất trong lịch sử kiến trúc đền tháp Chămpa, Dương Long nổi bật lên với sự phong phú của hàng ngàn tấm phù điêu điêu khắc đá mà vào thời điểm H.Parmentier có mặt để khảo sát nghiên cứu, học giả người Pháp này đã cho thu gom, sắp xếp thành những đóng lớn bên cạnh tòa tháp cổ. Điều đáng tiếc là H.Parmentier đã mô tả nội dung chi tiết các tấm phù điêu ấy trong các tài liệu khoa học của mình. Cùng với sự hủy hoại của mưa nắng, thời gian, việc những người dân địa phương sử dụng gạch đá Chăm vào mục đích xây dựng, dùng các mảnh đá, khối đá vỡ ra từ các cột đá, diềm đá… để làm cối đá dân dụng, những người thợ đục đá hầu như đã dọn sạch tất cả những gì mà ngày xưa các nhà khoa học đã nhắc đến. Tệ hơn, trước năm 1975, một viên tướng Ngụy đã đặt thuốc nổ phá tung một nhóm tượng trên than tháp. Khối tượng lớn được mang đi, nhiều tượng phù điêu nhỏ thì được vứt lại quanh chân tháp. Năm 1985, khi chuẩn bị tùng tu tháp Dương Long, cán bộ của Bảo tàng Bình Định và đoàn chuyên gia Ba Lan đã phát hiện ra một số bức phù điêu khá lớn. Nhà nghiên cứu Ngô Văn Doanh đã nói về giá trị của các phù điêu Dương Long như sau: “trong nghệ thuật điêu khắc Chămpa, có không ít tác phẩm đẹp, nhưng chúng tôi chưa thấy một bức phù điêu nào thể hiện tâm trạng các nhân vật thành công như hình phù điêu trên đây của tháp Dương Long… Chắc hẳn xưa kia trên mặt tháp Dương Long phải có nhiều hình phù điêu như bức phù điêu may mắn còn lại. Chúng tôi tin rằng, nếu có những cuộc khai quật thật sự khoa học ở Dương Long, chúng ta sẽ tìm thấy những kiệt tác nghệ thuật điêu khắc đá như những tác phẩm đã tình cờ phát hiện ra năm 1985…”. Nhiều kiến nghị tương tự của các nhà khoa học được đưa ra liên tục, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, công tác quản lý khu vực di tích cũng như việc tiến hành khai quật các di chỉ được triển khai một cách nhỏ giọt và gặp nhiều vướng mắt, nhất là về kinh phí, nên những kết quả cũng rất hạn chếTrong khi cơ quan chuyên môn còn đang đánh vật với những khó khăn của mình thì tháng 10 – 1997, ông L.V.A (Tây Sơn) và một người đàn ông quê ở Thanh Hoá đã âm thầm khai quật một kho báu trên núi Hòn Gà (Bình Thành, Tây Sơn). Số lượng cổ vật, theo lời khai ông L.V.A với cơ quan chức năng, gồm 9 pho tượng cổ cao từ 30 – 35 cm, đường kính thân tượng từ 4 – 5cm, 4 lục bình lớn hơn số tượng kia một chút và ngay sau khi tìm thấy, họ đã khẳng định được ngay rằng số cổ vật mà họ tìm thấy đều làm bằng vàng vòng. Cũng như nhiều vụ việc tương tự trước đó. Số cổ vật này đã được bán sang tay cho một kẻ lạ mặt với giá nhiều triệu đồng. Thông qua một người bạn ở Tây Sơn, chúng tôi làm quen với N.X.H, một thợ rà phế liệu kim loại, quê ở An Nhơn, đang đi tìm vận may trên núi Cấm thuộc xã Bình Nghi (Tây Sơn) H đã bật cười ha hả khi nghe ý định giả trang làm thợ rà để săn tư liệu của tôi: “ Làm sao mà các anh có đôi bàn tay đầy chai sần do đào đất, đục đá, nước da đen cháy do suốt cả ngày phơi mình dưới nắng như bọn tui. Thợ rà như bọn tui ngay cả lỗ tai cũng chai nữa kia (do cứ phải đeo tai nghe máy rà liên tục). Vả lại lúc nào cũng rà được, chỗ nào cũng được phép rà. Những vụ nổ lưụ đạn, mìn pháo còn sót lại sau chiến tranh do thợ rà bất cần hoặc quá tham lam gây ra đã để lại cho chính quyền, công an các xã vô khối chuyện phiền phức. Vì vậy hễ cứ thấy bóng dáng bọn tui, vui vẻ thì họ xua đi, còn ngược lại thì họ gọi vào xét giấy tờ, hỏi tới, hỏi lui, có khi họ còn đòi giữ lại máy móc, phải xin gãy cả lưỡi. Các anh cũng chẳng thể nào đóng vai trò người đi mua đồ cổ được đâu… Mua bán hàng cấm mà mấy anh, đâu có đơn giản vậy. Làm gì có chuyện vừa tìm thấy đã bán được ngay như… báo chí các anh viết. Đồ cổ chứ có phải sắt vụn phế liệu đâu mà bán cho ai cũng được? Ngay cả những người được ứng tiền của chủ các đại lý phế liệu kim loại để đi rà như tui cũng chỉ biết lờ mờ là phải qua nhiều trung gian. Thế thôi các anh ạ! Và họ mua bán cũng lẹ lắm, ngã giá xong là họ chồng tiền. Bây giờ còn có thêm kiểu này nữa, những người cần mua, biết đánh giá chất lượng cổ vật, thường cũng biết những nơi tập trung cổ vật. Tất nhiên cũng không phải rõ ràng như có bản đồ trong tay. Nhưng chắc chắn nhờ họ mà chúng tôi đỡ tốn công hơn. Những người này thường ứng tiền cho thợ rà đi làm và bao tiêu tất cả những gì chúng tôi rà được, gồm cổ vật và những thứ phế liệu kim loại. Cũng là chuyện “buôn có bạn, bán có phường” thôi! Năm ngoái, trong giới chúng tôi xẩy ra một chuyện rất buồn cười nhưng nghỉ lại mà thấy lạnh tóc gáy. Theo yêu cầu của một số chủ hàng, một nhóm thợ rà đã thay nhau đào xới trên một cánh đồng rộng ở Đập Đá. Đến giữa trưa một hôm nọ thì phát hiện có tín hiệu rất mạnh, đào một hồi thì gặp cổ vật, vừa gạt sơ lớp đất thì một màu vàng hấp dẫn hiện lên. Nhóm thợ rà sáng mắt lên vì cổ vật quá lớn nhưng chưa kịp reo mừng thì một dòng chữ bằng tiếng Anh hiện ra: Made n USA! Thế là không ai bảo ai, cả nhóm dọn đồ nghề và chạy đi báo Ủy ban xã, xã báo cho huyện, huyện báo ngay cho tỉnh và bộ đội công binh được cử về. Hóa ra cổ vật là một quả bom nặng tới 500kg. Hú vía…”Rời túp lều sơ sài của H, chúng tôi tìm đến tháp Thủ Thiện, một ngôi tháp cổ Chămpa cũng toạ lạc ở xã Bình Nghi. Những người dân địa phương khi nhận ra người bạn cùng đi với tôi là người quen của họ và nghe câu hỏi về hoạt động của những người đào tìm cổ vật đã ồ lên một cách vui vẻ. Tháp cổ nằm gần nhà dân, các thợ rà không dám vác máy, mang cuốc tới. Vả lại chắc cũng chẳng còn tìm được gì nữa. Một cụ già có nhà nằm sát tháp Thủ Thiện không xa kể lại: “Trước giải phóng, lính ngụy nhiều lần đục đẻo tượng cổ trên tháp đem bán cho người Tàu dưới Quy Nhơn. Chỗ nào đục được thì họ đục, còn không đục được thì họ đặt mìn để phá, có lần uống rượu say, đám lính còn ném lựu đạn lên đỉnh tháp để làm trò vui. Đến cơn bảo khủng khiếp năm Sửu (1985), cây đa cổ thụ trên nóc tháp bị gió giật ngã và ném ra xa. Dạo ấy cũng có vài người nhặt được đồ cổ từ trên tháp văng ra nhưng do những lời đồn đại về tai họa mà đồ Hời mang đến và có lẽ do chưa hết kinh hoàng vì cơn bão nên không ai lưu giữ làm gì. Có người kể lại là họ đã ném xuống sông Côn sau khi lỡ đem về nhà …”.Người Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng trang trí… Theo một số truyền thuyết mà Ch.Lemire sưu tầm được thì chóp đỉnh của tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở thành phố Quy Nhơn, là một quả cầu lớn làm bằng vàng vòng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ da trắng của một chiếc tàu châu Âu cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Chămsau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Những điều mà truyền thuyết mô tả hầu như đã trùng khớp với sự trình bày của những người thợ rà may mắn phát hiện được những pho tượng vàng trên đất Bình Định. Những kho báu Chămpa được phát hiện đầu tiên không phải do tình cờ mà là kết quả của quá trình tìm tòi rất nghiêm túc của người Pháp. Tháng 2-1906, sau 23 ngày tổ chức khai quật quy mô ở tháp Pô Nagar (Khánh Hòa), H.Parmentier đã tìm thấy một căn hầm bí mật mà ông gọi là kho báu chứa đồ thánh, bên trong chứa nhiều hiện vật bằng vàng như nhẫn, vòng, độc bình,… Sau đó ít lâu, khi tiến hành phục chế tháp phía nam, cũng chính H.Parmentier đã tìm thấy một kho đồ thánh khác ở một vị trí mà không ai ngờ đến – trên đỉnh tháp. Kho báu thứ hai này có khối lượng lớn và phong phú hơn kho báu phát hiện trước đó, chứa nhiều đĩa vàng, bạc, đồng và một số vật dụng khác không xác định được nguyên liệu cấu thành, ngoài ra còn có một số tượng voi, các sấu cũng làm bằng vàng… Kho báu Chămpa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của vương triều Chăm, đã được khẳng định sự tồn tại bởi Jeanne Leuba trong tác phẩm Unroyaume disparu-Les Chams et leur art -1923 (một quốc gia đã bị diệt vong người Chăm và nghệ thuật Chăm): “Do tình cờ ông H.Parmentier và hai người cộng sự trong một chuyến đi khảo sát tại Phan Rí đã được Nữ hoàng Chămpa cho phép tham quan kho báu ở một rừng phải mất nhiều ngày vượt núi mới đến được. Kho báu mà họ được xem tận mắt gồm 300 hiện vật. Đó là những cái bình, những vật trang sức bằng vàng, 4 tá bình bằng bạc, một bộ sưu tập lộng lẫy các vũ khí cổ được khắc hoặc khảm còn lưu lại những chổ bịt bằng vàng hoặc bằng kim loại quý… họ còn có những kho báu dự trữ khác mà người Châu Âu chúng ta không bao giờ được biết đến do tính hoài nghi và mê tín của những người bảo vệ rất nghiêm khắc của dân tộc Chăm”.Những thành tựu của các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, bảo tàng học trong hàng trăm năm qua dường như được các tay săn tìm cổ vật Chăm nghiền ngẫm rất kỹ. Giờ đây họ biết rất rõ rằng kho báu Chămpa không chỉ được chôn giấu trong lòng đất, bên trong hốc tường ở các đền tháp mà còn có ở đỉnh tháp, tường hậu sau khán thờ và ở phần diềm hoa văn chân tháp. Và có lẽ chính những người này là những kẻ đi trước những nhà khoa học khi phát hiện ở phần chân móng của các tháp cổ Chămpa còn có cả những hộc chìm chứa nhiều tượng cổ (?). Một người bạn của tôi trờ về sau một chuyến đi đào xới trên núi Bà (Phù Cát) đã thuật lại: “Ở những cánh rừng đại ngàn trên đỉnh núi hiện có đủ loại thợ thầy đang hành nghề - thợ săn thú quý hiếm, thợ cưa xẻ gỗ trái phép, các điệu săn trầm và đám thợ rà tụi mình. Khi được tin trên núi Bà có nhiều phế tích Chămpa hấp dẫn, tớ đã bán tín bán nghi. Những phế này nhiều người đã biết từ lâu, ngay cả khi cơn sốt săn lùng cổ vật Chăm nổ ra hồi mấy năm trước, tụi mình đã đào xới ở đó gần nửa tháng trời, mọi chuyện đã chấm dứt từ nhiều năm trước. Nghe tin có vàng Hời bay trên núi Bà do mấy tay phu trầm rỉ tai, rồi thấy người ta đi, mình cũng bấm bụng vác máy lên. Gần chục nhóm như vậy chia nhau rà tìm đào xới mà không nhóm nào thu được thứ gì đáng giá. Lần lượt các nhóm ở xa lưng vốn đã cạn rủ nhau xuống núi trước, nhóm của tụi mình là những người áp chót, mình vừa xuống xong thì được tin những kẻ ở lại phát hiện ra trong một hang đá có bộ xương của một chiến sĩ giải phóng nằm chết trên võng (có lẽ là đã hy sinh do sốt rét ác tính khi đi công tác một mình”, tay trưởng nhóm đã xuống báo cho UBND huyện Phù Cát. Nghe đồn nhờ đó mà trong cái ngày quyết định chấm dứt chuyến săn tìm cổ vật, họ đã tìm được một cái bình cổ. Chỉ một cái thôi nhưng đám thợ rà đã kháo nhau là đã bán được gần 100 triệu đồng…” Giữa những huyền thoại về kho báu Chămpa với sự thật lịch sử, nếu tách bỏ đi những yếu tố hoang đường, ly kỳ, rùng rợn như ma vàng Hời, ma vàng bay…, thì nhiều chi tiết của huyền thoại buột chúng ta phải xem xét vấn đề một cách nghiêm túc, đặt chúng ta trong mối quan hệ giữa các ngành khoa học có liên quan như văn học dân gian, khảo cổ học, dân tộc học, bảo tàng học…, để từ đó có thể đánh thức được những di sản văn hóa Chămpa còn thất lạc đâu đó trên các vùng di tích, phế tích. Nếu tổ chức tốt các khâu nghiên cứu, khảo sát, điều tra, khai quật, một điều chắc chắn là hiểu biết của chúng ta về nền văn minh Chămpa rực rỡ sẽ hoàn hảo lên. theo thuvienbinhdinh.com
0 Rating 1.1k+ views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On February 12, 2012
Ch? M? Lan: Áo dài Ch?m Tagalau 11. V? ngu?n g?c áo dài Ch?m   Áo dài, tên tiêng Ch?m th??ng g?i là Aw kamei Cam. Cho ??n nay, ch?a có t? li?u nào ghi rõ ngu?n g?c ?ích th?c c?a nó. Ch? bi?t là áo dài Ch?m ?ã có t? xa x?a. Ghi nh?n c?a các nhà nghiên c?u cho th?y áo dài Vi?t Nam là s?n ph?m ch? ra t? chi?c áo dài Ch?m và áo dài Th??ng H?i. “Áo dài chi?c áo dài c?a ?àn bà Vi?t Nam hi?n nay kh?i phát t? th?i Chúa Nguy?n Phúc Khóat (cu?i th? k? XVIII) v?i n?n t?ng là chi?c áo dài ph? n? Chàm, k?t h?p v?i chi?c áo t? thân ? B?c “Áo dài hai v?t áo c?a ?àn bà Hu? có ???c là do ?nh h??ng Chàm”(1). Tr?nh Nguy?n phân tranh, mi?n Nam Chúa Nguy?n. “Chúa Nguy?n Phúc Khóat x?ng v??ng. Ông ?ã tri?u t?p qu?n th?n tìm ph??ng th?c x?ng v??ng và d?ng m?t tân ?ô. Ông ?ã thay ??i l? nh?c, v?n hóa và trang ph?c. ?? thay ??i ph? n? mi?n B?c m?c váy, ph? n? mi?n Nam ph?i m?c qu?n có ?áy (hai ?ng) gi?ng ?àn ông. Võ V??ng ?ã gây ra cu?c kh?ng ho?ng v? trang ph?c. Ph? n? ?ã ph?n ??i k?ch li?t. V? sau Võ V??ng không ?ng ý v?i trang ph?c ?ó. Ngài giao cho tri?u th?n nghiên c?u kham kh?o chi?c áo dài c?a ng??i Chàm (gi?ng h?t áo dài hi?n nay nh?ng không x? nách), và áo dài c?a ph? n? Th??ng H?i (x? ??n ??u g?i) ?? ch? ra áo dài cho ph? n? mi?n Nam. Chi?c áo dài ??u tiên gi?ng nh? áo dài ng??i Chàm và có x? nách. V?y là chi?c áo dài Vi?t Nam ?ã có ?? c? hai y?u t? v?n hóa c?a ph??ng B?c và ph??ng Nam”(2). Tôn Th?t Bính cho là: “Chi?c áo dài tha th??t xinh ??p hi?n nay ph?i qua m?t quá trình phát tri?n. Nó ???c hình thành t? ??i chúa Nguy?n Phúc Khóat. Chúa nghe ng??i Ngh? An truy?n câu s?m “Bát ??i th?i hoàn trung nguyên” th?y t? ?oàn Qu?c Công ??n nay v?a ?úng tám ??i. Ngài li?n h? l?nh cho trai gái hai x? ??i dùng áo qu?n B?c qu?c ?? t? s? bi?n ??i, khi?n ph? n? m?c áo ng?n h?p tay nh? ?àn ông thì B?c qu?c không có th?… là s?n ph?m dung hòa B?c Nam”.   Theo Lê Quý ?ôn: “Chúa Nguy?n Phúc Khóat hùng c? ? x? ?àng Trong, sau khi chi?m tr?n n??c Chiêm Thành, m? mang b? cõi v? ph??ng Nam, theo Lê Quý ?ôn, ?ã có ???c m?t th?i k? th?nh v??ng bình yên. Chúa Nguy?n Phúc Khóat , x?ng V??ng hi?u là V? V??ng, có c? ch? chính tr?, hành chính, xã h?i có k? c??ng, nh?ng ch?a có qu?c hi?u. Tuy nhiên, ng??i ngo?i qu?c t?i lui buôn bán t?i c?a H?i An th??ng g?i là “Qu?ng Nam qu?c”. ?? ch?ng t? tinh th?n ??c l?p, Chúa V? V??ng Nguy?n Phúc Khóat ?ã chú tr?ng ??n v?n ?? c?i cách xã h?i, phong t?c mà ?i?u quan tr?ng là c?i cách v? y ph?c”(3).   Y ph?c Ch?m Theo V?n Món: “Y ph?c ph?n ?nh rõ nét trình ?? k? thu?t d?t v?i, c?m xúc th?m m?, cách trang trí nh?ng ??c tr?ng v?n hóa, c?ng nh? ph?n ?nh v? tôn giáo, tín ng??ng Ch?m. Ngh? d?t Ch?m ?ã có m?t quá trình phát tri?n lâu ??i g?n li?n v?i m?t dân t?c ?ã có nhà n??c và ch?u ?nh h??ng nhi?u lo?i hình tôn giáo, v?n hóa khác nhau. Xã h?i Ch?m là m?t xã h?i có nhi?u giai c?p vua chúa, quý t?c, bình dân. Do ?ó m?i giai c?p, t?ng l?p, m?i ch?c s?c tu s? tôn giáo ng??i Ch?m ??u có y ph?c riêng. Chính v?y mà y ph?c Ch?m r?t phong phú và ?a d?ng. Trong ?ó, ??c s?c nh?t, cao quý nh?t và tuy?t m? nh?t là Áo (aw): Áo truy?n th?ng c?a ng??i ph? n? Ch?m là áo dài không x? tà, m?c chui ??u mà h? g?i là Aw lwak. Áo có ba l?: M?t l? chui ??u và hai ?ng tay. Áo này x?a kia ???c c?u t?o b?ng b?y m?nh v?i, may ghép v?i nhau, ng??i Ch?m g?i là Aw kaung. Lo?i áo này ? ph?n trên thân áo ch?y dài t? vai xu?ng ngang b?ng thì d?ng l?i. Vì kh? v?i c?a khung d?t ngày x?a không cho phép v?i r?ng quá m?t mét; ph?n th? hai t? ngang b?ng ??n quá ??u g?i ho?c ??n gót chân – ph?n này c?ng ???c may ghép hai ph?n, ? m?t tr??c và m?c sau; hai cánh tay ???c n?i l?i v?i hai ph?n vai và nách áo và cu?i cùng hai m?nh nh? ??p vào hai bên hông, ng??i Ch?m g?i b? ph?n này là “dwa baung”. C? áo th??ng khoét l? hình tròn ho?c hình trái tim. Do ?ó t?ng chi?c áo dài truy?n th?ng Ch?m ngày x?a ch? là nh?ng t?m v?i ghép l?i mà ng??i may quay tròn thành ?ng ?? bó thân ng??i m?c. Ngày x?a ng??i ta th??ng may ghép nhi?u màu trong cùng m?t chi?c áo c? truy?n. Nh?ng màu khác nhau nh? màu tr?ng, ?en, ??, vàng… th??ng ???c b? trí ? các n?i nh? hai cánh tay, thân trên (t? eo hông tr? lên) và thân d??i (ph?n còn l?i c?a thân áo). Ki?u áo nhi?u màu này, ng??i Ch?m g?i là Aw bak kwang mà ng??i Vi?t th??ng g?i là “Áo vá quàng”. ?ây là lo?i áo mà ng??i Ch?m th??ng dùng ?? lao ??ng s?n xu?t. Ngày nay, nh?ng ng??i ph? n? l?n tu?i v?n ?ang m?c áo vá quàng này ?? lao ??ng s?n xu?t trên ??ng ru?ng n??ng r?y ho?c công vi?c ? nhà. Nh?ng m?i cái áo luôn có hai màu (?en, ??, xanh, tr?ng ho?c tím vàng…). Áo ch? là nh?ng t?m v?i thô, tr?n không có trang trí hoa v?n. Các ph? n? tr? khi m?c áo dài truy?n th?ng trong các l? h?i th??ng choàng lo?i dây th?t l?ng có d?t hoa v?n tr??c ng?c và bu?c xung quanh l?ng g?i là talei tabak. Ngày nay áo dài truy?n th?ng Ch?m ?ã ???c c?i ti?n. Do k? thu?t d?t ?ã m? r?ng ???c kh? v?i cho nên Áo dài Ch?m không còn là nh?ng m?nh v?i n?i ghép (kauk kwang) n?a. Nh?ng ph? n? Ch?m tr? th??ng m?c áo dài ??n quá ??u g?i ph? lên váy m?c, may h?i bó tay, thân h?i phình r?ng. ? hai bên hông áo “dwa baung”, h? c?i ti?n b?ng cách m? m?t ???ng ngay eo hông, có may thêm hàng khuy b?m ho?c nút dính g?i là Aw aiw(4).  Các tác gi? khác cho là: Áo ph? n? Ch?m là lo?i áo dài không x? v?t, m?c chui ??u g?i là Aw lwak. V?i ???c nhu?m nh?ng màu t??i sáng nh? màu chà, xanh, l?c, h?ng. Áo m?c trong sinh ho?t h?ng ngày th??ng g?i là Aw kauh, áo m?c trong ngày l? g?i là Aw xah, áo dành riêng cho bà bó ng khi hành l? là Aw cam. C?u t?o áo ph? n? Ch?m g?m b?n m?nh v?i ghép d?c theo chi?u ??ng c?a thân ng??i, hai ? phía tr??c, hai ? phía sau, ngoài ra còn hai m?nh nh? ghép hai bên s??n. Áo ??n ??u g?i ho?c quá m?t chút g?i là Aw tah, l?p tr? n? gi?i th??ng m?c áo lo?i này. ?ng tay áo bó sát vào cánh tay, ph?n thân h?i r?ng h?n m?t ít. Lo?i áo dài ph? chùng gót chân ng??i m?c, g?i là Aw dwa baung. Aw dwa baung ôm sát thân ng??i khi m?c ph? trùm lên váy, t?o cho b??c ?i m?t dáng uy?n chuy?n và làm n?i b?t c? th?. ? hai bên hông Aw dwa baung có m?t ???ng m? ngay eo hông, có hàng khuy b?m, ho?c nút dính, khi m?c bó sát eo hông. C? áo ph? n? có nhi?u lo?i, hình lá tr?u, hình tròn, hình qu? tim, l?a tr? c? áo khoét r?ng hình tròn, hình qu? tim ?? l? các vòng dây trang s?c vàng, b?c ?eo quanh c?. Ph? n? Ch?m th??ng m?c áo lót Aw kl?m bên trong áo dài. Aw kl?m có tác d?ng gi? cho b? ng?c cân ??i và r?n ch?c. Váy, kh?n (aban, khan): có hai lo?i váy kín và m?. Váy m? (aban) là lo?i váy qu?n b?ng t?m v?i, hai mép v?i không may dính vào nhau. Khi m?c c?p váy ???c x?p vào và l?n vào bên trong gi? ch?t eo hông. Còn váy kín (khan) thì hai mép ??u v?i ???c may dính vào thành hình ?ng. Ph? n? l?n tu?i th??ng m?c váy m? (aban) còn váy kín dành cho ph? n? tr? tu?i. Ch? có váy m? có nhi?u hoa v?n trang trí và có may c?p váy còn váy kín thì không có hoa v?n trang trí (5).   Ý ngh?a nhân sinh c?a áo dài Ch?m Khi m?c áo dài, ph? n? Ch?m ??a hai tay gi? cao lên r?i t? t? chui ??u vào ch? không m?c gài nút. C? ch? ??a hai tay lên nh? kh?n nguy?n hay t? thái ?? bi?t ?n ??i v?i ng??i ?i tr??c. C?ng là m?t cách nhìn l?i b?n thân thân tr??c khi khóac lên trên mình y ph?c truy?n th?ng dân t?c. Ng??i n? Ch?m nh? lòng s? vô cùng th?n tr?ng và ý t? gi? gìn s? trinh nguyên ?ó. Ph?n chi?c áo t? c? xu?ng ngang l?ng ???c ch?n eo bó sát ng??i, hi?n rõ m?t s?c s?ng và nhi?t huy?t c?a l?a tu?i ?ang xuân. T? ph?n eo ch?y xu?ng qua ??u g?i là giai ?o?n ?ã l?p gia th?t. Ph?n này ???c che ph? b?i hai l?p: Chi?c váy ???c ch?ng thêm m?t l?p áo ? ngoài, t??ng tr?ng cho s? b?o b?c, che ch? cho gia ?ình. Ph? n? Ch?m làm b?t c? ?i?u gì c?ng không ngoài m?c ?ích ?y. ?ây là m?t s? hy sinh quên mình vì ng??i khác. Dây th?t l?ng ngang eo là ranh gi?i phân bi?t rõ nét tr??c và sau khi l?p gia ?ình. Ng??i n? Ch?m nh?n th?c rõ trách nhi?m và b?n ph?n c?a mình. Chi?c váy ? ph?n d??i v?i kích th??c ?? kho?ng cách ch?ng m?c cho m?t b??c ?i c? ??nh ch? không th? nào r?ng h?n tùy thích. Ph? n? Ch?m ch? b??c ?i trong ph?m vi cho phép. D?u cho ???ng ??i có g?p gh?nh th? nào ch?ng n?a, h? v?n c? b??c ?i tr??c sau nh? nh?t. Ch? ?? m?u h? Ch?m ??t lên vai ng??i n? nhi?u b?n ph?n quan tr?ng, ? ?ó lòng chung th?y là tiêu bi?u h?n c?. Khi ?ã có ch?ng, dù hoàn c?nh có éo le ??n ?âu, h? v?n không b??c ra ngoài cái ph?m vi váy cho phép. Hay nói cách khác, không b??c ra ngoài b?n ph?n và trách nhi?m c?a mình. Ph? n? Ch?m ch?u ??ng tr?m cay nghìn ??ng ?? làm tròn b?n ph?n ng??i v?, m?t ng??i m?. ? ph?n d??i c?a áo r?ng ra và c? ??nh, lúc nào c?ng bao dung và g?n bó v?i chi?c váy ph?n d??i. Nó bao la t?a nh? bi?n c?. Ph?n váy nh?p nhô uy?n chuy?n g?n sóng, là nh?ng c?n sóng c? v? v? ng??i ch?ng ?i chinh chi?n trôi gi?t vô ??nh. D?u th?, nh?ng bi?n v?n trung thành ch? ??i. H? d?n n?i nh? nhung nh?ng lúc v?ng bóng ch?ng. Lúc nào c?ng bao dung ôm ?p sóng vào lòng. M?t tình yêu tha thi?t và tr?n v?n. Áo dài Ch?m có m?t nét ??p kiêu sa, ??c ?áo, r?t riêng. Có ai ?ã t?ng ng?m n? sinh c?p ba trong gi? tan tr??ng m?i th?y ???c nét yêu ki?u e ?p ??n d??ng nào. Khóac lên chi?c áo dài truy?n th?ng dân t?c nh? làm cho các cô toát lên m?t nét ??p huy?n bí. Dáng ng??i tr? nên th?ng và cao h?n. M?t v? ??p thùy m? kín ?áo ôm sát châu thân, l? lên m?t nét g?i c?m c?a ph?n c? v?a thanh tao v?a h?p d?n. Tô ?i?m thêm cho nh?ng thi?u n? ???ng xuân ??y nh?a s?ng ? ph?n ng?c hi?n rõ nét cân ??i và r?n ch?c. Vòng eo hình nh? thon g?n l?i và t? t? xòe ra ph?n d??i c?a áo. Chi?c váy bên trong ???c may b?ng ch?t li?u bóng và m?m m?i t?o thành nh?ng ??t sóng v?a d?u dàng v?a uy?n chuy?n m?i b??c ?i.   Aw kamei Ch?m trong cu?c s?ng hôm nay Nét ??p áo dài Ch?m kín ?áo, kiêu sa nên không ph?i ai c?ng nhìn th?y h?t cái ??p c?a nó. Nh?t là th? h? tr? ?ã và ?ang s?ng trong m?t n?n v?n hóa t?c ??, qua s? chung ??ng ti?p xúc v?i th? gi?i bên ngoài nhi?u bi?n ??ng, qua ti vi truy?n hình, live shows th?i trang phim ?nh. H?n n?a, ki?n th?c m? h? v? l?ch s? dân t?c ?ã không ?ánh th?c ???c c?m quan th?m m? n?i th? h? m?i. Không có khái ni?m ?y, cho h? ?ánh m?t luôn ni?m kiêu hãnh v? c?i ngu?n. T? ?ó d?n ??n tình tr?ng các em d? sa ngã và ch?y theo trào l?u trang ph?c ngo?i lai. C? th? nh?t là tình tr?ng ?au lòng ?ã và ?ang di?n ra trên m?nh ??t Panduranga c? kính. Không ít em h?c sinh Trung h?c không còn m?n mà v?i chi?c áo dài c? truy?n Ch?m. Thay vì hãnh di?n khoe v?i các dân t?c b?n v? v? ??c ?áo c?a áo dài truy?n th?ng thì các em l?i ?i phô phang qu?n bò áo ch?n ch?ng chút ng?n ng?i hay x?u h?. Trông ch?ng h?n ai, nh?ng ta l?i coi ?ó là v?n minh, là th?c th?i. ?ây là m?t quan ?i?m sai l?m v?a ?u tr? v?a ngây ngô. Nó c?n ??n s? ?i?u ch?nh th?a ?áng. N?u không thì nét ??p y ph?c c? truy?n s? bi?n m?t m?t s?m m?t chi?u. E. Quinet: “Tôi là tôi, tôi không th? và không mu?n là cái gì khác”. V?y, ch? ?ánh m?t lòng t? tr?ng c?a b?n thân. Càng không nên t? ti v? dân t?c t?ng m?t th?i d?ng nên n?n v?n minh huy hoàng, dù nay ?ã mai m?t. Nh?n ra Aw kamei Cam ??p, nên ng??i Kinh m?i ti?p nh?n r?i “sáng t?o” thêm ?? thành chi?c áo dài n?i ti?ng hôm nay. Tôi không nói ng??i n? Ch?m c? mãi m?c áo dài dân t?c hay ch?i b? t?t c? lo?i y ph?c hi?n ??i. ?i?u tôi mu?n nh?n m?nh là cái ??c tr?ng Ch?m: Aw kamei. Không ph?i không lí do, khi Website Gilaipraung ??a v?n ?? Aw kamei Ch?m ra th?o lu?n, bao nhiêu b?n tr? ?ã nh?p cu?c hào h?ng(6). Và ý ki?n th?ng nh?t là: Aw kamei Cam chính là truy?n th?ng t?t ??p c?n b?o t?n. B?o t?n, cách ?i?u và tôn t?o nó lên. ?? ng??i n? Ch?m luôn kiêu hãnh khi v?n nó lên ng??i. Ta hãnh di?n ta là Ch?m, ta còn hãnh di?n v? thân hình ta trong chi?c Aw kamei kì tuy?t. D? nhiên không ph?i b?t c? m?t ng??i nào khi khóac lên áo dài truy?n th?ng ??u yêu dân t?c c?, nh?ng ch?c ch?n r?ng không có m?t n? sinh nào yêu dân t?c mà l?i t? ch?i Aw kamei Cam. Còn ngh? cái áo ch? là th? v? bên ngoài, thì hoàn toàn sai l?m. Hay cho là không c?n th? hi?n b?n s?c Ch?m ra ngoài mi?n là trong lòng th?c s? yêu dân t?c, là ch?a ?? chin ch?n. V?n hóa dân t?c hòa quy?n gi?a tinh th?n và v?t ch?t. Ngay các nguyên th? m?t n??c khi d? ??i l? qu?c gia hay qu?c t? c?ng v?n lên mình chi?c áo dân t?c. H? làm nh? v?y là l?c h?u ch?ng? Tình yêu dân t?c không ch?p nh?n nói suông mà ph?i th? hi?n t?i ?a ? m?i m?t, khía c?nh, trong ?ó y ph?c là m?t y?u t? quan y?u. Ph?i t?o cho mình thói quen g?n g?i v?i Aw kamei Ch?m b?ng cách dùng và nhìn ng?m nó m?i ngày, n?u không ta c?m th?y xa l? v?i nét ??p kia. ?? cu?i cùng t?t c? bi?n m?t không l?i t? bi?t. R?i m?t ngày nào ?ó, nh?ng ng?n tháp Chàm su?t d?i ??t mi?n Trung s? ngày càng tiêu ?i?u hiu qu?nh và ?áng th??ng, khi không còn bóng dáng th??t tha c?a ng??i n? Ch?m v?i chi?c áo dài trong b??c ?i uy?n chuy?n y?u ?i?u th?c n? r?t Ch?m n?a. Có em vi?n lý do r?ng m?c áo dài r?t khó kh?n trong v?n ?? ??p xe. Các em ? r?t xa tr??ng ?? T?i sao em không làm nh? Th?y Tiên? Mai Th?y Tiên hi?n ?ang s?ng ? Boston. Thu? Trung h?c, nhà Th?y Tiên ? T?nh M?, cách tr??ng kho?ng b?n cây s?. M?i sáng, Th?y Tiên ?ã m?c qu?n Tây, ??p xe xu?ng Phan Lý Chàm h?n n?a ti?ng ??ng h?, t?t qua nhà M? Ái thay vào cái áo dài Ch?m. R?i chúng tôi cùng t?i tr??ng. Ch?ng v?n ?? gì c?! V?a ??p v?a ti?n. Nên m?i lý do ??a ra ?? t? ch?i áo dài Ch?m ch? là ng?y bi?n. Còn lý do n?a là, b?i duy mình em là Ch?m, nên em s? d? ngh?. D? ngh? r?i b? l?c lõng ?? Chuy?n th? này: Niên khóa 1990 -1993, nguyên c? plây Ch?m mà ch? v?n v?n sáu n? sinh trung h?c. L?p tôi kho?ng ba m??i b?y h?c sinh, nh?ng ch? mình tôi là Ch?m. Lúc ?ó gh? h?c sinh hay b? ?ánh c?p, nên nhà tr??ng ?óng bàn và gh? dính li?n nhau. Không hi?u sao m?y ông th? m?c ?óng ch? dính nhau cao h?n ??u g?i c? hai gang tay. Th? là m?i l?n lên b?ng là tôi ph?i vén chi?c váy lên r?t cao m?i b??c ra ???c. Lúc ??u c?ng c?m th?y khó ch?u, do b?y m??i b?n con m?t d?n v? phía mình. Nh?ng ri?t r?i quen ?i. ?âu ph?i áo dài Vi?t không có cái b?t ti?n c?a nó. Gi? th? d?c ch?ng h?n, trong khi các b?n Kinh loay hoay mãi ?? g? t?ng khuy nút, tôi thì r?t loáng là xong. Và luôn là ng??i ?âu tiên! Chi?c áo dài Ch?m ti?n l?i là v?y: Ch? c?n ??a hai tay lên và kéo ra kh?i c?! Th? m?i nói, áo dài hai dân t?c, m?i th? ??u có cái ?u và cái b?t ti?n riêng c?a nó. Áo dài Ch?m, m?c dù có c?m giác b? khuôn kh? trong b??c ?i, nh?ng nó kín ?áo. R?t kín ?áo. Tóm l?i, có cái này thì m?t cái khác. ?i?u ch? y?u là mình bi?t ?i?m nào là khuy?t và c?i ti?n, ch? ??ng khóac lên mình m?y lo?i áo lai c?n mà ??n ng?c r?ng nh? v?y m?i mô-?en. Mô-?en hay tân th?i ?âu ch? bi?t, nh?ng các b?n b? c??i r?ng m?t g?c là cái ch?c. Tháp Chàm s? ??p h?n b?i ph?n khi Tháp ???c bóng nh?ng chi?c áo dài truy?n th?ng u?n mình theo t?ng ?i?u múa c? truy?n. Thi?u chúng, tháp s? cô qu?nh và ?ìu hiu bi?t bao!  B?n s?c v?n hóa c?a m?t dân t?c ???c nh?n bi?t qua các sinh ho?t và ???c bi?u l? qua các giá tr? v?n hóa v?t th? và phi v?t th?. T? hào v? nh?ng gì t? tiên ?? l?i ?ã ?ành, chúng ta c?ng c?n làm nh?ng gì cho anh linh t? tiên hãnh di?n. T? hào v? b?n s?c c? là c?n, bên c?nh ?ó ta c?ng bi?t h?c t?p thâu thái t? dân t?c khác ?? cách tân, làm m?i b?n s?c ??c ?áo kia. Bi?t ti?p nh?n, bi?t phát huy và sáng t?o khi c?n thi?t. N?u các b?n cho r?ng cái váy gò bó b??c chân c?a các b?n thì hãy cách ?i?u nó b?ng v?i thun giãn, hay thay ??i ???ng nét cho thanh thóat h?n. T?i sao không th? ch?!? Hãy nh? r?ng các b?n hãy là chính các b?n ch? ??ng bao gi? là ai h?t. “Có tìm hi?u d? vãng c?a chính mình thì m?i quý nó ???c, và có quý tr?ng d? vãng thì m?i tìm ???c h??ng ?i cho t??ng lai”. L?i c?a c? h?c gi? Nguy?n Hi?n Lê th?m thía ý ngh?a sâu s?c g?i ??n các b?n tr? và nh?ng ai quan tâm ??n vi?c b?o t?n và phát huy v?n hóa dân t?c. ___________ (1) Bùi Minh ??c, T? ?i?n ti?ng Hu?, NXB V?n h?c, 2009, in l?n th? 3, tr. 14. (2) ??i Nam Th?c l?c ti?n biên. (3) Tôn Th?t Bình, K? chuy?n chín Chúa – m??i ba vua Tri?u Nguy?n, NXB ?à N?ng, tr. 29. (4) V?n Món, Ngh? D?t c? truy?n c?a ng??i Ch?m, NXB V?n hóa Dân t?c, 2003, tr. 87. (5) Phan Xuân Biên, Phan An, Phan V?n D?p, V?n hóa Ch?m, NXB Khoa h?c Xã h?i, 1991, trang 114.   source: ilimochampa.org  
0 Rating 1.1k+ views 1 like 0 Comments
Read more
By: On June 15, 2012
Phan Qu?c Anh1. Vi?t nam là m?t n??c ?a tôn giáo và ?a dân t?c nên có b?c tranh v?n hoá tôn giáo, dân t?c ?a d?ng, phong phú. Góp ph?n không nh? vào b?c tranh v?n hoá ?a d?ng ?y có v?n hoá tôn giáo dân t?c Ch?m. Nh?ng tôn giáo ?n ?? nh? Bà la môn, ?n ?? giáo, H?i giáo h?u nh? ch? t?p trung trong c?ng ??ng ngu?i Ch?m hi?n ?ang sinh s?ng ? mi?n  Trung Vi?t Nam.   N?u g?i vùng ?ông Nam Á c? là ?n -Trung (Indo – China) thì v?n hoá tôn giáo Ch?m Pa c? mang ??m d?u ?n v?n hoá tôn giáo ?n ??, th?m chí cho ??n ngày nay tôn giáo  này còn ??m h?n c? ? quê h??ng nó là ?n ?? mà các nhà dân gian h?c g?i là thuy?t “hoá th?ch ngo?i vi trên biên”.N?m trong c? t?ng v?n hoá ?ông Nam Á, dân t?c Ch?m có n?n v?n hoá b?n lâu ??i, vì v?y, các tôn giáo ?n ?? khi du nh?p vào Ch?m pa ??u b? b?n ??a hoá.2. Các tôn giáo ?n ?? truy?n bá t?i ?ông Nam Á b?ng hai con ???ng, ???ng thu? và ???ng b?:  m?t ???ng t? b? bi?n Coromandel ?n ?? thông qua eo bi?n Malacca t?i qu?n ??o Mã Lai; m?t con ???ng khác là t? Át Xan ti?n vào Mianma, r?i t? Mianma truy?n vào l?u v?c sông Mê Công, ??n Chân L?p, Phù Nam và Ch?m Pa.Các s? li?u Trung Qu?c cho bi?t, vào n?m 192, th?a lúc nhà H?u Hán suy y?u, m?t nhân v?t tên là Khu Liên li?n chi?m m?t ph?n ??t c?a qu?n Nh?t Nam c?a nhà Hán (vùng ??t n?m gi?a ?èo Ngang và ?èo H?i Vân) x?ng vua trong m?t huy?n c?c nam là T??ng Lâm (phía nam Th?a Thiên hi?n nay). ?ó chính là Lâm ?p hay Ch?m Pa mà T?n th? n?m 280 xác ??nh:”  V??ng qu?c này, v? phía nam giáp n??c Phù Nam, g?m r?t nhi?u b? l?c và liên k?t v?i nhau, l?i d?ng núi non hi?m tr?, h? không ch?u qui ph?c Trung Qu?c”.12.1.  Hi?n nay, các nhà khoa h?c ch?a tìm th?y m?t t? li?u nào nói v? các nhà s? hay nh?ng tín ?? c?a các tôn giáo Ch?m Pa ??n truy?n ??o. Nh?ng nh?ng t? li?u kh?o c? h?c, các bia ký Ch?m Pa cho th?y các tôn giáo ?n ?? ?ã ??n các v??ng tri?u Ch?m Pa t? r?t s?m, th?m chí cùng v?i vi?c l?p qu?c, xây d?ng v??ng quy?n k?t h?p v?i th?n quy?n. B?ng ch?ng cho th?y niên ??i s?m nh?t mà Ph?t Giáo ???c truy?n ??n Ch?m Pa là t?m bia kí Võ C?nh ???c tìm th?y g?n Kauthara ( Nha Trang). T?m bia kí này có niên ??i th? k? III-IV. Trên bia ???c ghi b?ng ch? Ph?n, vi?t theo ki?u ch? Amravati, có n?i dung mang t? t??ng Ph?t giáo nh?: “Lokasaaya gatàgati”( s? ch?t ho?c s? ph?c sinh c?a th? gi?i này) hay: “ Prajànà Karuna”( t? bi tr?c ?n ??i v?i chúng sanh). Theo Ti?n s? Ngô V?n Doanh, t?m bia Võ C?nh là b?ng ch?ng v?t ch?t ??u tiên và c?ng là c? nh?t ? ?ông Nam Á nói v? Ph?t giáo.B?ng ch?ng th? hai v? Ph?t giáo th?i k? ??u ? Ch?m Pa là pho t??ng Ph?t b?ng ??ng có niên ??i t? th? k? IV ??n th? k? VI ???c tìm th?y ? khu di tích Ph?t giáo ? ??ng D??ng. ?ây là pho t??ng Ph?t ”áo ??t” theo phong cách Ganhara nh?ng tóc l?i xo?n c?a Natura, ph?i ch?ng nó ???c nh?p tr?c ti?p t? ?n ?? ho?c t? Xrilanca.N?m 1901, các nhà kh?o c? h?c ng?i Pháp ?ã ?ào và phát hi?n ? tu vi?n Ph?t ??ng D??ng 229  pho t??ng Ph?t. Hi?n nay, nh?ng b?c t??ng và các m?ng ?iêu kh?c liên quan ??n các d?u ?n Ph?t giáo ???c tr?ng bày ? b?o tàng Ch?m ?à N?ng. Các s? li?u Trung Qu?c nh? “ L??ng th?, Tu? th?, Nam t? th?…” ??u ghi r?ng Ch?m Pa là m?t qu?c gia Ph?t Thích Ca. Vào ??i nhà Tu?, L?u Ph??ng ?em quân t? Giao Châu ?i ?ánh Lâm ?p và chi?m ???c qu?c ?ô. L?u Ph??ng vào thành b?t h?t ng??i Ch?m, thu ???c 18 th?n ch? b?ng vàng th? trong mi?u, h?n 1300 b? kinh Ph?t và nhi?u sách vi?t b?ng ch? Chiêm Bà1.Các nhà kh?o c? h?c còn tìm th?y thân tu?ng Ph?t ? Qu?ng Khê (Qu?ng Bình) và hình Ph?t trên phù ?iêu ? Ph??c T?nh (Phú Yên), Thân t??ng Ph?t ? Qu?ng Khê g?n v?i ki?u t??ng ?n ?? th? k? IV-VI ? Bagh II và Ajanta X. Còn phù ?iêu ? Ph??c T?nh c?ng thu?c th? k? IV-VI và g?n v?i ngh? thu?t t??ng Ph?t Môn-?varavati.2.2. S? sách Trung Qu?c cho th?y, ngay t? nh?ng th? k? ??u công nguyên, Bà la môn và ?n ?? giáo ?ã vào Ch?m Pa: “…? Lâm Ba (Lâm ?p)- t?c Ch?m Pa, có m?t qu?c v??ng tên là Bhadravarman ?ã cho xây m?t ??n th?n ??u tiên ? vùng núi M? S?n, h?n th? ông ?ã ?em dâng hi?n nó cho Siva – Bhadresvara”2.Bà la môn giáo du nh?p vào Ch?m Pa r?t s?m. B?n bia ký b?ng ch? Ph?n có niên ??i th? k? VII ???c tìm th?y ? Qu?ng Nam và Phú Yên ? tri?u ??i Bhadresvaravamin, ba trong b?n bia ký ?ó ghi nh?n lãnh ??a dành cho v? th?n này. Còn bia ký M? s?n thì nói ??n s? thành kính dành cho” Mahesvara, Uma, Brahma, Visnu…”Nh?ng bia ký c?a ông vua Sambhuvarman th? k? VII nói v? m?t lãnh ??a th?n c?a th?n ( deva devalaya) ngh?a là c?a Bhadrésvara ?ã b? ??t phá và ?ã ???c vua khôi ph?c l?i. M?t bia ký khác nói v? vi?c xây d?ng m?t bàn th?, m?t vedi (b? th?) b?ng g?ch b?c b?c và trên có ??t m?t b?c t??ng c?a Laksmi. Nh? v?y, cho ??n th? k? th? VII, ?n ?? giáo mà ch? y?u là Siva giáo ?ã tr? thành tôn giáo chính th?ng c?a các vua chúa Ch?m Pa. T? ?ây hình thành Thánh ??a tôn giáo M? S?n (mà ??n hôm nay ???c UNSCO công nh?n là di s?n v?n hoá th? gi?i). Khu thánh ??a tôn giáo M? S?n c?ng b? ??p phá nhi?u l?n. Theo “T?ng th?”, n?m 446, th? s?  Giao châu là ?àn Hoà Chi ?ã phá các ??n ?ài, n?u các b?c t??ng vàng c?a Lâm ?p thành thoi ???c 100 ngàn cân.T? th?i Lâm ?p ??n Hoàn V??ng, t?c là t? th? k? II ??n th? k? IX, ??o Bà la môn và ?n ?? giáo luôn luôn ???c coi tr?ng. Các bia ký giai ?o?n này ??u ch?ng minh t?m quan tr?ng c?a Siva giáo: ” ?áng kính tr?ng h?n c? Brahma, Visnu, Indra. Surya, Asura, h?n nh?ng v? Bàlamôn và h?n nh?ng Rsi, các vua chúa”.Tuy nhiên, trong su?t quá trình ?ó, Ph?t giáo luôn luôn t?n t?i và có nhi?u tri?u ??i v?n coi tr?ng Ph?t Giáo. M?t bia ký có niên ??i n?m 829 c?a v? tri?u th?n Bakul nói t?i nh?ng t?ng ph?m do Samata, v? th??ng th? c?a tri?u ??i Vikrantavarman, cúng cho v? th?n ? n??c Mandala và ghi chép v? hai t?ng vi?n Ph?t giáo (vihara) và hai ??n th? (deva kutidve) dâng cho Jinahay (t?c Ph?t) và nói t?i vai trò c?a nh?ng Ph?t t? mà tác gi? bia ký g?i là Buddhanirvana.2.3. C?ng nh?  ph?t giáo và Siva giáo, Visnu giáo c?ng ???cnhi?u tri?u ??i coi tr?ng. Ba bia ký (hai c?a Indravarman I và m?t c?a Vikrantavarman III) tìm th?y ? Phan Rang nói nhi?u t?i Visnu giáo. Nhà vua t? so sánh mình v?i Vikrama: “ Nâng qu? ??t lên b?ng hai cánh tay” ho?c v?i Narayana: “ N?m trên con r?n và nâng th? gi?i lên b?ng b?n cánh tay”. Bia ký c?a Senapati Par, t?ng ??c t?nh Pandurangapura (vùng Phan Rang ngày nay) ng?i ca v? t?ng ??c nh? m?t Narayana (Visnu) hi?n thân, và cánh tay c?a ông ???c so v?i “con r?n nâng cái ??a trái ??t chìm ??m trong ??i d??ng c?a th?i ??i Kali”.T? th? k? th? X ??n th? k? XV, l?ch s? Ch?m Pa có nhi?u bi?n ??ng l?n. Vào th? k? XIII, t? th?i Jaya Harivarman I, b?t ??u cu?c chi?n tranh gi?a b?c và nam Ch?m Pa, r?i ti?p ?ó là gi?a Ch?m Pa và C?mpuchia. K?t qu? là Ch?m Pa b? tàn phá n?ng n? và tr? thành m?t t?nh c?a ng??i Kh?me t? n?m 1203 ??n 1220. Các bia ký th?i k? này ??u nói t?i vai trò c?a Ph?t giáo ??i th?a ? Ch?m Pa. Tuy nhiên, vua Suryavarmadeva m?c dù tuyên b? theo ph?t giáo ??i th?a nh?ng v?n dâng hi?n t?ng v?t cho v? th?n Siva ? M? S?n là Bhadresvara, t?ng v?t c?a ông là 1 chi?c kosa có sáu m?t (Satmukha) n?ng 510 thoi. ?ây là m?t trong nh?ng kosa quan tr?ng và có giá tr? nh?t mà chúng ta ???c bi?t v? v?n minh c? Ch?m Pa.2.4. Tóm l?i, su?t h?n 12 th? k? t?n t?i, Ch?m Pa liên t?c l?y nh?ng tôn giáo ?n ?? làm tôn giáo c?a mình. Ch?m Pa không k? th? tôn giáo mà ti?p thu r?t nhi?u giáo phái c?a ?n ??. Bao trùm lên suôt quá trình l?ch s? t?n t?i c?a mình là s? h?n dung c?a các giáo phái ?n ??. V?n hoá và con ng??i Ch?mPa ti?p nh?n t?t c?: ??c hi?u sinh, t? bi c?a ph?t giáo, tình th??ng c?a  Visnu giáo và c? tính hung b?o quy?n l?c c?a Siva giáo.Nh?ng tôn giáo ?n ?? ?ã chi ph?i r?t l?n ??n ??i s?ng v?n hóa Ch?mpa. Nh?ng ?nh h??ng ?ó có th? tìm th?y ? trong ??i s?ng tâm linh, phong t?c t?p quán, v?n h?c ngh? thu?t, ki?n trúc, ?iêu kh?c v.v… c?a ng??i Ch?m.3. Cùng v?i s? ti?p thu tôn giáo, ngay t? khi ra ??i nhà n??c Lâm ?p n?m 192, Ng??i Ch?m ?ã ti?p thu nh?ng ?nh h??ng kèm theo tôn giáo là v?n hoá, v?n h?c, v?n t?, phong t?c và ??c bi?t là ngh? thu?t ki?n trúc, ?iêu kh?c. ?nh h??ng c?a ngh? thu?t ki?n trúc, ?iêu kh?c c?a ?n ?? có th? là tr?c ti?p t? ?n ??, ho?c thông qua các n??c trong khu v?c ?ông Nam Á.Nh?ng khi ti?p thu nh?ng thành t?u v?n minh ?n ??, ng??i Ch?m ?ã g?n v?i ngh? thu?t b?n ??a, làm cho ngh? thu?t ?iêu kh?c và ki?n trúc Ch?m Pa c? tr? nên ??c ?áo, có tính ch?t ?i?n hình ? ?ông Nam Á.  Nh?ng ??n tháp và các tác ph?m ?iêu kh?c c?a ng??i Ch?m x?a ??u ti?p thu c?a ?n ??, v?a có s? ti?p thu c?a Kh? me, c?a Giava và c? c?a ??i Vi?t.Qua nghiên c?u nh?ng t? li?u t??ng ??i phong phú v? ngh? thu?t ki?n trúc, ?iêu kh?c c?a Ch?m Pa  c?a các h?c gi? ng??i Pháp nh? P. Stéc ; J. Boáts?lie và ??c bi?t là H. P?cm?ngchiê, các ông ?ã chia b?ng niên ??i và phong cách ngh? thu?t ra thành nhi?u th?i k?, kèm theo ?ó là các phong cách ngh? thu?t. M?t s? nhà nghiên c?u Vi?t Nam ?ã ??a ra nh?ng khung niên ??i và phong cách khác nhau. PGS Cao Xuân Ph? chia ra thành 6 m?c l?n. TS Ngô V?n Doanh trong cu?n V?n hoá Ch?m Pa l?i th?ng nh?t theo cách chia c?a các h?c gi? ng??i Pháp ??u th? k?. H. Pácm?ngchie chia l?ch s? ngh? thu?t c? Ch?m pa làm hai th?i k?:Th?i k? th? nh?t: t? th? k? VII ??n th? k? XTh?i k? th? hai: B?t ??u t? th? k? XI ??n k?t thúc ngh? thu?t c? Ch?m Pa..P.Stéc chia ngh? thu?t ki?n trúc và ?iêu kh?c c? Ch?m Pa ra các phong cách:1- Phong cách M? S?n E1 (th? k? VIII ??n ??u th? k? IX)2- Phong cách Hoà Lai (n?a ??u th? k? IX)3- Phong cách ??ng D??ng (n?a hai th? k? IX – ??u th? k? X)4- Phong cách M? S?n A1 (??u th? k? X – ??u th? k? XI)5- Phong cách chuy?n ti?p t? M? S?n A1 sang phong cách Bình ??nh (n?a ??u th? k? XI ??n ??u th? k? XII6- Phong cách Bình ??nh (gi?a th? k? XII ??n ??u th? k? XIV)7- Phong cách mu?n (??u th? k? XIV ??n th? k? XVI)Nh? cách chia này, P.Stéc v?a g?p ???c quá trình phát tri?n c?a ngh? thu?t ki?n trúc l?n ?iêu kh?c, ??ng th?i xâu chu?i ???c niên ??i và phong cách t??ng ?ng v?i l?ch trình phát tri?n ngh? thu?t Ch?m Pa c?.3.1. Ki?n trúc Ch?m Pa c? còn l?i ch? y?u là ??n Tháp. N?u tính c? hai khu ki?n trúc l?n là khu di tích M? S?n và khu ??ng D??ng thì su?t d?i ??t mi?n Trung t? Qu?ng Nam vào ??n Bình Thu?n có t?t c? 19 khu Tháp v?i 40 ki?n trúc l?n nh? hi?n còn và có niên ??i t? th? k? IX ??n XVI. N?u so sánh v?i nh?ng gì ?ã m?t, s? l??ng Tháp Ch?m còn l?i quá ít ?i, nh?ng chúng là nh?ng b?ng ch?ng ??y thuy?t ph?c v? m?t n?n ki?n trúc c? ??c ?áo c?a ?NATháp c? Ch?m Pa ?nh h??ng t? ?n ?? b?i nó mang hình núi Mê ru thu nh?. Các v? th?n c?a ?n ?? giáo ng? ? trung tâm th? gi?i trên núi Mêru nên ??n th? ngài ? h? gi?i ph?i th? hi?n nh? núi V? Tr? Mê ru thu nh? và ph?i tuân theo b? c?c:  h??ng tâm, các tr?c quay ra b?n h??ng, m?t ti?n quay v? h??ng ?ông (h??ng m?t tr?i m?c, ngu?n g?c c?a s? s?ng). Hi?n nay c?m tháp còn t??ng ??i hoàn ch?nh là Tháp Chàm Pôklongrai ? Ninh Thu?n. Tháp này ???c xây d?ng trên ??nh c?a ??i Tr?u, chia làm ba ph?n, tháp c?ng quay m?t v? h??ng ?ông, k? ??n là m?t chi?c sân g?ch hình ch? nh?t r?ng ch?ng 20 m2, cao ch?ng h?n 1 m,  là sân ?? múa hát và làm l?. ? trung tâm là tháp chính, ?ó là m?t toà tháp hình kh?i chân vuông ???c xây b?ng g?ch có t??ng r?t dày, ? gi?a r?ng, hành lang d?n vào lòng tháp r?t h?p và có t??ng bò th?n Na?in b?ng ?á ng? m?t bên l?i ?i. Trong lòng tháp là m?t gian ?i?n th? hình vuông, vách ??ng th?ng, không trang trí và ph?ng tr?n. M?t mái vút cao ? phía trên  gian ?i?n th? ???c xây theo ki?u so le gi?t c?p kéo th?ng m?t m?ch lên t?n ??nh. Trên các ???ng tr?c, có nh?ng ô khám nh? khoét trong vách t??ng, dùng làm n?i ?? ?èn d?u. ? chính gi?a là b? th? b? mukhalinga-yoni có g?n m?t vua – th?n Pôklongrai. Do ch? có m?t hành lang d?n vào r?t h?p, l?i không có c?a s? nên h?u nh? lúc nào trong gian th? c?ng m? t?i, t?o ra c?m giác linh thiêng pha chút bí hi?m cho gian th?. Gian th? h?p c?ng có th? có m?c ?ích là không th? vào nhi?u ng??i m?t lúc ???c. Các v? c? s? cho bi?t, ngày x?a, ch? có nh?ng tu s? Balamôn và nh?ng ng??i thu?c ??ng c?p cao m?i ???c vào trong gian ?i?n th?.Phía nam c?a tháp chính là tháp l?a, là n?i ngày x?a dùng làm n?i chu?n b? ?? t? th?n.Nhìn t? bên ngoài, tháp Ch?m là m?t là m?t c?u trúc nhi?u t?ng. T?ng d??i cùng làm cái v? cho gian ?i?n, bên ngoài có nh?ng hình ?p có trang trí n?m gi?a hai b? g? trên và d??i. Các t?ng tháp n?i nhau nh? d?n lên t?n ??nh, m?i t?ng l?i có các hoa v?n và các lá nh? mang nhi?u phong cách khác nhau, ? tháp Pôklongrai, m?i t?ng l?i có t??ng Siva làm b?ng ?á, và ? trên ??nh tháp là m?t hòn ?á hình b?u d?c (gi?ng nh? hòn ?á trên các “kut”) ??u nh?n h??ng lên tr?i. Có ý ki?n cho r?ng ?ây là bi?u t??ng Linga, nh?ng theo tôi thì có l? ?ây là bi?u t??ng bia ?á cho kal?n (l?ng m?) cho chi?c m? kh?ng l? là tháp.Nh?ng khu ??n tháp l?n c?a Ch?m Pa t?p trung ? các trung tâm l?n nh? Thánh ??a M? S?n, vùng Vijaya, vùng Kauthara và Pandurangara th? các th?n c?a ?n ?? giáo nh? Brhma, Visnu, Siva. Ng??i Ch?m g?i cácTháp Ch?m là Kal?n, có ngh?a là ??n l?ng, và nh?ng c?m tháp ??n th? th?n ???c k?t h?p v?i l?ng m? và th? vua chúa: Tháp Pô T?m ? Phan Rí (Bình Thu?n) th? vua PôT?m, tháp Pôrômê và tháp Pôklongrai ? Ninh Th?ân th? vua Pôrômê và vua Pôklongrai.Nh? v?y, các Tháp ??n khi ??n v?i Ch?m Pa không ch? ?? th? th?n n?a mà kèm theo th? ph?ng vua chúa, hay nói r?ng ra là th? cúng t? tiên. Các bia ký Ch?m Pa ??u nói t?i vi?c h? d?ng các ??n th? các b?c ti?n b?i c?a mình d??i d?ng các th?n linh. M?t s? t??ng m?t vua nh? Poklongirai, Porome ???c g?n vào cây linga (g?i là Mukhalinga) và ??t th? trong lòng các ThápV? ki?n trúc và ?iêu kh?c Ch?m cho ??n nay v?n còn nhi?u ?i?u bí ?n mà các nhà nghiên c?u ch?a k?t lu?n ???c. Th? nh?t là v?t li?u làm v?a ?? liên k?t các viên g?ch xây nên Tháp là b?ng ch?t gì? ng??i Ch?m x?a ?ã xây d?ng nh?ng ngôi Tháp ?? s? ?ó nh? th? nào? ?i?u bí ?n th? hai là tài ngh? ch?m kh?c trên g?ch, nh?ng t??ng Tháp d?y ??c nh?ng hình ch?m kh?c tinh t? nh? nh?ng bàn tay có phép màu c?a nh?ng ngh? s? Ch?m x?a. Không bi?t ng??i Ch?m x?a xây tháp xong m?i kh?c ch?m hay ch?m tr? tr??c t? g?ch non m?i ghép l?i xây nên?TS Ngô V?n Doanh chia ngh? thu?t ki?n trúc Ch?m thành 3 nhóm, nhóm 1 là nh?ng Tháp ???c xây d?ng t? th? k? IX v?i hai phong cách Hoà Lai và ??ng D??ng. Nhóm 2 là nhóm xây d?ng th? k? X v?i phong cách M? S?n A1 và nhóm 3 là nhóm Tháp th? k? XI – XIII v?i phong cách Bình ??nh. Ba phong cách mang ba ngôn ng? t?o hình ch? ??o : Nhóm 1 kho? kho?n trong trang trí và trong hình dáng c?c m?ch vuông v?c, nhóm 2 thanh tú, trang nhã trong ???ng nét  và hài hoà trong t? l?, nhóm 3 thì ???ng b? trong m?ng kh?i.1Ngoài các khu ki?n trúc ph?c v? cho Bà la môn giáo và ?n ?? giáo, Ch?m pa còn m?t khu ki?n trúc và ?iêu kh?c r?t quan tr?ng là khu Ph?t giáo ??ng D??ng, (Qu?ng Nam). ??ng D??ng theo ti?ng Ch?m là Indrapura, ???c xây d?ng vào n?m 875 d??i tri?u vua Indravarman II mà bia ký mô t? là m?t “thành ph? ???c trang hoàng l?ng l?y ??p nh? thành ph? c?a Indra”. ?ây là m?t t?ng th? ki?n trúc n?m trên  m?t ng?n ??i cao 500m, có chi?u dài t? tây sang ?ông là 1330 m. Trong thung l?ng còn l?i r?t nhi?u d?u v?t c?a nh?ng ngôi chùa hay nh?ng tu vi?n Ph?t giáo. Theo bia ký tìm th?y ? ??ng D??ng, tu vi?n Ph?t giáo này xây d?ng ?? th? Lasmindra Lokesvara. R?t ti?c là khu di tích tu vi?n Ph?t giáo này ?ã không ???c t?n t?i cùng v?i th?i gian.Trong vòng 8 th? k?, ng??i Ch?m ?ã xây ??ng r?t nhi?u ??n Tháp v?i nh?ng phong cách khác nhau, tháp và nh?ng ph? tích tháp còn l?i hôm nay là r?t ít ?i so v?i nh?ng gì ?ã có nh?ng v?n là nh?ng viên ng?c quí c?a n?n ki?n trúc c? Vi?t Nam và ?ông Nam Á. Cùng v?i tôn giáo là s? giao l?u v?n hoá gi?a các n??c trong khu v?c ?ông Nam Á. Chúng ta có th? th?y phong cách Ch?m trên nhóm ki?n trúc Prasat Damay Krap ? Xiêm ri?p, có th? th?y ki?n trúc n?a Ch?m – n?a Kh? me trên c?m tháp Hoà Lai ? Ninh Th?ân. Tháp ?ôi ? Bình ??nh có chân tháp mang dáng d?p c?a ??i Vi?t, thân tháp là Ch?m, nh?ng ph?n trên l?i là Kh? me…3.2. ? ?ông Nam Á có 3 n?n ?iêu kh?c mang t?m c? th? gi?i là Giava, Kh?me và Ch?m. Hi?n nay có nhi?u ý ki?n khác nhau khi ?ánh giá nh?ng b?c t??ng c? Ch?mPa. Nhi?u nhà nghiên c?u M? thu?t ??u công nh?n v? ??p l? k? và ??c ?áo c?a phong cách ngh? thu?t ??ng D??ng, m?t phong cách ???c ?ánh giá là r?t Ch?m. Nh?ng c?ng nhi?u nhà nghiên c?u c?ng cho r?ng t?ng nhân v?t hay t?ng nhóm nhân v?t trên các m?ng ?iêu kh?c hay b? tách r?i, thi?u sinh ??ng, thi?u nh?p ?i?u và th??ng vi ph?m nh?ng qui t?c v? gi?i ph?u h?c và không gian mà ngh? thu?t ?iêu kh?c qui ??nh. Ví d? nh? bàn tay quá to, cánh tay quá cong ? v? n? Trà Ki?n, eo hông t??ng Siva u?n quá cong v.v… C?ng có l? vì v?y mà ngh? thu?t ?iêu kh?c Ch?m Pa ???c ?ánh giá là ngh? thu?t ?n t??ng nhi?u h?n là t? th?c. ?ây là m?t ??c ?i?m t?o nên v? ??p ??c ?áo và riêng có ? ngh? thu?t ?iêu kh?c c? Ch?m Pa và có ?óng góp l?n cho ngh? thu?t ?iêu kh?c ? khu v?c ?ông Nam Á. L?nh v?c ngh? thu?t ?iêu kh?c Ch?m ??oc coi là ch?u ?nh h??ng sâu s?c c?a ?n ?? nh?ng v?n ch?a ??ng nhi?u nét Ch?m hoá. V? n? thiên th?n “Apsara”(l??n trong n??c) có dáng m?m m?i, uy?n chuy?n ?ã hoá thân vào ngh? thu?t múa, ngh? thu?t ?iêu kh?c ?n ??  và nhi?u n??c khác, nh?ng qua bàn tay ngh? thu?t c?a các ngh? nhân Ch?m, “Apsara” ?ã tr? thành bi?u t??ng hàm ch?a m?i v? ??p r?t riêng c?a cô gái Ch?m. Nàng không có b? ng?c ?? s? quá l?n nh? nàng Apsara ?n ?? v?n b?t ngu?n t? tín ng??ng tôn th? b?u s?a m? thiêng liêng v? ??i.Nh?ng tác ph?m c?a ngh? thu?t ?iêu kh?c Ch?m Pa ch? y?u ph?c v? tôn giáo, c? th? là t??ng c?a ??o Ph?t và ?n ?? giáo. ?iêu kh?c Ph?t giáo ? ??ng D??ng (In?rapura) t?o nên c? m?t phong cách ??ng D??ng. ?ây là c? m?t thánh ???ng Ph?t giáo: Có t??ng Ph?t, t??ng các v? La Hán và các tu s?. ??c bi?t t??ng các v? môn th?n ???c coi là ??p nh?t và ??c ?áo nh?t. N?m 1911, ng??i ta ?ã ?ào ???c m?t pho t??ng ??ng cao 1,08m, là t??ng Ph?t ??ng, Ph?t m?c m?t t?m áo tu hành dài ?? h? và khoác ngoài m?t t?m áo khoác. Tóc Ph?t là nh?ng vòng xoáy ?c, Trên trán có m?t urna l?n…N?m 1978, nhân dân ??a ph??ng ? Qu?ng nam ?ã ?ào ???c m?t pho t??ng n? b?ng ??ng cao 114cm. Theo các nhà khoa h?c, pho t??ng ??ng này là pho t???ng chính c?a Ph?t vi?n Lasmindra Lokesvara, v? th?n b?o h? vua Indrávarman II mà bia ký có nh?c t?i.S? li?u Trung Qu?c nói r?ng: Trong khi ?ánh Lâm ?p, viên t??ng L?u Ph??ng ?ã l?y v? 1.350 tác ph?m ?iêu kh?c Ph?t giáo. Ngoài nh?ng tác ph?m ?iêu kh?c tìm ???c ? ??ng D??ng, còn tìm ???c nh?ng tác ph?m ?iêu kh?c ? thánh ???ng Ph?t giáo ??i Th?a và ? M? ??c (Qu?ng Bình) mang nh?ng bi?u t??ng Ph?t giáo. S? có m?t c?a các t??ng Ph?t ? trên ??t Ch?m Pa ch?ng t? r?ng Ph?t giáo ?ã có vai trò ?áng k? ? v??ng qu?c Ch?m Pa.M?t m?ng ?? tài ?iêu kh?c r?t l?n c?a Ch?m Pa là ?? tài ?n ?? giáo. Nh? ?ã phân tích ? ph?n tôn giáo, Siva giáo có lúc ???c ??y lên thành qu?c giáo, nh?ng bên c?nh ?ó v?n t?n t?i Visnu, Brahma và c? Pônagar. Kèm theo các tác ph?m ?iêu kh?c Siva, Visnu, Brahma là các con v?t ???c th? nh? r?n Sera, bò th?n Na?in…Do v? trí ??a lý và hoàn c?nh c?a l?ch s? qui ??nh, n?n ngh? thu?t ?iêu kh?c c? Ch?m Pa luôn ch?u s? tác ??ng t? bên ngoài: ?nh h??ng t? ?n ?? ? giai ?o?n tr??c th? k? VII, ?nh h??ng c?a Giava trong phong cách Trà Ki?u, ?nh h??ng c?a ngh? thu?t Kh?me trong phong cách Bình ??nh… Nh?ng nh?ng ?nh h??ng t? bên ngoài khi vào Ch?m Pa ??u b? bi?n ??i theo nh?ng phong cách truy?n th?ng Ch?m. Nh?ng tác ph?m ?iêu kh?c khi vào Ch?m Pa ??u có xu h??ng t??ng tròn hoá, hoành tráng hoá theo xu h??ng c?a ch? ngh?a ?n t??ng, không theo l?i t? th?c.Nh? v?y, ?iêu kh?c Ch?m Pa c? v?a ch?u ?nh h??ng sâu s?c c?a tôn giáo ?n ?? v?a in ??m d?u ?n v?n hoá Ch?m b?n ??a, ??ng th?i có s? sáng t?o, phát tri?n, hình thành nên phong cách riêng c?a mình. Vì v?y c?ng không nên k?t lu?n v?n hoá Ch?m là cái bóng c?a v?n hoá ?n ??.3.3. Nh? có ch? vi?t s?m nên v?n h?c ngh? thu?t Ch?m s?m phát tri?n. V?n h?c dân gian phát tri?n nhi?u th? lo?i và ph?n ánh nhi?u n?i dung v? tri?t lý, tâm lý dân t?c và các khía c?nh v?n hoá. V?n h?c dân gian, truy?n th?n tho?i, truy?n thuy?t ??u có s? ?nh h??ng c?a tôn giáo. ?áng l?u ý là nh?ng truy?n th?n tho?i nói v? các v? th?n sáng t?o ra v? tr?, nh?ng truy?n thuy?t v? Pôn?gar (m? x? s?) và các t??ng m? x? s? ???c th? ? Tháp Bà (Nha Trang) và ??n th? Pôn?gar ? H?u ??c, Ninh Thu?n.Kho tàng c? tích c?a ng??i Ch?m t??ng ??i phong phú, ???c l?u truy?n t? lâu ??i và r?ng rãi trong t?ng l?p nhân dân, có nhi?u truy?n c? tích ???c xây d?ng trên các mô típ  truy?n c? dân gian c?a các vùng ?ông Nam Á, ??ng th?i ph?n ánh ???c nhi?u m?t xã h?i nh? s? xung ??t tôn giáo, xung ??t xã h?i, gia ?ình, ch? ?? m?u h?… Ng??i Ch?m có kho tàng t?c ng?, thành ng?, ca dao, câu ??, s? thi phong phú, có nhi?u tr??ng ca có giá tr? ngh? thu?t cao nh? Sakukay, Ramayana, Um?rup…??u ?nh h??ng t? Bà la môn và ?n ?? giáo.Nhìn chung, v?n h?c ngh? thu?t Ch?m tuy b? ?nh h??ng c?a các tôn giáo nh?ng v?i ngu?n m?ch v?n hoá dân gian b?n ??a phong phú, ng??i Ch?m ?ã sáng t?o nên m?t n?n ngh? thu?t ??c s?c v?a mang tính tôn giáo v?a mang tính b?n ??a3.4. Âm nh?c và múa c?a ng??i Ch?m v?a mang tính tôn giáo v?a mang ch?t dân gian b?n ??a, t?o nên m?t n?n ngh? thu?t dân gian ??c s?c. ??i v?i ng??i Ch?m, âm nh?c có vai trò r?t quan tr?ng, nh?t là ??i v?i nghi l? tôn giáo, tín ng??ng nh?: L? h?i Katê, l? Rijan?gar, l?  Yôn Yang, Chàvà l?n và Chàvà nh? v.v… Tr??c ?ây, âm nh?c và múa ch? ??n thu?n ph?c v? nghi l?, không ???c phép s? d?ng làm ch?c n?ng vui ch?i nh?y múa có tinh ch?t tr?n t?c nh? ngày nay. Nh?c c? Ch?m có ?? các b? gõ, b? h?i và b? dây. B? gõ có tr?ng Paran?ng, tr?ng Ghi n?ng, chiêng, mõ; b? dây có ?àn Ka nhi (nh? mu rùa),  b? h?i có kèn Saranai, tù và v.v… Ngoài ra, ng??i Ch?m còn l?u gi? ???c kho tàng dân ca v?i nh?ng làn ?i?u, cung b?c, thang âm có quan h? m?t thi?t v?i dân ca quan h? B?c Ninh và dân ca mi?n Trung. Các bài hát l?, s? thi ???c các tu s?, th?y Kam?ne, M?tu?n l?u truy?n và hát ? các l? h?i, các l? cúng, n?i dung  ca ng?i công ??c, s? oai linh c?a các v? anh hùng. H?u nh? trong l? h?i nào c?a ng??i Ch?m c?ng có múa và hát l?, ?ây ch?c ch?n là ?nh h??ng r?t l?n t? ??o Bà La môn xa x?a. “…Trong kinh Vê?a t? th? k? XX tr??c công nguyên có “Sama Vêda” là t?p ca khúc dùng ?? hát x??ng khi cúng bái, t?ng c?ng 1549 bài. N?i dung ch? y?u c?a Phu?c Vêda là nói rõ trong khi cúng t? nên dùng các thi ca này và ti?n hành cúng t? nh? th? nào”1. Nh?ng bài t? l? c?a các v? c? s? Ch?m hi?n nay v?n là nh?ng l?i ca ???c truy?n bá t? ?n ?? x?a kia. Ví d? trong l? t?m t??ng ?  l? h?i Katê trên tháp Pôklongrai, th?y l? hát:” Chúng con l?y n??c t? con sông H?ng ??i v? ?? t?m th?n, th?n là th?n c?a c? tr?i ??t…”2.Ng??i Ch?m có m?t n?n ngh? thu?t múa r?t ??c s?c. Múa qu?t là ?i?u múa ph? thông mà b?t c? thi?u n? hay ph? n? Ch?m nào c?ng bi?t múa (tuy nhiên không ph?i là d? múa). Khi múa, các v? n? dùng qu?t và kh?n dài ?? múa, t??ng tr?ng cho nh?ng cánh chim. Các ?i?u múa nh?: Pi ?i?n: múa công; Kamang: múa gàlôi; marai: múa chim tr? v.v…M?t th? lo?i múa khác liên quan ??n nghi l? tôn giáo Ch?m là múa Bóng, ?ây là m?t th? lo?i múa r?t phong phú c?a ng??i Ch?m, ng??i múa có th? nam ho?c n? và  múa theo nh?c l?, có nhi?u lúc ??y lên cao trào ki?u nh?p h?n nh? múa ??p l?a, múa roi, múa chèo thuy?n. Múa bóng c?a ng??i Ch?m ít nhi?u có ?nh h??ng c?a v?n hoá Hán, nh?t là ph?n âm nh?c. V? n? ???c ch?n là  nh?ng thi?u n? xinh ??p, ng??i cân ??i và có n?ng khi?u múa. Tu? theo tài n?ng c?a t?ng ng??i mà hàng n?m các v? n? ???c phong c?p t? t?p s?, v? n? ??n v? s?. N?n ngh? thu?t múa mang tính tôn giáo Ch?m th? hi?n r?t rõ ? ngh? thu?t ?iêu kh?c nh? các m?ng ?iêu kh?c v? n? Trà ki?u, t??ng Apsara. Các ??ng tác múa ch?c ch?n ??u có ?nh h??ng t? các múa nghi l?, múa cung ?ình ?n ??.3.5. Tôn giáo ?n ?? có ?nh h??ng r?t l?n ??n ??i s?ng xã h?i c?a ng??i Ch?m. Tôn giáo ng??i Ch?m c?ng b? ?nh h??ng b?i t? t??ng ch?ng h? (Caslus) c?a ?n ?? trong “ Nguyên nhân ca” c?a kinh Vêda1, xã h?i ng??i Ch?m x?a c?ng chia làm b?n ??ng c?p chính:1.Brahman: (Bà la môn), ?ây là t?ng l?p tu s? (t? t?) ?ây là ??ng c?p ???c sinh ra t? cái mi?ng c?a “Nguyên nhân “.2.Ksttriya: (Sát ?? l?i): t?ng l?p quí t?c, v??ng phái, võ s?, t? trong cánh tay “Nguyên nhân” sinh ra.3.Vaisia : Bình dân, nông dân, th? th? công và th??ng nhân, t? trong ?ùi “nguyên nhân” sinh ra.4.Cudra (Th? ?à la): là t?ng l?p nô l?, là tù binh c?a nh?ng k? b?i tr?n, ??oc sinh ra t?  d??i chân “ Nguyên nhân”.??ng ??u các ??ng c?p trên là ??ng c?p tu s?. Trong dân gian ng??i Ch?m hi?n nay còn phân bi?t các t?ng l?p nh? sau:-Halâu chà n?ng: t?ng l?p tu s?.-Urang ginúp: giai c?p quí t?c.-Palwa: giai c?p tôi t?, cùng ?inh. Ngoài ra ng??i Ch?m còn có t? Pa tâu ?? ch? các vua chúa.Tiêu bi?u cho ??o Bà la môn c?a ng??i Ch?m là t?ng l?p t?ng l? g?i là Pas?h. ??i v?i tín ??, ?ó là m?t lo?i trí th?c trong xã h?i. H? bi?t ch? Ch?m, hi?u bi?t t?p t?c, truy?n bá và th?c hi?n các nghi th?c tôn giáo. V? m?t xã h?i, h? thu?c t?ng l?p quí t?c c? và tr??c n?m 1975 là t?ng l?p trung nông. Các th?y Pas?h có trang ph?c riêng, qu?n áo màu tr?ng, tóc búi gi?a ??nh ??u, b?t kh?n tr?ng có tua ??. Pas?h th??ng là ng??i thu?c dòng dõi quí t?c, cha truy?n con n?i t? lâu ??i, không b? t?t nguy?n. H? ph?i gi? các giáo lu?t ???c ghi trong kinh l?n (G?r bachprong). T?ng l? Bàlamôn hi?n nay ? ng??i Ch?m có n?m c?p t? th?p ??n cao nh? sau:-Pas?h dung akók: Ng??i m?i vào hàng giáo ph?m.-Pas?h liakv.-Pas?h puah.-Tapan Pô adhia: còn g?i là th?y c? (on gru).Trong h? th?ng Pas?h, hai c?p Tapan và Pô adhia là nh?ng c?p th?c s? lãnh ??o tinh th?n các tu s? và dân thôn. Riêng th?y C? Pô dhia là ng??i duy nh?t có quy?n cho t? ch?c các ngày t? l?. Ông ph?i n?m v?ng l?ch các ngày tr?ng l? c?a ??o ?? kh?i có s? trùng l?p và ph?i thu?c nh?ng th? t?c r?t ph?c t?p khi hành l?, ??c bi?t là các l?i cúng và hàng lo?t r?t nhi?u các phép bùa chú. Vi?c lên c?p Tapah và Pô dhia ?òi h?i nhi?u ?i?u ki?n: ??o ??c tông giáo, gia ?ình và kinh t?. Ch? có nh?ng ng??i khá gi?, giàu có và có dòng dõi m?i có th? b??c lên hàng giáo ph?m t?i ?u này4.  Rõ ràng là su?t chi?u dài l?ch s?, ng??i Ch?m t? nguy?n ti?p nh?n các tôn giáo l?n c?a ?n ??. Nh?ng tôn giáo này làm ?nh h??ng sâu s?c ??n ??i s?ng chính tr?, v?n hoá, xã h?i c?a Ch?m Pa c?, cho ??n ngày nay nó v?n gi? ???c d?u ?n ??m nét c?a v?n hoá các tôn giáo ?n ??.Th? nh?ng, l?ch s? ?ã ch?ng minh r?ng, ngay t? nh?ng ngày ??u hình thành nhà n??c và ti?p nh?n các tôn giáo l?n t? ?n ??, v?n hoá các tôn giáo du nh?p , t?o cho mình m?t tôn giáo khá riêng mang màu s?c c?a v?n hoá Ch?m b?n ??a. Nh?ng bi?u hi?n rõ nét nh?t là vi?c th? ph?ng các v? th?n trong tôn giáo. Các v? th?n c?a ?n ?? giáo nh?  Siva, Visnu, Brahma và k? c? các v? th?n th? y?u c?ng ???c th? ph?ng ? Ch?m Pa. Ph?t giáo c?ng có vai trò nh?t ??nh ? ng??i Ch?m, nh?ng Siva giáo luôn ???c tôn là qu?c giáo. Theo th?ng kê c?a Paulmus, trong t?ng s? 128 bia ký tìm ???c ? Ch?m Pa thì có t?i 92 bia nói v? Siva và các th?n thu?c Siva giáo; 3 bia nói v? Visnu, 5 bia nói v? Brahma và 7 bia nói v? ph?t giáoSau nhi?u n?m nghiên c?u trên th?c ??a t?i vùng ng??i Ch?m Bàlamôn giáo ? Ninh Thu?n và Bình Thu?n, TS Ngô V?n Doanh ?ã có nh?n xét r?ng “nh?ng y?u t? ?n ??, dù r?t ??m và quan tr?ng, c?ng ch? là cái v?, cái hình th?c bên ngoài b?c lên nh?ng y?u t? tín ng??ng bàn ??a mà ch? y?u là th? cúng t? tiên…” 1.  Nh?ng y?u t? bàn ??a còn th?y r?t rõ và r?t nhi?u ? trong các l? h?i nh? Rijan?gar, l? Y?n Yang, l? h?i Kate… và c? nh?ng nghi l? vòng ??i ng??i c?a ng??i Ch?m theo Bàlamôn giáo và Bà ni giáo hôm nay ? c?ng ??ng ng??i Ch?m Vi?t Nam.Ng??i Ch?m hôm nay v?n t?n t?i tín ng??ng ?a th?n, các kiêng k?, t?p t?c. Ng??i Ch?m cho r?ng n?u không kiêng k? s? làm ??o l?n m?i quan h? gi?a th? gi?i d??ng và th? gi?i âm và ph?i ch?u các tai ho?. Ph? n? mang thai ph?i gi? m?t s? kiêng k? khi nói n?ng, ?n u?ng, ?i l?i. S?n ph? và hài nhi ph?i ? phòng kín, tránh m?i s? ti?p xúc. T?i B?c Bình, Bình Thu?n, ? tr??c nhà s?n ph? ng??i ta c?m m?t  c?c nh? trên sân có gài m?t cây c?i cháy, ??  ??u c?i cháy quay vào nhà là gia ?ình ?ã sinh con gái. G?p các tr??ng h?p trên là d?u hi?u c?m k?, ph?i tuy?t ??i tôn tr?ng, ng??i l? không ?i vào nhà. (Sinh ???c con gái, ng??i Ch?m r?t m?ng vì h? theo ch? ?? m?u h?)T? h?n n?a thiên niên k? nay, ??ng bào Ch?m ?ã là m?t thành ph?n dân t?c trong c?ng ??ng 54 dân t?c Vi?t Nam. ??c bi?t t? sau n?m 1975, v?i chính sách ?úng ??n c?a ??ng và Nhà n??c v? v?n ?? dân t?c và tôn giáo, ??ng bào Ch?m ???c duy trì t? do tín ng??ng, các l? h?i dân gian, l? h?i tôn giáo ???c khôi ph?c. ?ó là nh?ng ho?t ??ng thi?t th?c góp ph?n vào vi?c b?o l?u, gìn gi? các giá tr? v?n hoá dân t?c Ch?m – m?t n?n v?n hoá ??c thù còn mang trên mình nh?ng màu s?c v?n hoá ?nh h??ng t? nh?ng tôn giáo ?n ?? – c?ng là góp ph?n xây d?ng m?t n?n v?n hóa Vi?t nam tiên ti?n, ??m ?à b?n s?c dân t?c, m?t n?n v?n hóa th?ng nh?t trong ?a d?ng.    TÀI LI?U THAM KH?O:1- Ph?m ??c D??ng, V?n hoá Vi?t Nam trong b?i c?nh ?ông Nam Á, Nxb KHXH, Hà N?i 2000.2- Ngô V?n Doanh, V?n hoá Ch?m Pa, Nxb V?n hoá Thông tin, Hà N?i 1994.3- Nhi?u tác gi?, V?n hoá h?c ??i c??ng và c? s? V?n hoá Vi?t Nam, Nxb KHXH, Hà N?i 1996.4- Tr?n Ng?c Thêm, C? s? V?n hoá Vi?t Nam, Nxb Giáo d?c 19985- Ngô ??c Th?nh, Nguy?n Xuân Kính ( ch? biên), V?n hoá dân gian, nh?ng ph??ng pháp nghiên c?u, Nxb KHXH, Hà N?i 19906- Xem: Phan Qu?c Anh, L? h?i Ka tê c?a ng??i Ch?m Ninh Thu?n, t?p chí VHNT s? 5, 1999.7- Ngô V?n Doanh, L? h?i Rija n?gar c?a ng??i Ch?m, Nxb VHDT, Hà N?i, 1998.8-  Vi?n nghiên c?u Tôn giáo. Nh?ng v?n ?? tôn giáo hi?n nay. Nxb Giáo d?c. Hà N?i 1997.9- Xem: Ngô V?n Doanh, V? ?i?u ??p l?a trong l? h?i Rijan?gar c?a ng??i Ch?m, t?p chí Nghiên c?u ?ông Nam Á, s? 5,1999.10- Xem: Phan Xuân Biên. V?n hoá Ch?m, nh?ng y?u t? b?n ??a hoá. T?p chí dân t?c h?c s? 1.1993.11-  Hoàng Tâm Xuyên.  M??i tôn giáo l?n trên th? gi?i, Nxb CTQG. Hà N?i 1999. theo Nguyenkhanhpro.wordpress.com 
0 Rating 1.1k+ views 1 like 0 Comments
Read more
By: On March 23, 2017
  1. Trung tuần tháng 2 hoặc tháng 3 âm lịch, người Việt có tục cúng đất, từ Đèo Ngang đổ ra gọi là cúng Thổ công và từ Đèo Ngang vô trong gọi là cúng Tá thổ. Cũng là cúng đất, nhưng người xứ Bắc Đèo Ngang cúng Thần Đất của chính họ, nên gọi là cúng Thổ công. Ngược lại, người miền Nam Đèo Ngang cúng Thần Đất của người Chăm nên gọi là cúng Tá thổ (借 土, mượn đất), ai cúng thì được "kỳ yên" (an lành), ai quên cúng thì chịu quả báo. Nói thêm, cúng Tá thổ tức là nghi lễ của những lưu dân người Việt xin mượn đất người Chăm, dẫu rằng mượn hơn 700 năm mà vẫn chưa trả! Vì mượn nhưng chẳng bao giờ trả nên Tổ tiên của những lưu dân người Việt đến từ miền Thanh Nghệ Tĩnh đã có một thái độ hết sức khiêm nhường, bởi họ luôn tâm niệm rằng những linh hồn Chăm mới là chủ nhân của miền đất mà họ đang "tá túc". Vị Thần Đất của người Chăm, thường được hóa thân thành Bà Ngũ Hành, Bà Chúa Ngọc, Bà Hời, Bà Vú ... được những lưu dân người Việt mời về "đồng lai cộng hưởng" bằng những lễ vật rất Chăm như củ khoai lang, chén mắm cái, đĩa đậu phộng, bát cơm nấu từ gạo Chiêm ... và đặc biệt phải có tam sinh, tức là một con cua cái sống, một tợ thịt heo sống và một hột vịt sống. Bái tất, lễ vật được đem treo ở những cây đa hay giữa ngã ba làng cho các linh hồn Chăm thụ hưởng. Tính độc đáo của lễ cúng "Tá thổ", cúng cho chủ đất cũ, chính là lối ứng xử hết sức nhân văn của người chiến thắng (Việt) đối với người chiến bại (Chăm). 2. Gần đây, đọc bài "Khóc ở Mỹ Sơn" trên tường của chị Kiều Kiều Maily, rồi đọc thêm bài "Không khóc ở Mỹ Sơn" của anh Inra Sara mà mình khóc òa. Lẽ nào con cháu của những người "mượn đất" lại đối xử với con cháu của "chủ đất" tệ đến thế sao? Người Việt đã "mượn" hết tất cả đất của người Chăm rồi, bây giờ con cháu người Chăm về hành hương đất tổ Mỹ Sơn thì bị người Việt bắt trả tiền mua vé! Cái cảm giác "uất nghẹn" này thì tôi đã nếm. Bà cố nội của tôi là người tộc Trần ở Hội An. Cách đây 5 năm, tôi về nhà thờ tộc Trần (21 Lê Lợi, Hội An) để thắp ba cây nhang thì bị chặn ở ngoài cổng. Người ta bắt tôi phải mua vé mới được vào. Ô hô, con cháu đi cúng bái ông bà tổ tiên mà còn phải mua vé hay sao? 3. Ngày Cồn Dầu bị san ủi cũng là ngày núi Phước Tường bị sạt lở. Có tâm linh gì không, hay là người ta phá núi quá nhiều nên chỉ sau mấy trận mưa mà Phước Tường sạt lở? Cách đây hơn ngàn năm, thời Champa (vương triều Đồng Dương), trên mảnh đất Đà Nẵng ngày nay, đã có một tòa thành gọi là Rudrapura उत्तरकाण्ड, thành phố Thần Bão tố (*). Núi thiêng của thành là ngọn Phước Tường, sông Thiêng của thành là dòng Cẩm Lệ, đất Thiêng của thành là Cồn Dầu. Thành Rudrapura có nội cảng Nại Hiên Tây và có tiền cảng Nại Hiên Đông, ngay bãi Tiên Sa, dưới chân núi Sơn Trà. Đất Quảng Đà vốn là đất Chăm, thiêng lắm. Cách đây vài năm, có ông lãnh đạo thành Đà ăn đất vô hậu, phá núi tàn canh nên bị quả báo, ung thư tủy sống. Ổng tốn hơn 3 triệu USD sang Mỹ chữa bệnh mà có mua được mạng sống đâu? Cái đó gọi là quả báo nhãn tiền. Nay, có bọn lãnh đạo khốn nạn nào đó đan tâm phá nát bãi Tiên Sa, băm sạch núi Sơn Trà cho thỏa lòng tham. Coi chừng có ngày bị ung thư ... Houston, 22/3/17ĐBT theo facebook.com
0 Rating 1.1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On August 2, 2012
Dn tộc giu mạnh khi mỗi người d⠢n giu mạnh Nhẫn học l quốc t࠺y của dn tộc ta. Cổ nhn n⢳i: “Người giu nếu nhẫn nhịn được giữ được nhࠠ, người ngho nhẫn nhịn được th tr謡nh được sự sỉ nhục, cha con nhẫn nhịn được th sẽ c sự y쳪u thương, hiếu thảo, vợ chồng nhẫn nhịn được th sẽ m ấm h쪲a thuận”. Nhẫn khng thể tch rời trong cuộc sống con người, để th䡠nh cng phải nhẫn, mưu sinh tồn tại phải nhẫn, giải quyết kh khăn phải nhẫn, “nhẫn một l䳺c trời yn biển lặng, li một bước biển rộng trời cao”. Nhẫn kh깴ng c l㽠 hn nht, cũng kh衴ng phải l bất ti. N࠳ khng thể thiếu trong tr tuệ lo䭠i người, n3 l tấm lng, một sự biết điều, một đức tಭnh tốt. C thể ni nhẫn nhịn l㳠 loại nghệ thuật bắt buộc để chng ta đi đến thnh c꠴ng. Con người sống trong một mi trường đầy sự cạnh tranh, đa số đều c cảm gi䳡c v cng gấp r乺t, tm tư thay đổi, chuyển động v phong ph⠺. Mọi người đều muốn nhn cơ hội tốt đẹp ny l⠠m việc kiếm nhiều tiền, lm nn nghiệp lớn, lઠm rạng rỡ gi trị nhn sinh của bản thᢢn, tm được vị tr ổn định cho m쭬nh. Nhưng thời thế chỉ cung cấp cơ hội, chứ khng đảm bảo cho mỗi người đều c thể đạt được th䳠nh cng. Nhẫn l h䠠nh vi của người mạnh, l phương thức của người thnh c࠴ng v l sࠡch lược của người chiến thắng. Trong cuộc sống v cng việc “nhẫn” sẽ tạo cho chഺng ta cơ hội, lm cho chng ta cຳ được tiền ti của cải. Cuốn sch nࡠy cho chng ta một sự l giải t꽲an diện về chữ nhẫn. kỹ xảo v tr tuệ trong sୡch l những trải nghiệm từ cuộc sống, l tࠠi liệu tham khảo trn con đường thnh c꠴ng của bạn. Tm đọc sch "Học Chữ Nh졢̃n Trong Cục Śng"T䴡c giả: Hoa - Thủy - Phụng. Nh xuất bản: Nxb Thanh Nin Cળ bao giờ bạn thiếu kin nhẫn trong cuộc sống dẫn đến những sai lầm khng thể cứu v괣n được? Nhiều người trong chng ta thiếu mất chữ NHẪN n꠪n thường hnh đng hấp tấp, vội vഠng! Nhiều người lại qu cẩn trọng, khng dᴡm ph cch hay thᡡch thức mnh với mi trường mới n촪n để mất những cơ hội vươn tới đỉnh cao! C bao giờ bạn nhầm lẫn hai chữ Nhẫn ny kh㠴ng? Nhẫn nại hay Nhẫn nhục? Bạn sẽ hnh động ra sao nếu một người cng kഭch bạn hay vu khống bạn? Thng thường chng ta sẽ h亠nh xử theo cảm xc của mnh! Nỗi giận ư? Liệu giận dữ cꬳ giải quyết được những mu thuẫn đ hay khiến nⳳ cng trở nn nghiપm trọng hơn! Nhận nại với những ai cng kch m䭬nh bạn nh, d họ c鹳 ni g đi chăng nữa bạn cũng cần giữ b㬬nh tĩnh v kiềm chế cảm xc của mຬnh! Đừng để những kẻ đ đạt được mục đch của m㭬nh bằng cch lm cho bạn mất kiểm soᠡt hnh vi cũng như ngn ngữ! Đừng bao giờ nhẫn nhục với những ai vu khống bạn! Lഺc ny bạn cần chứng tỏ bản lĩnh của mnh! Hଣy chứng minh cho những người xung quanh thấy được bản chất của những kẻ đ! Để lm được việc n㠠y bạn khng được nng vội m䳠 cần c những bước đi đầy vững chắc, vậy nn h㪣y nhẫn nại trong từng hnh động của mnh! Đừng bao giờ nhẫn nhục trước cଡi xấu, ci c vᡠ cm dỗ m cuộc sống bᠠy ra trước mắt! Chữ Nhẫn cho những thnh cng Nhẫn nại hay kiപn nhẫn sẽ đem lại cho chng ta nhiều lợi thế trong cuộc chiến ginh lấy thꠠnh cng cho mnh! Những ai n䬳ng vội thường c những bước đi sai lầm kh m㳠 sữa chữa được! Đừng bao giờ để thất bại trong cuộc sống chỉ v những tnh to쭡n sai lầm trong chốc lt bạn nh! Hᩣy để những người xung quanh thấy được sự bnh tĩnh của mnh v쬠 chnh bạn phải rn dũa cho m�nh đức tnh nhẫn nại ấy! Dường như những người thnh c�ng đều tự rn dũa cho mnh đức t謭nh nhẫn nại ny! Nếu khng cള n chng ta rất dễ mắc phải những sai lầm kh㺴ng đng c! Nhiều người vᳬ nng vội, v hiếu thắng m㬠 đnh mất cơ hội thnh cᠴng cho ring mnh! Nhiều lꬺc chỉ v sự nng vội nhất thời m쳠 chng ta đưa ra những quyết định thiếu sng suốt! Nếu thiếu đi đức tĩnh nhẫn nại nꡠy, liệu bạn c thể gặt hi được những th㡠nh cng như muốn! Đừng đ佡nh mất chữ Nhẫn của ring mnh Đừng bao giờ chỉ vꬬ những cảm xc tiu cực mꪠ lm cho bạn mất đi sự bĩnh tĩnh cần c! Nếu kh೴ng biết cch giữ cho mnh sự kiᬪn nhẫn cần c liệu chng ta c㺳 thể vượt qua được những thử thch trong cuộc sống! Chỉ với một cht mẢu thuẫn, một cht hiểu lầm m gꠢy ra những việc khng cần thiết như vậy c đ䳡ng khng? Đừng bao giờ đnh mất chữ Nhẫn trong cuộc sống v䡠 trong cng việc! D bạn c乳 vội vng đến đu cũng đừng lࢠm qua loa để rồi hối tiếc bạn nh! Hy l飠m việc thật cẩn thận, tỉ mỉ v kin nhẫn trong mọi việc lઠm của mnh cũng như ứng xử trong cuộc sống!
0 Rating 1k+ views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
VĂN HOÁ DÂN GIAN NGƯỜI CHĂM VỚI VẤN ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LICH NINH THUẬN NC News - Đứng trước vận hội mới và thách thức mới của  làn sóng du lịch, để hòa mình cùng cả nước đẩy mạnh, nhanh ngành công nghiệp không khói, phát triển kinh tế , văn hóa xã hội, Ninh Thuận làm gì để phát triển tiềm năng du lịch ở địa phương. Tiềm năng du lịch Ninh Thuận không dừng lại ở lễ hội Katê, mà hơn thế, còn ở du lịch văn hóa bởi vẽ đẹp thiên nhiên kỳ thú, có biển, núi đầy ắp ánh nắng; các di tích đền tháp và kho tàng văn hóa dân gian (VHDG) Chăm đặc sắc ở Ninh Thuận thực sự là nguồn lực để phát triển du lịch.            1. Ngày nay du lịch quốc tế có nhiều loại hình:Du lịch:”4S” (Sun, Sea, Sand, Sight),du lịch sinh thái (Ecological tourist) du lịch văn hóa (Cultural tourist) … Loại hình du lịch văn hóa đang được du khách ưa chuộng. Theo ước tính trong những năm gần đây lượng khách du lịch quốc tế đang chuyển dần từ thị trường du lịch Châu Âu đến khu vực Châu Á –Thái Bình Dương ngày một nhiều. Khách du lịch chủ yếu là cư dân của các nước Công nghiệp cư dân đô thị sống trong môi trường văn hóa công nghiệp. Khi du lịch tiếp xúc với nền văn hóa “ Khác lạ” , đặc biệt là VHDG của làng (Paley) , cộng đồng của các cư dân “nông nghiệp” , du khách luôn cảm thấy mới lạ, bất ngờ. Vì vậy VHDG tạo ra tính hấp dẫn, tạo lực thu hút với khách du lịch.           VHDG của người Chăm Ninh Thuận phong phú, đa dạng. Nơi đây người Chăm vẫn còn bảo lưu truyền thống và tập tục của mình. Ngoài di tích đền tháp, người Chăm còn có gần 80 lễ hội khác nhau.Sinh hoạt văn hoá cộng đồng thường diễn ra trong năm. Nhiều lễ hội dân gian còn gắn với đền tháp, thánh đường Hồi giáo; và các lễ cưới, mừng , nhà mới… , trong đó nổi bật là lễ hội Katê. Đến dự lễ hội trên, du khách sẽ được tắm mình trong ngọn núi truyền thống. Cùng chiêm ngưỡng những lời ca, điệu múa của những chàng trai,cô gái Chăm. Du khách còn có thể nghe và thấy những lời ca, tục cúng tế, thức ăn truyền thống, sản vật trăm hoa, trăm quả, trăm nghề và áo quần ngũ sắc thái, tinh hoa văn hóa trong ngày hội. Qua lễ hội du khách sẽ bất ngờ, sẽ phát hiện ra nhiều điều lạ có sức quyến rũ về những nét độc đáo, những giá trị nhân văn trong VHDG người Chăm.           Mặt khác Ninh Thuận không chỉ lễ hội Katê, mà nơi đây người Chăm còn bảo tồn nhiều đền tháp Chăm như tháp Hoà Lai (Thế kỷ IX) Tháp Pô Klonh Girai (Thế kỷ XIII) ,tháp Pô Rôme (Thế kỷ  XII) … Mỗi đền tháp Chăm là một tác phẩm tuyệt vời vô giá. Đó  chính là nơi ngưng đọng giá trị kỷ thuật, mỹ thuật-đỉnh cao của nền văn hóa vật chất người Chăm một thời phát triển rực rỡ mà đến nay vẫn còn chứa đựng  những điều bí ẩn. Những đền tháp của người Chăm  ở Ninh Thuận có đặc điểm khác những đền tháp ở Mỹ Sơn, Bình Định, Nha Trang…Bởi đền tháp Chăm ở Ninh Thuận không đổ nát, hoang tàn , mà còn gắn với người Chăm , gắn với lễ hội, gắn với những sự tích huyền thoại.          Cùng với di tích đền tháp VHDG còn tạo ra sự hấp dẫn cho du khách bới các sự tích, địa danh, sự vật di tích gắn với điểm, với tuyến du lịch gần nhau rất thuận lợi cho các tour du lịch. Đền tháp Hoà Lai (Ba tháp-Ninh Hải) du khách có thể nghe truyền thuyết Vua Chăm và vua Khơme (CamPuchia) từ xa xưa thi tài và xây tháp như thế nào ? lên tháp Pô Klong Garai có thể nghe kể về truyền thuyết Pô Klonh Garai lên làm vua ,xây tháp, đắp đập, ngăn sông. Trên đường đi tháp Pô Rôme có thể ghé đến một di tích bai đá” Pataw  tablah“ (Chung Mỹ)-nơi con rồng hiện hình hóa phép cho Pô Klonh Garai lên làm vua như thế nào? Đến tháp Pô Rôme( Hậu sanh) du khách có thể chiêm ngưỡng ngôi tháp cuối cùng trong nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc ChămPa . Ở đây du khách còn có thể nghe về một thiên tình lịch sử đầy cảm động giữa vua Chăm PôRôme và côn chúa Eđê –Bia thu can… Đó là chưa kể đến khu di tích thờ cúng ” Bia cúng thần chuột” (Yang tikuk) nơi mà vào thế kỷ thứ VIII –IX đội quân Java đã đốt phá đền tháp người Chăm.Kế đó còn có núi Đá Trắng với biết bao huyền thoại :Huyền thoại Chằng Tinh đòi cưới Công chúa vua Chăm xứ Phan Rang để rồi dũng sĩ Chăm ra tay cứu công chúa. Tất cả sự tích đó đã phủ bề dày của nhiều lớp văn hóa, tô đậm thêm các di tích ,địa danh hoà quyện với nhiều yếu tố VHDG khác tạo nên sự hấp dẫn cho du khách.          Người Chăm ở Ninh Thuận còn bảo lưu nhiều nghề thủ công truyền thống nổi bật là nghề dệt và gốm. Nghề thủ công này không chỉ biểu diễn cho du khách xem kỹ mà quan trọng là sản xuất ra sản phẩm thủ công làm đồ lưu niệm mang sắc thái riêng từng vùng . Điều hấp dẫn ở mặt hàng thủ công Chăm không phải là đồ lưu niệm trưng bày trong tủ kính như các thành phố lớn (thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội) mà mặt hàng được sản xuất ngay tại làng (Paley) Chăm. Du khách được xem trực tiếp thợ dệt vải, nhuộm chàm quay xa, làm gốm… những  thao tác lao động cách đây  gần 2-3 thế kỷ nhưng vẫn đạt đến độ điêu luyện, tinh xảo làm cho du khách thán phục. Du khách có thể mua ngay sản phẩm thủ công để làm quà lưu niệm về tặng bạn bè,người thân.          Văn hóa ẩm thực, một thành tố của VHDG , là đối tượng được du lịch chú ý khai thác. Người Chăm thường tổ chức nhiều lễ hội và đây là dịp để họ dâng cúng những món ăn vật lạ cho thần thánh. Mỗi loại lễ, mỗi vị thần người Chăm đa dạng, đặc biệt là món bánh(Sakaya) rượu chung cất từ gạo nếp (Tape thanh) .Các món bánh gói ,lót bằng lá chuối và các đặc sản trái cây của vùng nhiệt đới …Các món ăn trên thường chế biến theo cách riêng phù hợp với đặc điểm từng dân tộc Chăm nên sẽ lạ miệng và hấp dẫn du khách .Những món ăn của người Chăm còn được trưng bày trên mâm cao, cỗ đầy ;mỗi loại bánh đều mang một biểu tượng một triết lý riêng. Các món ăn này sẽ có ý nghĩa nếu được tổ chức cho du khách thưởng thức trong không gian kiến trúc nhà cửa Chăm, ngồi ăn theo kiểu Chăm. Và càng có ý nghĩa hơn khi món ăn được thưởng thức trong ngày hội với những ngày nghi lẽ mời chào theo phong cách tiếp khách riêng của dân tộc Chăm.          Bên cạnh văn hóa ẩm thực ,người Chăm còn có một nền nghệ thuật ca múa nhạc dân gian giàu bản sắc dân tộc. Những điệu dân ca, dân vũ sẽ hoà vào với 72 điệu trống gi năng Paranưng, kèn Xaranai …Chắc chắn sẽ làm hấp dẫn và say mê lòng người.          Nói chung người Chăm ở Ninh Thuận  hiện nay vẫn còn bảo lưu một kho tàng VHDG đặc sắc .Kho tàng văn hóa ấy vừa phong phú, đa dạng vừa sống động và có bản sắc riêng độc đáo, thực sự là nguồn lực dồi dào để phát triển du lịch.          2. Văn hóa dân gian Chăm Ninh Thuận tiềm năng du lịch to lớn chưa được đánh thức. Mặc dù vậy ở bên ngoài những danh lam thắng cảnh,những địa danh văn hóa Chăm ở Ninh Thuận như : Tháp Chàm Phan Rang ”(Tower Phan Rang)”, Làng Chăm Tuấn Tú ”(Tuân Tu Village)", Bảo tàng trung tâm văn hóa Chăm Ninh Thuận "( Cham Cultural Museum Of Ninh Thuận )" … đã được các Công ty du lịch quốc tế giới thiệu ,in trong sách hướng dẫn du lịch. Đặc biệt các tháp Chăm ở Miền Trung đã trở thành địa chỉ đỏ của các công ty du lịch lữ hành uy tín như Việt Nam Tourist, Sài Gòn tourist, Peace tourist … Đó là những điều kiện thuận lợi cho du lịch Ninh Thuận .         Tuy vậy, hiện nay du lịch Ninh Thuận vẫn vắng khách, chỉ có rải rác một vài khách nước ngoài đến tham quan, nghiên cứu văn hoá Chăm trong những dịp lễ hội Chăm tiếp cận thị trường thổ cẩm. Sản phẩm dệt thổ cẩm người Chăm mấy năm gần đây phục vụ du lịch tuy cũng nổi lên rầm rộ ở Hà Nội. Đà Nẳng, Sài Gòn …nhưng đó chỉ là hoạt động tự phát, chưa được tổ chức có qui mô để thu ngoai tệ. Nhiều điểm di tích và danh lam thắng cảnh văn hóa có giá trị chưa được tiếp cận khai thác đúng hướng.Thủ tục hành chính đối với khách nước ngoài còn rườm rà. Một khó khăn thực sự đối với Tỉnh Ninh Thuận chưa có kế hoạch phát triển du lịch văn hóa rõ nét ,do vậy môi trường văn hóa cho phát triển du lịch chưa được xác lập. Muốn du lịch Ninh Thuận phát triển cần thực hiện đồng bộ giữa các ngành ,các cấp,địa phương,Trung ương và việc tham gia của cộng đồng vào các hoạt động du lịch tại các điểm du lịch.         3. Trước thực trạng như vậy, một vấn đề đặt ra là cần chủ động qui hoạch, khai thác tổ chức các hoạt động văn hóa dan gian Chăm phục vụ du lịch.         Đầu tư cho du lịch Ninh Thuận không phải một sớm, một chiều, cần phải xác định đầu tư, bền vững,đầu tư từng giai đoạn, đầu tư cả một khu vực và đầu tư đúng hướng. Đầu tiên là xây dựng cơ bản :Hệ thống giao thông điện nước, viễn thông … và từng giai đoạn tính tiếp từng hạng mục. Ngay bước đầu chúng ta có thể bắt đầu đón khách để tăng thêm nguồn thu và từng bước kêu gọi nhà đầu tư trong và ngoài nước .         Việc đầu tư, qui hoạch cụ thể trước tiên là cần phải gấp rút tôn tạo di tích văn hóa lịch sử như tháp Pô Klong Girai, Pô Rôme, Hoà Lai, di tích đá chẻ(Pataw tablah), núi Đá trắng … Bên cạnh đó tổ chức lại các lễ hội truyền thống đặc biệt là các công trình cụ thể kéo dài thêm lễ hội Katê ở tháp với nhiều loại hình VHDG đa dạng làm điểm chỉnh để thu hút khách.         Về làng văn hóa cổ truyền, trước hết cần qui hoạch 2 làng :Làng dệt (Mỹ Nghiệp) làng gốm (Bầu Trúc). Kết hợp các di tích văn hóa làng ven làng đề hình thành tour; mở rộng thêm tuyến du lịch. Làng Chăm phải được bảo tồn nguyên vẹn những giá trị văn hóa truyền thống như mỗi căn nhà, hàng rào, cách sinh họat …mang đặc trưng tộc người. Làng cũng được sữa sang đường ngõ sạch đẹp. Tiến tới xây dựng làng Chăm hoàn chỉnh làm điểm du lịch đìen dã, du lịch tìm hiểu văn hóa dân tộc. Ở làng sẽ tổ chức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, hướng tới việc thể hiện một số sinh hoạt VHDG theo nhu cầu của khách hàng.         Sở VHTT Ninh Thuận nên duy trì đoàn nghệ thuật bán chuyên Chăm nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa Chăm đồng thời sẽ là đội văn nghệ phuc vụ khách du lịch. Đoàn sẽ biểu diễn các điệu múa dân ca, nhạc cụ và có thể trích đoạn biểu diễn lễ hội Katê, lễ cưới, hát giao duyên…khi du khách có yêu cầu.         Ngoài ra,bên cạnh nền VHDG Chăm chúng ta còn phải triệt để khai thác tối đa nguồn lợi du lịch khác như biển - Núi ( Cà Ná), Biển Ninh Chữ-Núi Cà Đú (Di tích kháng chiến)… Nhằm để làm phong phú thêm loại hình du lịch Ninh Thuận.         Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp,đòi hỏi các ngành cấp địa phương phối hợp chặt chẽ ,tránh sự chồng chéo nhằm khai thác tất cả nguồn lợi để phát triển du lịch bền vững.mặt khác cần tạo ra mặt bằng  pháp lý (Pháp lệnh du lịch) cũng như huy động mọi nguồn lực của địa phương trong nước và ngoài nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện cho khách du lịch có thể tới các điểm du lịch văn hóa một cách thuận lợi và nhanh chóng.         Tóm lại, những tiềm năng thách thức, khó khăn của Ninh Thuận là có thực. Do vậy để phát triển du lịch Ninh Thuận. Cần quán triệt đường lối đã được chỉ ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng :” Phát triển du lịch tương xúng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước theo hướng du lịch văn hóa sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và các điểm du lịch hấp dẫn về văn hóa, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh”. Do vậy ngày nay để phát triển quốc sách du lịch, nhiều quốc gia, địa phương đã tính đến nhiều nguồn lực trọng yếu để có thể duy trì sự phát triển du lịch bền vững .Tuy nhiên vấn để phát triển du lịch cũng cần phải nhận thức rằng, đầu tư du lịch là đầu tư cho sự phát triển cần phải được ưu tiên nhưng cũng cần phải tránh thương mại hóa  du lịch, tác động của mặt trái cơ chế thị trường làm chui tột bản sắc văn hóa dân tộc,nâng cao truyền thống lịch sử, mức sống của nhân dân, đảm bảo được an ninh quốc phòng, để góp phần xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước. Phan rang, 02-2001 SAKAYA (Trích từ văn hoá nghệ thuật nghệ thuật Ninh Thuận số 9 /2001  quyển số ký hiệu ISSN 0866-8655) Nguồn: ninhthuanpt.com.vn
0 Rating 1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On September 21, 2014
TỪ PANDURANGA ĐẾN PHỦ BÌNH THUẬN (mối quan hệ Đàng Trong và Champa thế kỷ XVII) ĐỔNG THÀNH DANH (bài viết đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 450, tháng 8/ 2014, tr. 32 – 35) v     Đặt vấn đề             Lịch sử quá trình mở cõi về phương Nam của người Việt và mối quan hệ giao lưu giữa Đại Việt và Champa trên mọi bình diện ghi nhận những sự kiện quan trọng vào giai đoạn thế kỷ thứ XVII – XVIII. Nhưng cho đến nay, những sự kiện đó vẫn được ít ai biết đến hoặc chỉ được nhắc đến một cách rất sơ lược, đó là lý do tạo ra những nhận thức còn nhiều hạn chế và sai lầm về một giai đoạn đầy biến động trong tiến trình mở cõi của dân tộc Việt Nam, giai đoạn mạt kỳ của vương quốc Champa, cũng như mối bang giao hai nước trong giai đoạn ấy.             Những hạn chế trên có nguyên nhân của nó. Xuất phát từ những ghi nhận ít ỏi của các cổ sử Việt Nam viết về Champa sau năm 1471 (tức là năm Lê Thánh Tông chính phạt Champa, đánh đến tận kinh đô Vijaya) các nhà khoa học khi khai thác các nguồn tài liệu này thường đưa ra hai mốc niên đại đánh dấu cho sự suy vong của vương quốc Champa đó là 1471 (G. Coedes và G. Maspero)[1] và 1692 (Lê Thành Khôi)[2].             Nhưng trên thực tế, vương quốc Champa vẫn còn tồn tại sau năm 1471, vua Lê Thánh Tông chỉ sát nhập vùng đất phía Bắc đèo Cù Mông vào lãnh thổ Đại Việt (sau này vùng đất mới này được vua Thánh Tông đặt là thừa tuyên Quảng Nam hay là xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng), còn phần đất phía Nam đèo Cù Mông được chia ra làm ba nước Hoa Anh, Nam Bàn và Đại Chiêm. Vùng đất Đại Chiêm chính là vương quốc Champa bị thu hẹp lại ở hai xứ Kauthara (Khánh Hòa nay) và Panduranga (Ninh – Bình Thuận nay) do Bồ Trì Trì (một hàng tướng người Chăm) làm vua. Chính vì thế, Champa vẫn còn là một quốc gia độc lập, nhưng lệ thuộc vào Đại Việt dưới thân phận chư hầu[3].              Xa hơn thế nữa, dù năm 1692, biên niên sử triều Nguyễn là Đại Nam Thực Lục ghi nhận về việc Chúa Nguyễn sát nhập vùng lãnh thổ cuối cùng của Champa (Panduranga – Champa)[4]. Nhưng, trên thực tế nếu đối chiếu với văn bản hoàng gia Panduranga – Champa, vương quốc này vẫn còn tồn tại trong các vùng tự trị riêng biệt xen lẫn với phủ Bình Thuận của xứ Đàng Trong, được các văn bản của chúa Nguyễn ghi nhận dưới tên gọi trấn Thuận Thành.             Chính vì những lẽ ấy, trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một cách khái quát về vương quốc Champa sau năm 1471, đặc biệt là những diễn biến quan trọng trong mối bang giao Đại Việt và Champa thời kỳ chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ thứ XVII. Một giai đoạn lịch sử được ghi nhận với sự hoàn thành việc sát nhập lãnh thổ Champa (tiểu quốc Panduranga) vào xứ Đàng Trong và sự hình thành trấn Thuận Thành, phủ Bình Thuận. Hầu từ đó, minh định và làm sáng tỏ các vấn đề lịch sử vẫn còn ít được quan tâm và hiểu biết đầy đủ.   1.      Vương quốc Panduranga – Champa trước năm 1692 Sau cuộc chiến tranh Đại Việt – Champa năm 1471, vua Lê Thánh Tông lấy phần đất từ phía Nam sông Thu Bồn đến phía Bắc đèo Cù Mông (tức là vùng Thừa tuyên Quảng Nam thời Lê, xứ Quảng Nam thời Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận - Quảng). Phần đất còn lại của Champa ở phía Nam được chia làm ba vùng : Đại Chiêm, Nam Bàn và Hoa Anh[5]. Trong đó, Đại Chiêm lả lãnh thổ của của Champa bao gồm tiểu quốc Kauthara, Panduranga và sau này còn có thêm tiểu quốc Aiaru ở phía Bắc Kauthara, tức là lãnh thổ của nước Hoa Anh trước kia. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sau khi vào trấn thủ Thuận - Quảng sai Văn Phong đánh Champa và lấy đất Aiaru lập ra dinh Phú Yên[6]. Sau biến cố này lãnh thổ Champa thu hẹp vùng đất phía Nam Đại Lãnh, biên niên sử của hoàng gia Panduranga – Champa còn ghi lại niên biểu các vị vua thuộc thời kỳ này. Trong đó, có triều đại Po Mưh Taha với vị vua Po Rome nổi tiếng (1627 -  1653). Đây là vị vua có công giúp nhân dân Champa xây dựng đặp thủy lợi Maren (Ninh Thuận), xây dựng mối đoàn kết giữa các tôn giáo Champa và các cộng đồng dân tộc miền núi vùng cao với miền đồng bằng Champa, xây dựng một nền văn hóa Champa bản địa rực rỡ. Dưới thời kỳ trị vì của vị vua này, nền thương mại của Champa tiếp tục phát triển, Champa tiếp tục xuất khẩu các mặt hàng quý hiếm như kỳ Nam, trầm hương và nhiều hương liệu khác, trong thời kỳ này Champa  không chỉ giao thương với các quốc gia trong khu vực mà còn bắt đầu giao thương với các thuyền buôn phương Tây như Hòa Lan, Bồ Đầu Nha…[7]. Xây dựng được một quốc gia có nền văn hóa rực rỡ và có nền kinh tế phát triển, vua Po Rome và các vị vua kế vị liền tính ngay đến chuyện lấy lại vùng đất cũ. Trong giai đoạn đầu Champa đã cố gắng tìm kiếm cho mình một ý thức hệ tôn giáo, chính trị mới thay thế ý thức hệ Hindu giáo có nguồn gốc Ấn Độ bằng ý thức hệ Hồi giáo. Thông qua đường thương mại, vua Po Rome đã tiếp xúc với ý thức hệ mới này từ các nước Hải Đảo (Mã Lai) và du nhập nó vào Champa. Mặt khác, thông qua mối quan hệ này ông muốn tạo một liên minh quân sự với các tiểu quốc ở Mã Lai hầu xây dựng thực lực quân sự - chính trị nhầm làm đối trọng với chúa Nguyễn ở phía Bắc, không phải ngẫu nhiên mà thời kỳ này vũ khí là mặt hàng giao thương phổ biến giữa Champa với nước ngoài…[8]. Đây có thể là giai đoạn huy hoàng cuối cùng của nền văn mình này trước khi họ chính thức tính toán đến một kế hoạch hầu chiếm lại vùng đất Aiaru xưa (nay đã thuộc xứ Đàng Trong). Năm 1653,  Po Nraop (sử Việt gọi là Bà Tấm hay Bà Thấm) có lẽ là vị vua trị vì sau Po Rome, đã thực hiện thay ông tham vọng của mình hầu chiếm lại vùng đất cũ. Nhưng cuộc phản công này đã thất bại, hoặc chỉ là những dấu hiệu quấy phá nhỏ lẻ ở vùng biên giới. Nhưng đó cũng là cái cớ cho chúa Nguyễn cử binh chinh phạt Champa. Cùng năm đó, chúa Nguyễn sai quân chinh phạt Champa, sát nhập vùng Kauthara – Champa vào xứ Đàng Trong, đặt thành dinh Thái Khang[9]. Đến đây, lãnh thổ Champa chỉ còn thu hẹp lại ở vùng Panduranga. Từ lúc ấy, vương quốc Panduranga cũng chính là vương quốc Champa bị thu hẹp và được gọi là Panduranga – Champa. Nếu như trước năm 165 3, hoạt động ngoại thương của Champa còn phát triển thì sau niên đại này họ hoàn toàn bị co cụm và cô lập, chúa Nguyễn đã kiểm soát toàn bộ bờ biển và từ đây những lưu dân Việt cũng bắt đầu tiến dần về Nam thông qua đường biển đến xứ Gia Định- Đồng Nai để khai phá. Không chịu khuất phục trước chúa Nguyễn, dù vẫn thường xuyên tỏ ra quy thuận, các ông vua Champa vẫn chờ cơ hội phản công. Các vua Champa sau này, tiếp tục nỗ lực tìm kiếm những liên minh quân sự với các nước trong khu vực hầu làm đối trọng với xứ Đàng Trong. Năm 1682, một giáo sĩ Pháp ở Ayudhya đã báo cáo cho tòa sứ về việc nhà vua Champa đã dâng một lá thư thỉnh nguyện về sự liên kết giữa hai nước cho nhà vua Xiêm, đây là một chỉ dẫn thú vị cho bằng chứng về việc người Champa vẫn cố gắng trong nỗ lực tìm kiếm đồng mình trong những giai đoạn cuối cùng này[10].  Một tài liệu khác cho thấy sự cố gắng tìm kiếm một liên minh quân sự với vùng Malacca của vua chúa Champa trong giai đoạn hậu kỳ này, thông qua một tài liệu ghi nhận của William Dampier, nhà thám hiểm người Anh này cho ta biết ngày 13 tháng 5 năm 1687, một đoàn thuyền Champa ghé tại Pulo Ubi (Xiêm) để dừng chân từ đó tiếp tục đến Malacca[11]. 2.      Từ trấn Thuận Thành đến phủ Bình Thuận hay quá trình sát nhập và ổn định vùng đất mới (1692 – 1697) Khi đã nhận thấy mình đủ sức chống lại chúa Nguyễn, vua Champa lúc bấy giờ là Po Soat (1660 -1692) mà sử Việt gọi là Kế Bà Tranh hay Bà Tranh[12],  quyết định tập hợp quân lính, dựng đồn lũy và tấn công vào phủ Diên Ninh thuộc dinh Bình Khang (trước là dinh Thái Khang) với nỗ lực lấy lại vùng đất này. Chúa Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Hữu Cảnh, lúc bấy giờ đang là Cai cơ trấn thủ ở dinh Bình Khang, tập hợp quân đội đẩy lui cuộc nổi loạn và lấy cớ đó, chúa Nguyễn tiếp tục cử binh vào lãnh thổ cuối cùng của Champa ở Panduranga. Đại Nam Thực Lục chép chi tiết về sự kiện này như sau: “…Mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật bấy giờ gọi là Lễ tài hầu; chữ Tài, có chỗ viết là Thành, lại là Hòa) làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh…Quý dậu, năm thứ 2 [1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy. Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành…”[13].       Sau chiến thắng này, lãnh thổ Panduranga – Champa hoàn toàn sát nhập vào lãnh thổ của xứ Đàng Trong, chúa Nguyễn đổi khu vực này thành danh xưng trấn Thuận Thành, chia vùng đất mới này làm 3 khu vực riêng biệt, do các vị tướng đã tham gia cuộc hành quân cai quản. Theo đó, khu vực Phố Hài (Pajai) do Cai đội Nguyễn Trí Thắng nắm giữ, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí (Parik), Cai đội Chu Kim Thắng giữ Phan Rang (Parang)[14]. Tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận, như vậy chúa Nguyễn, chính thức sát nhập phần lãnh thổ mới này vào xứ Đàng Trong. Nhưng do điều kiện của một vùng đất mới tiếp nhận, còn có đông người bản địa cư tụ và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu dân Việt vào định cư sau này. Chúa Nguyễn (với sự tham mưu của Nguyễn Hữu Cảnh) thực hiện chủ trương sử dụng quan lại người Chăm ở địa phương, chúa Nguyễn lấy Tả trà viên Kế Bà Tử (Po Saktiraydapatih) em của Kế Bà Tranh làm Khám lý, ba người con Bà Ân làm Đề đốc, Đề lãnh và Cai phủ, bắt mặc quần áo theo lối người kinh và sai về để vỗ yên lòng dân[15]. Mặc dù vậy, do buổi ban đầu tiếp xúc và có nhiều cách biệt, nhân dân bản địa vẫn chưa chấp nhận sự cai trị của chúa Nguyễn và các quan lại người Việt, điều này khiến họ nhanh chống dấy lên một phong trào đấu tranh phản kháng vào tháng 12 năm 1693[16]. Trước làn sống đấu tranh quyết liệt và dựa vào khẩn cầu của Kế Bà Tử, tháng 8 năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu quyết định hủy bỏ phủ Bình Thuận và tái lập lại trấn Thuận Thành, phong cho Kế Bà Tử làm Thuận Thành vương, hằng năm dâng cống cho chúa Nguyễn như một phiên quốc phụ thuộc[17]. Sau một thời gian nhận thấy tình hình đã ổn định, người bản địa không còn chống đối, những lưu dân người Việt đã vào lập làng, xóm ở vùng đất mới ngày một đông. Năm 1697, chúa Nguyễn lại đặt phủ Bình Thuận, chia phủ Bình Thuân ra làm hai huyện là An Phước và Hòa Đa. Bên cạnh đó, nhầm tránh tạo xáo trộn và tránh những xung đột như năm 1693, chúa Nguyễn vẫn duy trì trấn Thuận Thành, một khu vực hành chính tự trị của người Chăm, trực thuộc phủ Bình Thuận. Trấn Thuận Thành này, khác với trấn Thuận Thành năm 1694. Nếu trấn Thuận Thành của năm 1694 là một đơn vị hành chính tương đương với phủ Bình Thuận, còn trấn Thuận Thành của năm 1697, chỉ là một đơn vi hành chính tự trị riêng biệt của người Chăm, nằm rãi rác và xem lẫn với các khu định cư của người Việt trực thuộc phủ Bình Thuận. Đây là một quy chế tổ chức hành chính hết sức đặc biệt trong hoàn cảnh mới tiếp quản vùng đất mới, trong điều kiện cộng đồng người Việt đến định cư và khai phá, sống xen lẫn với các khu vực của người Chăm bản địa. Đại Nam Thực Lục, tài liệu duy nhất nói về trấn Thuận Thành không cung cấp nhiều chi tiết về khu vực hành chính đặc biệt này. Nhưng biên niên sử Champa cho thấy trấn Thuận Thành, sau năm 1697, chỉ là cách triều đình chúa Nguyễn gọi về vương quốc Panduranga – Champa với một triều đình, luật pháp, quân đội riêng…vẫn được duy trì, lệ thuộc vào phủ Bình Thuận của xứ Đàng Trong và tồn tại cho đến thời cải cách hành chính của Minh Mạng (1832 – 1833)[18]. Mặc khác, những tài liệu trích dẫn của phương Tây cũng cho thấy sự hiện diện của đặc khu hành chính tự trị của người Chăm này trong giai đoạn thế kỷ XVIII. Tài liệu của một chiến thuyền Pháp đã nhắc đến một triều đình người Chăm đóng đô ở Bal Chanar (Phan Rí) vào năm 1745. Họ còn miêu tả bên cạnh các ông vua ngươi Chăm này là một viên quan cố vấn người việc có vai trò quan trọng trong mọi quyết định của hoàng gia[19].   Nếu như đối chiếu và so sánh biên niên sử của chúa Nguyễn và của người Chăm Panduranga – Champa, cũng như những tài liệu của các thuyền bè phương Tây, chúng ta có thể nhận thấy rõ dấu hiệu hiện diện của mô hình đặc biệt này trong giai đoạn 1697 đến 1832. Đây là một đặc khu hành chính được hình thành trong giai đoạn người Việt vừa mới tiếp quản vùng đất mới, di dân Việt mới đến định cư ở vùng đất mới, cư dân người Chăm bản địa chưa quen sự thống trị của tộc người khác, hai dân tộc bước đầu cộng cư chắc chắn sẽ có nhiều hiểu nhầm và mâu thuẫn. Do đó, việc hình thành trấn Thuận Thành có vai trò chuyển tiếp trước khi chính thức sát nhập các địa hạt của người Chăm vào lãnh thổ Bình Thuận một cách ổn định không tạo nên những mâu thuẫn và xung đột giữa hai cộng đồng. Chính vì những lẽ ấy, vai trò của trấn Thuận Thành trong lịch sử mở cõi của người Việt và mối quan hệ giao lưu, hòa hảo giữa hai dân tộc có một vai trò và vị trí rất quan trọng, nó cần được lịch sử ghi nhận một cách chi tiết và công minh. v     Kết Luận Bài viết này của chúng tôi vừa phác thảo về một giai đoạn đầy biến động trong hành trình mở cõi của người Việt về đất phương Nam và mối giao lưu giữa hai cộng đồng tộc người Việt – Chăm thế kỷ XVII. Nó ghi nhận lại một giai đoạn trong lịch sử hai dân tộc với những xung đột, giao tranh, nhưng bên cạnh đó và hơn hết nữa là mối quan hệ giao lưu, cộng cư giữa hai cộng động tộc người, sự hình thành phủ Bình Thuận và trấn Thuận Thành lệ thuộc nó là một sự kiện lịch sử có thật cần được ghi nhận. Từ sự kiện ấy, lịch sử của vùng đất Ninh – Bình Thuận (ngày nay) sẽ được khắc họa một cách sinh động, từ đó chúng ta có thể nhận thức rõ ràng và đầy đủ về một giai đoạn chuyển tiếp từ xứ Panduranga (Champa) sang phủ Bình Thuận (Đàng Trong). Đó là một thời kỳ mà hai dân tộc Việt – Chăm cùng cộng cư, lao động, tiếp biến và trao đổi các giá trị văn hóa tạo nên một bản sắc văn hóa phong phú và đa dạng của địa phương nói riêng và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung. v     Tài liệu tham khảo 1.      Abdullah Zakaria bin Ghazali, “Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay” đăng trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, EFEO, Kuala Lumpur, (2003). 2.      Coedes (G), Les Etats hinduisés d’Indochine et d’Indonésie, De Boccard, Paris, 1964. 3.      Dampier (William), A New Voyage Round the World, The Argonaut Press, London, 1927. 4.      Dohamide – Dorohiem, Dân tộc Chàm lược sử, Saigon, 1965. 5.      Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2005. 6.      Danny Wong Tze Ken, The Nguyen and Champa during 17 and 18 century, IOC – Champa, San Jose, 2007. 7.      Lê Thành Khôi, Le Vietnam: Histoire et Civilisation, Edit de Minuit, Paris, 1955. 8.      Lafont (P-B), “On relations between Champa and Southeast Asia”, trongProceedings of the Seminar On Champa, Paris, (1988). 9.      Maspero (G), Le Royaume de Champa, Van Oest, Paris, 1928. 10.Nhiều tác giả, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2003. 11.Po Dharma, Le Panduranga(Campa) 1802-1835, EFEO, Paris, 1987. 12.Quốc Sử Quán Triều Nguyễn,  Đại Nam Thực Lục – Tiền Biên, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002.   [1]
0 Rating 1k+ views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On July 15, 2015
 Written by Ts. Po Dharna     Nhân đọc bài viết của Quảng Đại Tuyên về “Bước đầu tìm hiểu về triết lí âm dương thông qua hình ảnh cánh diều Chăm” đăng trên web của Inrasara, những bài thuyết trình của Pgs. Ts. Thành Phần về “âm dương” ở TPHCM và quan điểm của một số trí thức Chăm thường nhắc đến “âm dương” ăn sâu vào văn hoá Chăm, một số độc giả trong nước xin Champaka.info trả lời cho biết dân tộc Chăm có triết lý “âm dương” hay không? Nếu có, thì đâu là nguồn gốc của sự du nhập triết lý “âm dương” vào nền văn hoá Chăm?   Để trả lời cho câu hỏi này, BBT Champaka.info xin Ts. Po Dharma, chuyên gia về lịch sử và nền văn minh Champa, cho biết thế nào là quan điểm của ông về triết lý âm dương Chăm.   Dân tộc Chăm không bao giờ có triết lý âm dương Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)   Trong quá trình lịch sử, Đông Nam Á là khu vực tập trung nhiều quốc gia và chủng tộc chia làm hai khối rỏ rệt. Dân tộc Chăm, Campuchia, Lao, Thai và Mã Lai Đa Đảo, v.v. chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, trong khi đó dân tộc Việt theo khuôn mẫu văn hoá của Trung Quốc. Phát xuất từ hai nền văn minh khác nhau, dân tộc Việt và Chăm đã đón nhận hai khái niệm hoàn toàn khác nhau về qui luật cấu trúc vũ trụ. Đối với dân tộc Việt, “âm dương” là triết lý nhằm giải thích cho sinh tồn của “vũ trụ”, trong khi đó dân tộc Chăm lại dựa vào qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực-cái / nam-nữ) để làm nền tảng để giải thích cho mối liên hệ giữa Chăm Ahier (Balamon) và Chăm Awal (Hồi Giáo). Chính đó là trọng tâm của vấn đề cần cứu xét lại trước khi đi đến kết luận dân tộc có chịu ảnh hưởng triết lý “âm dương” của dân tộc Việt hay không?   Triết lý âm dương của dân tộc Việt   Âm dương (tiếng Hán: Ying Yang) là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập, tạo nên toàn bộ vũ trụ, bao gồm những qui luật liên quan đến nền tảng của không gian học, thiên văn học, triết học, y học, vật lý học, v.v. Theo triết lý này, “âm” thể hiện cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm mại... đối lập nó là “dương” thể hiện sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính, cứng rắn.. Qui luật giải thích “vũ trụ” dựa trên âm và dương được gọi là triết lý “âm dương”.   Ai cũng biết, “Âm dương” là qui luật phát sinh từ nền văn minh Trung Quốc. Kể từ đó, các chuyên gia về Đông Phương học đưa ra kết luận rằng “âm dương” là triết lý chỉ dành cho các dân tộc nằm trong không gian văn hoá của Trung Quốc, đó là xã hội người Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn trong đó có Việt Nam. Người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, không bao giờ có triết lý “âm dương” như dân tộc Việt mà chỉ có qui luật: tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ)   Biểu tượng âm dương của dân tộc Việt   Qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” của dân tộc Chăm   Qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ) là khái niệm phát xuất từ qui luật Linga và Yoni nằm trong nền văn minh Ấn Giáo, không liên hệ gì với triết lý âm dương của dân tộc Việt. Theo triết Ấn Giáo, Linga biểu tượng cho dương vật và Yoni biểu tượng cho âm vật, là hai hình tượng thiêng liêng nhất được tồn thờ trong nền văn min Ấn Giáo.   Tục thờ Linga và Yoni có nguồn gốc từ Ấn Độ. Tín ngưỡng này gắn liền với triết lý dựa vào mối kết hợp giữa dương vật của đàn ông và âm vật của đàn bà, cấu thành động cơ của mọi sự sáng tạo. Theo triết lý này, vũ trụ sẽ bị diệt vong, nếu vũ trụ này chỉ có Linga (dương vật) nhưng không có Yoni (âm vật), hay ngược lại. Và vũ trụ này cũng bị tiêu diệt, nếu vũ trụ này có cả hai yếu tố Linga (dương vật) và Yoni (âm vật), nhưng không kết hợp với nhau một cách sung túc về tình dục.   Người Chăm là cộng đồng chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo. Tục thờ Linga và Yoni vẫn còn thể hiện hôm nay qua nhiều tục lễ của người Chăm nhất là lễ Kate và Ca-mbur trên đền tháp. Và mối liên hệ giữa Linga và Yoni vẫn còn đó, nhưng người Chăm gọi là qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực-cái / nam-nữ).   Đối với người Chăm, “tanaow-binai / lakei-kamei” là triết lý của hai thực thể đối lập nhau nhưng không thể tách rời với nhau. Hoàn toàn khác hẳn với triết lý “âm dương” của dân tộc Việt, qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” của dân tộc Chăm chỉ áp dụng vào không gian rất giới hạn nhằm giải thích cho mối liên hệ giữa Awal và Ahier, tức hai thực thể tín ngưỡng hoàn toàn khác nhau về triết lý và nghi lễ, nhưng lúc nào cũng gắn liền với nhau một cách có hệ thống, không thể tách rời nhau được. Awal và Ahier là hai thuật ngữ có nguồn gốc lịch sử riêng:   • Awal là từ Á Rập có nghĩa “trước, khởi đầu”. Chăm Awal ám chỉ cho những người Chăm đã theo Hồi Giáo “trước” triều đại Po Rome, tức là Chăm Bani hôm nay.   • Ahier cũng là từ Á Rập, có nghĩa là “sau, cuối cùng”. Chăm Ahier ám chỉ cho những người Chăm chấp nhận Po Uluah là đấng thượng đế “sau” triều đại Po Rome, tức là Chăm Balamon hôm nay.   Cho đến hôm nay, người ta không biết triết lý “tanaow-binai / lakei-kamei” đã xuất hiện trong xã hội Chăm từ lúc nào. Theo truyền thuyết Chăm cho biết, trước vương triều Po Rome, Hồi Giáo đã có mặt tại vương quốc Champa, nhưng sự hiện diện của Hồi Giáo chỉ nằm bên lề của xã hội. Các chức sắc Acar của Chăm Bani không đóng vai trò gì trong triều đình bên cạnh vua chúa Champa như các vị tu sĩ Basaih của Chăm Balamon. Sự cách biệt này đã gây ra bao xung đột giữa hai cộng đồng, buộc vương triều Po Rome phải giải quyết vấn đề bằng cách triển khai qui luật "tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ) để làm biểu tượng cho sự gắn bó giữa Chăm Awal và Chăm Ahier, tức là hai tín ngưỡng hoàn toàn đối lập nhau, nhưng không thể tách rời với nhau được, như mối liên hệ giữa nam và nữ.   Chăm Awal và Chăm Ahier là hai cộng đồng tín ngưỡng biểu tượng cho hai thực thể: tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ). Kể từ đó, tất cả những gì nằm trong hai tín ngưỡng này đều được phân chia thành hai thực thể khác nhau, hoặc Tanaow-lakei (nam) hay Binai-kamei (nữ), dù đó là các bậc tu sĩ, những vật dụng, thức ăn, màu sắc áo quần mà người Chăm thường dùng trong lễ tục. Tanaow-lakei (nam) hay Binai-kamei (nữ) là hai yếu tố đối lập nhau nhưng luôn luôn đi đôi với nhau, không thể tách rời với nhau được trong tín ngưỡng của người Chăm, cấu thành yếu tố cơ bản để Awal và Ahier cùng nhau phát triển và tồn tại. Những thuật ngữ đối lập nằm trong hệ thống tín ngưỡng Awal và Ahier là:   • Tanaow (đực) – Binai (cái) • Lakei (nam) – Kamei (nữ) • Klam (ám chỉ cho nam, những gì có màu rực rở nếu là khăn vải, có thịt nếu là thức ăn và có nhiều hương ngọt nếu là bánh trái) – Yuer (ám chỉ cho nữ, những gì có màu lờ nhạt nếu là khăn vải, không có thịt hay ít ngọt nếu là thức ăn) • Pagruak (úp lại, ám chỉ cho cách nằm của đàn ông khi làm tình) – Pa-ndang (nằm ngữa, ám chỉ cho cách nằm của đàn bà khi làm tình)   Dựa vào qui luật vừa nêu trên, người Chăm đưa ra hàng loạt danh sách của các biểu tượng tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) trong cách cấu trúc tín ngưỡng Awal và Ahier như sau:   Biểu tượng Lakei-Kamei • Basaih biểu tượng cho lakei (nam) – Acar biểu tượng cho kamei (nữ). Vì Basaih ngồi trong nghi lễ như đàn ông (crah kanal) trong khi đó Acar ngồi như đàn bà (jaoh angua) • Basaih > kamei (nữ) – Acar > lakei (nam). Vì Basaih để tóc dài trong khi đó Acar cạo đầu như con trai • Basaih > kamei (nữ) – Acar > lakei (nam). Vì Basaih mang bị túi có hình dạng âm vật và Acar mang bị túi có hình dạng dương vật   Tu sĩ Chăm Awal ngồi theo phong cách đàn bà Tu sĩ Chăm Ahier ngồi theo phong cách đàn ông   Biểu tượng Klam-Yuer Trong các lễ tục, một số dụng cụ, khăn vải, áo quần hay thức ăn, v.v. cũng đều mang biểu tượng cho Lakei (nam) và Kamei (nữ), luôn luôn đi đôi với nhau:   • Kaya klam, ám chỉ cho “lakei”, bao gồm bánh tét, bánh bột gạo hấp (kur) và chuối – Kaya yuer, ám chỉ cho “kamei”, gồm có nếp, bánh bột gạo hấp (kur) và chuối • Aw klam, ám chỉ cho “lakei”, tức là áo có màu rất đậm – Aw yuer, ám chỉ cho “kamei”, tức là áo có màu hơi phai dợt • S’alaw klam ám chỉ cho “lakei”, vì s’alaw klam là mâm cúng có thịt – S’alaw yuer ám chỉ cho “kamei”, mâm cúng không có thịt.   Biểu tượng Atau pa-ndang–Yang pagruak Atau là thuật ngữ ám chỉ cho thần linh có nguồn gốc từ hệ thống Hồi Giáo và Yang là thần linh mang tính cách bản địa.   • Trong các lễ tục dành cho thần linh thuộc về “Atau”, thì người Chăm phải để nãi chuối nằm ngữa trên mâm cúng hay trải chiếu nằm ngữa (pa-ndang). • Trong các lễ tục dành cho thần linh thuộc về “Yang”, thì người Chăm Ahier hay Awal phải để nãi chuối nắm úp lại trên nâm cúng hay trải chiếu nằm úp lại (pagruak).   Biểu tượng Tanaow-binai   Vào dịp cúng tế Po Yang In, người Chăm thường tổ chức lễ Paper Kalang (lễ thả diều). Lễ tục này có nguồn gốc từ Mã Lai. Trong lễ này gồm có hai con diều mang tên là Kalang tanaow (diều đực) và Kalang binai (diều cái). Đây là hai biểu tượng nằm trong hệ thống tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) của dân tộc Chăm, không liên hệ gì đến triết lý “âm dương” của người Việt như một số người thường hiểu lầm, để rồi từ đó họ tự chế biến ra bao lý thuyết mơ hồ nhằm giải thích cho sự hòa hợp các yếu tố: trời-đất, đực-cái, đất-nước, mặt trời-mặt trăng, không trung-mặt đất, hình tròn-hình vuông, vân vân, không liên hệ gì đến truyền thống lễ Paper Kalang (lễ thả diều) của dân tộc Chăm.   Tóm lại, người Chăm là dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Giáo, không bao giờ có qui luật “âm dương” của Trung Quốc như dân tộc Việt. Nếu một số trí thức Chăm hôm nay thường bàn về triết lý “âm dương” trong nền văn hoá Chăm, thì đó chỉ là quan điểm mang tính cách suy diễn, không dựa vào cơ sơ khoa học nào, vì những lý do sau đây.   1). Yếu tố ngôn ngữ Trong kho tàng ngôn ngữ, người Chăm không có cụm từ để ám chỉ cho “âm dương”. Thế thì từ “âm dương” xuất hiện từ đâu đến? Có chăng “âm dương” chỉ là cụm từ do một số trí thức Chăm vừa sáng chế ra dưới chế độ xã hội chũ nghĩa, mang tính cách suy đoán, phát xuất từ sự nhằm lẫn giữa qui luật tanaow-binai / lakei-kamei (đực-cái / nam-nữ) của người Chăm và triết lý “âm dương” của dân tộc Việt.   Một khi ngôn ngữ Chăm không có từ vựng để ám chỉ cho “âm” và “dương”, thì người ta có quyền đưa ra kết luận ngay: văn hoá Chăm không có qui luật “âm dương” hay chịu ảnh hưởng ít nhiều về qui luật này.   2). Yếu tố lịch sử Người Chăm là thần dân của vương quốc Champa xưa kia. Sau tám thế kỷ đương đầu với cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt, chấp nhận cúi đầu sống dưới nền đô hộ của nhà Nguyễn kể từ năm 1692 và chịu bao thống khổ của chính sách đồng hoá và diệt chủng của hoàng đế Minh Mệnh kể từ năm 1832, nhưng dân tộc Chăm không tiếp thu từ những yếu tố gì mang tính cách văn hoá, tín ngưỡng hay nghệ thuật của dân tộc Việt, ngoại trừ một vài chi tiết rất nhỏ nhoi nằm bên lề của nền giao lưu văn hoá, như:   • Vây mượn vài từ tiếng Việt: klan thu = trần thủ, lik kleng = lý trưởng, aen ngai = ơn nghĩa, cip = chịu, v.v., • Vẽ biểu tượng “âm dương” trên trống baranang mà người Chăm cũng không biết tên gọi biểu tượng này là gì. Sự hiện diện của biểu tượng “âm dương” trên trống của người Chăm chỉ bắt đầu dưới thời vua Minh Mệnh, tức là vào lúc Minh Mệnh buộc dân tộc Chăm phải mời người Kinh diễn tuồng hát bội trong lễ múa Rija để phô trương cho tinh thần đoàn kết dân tộc Chăm-Việt. • Bắt chước vài món ăn có dầu mỡ: cien = chiên, sao = xào… • Văn hoá ăn đủa thay vì ăn bóc kể từ thời Ngô Đình Diệm   Hát bội (hình trên hết) trong lễ Rija Chăm dưới thời Minh Mệnh Biểu tượng âm dương trên trống Chăm kể từ thời Minh Mệnh   Ai cũng biết, tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) là qui luật ra mời vào thời Po Rome (1627-1651), tức là vào thời kỳ hưng thịnh của Champa, một quốc gia độc lập không bao giờ chấp nhận những yếu tố văn hoá của dân tộc Việt ở phương bắc xâm nhập vào đất nước này. Kể từ đó, là tanaow-binai / lakei-kamei (đực cái / nam nữ) là qui luật riêng của dân tộc Chăm dựa vào triết lý Linga và Yoni của Ấn Giáo, chứ không phải là qui luật chịu ảnh hưởng triết lý “âm dương” của dân tộc Việt.   3). Yếu tố biên giới Mặc dù nằm trong khu vực Đông Nam Á, nhưng dân tộc Chăm có khái niệm về biên giới hoàn toàn khác biệt so với các dân tộc khác. Theo truyền thống, biên giới Champa là ranh giới mang tính cách chính trị và tín ngưỡng, có yếu tố thần quyền trấn giữ, nhằm   • Ngân cấm bất cứ ai dùng bạo lực để xâm nhập vào lãnh thổ của mình. • từ chối mọi yếu tố văn hoá hay nghệ thuật của dân tộc khác du nhập vào lãnh thổ của mình, dù văn hoá này là triết lý âm dương của người Việt đi nữa.   Và biên giới thần quyền này vẫn còn có hiệu lực cho đến thời Việt Nam Cộng Hoà. Mặc dù chung sống trên địa bàn dân cư ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, nhưng phong tục Chăm không bao giờ chấp nhận người Kinh xây dựng nhà cửa trong biên giới thôn làng của họ. Ngay trong gia đình, con em người Chăm cũng không có quyền nói tiếng Việt, vì truyền thống Chăm xem đây là tiếng nói ngoại lai, không thể xử dụng trong biên giới văn hoá và xã hội của dân tộc này.   *   Dân tộc Chăm và Việt là hai cộng cồng chịu ảnh hưởng hai nền văn minh hoàn toàn khác biệt. Nếu dân tộc Việt có triết lý “âm dương” thì dân tộc Chăm cũng có qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” (đực cái / nam nữ). Đây là hai triết lý phát xuất từ hai nguồn gốc khác nhau và có hai mục tiêu hoàn toàn khác nhau.   Để giải thích cho hai thực thể đối chọi nhau nhưng không thể tách rời với nhau trong văn hoá Chăm, thì các nhà nghiên cứi nên dựa vào qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” để phân tích vấn đề, chứ không nên xoá bỏ qui luật “tanaow-binai / lakei-kamei” để thay vào đó triết lý “âm dương” của dân tộc Việt, không liên hệ gì với yếu tố văn hoá của dân tộc Chăm.   Theo Champaka.info  
0 Rating 984 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On October 3, 2014
MIỀN TRUNG VIỆT NAM VÀ VĂN HOÁ CHĂMPA (MỘT CÁI NHÌN ĐỊA - VĂN HÓA)  Trần Quốc Vượng   I. Lời mở Từ một hai thế kỷ đầu Công nguyên cho đến các thế kỷ XVII-XVIII, trên dải đất miền Trung Việt Nam hiện tại, chủ yếu là từ Đèo Ngang cho đến Hàm Thuận, nhiều thời bao gồm cả Tây Nguyên, đã nảy sinh, phát sáng rực rỡ rồi tắt dần một nền văn minh độc đáo, ta gọi là văn minh Chămpa mà sợi dây liên kết (theo F. Engels: "sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước" (xem Nguồn gốc gia đình tư hữu và Nhà nước, 1882) là các nhà nước mà sử sách Trung Hoa, Đại Việt gọi bằng những tên Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành, với các miền lãnh thổ - cũng có thể là các "tiểu quốc" xuất hiện trong sử sách Hoa Việt dưới những cái tên Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính, châu Ô, châu Lý, Chiêm Động, Cổ Lũy, Thi Bị, Thượng Nguyên, Bôn đà lãng..., hay trong bi ký Phạn - Chàm với những tên Chămpapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga, Virapura, v.v... Văn minh Chămpa đã tắt, hay đúng hơn, các nhà nước Chămpa đã không còn tồn tại từ vài trăm năm nay, song tộc Chăm và các tộc bà con theo mẫu hệ còn đó: Chăm H'rê, Chăm H'roi, Raglai, Jarai, Rhaday... Văn hóa Chăm vẫn còn đây, sống động ở Ninh Thuận (với làng gốm Bàu Trúc), Bình Thuận hay là các phế tích "thành lồi', "giếng Hời", "cánh đồng chăm" theo cách gọi của người Kinh - Việt ở Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Khánh Hòa - Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết..., những "thánh địa" (sanctuaive) Mỹ Sơn, Đồng Dương, Phong Nha, những cụm/nhóm đền - tháp Chămpa trong thung lũng, trên sườn đồi, chân núi, ven biển, trong rừng sâu..., những dòng họ Ông, Ma, Trà, Chế... với những con người da đồng hun, mũi cao, mắt sâu, tóc xoăn, những huyền tích, những lễ hội Katé, nhiều di tích Chăm và ảnh hưởng văn hóa Chăm còn "nhìn" thấy được và có thể tìm hiểu, nghiên cứu được ở Thanh, Nghệ, Tĩnh, ở châu thổ Bắc Bộ, ở ngay nội đô và ven đô Hà Nội... Và ngôn ngữ Chăm vẫn là sinh ngữ (Ngôn ngữ là sản phẩm/thành phần văn hóa). Người ta bảo "chính trị qua đi, văn hóa ở lại" (Les poliques passent, les cultures restent)". Văn hóa Chămpa đã và vẫn là một bộ phận hợp thành, là những thành tố của phức thể (multiplex) văn hóa việt Nam... Dưới đây, tôi muốn trình ra một cái nhìn địa - văn hóa về Chămpa dựa trên những kết quả thăm dò điền dã nhiều năm qua từ những làng Việt vốn là khu biệt cư (isolat) Chăm ở châu thổ sông Hồng và đặc biệt ở miền Trung, từ chân đèo Ngang tới Xuân Lộc - Biên Hòa, lưu vực Đồng Nai thượng, hạ... Tôi rất yêu quý tộc người Chăm - một tộc người có một nền văn hóa đặc sắc trải mấy phong sương... Một anh bạn Chămpa học (không bao giờ nghĩ rằng tôi giỏi như và hơn anh ấy) bảo rằng có lẽ vì tôi nặng tình với Chămpa nên có duyên với các di tích Chămpa. Có lẽ vậy... II. Bối cảnh và tảng nền địa văn hóa miền Trung 1. Trong bài này, tôi xin phép không nói đến Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng thuộc miền Trung, đúng hơn Bắc Trung bộ. Có nhà địa lý học nói rằng trên một ý nghĩa nào đó thì châu thổ sông Mã, sông Lam chỉ là sự "nối dài" của châu thổ Bắc bộ. Tôi không dám nghĩ thế, song về văn hóa - khảo cổ học, từ trước Công nguyên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là thuộc không gian văn hóa Đông Sơn (chỉ cần kể hai khu di chỉ mộ táng lớn: Đông Sơn (Thanh Hóa), Làng Vạc (Nghệ An). Trước đó nữa, di chỉ Cồn Chân Tiên, xứ Thanh hoàn toàn có chất Gò Bông (Phùng Nguyên) - Đồng Đậu của sơ kỳ Kim khí trung châu sông Nhị và gốm Hoa Lộc (sơ kỳ Kim khí đặc trưng ven biển xứ Thanh) tìm thấy ở nhiều di chỉ xứ Đoài miền Bắc (Gò Mả Đống, Gò Ghệ, Gò Giạ). Trước đó nữa, thì cồn sò hến Đa Bút, cồn Cổ Ngựa và các di chỉ hang động xứ Thanh là thuộc về không gian văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn. Cả giới địa học và dân tộc - văn hóa học đều xem miền núi Thanh - Nghệ là sự nối dài cùng một dải của sơn hệ Tây Bắc Bắc bộ. Cố nhiên, Thanh - Nghệ - Tĩnh đã là không gian Việt cổ (Lạc Việt) và cũng như Giao chỉ (Bắc bộ), Cửu Chân, Ái châu (Thanh), Diễn châu, Hoan châu (Nghệ), Đức châu (Tĩnh) từ đầu Công nguyên (Hán) đã nằm chung trong "lồng" Bắc thuộc Giao Châu rồi An Nam đô hộ phủ thời Hán - Đường, và cùng giành quyền tự chủ chung ở thế kỷ X. Thế kỷ X và đầu thế kỷ XI. Ranh giới phía Nam của Đại Cồ Việt - Đại Việt là Đèo Ngang - Hoành Sơn hayNam Giới (vùng cửa Sót, Hà Tĩnh nay, bên bắc đèo Ngang một chút). Tuy nhiên, cũng cần để ý đến ba chuyện: + Nhiều nhà khảo cổ học cho rằng văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ) là cội nguồn của văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình) và văn hóa Bàu Tró lại là cội nguồn của văn hóa Sa Huỳnh (Trung Trung bộ): Bắc Trung Bộ và Trung Trung Bộ có quan hệ hữu cơ về Di truyền văn hóa. + Thời gian gần đây đã tìm được trống đồng loại I Heger và đồ đồng Đông Sơn ở nhiều địa điểm Quảng Bình (Phù Lưu), trống Thanh Khê (thố) (Bố Trạch), Quảng Trị (Dak Krông, Hướng Hóa), rìu lưỡi xéo, trống đồng Thừa Thiên (Ô Lai, Phong Điền)... Ngược lại, cũng tìm khuyên tai hai đầu thú kiểu Sa Huỳnh ở Xuân An (nay là thị trấn Xuân An, Nghi Xuân, Hà Tĩnh) dưới chân dải Hồng Lĩnh bên hữu ngạn sông Lam. Gốm Sa Huỳnh ở Cồn Yàng[1] (Hương Trà, Huế) có nhiều mô típ trang trí kiểu Phùng Nguyên - Đông Sơn. Do vậy: + Cái giả thuyết khoa học cho rằng Bình - Trị - Thiên là khu đệm trước công nguyên dăm thế kỷ giữa văn hóa Sa Huỳnh từ Trung Nam Trung bộ tỏa ra và văn hóa Đông Sơn từ Bắc Trung Bộ lan vào, hay đó là vùng giao thoa văn hóa Sa Huỳnh - Đông Sơn vẫn tỏ ra có lý, tuy các di tích cả Sa Huỳnh, cả Đông Sơn, tìm và đào được ở Bình Trị Thiên còn khá mờ, khá ít, thua xa Sa Huỳnh Quảng Nam hay Đông Sơn Thanh Nghệ. Có lẽ còn cần thâm canh khảo cổ sơ kỳ kim khí ở Bình Trị Thiên nhiều hơn nữa mới hiểu được cội nguồn văn hóa Chămpa. + Nghệ An có người Bồ Lô (Poulo = Đảo nhân) ở Cửa Lò, cửa Hội, có Bà Lỗ Man ở cửa Cờn Quỳnh Lưu, Diễn Châu mà sử biên niên ghi ở thế kỷ X (thời Lê Hoàn). Từ đầu Công nguyên, Cửu Chân (Thanh Nghệ), Nhật Nam (Quảng Bình - Quảng Nam) luôn luôn theo biên niên sử Trung Hoa - phối kết nổi dậy chống Bắc thuộc, đặc biệt năm Xích Ô 11 (248) Lâm Ấp đánh chiếm đến Hoành Sơn thì ở xứ Thanh có khởi nghĩa Bà Triệu. Lâm Ấp, Chiêm Thành thường đánh phá Cửu Đức, Đức Châu (Tĩnh) và có lúc chiếm Thanh Nghệ một thời gian (đầu IX). Do vậy cần lý giải thêm quan hệ tộc người và văn hóa Việt (Thanh - Nghệ - Tĩnh) - Chăm (Bình Trị Thiên) ở vùng này. Tôi cho rằng có cư dân ngữ hệ Mã Lai - tiền Chăm ở vùng ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh, chủ nhân các văn hóa Hoa Lộc, Bàu Tró. + Chưa kể sau này (từ XI-XII trở đi) văn hóa Mường - Việt được lan truyền từ Thanh Nghệ Tĩnh vô Bình Trị Thiên và giao thoa với văn hóa Chămpa vùng Bắc. + Hay lại có giả thuyết cội nguồn tiếng nói và tộc người Tiền Việt - Mường hay/và Việt - Mường chung là từ miền Tây Nghệ - Tĩnh - Bình lan tỏa ra miền Bắc của nhiều học giả trong và ngoài nước (P. Ferlus, P. Schneider, G. Diffloth...). + Và từ H. Quarich Wales, Olov Janse ở thập kỷ 30 cho đến nay vẫn có giả thuyết là Chămpa đã là một trong những người thừa kế văn hóa Đông Sơn như G. Condominas đã tìm ra di duệ nghệ thuật Đông Sơn ở cột đâm trâu Tây Nguyên. Vậy cứ còn phải nghiên cứu nữa, nghiên cứu mãi... mà vai trò khảo cổ học là có tầm quan trọng quyết định đối với văn hóa Chămpa. Tiếc rằng Bình Trị Thiên cũng như Tây Nguyên còn là miền yếu của Khảo cổ - Văn hóa học Việt Nam. 2. Kèm theo đây là một sơ đồ - mô hình địa văn hóa Việt Nam, thể hiện cái nhìn của tôi về các vùng địa - văn hóa đa dạng của một Việt Nam thống nhất hôm nay. Nhưng bài này chỉ nói về miền Trung và văn hóa Chămpa. 3. Nói đến miền Trung, ai cũng biết đấy là miền có địa thế hẹp chiều Tây - Đông, dằng dặc chiều Bắc - Nam. Tây là dải Trường Sơn, người Pháp gọi là Chaine annamitique; GS.TS Trần Kim Thạch chia đoạn Trường Sơn Nam, từ Quảng Nam đến Vũng Tàu, gọi nó là Nam Sơn. Trường Sơn mênh mông rừng rậm, với nhiều tầng cây nhiệt đới. Có một dải đồi ở miền chân núi (piérmont) mà người Nga gọi là miền trước núi (pretgorie = sơn cước). Từng đoạn, từng đoạn dải núi - đồi này lại đâm ngang ra biển Đông, chia cắt miền Trung thành từng vùng - xứ - tỉnh; đi từ Bắc vô Nam Trung bộ là ta cứ lần lượt vượt ra "một dèo, một đèo, lại một đèo": đèo Ba Dội, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông, đèo Cả... ấy là ta chỉ kể các đèo lớn, chứ thật ra còn nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo Hoàng Mai - Khe nước lạnh - Lèn Hai Vai khoảng giữa Thanh Nghệ, đèo Lý Hòa - núi Lễ Đế (hay núi Ma Cô - tên này có ghi trong sử) ở giữa Quảng Bình, đèo Bình Đê ở khoảng giữa Quảng Ngãi và Bình Định... Dưới chân đèo là các sông lớn nhỏ, đều chảy ngang theo chiều Tây - Đông ra biển, sông ngắn, nước xanh biếc, ít phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu, tạo thành vịnh cảng là nơi đậu thuyền (landing) rất tốt. Vận động tạo sơn còn "ném" ra biển xa các đảo và quần đảo. Chưa kể các quần đảo san hô xa khơi (Hoàng Sa, Trường Sa), chỉ nói các đảo gần bờ như Hòn Mê - Biện Sơn - Nghi Sơn (Thanh), Song Ngư, Hòn Mát (Nghệ Tĩnh), Hòn Cỏ - Hòn La (2 Hòn La), Hòn Nồm (2 Hòn Chùa), Hòn Gió (Quảng Bình), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hòa)... tạo ra những "bình phong" ngăn chặn bớt sóng gió biển Đông. Bờ biển miền Bắc "lõm" vào đất liền thành vịnh Hạ Long và Bái Tử Long, kỳ quan di sản văn hóa thế giới năm 1994, song lại bị đảo Hải Nam"thút nút" ở bên ngoài. Chất văn hóa biển của Giao Châu - Đại Việt buổi đầu là nhạt. Bắt đầu từ miền Trung, đường bờ biển Việt Nam "ưỡn" cong, "lồi" ra phía biển Đông, hứng gió bão sóng thần thật đấy, song "chất biển" trong văn hóa Chămpa ngày trước, văn hóa các vùng Trung bộ Việt Nam ngày nay rất mặn mòi, như chượp, mắm ruốc, mắm nêm, nước mắm, các loại đặc sản miền Trung. Luồng cá biển cũng chạy gần bờ miền Trung hơn miền Bắc. Miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước (mùa khô Bắc - Nam là từ cuối tháng 10 đến đầu tháng 4). Ở miền Trung mùa hè (tháng 4 - tháng 10) khô nóng, lại gặp gió Tây (gió phơn) rất khô nóng thổi từ Lào qua (xưa bà con ta gọi là "gió Lào") nên, nói như một câu ca dân gian Quảng Trị: "Tháng ba, tháng bốn, tháng khốn, tháng nạn...". Bốn năm liền, từ 1992 đến 1995, cứ vào tháng 7 - tháng 8 tôi vô công tác Quảng Trị, Quảng Bình và hưởng trọn 30/30 ngày nắng gió Tây ngoài cồn cát nóng khô. Càng nóng càng ăn cay, và đấy là một bản sắc văn hóa ăn Chămpa - Trung bộ (Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cách giải thích hiện tượng này). 4. Để dễ hình dung, tôi đã mô hình hóa miền Trung thành hình hộp chữ nhật đứng - cạnh Tây là núi đồi - cạnh Đông là biển, với các đèo - sông, chia nó thành các xứ - vùng hình chữ nhật ngang. Từ đó với phương pháp tiếp cận tổng thể (system analysis), tôi "nhìn" miền Trung như một phức sinh thái (multiplex), với 7 hằng số địa lý sau: a) NÚI ĐỒI là sự ngăn cách mà cũng là sự nối tiếp: ĐÈO chính là cái gạch nối: Đèo nối Đông Tây: - Mụ Giạ (Nghệ Tĩnh) - Cha Lo (Quảng Bình) - Lao Bảo (Quảng Trị) - nay là cửa khẩu Quốc tế - Đèo Kiền Quảng Nam, đèo An Khê (Bình Định) qua Gialai và Kontum, Daklak, Dakmil... Đèo nối Bắc - Nam: Đèo Ngang chẳng hạn, mà nhà thơ PTD nói vui: núi ngang (T-Đ), đèo dọc chứ (B-N), sao gọi Đèo Ngang? Hay ở đó có câu của cổ nhân (Bùi Dương Lịch): Thạch thành Lâm Ấp trúc Lục lộ Tử An bình (Lũy đá Lâm Ấp xây Đường bộ Tử An đắp) - Ngô Tử An thời Lê Hoàn được sai làm đường vượt đèo Ngang sang miền Địa lý của Chiêm Thành: "Mùa thu, tháng Tám, Nhâm Thìn (992), sai Phụ quốc là Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam giới đến châu Địa lý" (Toàn thư, Bản kỷ, q.I). Hè 1995, tôi đã di dọc dài lần theo cái gọi là "Lâm Ấp thế lũy" này, từ Hoành Sơn quan (Đông) đến vùng núi Chóp Chài, Quảng Lưu - Quảng Trạch (Tây); Dân gian cũng có người gọi là "Lũy Hoàn vương" - Lũy này là đắp nối các đỉnh của dải đồi trước núi Hoành Sơn về phía Nam (phía Quảng Bình), kè đá tảng rất to chắc, bề mặt có nơi đo được 25m, cao 3-5m (tuy nay bị phá đã nhiều). Sách Tấn thư (q.95) chép năm Vĩnh Hòa thứ 3 (347) vua Lâm Ấp là Phạm Văn đánh Nhật Nam, thông báo với thứ sử Giao Châu Chu Phiên (Phồn) đòi lấy Hoành Sơn làm phân giới, Phạm Văn sai lấy đá đắp lũy và cũng bắt đầu xây thành Khu Túc trên sông Thọ Linh (sông Giang theo Đào Duy Anh). Thơ văn Nguyễn Hàm Ninh (giữa XIX) nói về núi Chóp Chài và núi Vọng Bái ở Quảng Lưu, Quảng Trạch có câu: "Tảng đá vua Lồi còn sót lại[2] Việc công hầu giành giật núi Thành Thang" Thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, chúa Nguyễn Nam sông Gianh) sử dụng - cải tạo lại thành Cao Lao (≈ thiềng Kẻ Hạ ≈ thành Khu Túc (theo đoán định của Đào Duy Anh), còn ở Bắc Bố Chính (Bắc sông Gianh), chúa Trịnh cải tạo sử dụng lại hệ lũy Lâm Ấp và núi Vọng Bái. Cũng thơ văn Nguyễn Hàm Ninh viết: Cột cờ chúa Trịnh đổ rồi Dấu dinh lũy còn chơn vơn trên hòn Vọng Bái (Vọng Bái, nay thuộc thôn Tam Đa, xã Quảng Lưu, Quảng Trạch). Thời chống Pháp, chống Mỹ, đây là chiến khu Trung Thuần, với các tướng lĩnh Trần Hường, Đồng Sỹ Nguyên... Các nhà quân sự, từ Chămpa, qua Trịnh - Nguyễn đến ngày nay đều "nhìn" ra tầm quan trọng của các vị trí chốt trên các địa hình vùng Đèo Ngang là việc thường của binh pháp. Theo cán bộ và dân gian Quảng Bình, khoảng năm 1970, tướng quân Võ Nguyên Giáp cũng đã vô đây tổ chức các binh đoàn để chuẩn bị chiến dịch Đường 9 - Nam Lào (tháng 3-1971). b) Chúng ta cũng nên "nhìn" SÔNG - BIỂN như đã "nhìn" NÚI - ĐỒI - ĐÈO, đó là cái nhìn biện chứng, vừa thấy mặt cắt ngăn vừa thấy mặt nối tiếp. Do một trăm năm nay, từ thời thực dân Pháp, với tư duy giao thông bộ, hễ cứ thấy miền nào bị sông ngăn (mà họ lại ít xây dựng cầu đường) là nhà cầm quyền chia đôi bờ sông thành hai đơn vị hành chính khác nhau: ở Bắc: Sơn Tây/Vĩnh - Phúc Yên, Thái Bình/Nam Định (qua sông Hồng)... Bắc Giang/Bắc Ninh (qua sông Cầu)... Ở miền Trung: Nghệ/Tĩnh (qua sông Lam), Bình/Trị (qua sông Sa Lung), Trị/Thiên (qua sông Ô Lâu), v.v... Thật ra, qua tư duy giao thông thủy của bản sắc văn hóa sông nước của việt Nam và miền Trung, đôi bờ sông chỉ là hai nửa của một, từ một làng, một huyện đến một tỉnh, xứ... Từ Chămpa đến Đại Việt - Việt Nam chẳng hạn, đôi bờ sông Thu Bồn - sông Chợ Củi chỉ là hai nửa của một Amaravati - Quảng Nam, đôi bờ sông Côn chỉ là hai nửa của một Vijaya - Bình Định... Sông không chỉ được "nối" bằng các bến đò ngang và hình ảnh "các cô lái đò" đã vào rất sâu folklore và văn hóa Việt Nam. Sông còn là sự nối tiếp Núi - Biển bằng các con đò dọc, bằng bè mảng... Tôi rất thích câu ca dao của hai cảng Hội An, Thi Nại - hai cảng rất cổ từ thời Chămpa đến nay: Ai về nhắn với nậu nguồn Măng le (mít non) chở xuống, cá chuồn gửi lên. Hè 1994, tôi lên công tác ở một huyện trung du xứ Quảng và làm ra cái vẻ có "hiểu biết" về kinh tế, tôi hỏi cán bộ huyện: "Sao các đồng chí không học lối nuôi "cá lồng" dọc sông của miền Bắc?" và được trả lời: "Có đấy, nhưng thất bại vì dân tôi quen ăn đồ hải sản rồi, mà ngày nào chả có thuyền ngược lên đây mua bán hải sản!" Sự ngu ngốc này của tôi có cội nguồn lịch sử: Tôi là người Hà Nội, thuộc châu thổ Bắc bộ đã ở quá xa biển (# 100km) và ở thế hệ bố - mẹ - ông - bà tôi, hầu hết người Hà Nội đều không thích/không ăn được đồ biển, từ cá thu phải nấu lót bằng lá chè tươi (nhiều chất tanin khử mùi tanh) và "chả Sài Gòn" (nem rán) có "đệm" thêm thịt cua bể với thịt lợn, giá, miến... Qua kinh nghiệm điền dã ở miền Trung và cả Tây Nguyên, tôi thấy dân vùng này hay "xài" đồ biển. Tôi cho đó là bản sắc địa - văn hóa, được người Việt thừa kế từ người Chăm, cũng như nươc smắm, mắm nêm, chượp... và rau diếp cá (cho đến nay đa số người châu thổ Bắc bộ không thích/không ăn được rau diếp cá, họ chỉ dùng làm một vị thuốc nam). Bà tiến sĩ Pamela Gutman, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á và Thái Bình Dương của Đại học Sidney (Australia) có thông báo cho tôi biết rằng: Các nhà khảo cổ học biển (maritime archaeology) đã tìm thấy một con tàu đắm chở các thùng nước mắm từ Chămpa sang bán cho Roma cổ đại. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong một cuốn sách của L. Ferrand về các nguồn tài liệu của Ả Rập - Ba Tư từ thế kỷ VIII - đến thế kỷ XIV, khách thương hồ quốc tế đều gọi biển Đông là biển Chămpa. Biển là cái gạch nối giữa không gian văn hóa Sa Huỳnh - Chămpa - Óc Eo với thế giới Đông Nam Á hải đảo - Mã Lai và các không gian văn hóa biển khác, từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ dương và v.v.... c- Ngoài NÚI - ĐỒI - ĐÈO - SÔNG - BIỂN, Chămpa cổ miền Trung nay còn có CỒN - BÀU - ĐẦM PHÁ... Để tiện theo dõi có hệ thống, tôi và bạn tôi là GS Mai Đình Yên sẽ đề cập đến các hệ sinh thái ở ngay sau đây. 5. a) Những nghiên cứu mới nhất (xem Mai Đình Yên, Trần Quốc Vượng và các tác giả khác, Môi trường học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994) đã phân loại các hệ sinh thái tự nhiên làm 3 nhóm: - Nhóm các hệ sinh thái trên cạn. - Nhóm các hệ sinh thái ở nước. - Nhóm các hệ sinh thái ngập nước. Như đã nói ở phần trên (mục 4) miền Trung nay - Chămpa cổ - nằm hẹp giữa núi và Biển, có đầy đủ các kiểu sinh thái trên cạn chính, như: - Hệ sinh thái núi cao; hệ sinh thái hang động. - Hệ sinh thái núi trung bình và thấp. - Hệ sinh thái đồi gò. - Hệ sinh thái châu thổ (đồng bằng). - Hệ sinh thái ven biển. - Hệ sinh thái các đảo. Với cấu trúc đặc trưng là các thảm thực vật - thành phần quan trọng của quần xã rất phồn tạp (GS.TS Thái Văn Trừng, nhà lâm - sinh học tài danh, từ 1978 đã phân thành 19 kiểu thảm thực vật). Các hệ sinh thái ở nước cũng được phân thành các nhóm, các kiểu khác nhau như sau: + Nhóm hệ sinh thái nước ngọt, nước đọng. - Ao - Vũng - Hồ - Đầm (miền Trung gọi là Bàu) - Ruộng nước - Đập nước (Chămpa, theo Ấn Độ, gọi là Barak) - Đất ngập nước Đất ngập nước, từ Quảng Bình đến Nam - Ngãi... nằm giữa hai dải cồn cát Đông/Tây (theo L. Cadieriè) hay Đại/Tiểu Trường Sa (theo Lê Quý Đôn). Dưới chân các Cồn (Dune), thường có các Bàu (Stew) hay các rạch nước. Các nhà khảo cổ thường phát hiện được các di chỉ cư trú ở ven bàu và di chỉ mộ táng ở trên cồn. Vài ví dụ về văn hóa Bàu Tró và Sa Huỳnh - tiền Chămpa: Quảng Bình - Bàu Khê, Bàu Tró, Cồn Nền, Ba Đồn, Cường (Khương) Hà... Quảng Trị - Bàu Đông, Cồ
0 Rating 976 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 5, 2012
NGHỀ LM NHẪN MATA CỦA NGƯỜI CHURU Ở LNG HAWAI – LM ĐỒNG Sakaya(Bi đăng trn tạp chભ Văn ho Nghệ Thuật, Bộ Văn ho- Thᡴng tin, số 330, 12/2011, tr.73-75)Tm tắt㠠 Bằng tư liệu điền d#, khảo st tại thực địa, nội dung bi viết nᠠy trnh by về quy tr젬nh lm nhẫn bạc của người Churu ở Lm Đồng bao gồm giai đoạn tࢬm nguyn liệu, đc khu꺴n, nấu bạc, gia cng, trang tr chiếc nhẫn….䭠Nghề n y c lin quan đến nghề kim ho㪠n của Champa một thời nổi tiếng đ bị biến mất nhưng hm nay c㴲n st lại ở một lng Churu- L㠢m Đng. Đy l䢠 một nghề truyền thống qu gi của tộc người anh em cần được bảo tồn v� pht huy 1.Vᠠi nt về người ChuruNgười Churu l d頢n tộc thiểu số ở nước ta, c số dn khoảng 10.746 người, sinh sống chủ yếu ở L㢢m Đồng v một nhm nhỏ ở Ninh- B೬nh Thuận[1]. Người Churu cng hệ ngn ngữ M鴣Lai – Đa Đảo với người Chăm, Raglai v Eđ. Đặc điểm chung dễ nhận thấy nhất của người Churu lઠ ở nh sn, lࠠm ruộng nước, nui tru, l䢠m nghề thủ cng truyền thống (nghề gốm, nhẫn đeo tay, đan lt, m䡢y tre), sống từng lng (palei), người đứng đầu lng gọi lࠠ Po Palei, gia đnh mẫu hệ (vợ cưới chồng), c tục thổ t쳡ng, thờ cng tổ tin, thờ đa thần, hꪠng năm lm lễ cng l຺a, v.v.Trong những đặc điểm nu trn, chꪺng ti quan tm nhất l䢠 nghề lm nhẫn Mata. V nghề nଠy đang c xu hướng biến mất, chỉ cn lại duy nhất một gia đ㲬nh anh Ya Bơyu- 39 tuổi tại lngHawaii, xࠣ Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh Lm Đồng đang cn lⲠm loại nhẫn ny. 2. Chiếc nhẫn Mata của người Churu2.1 Nguồn gốc lịch sử Theo lời kể của ࠴ng Ya Bơyu, nghề lm nhẫn ny c࠳ nguồn gốc từ dng họ Kayong của người Raglai – Ninh Thuận truyền đến. Cch đ⡢y ba đời, ng nội của ng t䴪n Kayong Ya Kran– người Raglai ở Ninh Thuận đến lấy vợ người Churu ở lng Prok (Đức Trọng – Đơn Dương, Lm Đồng) ngࢠy nay. Sau đ ng nội của 㴴ng truyền lại cho cậu của ng v cuối c䠹ng cậu ng truyền lại cho ng đến ng䴠y nay. ng Ya Bơyu kể, nghề nԠy họ chỉ truyền theo dng mẹ, cha khng được truyền cho con mⴠ chỉ truyền cho chu trai bn d᪲ng họ mẹ (con trai của em gi hoặc con trai của chị gi ᡴng ấy). V vậy, ng nội hoặc cậu 촴ng khng truyền nghề cho con trai m chỉ truyền lại ch䠡u trai. Ngy nay, mặc dng nghề n๠y chỉ cn tồn tại ở⠠duy nhất một gia đnh nhưng ng Ya Bơyu vẫn kh촴ng dạy nghề ny rộng ri cho ai m࣠ chỉ dạy được duy nhất một con trai ng ấy l Ya Thương, 17 tuổi v䠠 chu trai l Ya Thang 18 tuổi. ᠔ng Ya Bơyu ni rằng, nếu đng luật tục l㺠 ng khng bao giờ dạy cho con trai m䴠 chỉ dạy cho chu trai l chᠭnh. V vậy, trong việc truyền nghề ng vẫn xem ch촡u trai mnh l ch젭nh. Nhiều đứa con trong lng xm cũng đến nhೠ ng học nghề nhưng khng th䴠nh. Vừa rồi nh nước hỗ trợ kinh ph cho ୴ng cũng dạy cho 10 người trong lng nhưng khng ai thഠnh cng, học xong rồi bo nghề, cuối cng chi c乲n lại cn trai v ch⠡u trai của ng biết lm th䠴i[2]. ng Ya Bơyu cԲn ni lm nghề n㠠y cũng c tổ tin chứng gi㪡m v theo ph hộ, tr๴ng coi, v vậy trước khi vo học nghề 젴ng phải cng tổ nghề tại nh ꠴ng cậu một con g v một chࠩ rượu v sau khi ra nghề cũng cng tạ tương tự. Cຳ như vậy người thợ mới hnh nghề ny được suốt đời[3].Lࠠm nghề ny cũng c một số ki೪ng cữ. Khi đc nhẫn, đổ thỏi bạc cũng phải chọn ngy để nhẫn khỏi bị cong, nứt. Ngoꠠi ra cn khing cử đối với một số người lạ trong l⪠ng khng ph hợp với tuổi của thợ nhẫn. Nếu kh乴ng may, những người khng hạp tuổi vo nh䠠 người thợ, th hm đ촳 người thợ phải nghỉ lm cả ngy, vࠬ nếu lm sản phấm thế no cũng bị hư[4]. 2.3. Qui trࠬnh lm nhẫn Mata2.3.1.C࠴ng cụ lm nhẫn Những dụng cụ cơ bản lm nhẫn Mata như sau:Những c࠴ng cụ bằng gỗ truyền thống-Pơtak: c4ng cụ lm bằng gỗ (loại gỏ đỏ) di khoảng 20cm, rộng 8 cm d࠹ng để se sợi sp ong để tạo hoa văn cho nhẫn.-Gai pơtak: cũng tương tự nhưᠠpơtaknhưng c3 cn, tay cầm di khỏang 10 cm, dᠹng để ko sợi sp ong.-顠Gai mata tarah: gậy gỗ c lồi ở phần đầu dng để l㹠m khun mắt nhẫn-Gai long kayau: c䠢y gỗ trn hơi nhỏ ở phần đầu v lớn dần ở phần th⠢n, di khỏang 30cm, đường knh khoảng 1-2cm, d୹ng để tạo độ rộng hẹp đường knh của chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong.-�Gai lon pasei: cy sắt trn hơi nhỏ ở phần đầu vⲠ lớn dần ở phần thn, di khoảng 30cm đường k⠭nh khoảng 1-2cm, dng để tạo độ rộng hẹp đường knh của chiếc nhẫn bạc khi đ魣 đc xong.-Những cꠢy que nhỏ bằng cy hoặc gỗ dng để tạo hoa văn⹷ Những cng cụ bằng sắt-䠠Taow asit: Dao nhỏ bằng sắt dng để khắc vạch, cắt gọt khi lm mẫu nhẫn-頠Gai pasei: C"y dũa sắt dng đễ dng để dũa cho bẳng những vết nối của chiếc nhẫn bạc khi đ鹺c xong- K(m sắt: dng cắt v uốn cong v頲ng nhẫn- B:a sắt: dng để đập mỏng những bộ phận của nhẫn bạc khi cần thiết.Đy l颠 những cng cụ hiện đại mới ảnh hưởng nghề lm kim ho䠠ng của ngườiKinh sau ny. 2.3.2. Nguyn liệu lઠm nhẫn - Priak (thỏi bạc): L nguyn liệu chભnh lm nhẫn Mata của Churu-ࠠRalin (sp ong): dng để tạo mẫu chiếc nhẫn trước khi dṹng bạc để đc-ꠠEh kubau (phn tru): Chủ yếu l⢠ phn tru ngh⢩, quấy lỏng dng để lm khu頴n để đổ bạc vo lm nhẫn.-ࠠ Hala dua (l! dứa): dng để lm phẻo đổ bạc v頠o khun đc.-亠 Baoh chum ket (tri bồ kết): dng để nấu nước tạo độ bṳng cho chiếc nhẫn 2.3.3. Qui trnh lm nhẫn Tạo mẫu nhẫnNhẫn đầu ti젪n được lm mẫu bằng sắp ong, trang tr đầy đủ cୡc hoa văn v cả đến việc khắc vạch đầy đủ tất cả những gc cạnh mೠ thợ cần trang tr. Khch thước nhẫn được thợ định sẵn v� nhẫn bằng mẫu sắp ong c thể co giản được bằng cy gậy gọi l㢠 “gai lon kayau”.Mỗi lần tạo mẫu -t nhất từ 2-3 chiếc nhẫn (xem ảnh) Tạo khun đổ nhẫn bạcSau khi hon chỉnh mẫu nhẫn bằng s䠡p ong, người thợ bắt đầu tạo khun để đổ nhẫn bạc. Khun được l䴠m bằng cch như sau: người thợ lấy 2-3 chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong cột vᡠo đầu một que tre di khoảng 20cm v ở phần giữa của que tre c࠳ gắn thm một chiếc phẻo nhỏ lm bằng lꠠ dứa dnh vo hai chiếc nhẫn mẫu để đổ bạc n�ng chảy vo khun. Sau đള thợ nhng nguyn phần đầu que tre cꪳ gắn những chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong vo phᠢn tru quấy lỏng để sẵn trong một x nhỏ rồi đem phơi, khoảng 15 phⴺt sau th phn tr좢u kh bm v䡠 bao bọc xung quanh chiếc nhẫn mẫu bằng sp ong. Cứ 15 pht họ nhẺng que tre c gắn nhẫn mẫu bằng sp ong v㡠o phn tru một lần, nh⢺ng khoảng 3 lần th phn tr좢u bm vo nhẫn mẫu bằng sᠡp ong cng dy, tạo lớp ࠡo cho chiếc nhẫn mẫu, từ đ m th㠠nh khun.L䠲 nấu thỏi bạc lm nhẫnn MataL nấu thỏi bạc để tạo nhẫn Mata cಳ khch thước nhỏ, đơn giản, chỉ sử dụng bếp lửa v hai ống hơi bằng ống sắt, giống như ống hơi thợ r�n để thổi lửa. Ngy nay, l đổ bạc của ಴ng Ya Bơyu hiện đại hơn, được xy bằng gạch (di 50cm x rộng 30cm x cao 0,5cm), ống thổi lửa được l⠠m bằng motơ điện. Với l ny, chỉ cần 1-2 kg thang c⠳ thể đủ nấu bạc nng chảy để đổ được từ 3-6 chiếc nhẫn Mata. Cch đổ bạc để tạo th㡠nh nhẫnn MataKhi l lửa chuẩn bị xong, hai người thợ (một thợ chnh v⭠ thợ phụ) bắt đầu lm cng việc đổ nhẫn bạc. Đầu tiപn người thợ phụ (vợ ng Ya Bơyu) đưa khun nhẫn mẫu bằng s䴡p ong c bao bọc phn tr㢢u kh vo l䠲 lửa, khoảng 5 pht sau th chiếc nhẫn mẫu bằng sꬡp ong trong khun phn tr䢢u bị nng chảy ra ngoi, ch cn lại khu㠴n trống. Lc ny thợ ch꠭nh, ng Ya Bơyu đưa ci ch䡩n nhỏ lm bằng gốm c bỏ thỏi bạc vೠo l. Lửa l được thổi mạnh, khoảng 10 phⲺt sau th bạc nng chảy, thợ ch쳭nh cầm đũa di bằng sắt gấp chn gốm đựng bạc nੳng chảy đổ vo khun trống bằng phഢn tru theo đường phẻo nhỏ lm bằng l⠡ dứa gắn với que tre m người thợ phụ đang cầm sẵn. Khoảng vi ph࠺t sau th người thợ phụ đưa khun đ촣 đổ bạc nhn vo t꠴ nước lạnh để sẵn gần đ. Khi khun đổ bạc đang n㴳ng được nhn vo nước lạnh th꠬ nhiệt độ thay đổi đột ngột nn khun bằng ph괢n tru bị vỡ ra v cuối c⠹ng bn trong chỉ cn lại chiếc nhẫn bằng bạc đẹp mắt. Đ겳 l qui trnh đ଺c nhẫn Mata của người Churu (xem ảnh). Trang tr hoa vănHoa văn tr�n nhẫn được trang tr ngay lc nhẫn l�m mẫu bằng sp ong để in dập trước vo khuᠴn bằng phn tru, chỉ c⢳ hoa văn “mata” (mắt) được gắn kết sau khi nhẫn bạc được đc xong. Để tăng thm độ tinh xảo, đẹp mắt cho chiếc nhẫn Mata, sau khi đꪺc xong nhẫn bạc, người thợ dng những chiếc dũa sắt, dũa lại những đường gờ, những vết nối cho bằng phẳng. Cuối cng họ đem nhẫn đi nấu với tr鹡i chm kết khoảng nửa giờ để tăng thm độ b骳ng v sng cho nhẫn bạc. Hoa văn trang tr࡭ trn nhẫn chủ yếu l hoa văn “Mata”(mắt), m꠴ tả mặt trời được khắc họa bằng ngi sao tm c䡡nh, ở chnh giữa c gắn một hột tr�n mu đỏ gọi l “baoh kraik” (hột cࠢy kơnia) v hoa văn hnh b଴ng la di, chạy xung quanh mặt trời hoặc phủ đầy v꠲ng nhẫn. Bn cạnh hoa văn la c꺲n c hoa văn l rừng v㡠 mắt con su nhưng loại hoa văn ny chiếm tỉ lệ ⠭t, khng phổ biến. Hoa văn trang tr tr䭪n chiếc “nhẫn mata” của người Churu c cả 3 loại: hoa văn m tả sự vật, thực vật v㴠 động vật. Tuy nhin hoa văn “Mata” m tả h괬nh mặt trời v bng lഺa l hoa văn chnh (chủ đạo) của chiếc nhẫn nୠy.Chnh v vậy người Churu chọn hoa văn Mata để đặt t�n cho chiếc nhẫn truyền thống của họ, đ l “Tarah Mata” (Nhẫnn Mata). Hoa văn trang tr㠭 trn chiếc nhẫn Mata đ phản ảnh được tộc người Churu cꣳ trnh độ tay nghề tinh xảo, c nghề luyện kim ph쳡t triển từ lu đời. Hoa văn hnh mặt trời v⬠ bng la đ亣 cho ta biết tổ tin người Churu l cư dꠢn nng nghiệp, trồng la nước, thờ thần mặt trời. V亠 khi quan st cuộc sống người Churu hiện nay chng ta cẲn thấy, người Churu khng chỉ lm ruộng nước, thờ thần mặt trời m䠠 cn nui trⴢu, ở nh sn, mặc vࠡy, o chui đầu (phoncho), thờ đa thần v hᠠng năm lm lễ cng ruộng, mừng l຺a mới,.v.v. Chiếc nhẫn Mata của người Churu đ chứa đựng một phần những hằng số văn ha của cư d㳢n nng nghiệp vng Đ乴ng Nam . 3. Nhận định về chiếc nhẫn Mata của người Churu3.1. ] nghĩa về mặt vật chất Hiện nay, cc nh nghiᠪn cứu chưa tm thấy nghề dệt của người Churu; cn nghề đan l첡t my tre đang c xu hướng biến mất, chỉ cⳲn lại lay lắt nghề gốm v nghề lm nhẫn. Tuy nhiࠪn, nghề lm nhẫn hiện chỉ cn sಳt lại một gia đnh duy nhất, v vậy n쬳 l di sản văn ha vật chất qu೭ gi của người Churu. Chiếc nhẫn Mata của người Churu thường lm bằng bạc, thỉnh thoảng lᠠm bằng đồng hoặc vng. Chiếc nhẫn Mata, khng chỉ được sử dụng trong cộng động người Churu mഠ khi sản xuất ra nhiều họ cn đem bn, trao đổi với người Chăm v⡠ người Raglai,v.v. Chiếc nhẫn Mata cũng l vật qu của người Chăm vའ người Raglai trong cuộc sống hng ngy cũng như trong cưới hỏi, tang ma,v.v. Ch࠭nh v vậy n l쳠 vật qu gi đối với c� nhn, cộng đồng sở hữu n. Xưa kia người ngh⳨o chỉ đeo nhẫn Mata bằng đồng, người giu c th೬ đeo nhẫn bằng bạc v giu hơn lࠠ bằng vng. V vậy, chiếc nhẫn Mata cଳ gi trị vật chất rất cao. V bạc, vᬠng l loại qu hiếm, ngୠy xưa chiếc nhẫn Mata c thể đổi bằng heo, tru, ng㢠y ny được định gi bằng tiền mࡠ nh ngho cũng khਲ਼ mua sắm được. 3.2. nghĩa về mặt tinh thần Chiếc nhẫn Mata khݴng chỉ c gi trị về mặt vật chất m㡠 n c 㳽 nghĩa về mặt tinh thần rất lớn. Chiếc nhẫn Mata đ đi vo phong tục tập qu㠡n của người Churu. L người Churu (cũng như người Chăm) khi đến tuổi trưởng thnh (từ 18 tuổi trở lࠪn), cả nam v nữ đều phải đeo nhẫn Mata. Đ lೠ dấu hiệu để nhận biết đồng tộc của họ. Trong đm cưới, vai tr của nhẫn Mata thật quan trọng. Những cᲴ gi Churu khi đi hỏi chồng, ngoi chᠩ rượu lễ, heo g, cn cಳ chiếc nhẫn Mata như vật snh lễ trao cho chồng. Sau ny khi đ� thnh vợ thnh chồng, chiếc nhẫn Mata trở thࠠnh vật chứng hn nhn, l䢠 biểu tượng của sức mạnh tnh yu v쪠 sự gắn b keo sơn của vợ chồng. Nếu sau ny chồng c㠳 muốn ly dị vợ th chiếc nhẫn Mata trở thnh vật chất của h젴n nhn để hai bn tộc họ (b⪪n vợ – bn chồng) xem xt. Nếu chồng muốn ly dị thꩬ chồng phải trả lại chiếc nhẫn cưới (nhẫn Mata) cho vợ v đền duyn cho vợ từ 2- 7 con trઢu. Chiếc nhẫn Mata cn l vật lễ quan trọng trong đ⠡m tang của người Churu (cũng như người Chăm). Khi người Churu chết, ngoi những đồ ty t๡ng như o quần, thức ăn hng ngᠠy cn phải c chiếc nhẫn Mata thⳬ linh hồn người chết mới siu thot. 3.3. ꡝ nghĩa về mặt lịch sử v mối quan hệ tộc ngườiࠠChiếc nhẫn Mata của người Churu c từ lu đời v㢠 c quan hệ gần gũi với chiếc nhẫn Mata của người Chăm kể cảt㠪n gọi, kiểu dng, hoa văn trang tr, biểu tượng văn h᭳a, nghĩa vật chất v tinh thần.� Tuy nhin c điều nghịch l곭, mặc d hiện nay người Chăm cn sử dụng loại nhẫn Mata n鲠y phổ biến trong đời sống hằng ngy, trong lễ cưới, tang ma, lễ hội nhưng khng cള ai l người Chăm cn biết lಠm loại nhẫn ny. Ngược lại nghề lm nhẫn Mata lại xuất hiện ở người Churu. Ở người Chăm c࠲n xảy ra một trường hợp khc, đ l᳠ từ xưa đến nay người Chăm thường sử dụng giấy để ghi chp chữ Chăm truyền thống nhưng khng c鴳 người Chăm no biết lm giấy mࠠ lại xuất hiện nghề lm giấy ở người Raglai m ch࠺ng ti đ c䣴ng bố ở Tạp ch Dn tộc học số�[5]. Từ nghề lm nhẫn Mata của người Churu v nghề lࠠm giấy thủ cng của người Raglai đ cung cấp cho ch䣺ng ta những bằng chứng tư liệu lm sng rࡵ thm về mối quan hệ mật thiết giữa người Chăm, Raglai v Churu v.v. Vậy đến đꠢy c một vấn đề đặt ra, nghề lm nhẫn Mata của người Churu c㠳 ảnh hưởng từ người Chăm hay khng? Hoặc người Chăm chỉ biết sử dụng chiếc nhẫn Mata nhưng khng biết l䴠m, chỉ mua lại từ người Churu? Như chng ta đ biết trước kia, vương quốc Champa l꣠ một quốc gia đa dn tộc dn tộc, trong đ⢳ c người Chăm, Raglai, Churu, Eđ, Koho, Stieng,v.v Trong đ㪳, người Chăm l dn tộc chủ thể sinh sống ở đồng bằng vࢠ ven biển, cn dn tộc anh em kh⢡c sống ở Trường Sơn – Ty Nguyn. C⪡c dn tộc anh em của quốc gia Champa bnh đẳng với nhau tr⬪n tất cả phương diện, chứ khng phải quan hệ giữa Chăm v c䠡c dn tộc Trường Sơn – Ty Nguy⢪n l quan hệ thống trị v bị trị như một số nhࠠ sử học Việt Nam thường đề cập. Bằng chứng, vua Po Rome gốc người Churu, vợ Po Rome l Bia Than Can gốc người Eđ vઠ nhiều văn bản Chăm cn cho biết người Raglai l tộc người quan trọng đ⠣ tham gia xy dựng đền thp v⡠ giữ những kho bu vật của vua cha Champa[6]. Bằng chứng khạc, Ty Nguyn hiện c⪲n được ghi lại trn bia k Champa ở Mỹ Sơn như lꭠ thần dn của vương quốc Champa[7]v⠠ cụ thể nhất l cc đền thࡡp Chanpa trn đất Cao Nguyn như Yang Praong (Đắc Lắc), Yang Mun (Kon Tum)ꪠ[8]v thnh địa Ct Tiᡪn ở Lm Đồng cũng c li⳪n quan đến người Chăm v anh em Trường Sơn – Ty Nguyࢪn[9]. Một bằng chứng khc, người cc dᡢn tộc Trường Sơn – Ty Nguyn cũng c⪹ng tham gia với người Chăm chống lại người Khme xm lược đất Champa vo thế kỉ 12-13, hiện nay ở l⠠ng Kran Gok – lng gốm Churu (Lm Đồng) cࢲn nhiều mộ binh lnh Khme m họ gọi l� “kut kur”[10]. Trong lịch sử cũng cn c nhiều cuộc chiến tranh giữa người Champa với Khme vⳠ giữa Champa với Đại Việt[11]. Trong những cuộc chiến ny, Champa cũng đ từng dࣹng đội qun voi hng mạnh do c⹡c dn tộc anh em ở Ty Nguy⢪n đảm trch để xung trận tiến đến Thăng Long v nhiều lần tiến đến Angko- Cambodia[12]. Hơn nữa, những cuộc khởi nghĩa cuối cᠹng của nhn dn Champa chống lại Đại Việt đầu thế kỉ 20 như Tuen Phaow v⢠ Ja Thah Wa m sử Việt gọi l cuộc khởi nghĩa Tuần Phủ vࠠ Điền Sư cũng c đa số cc d㡢n tộc anh em như Churu, Raglai, Koho tham gia[13]. Một bằng chứng khc ngy nay cᠲn hiện hữu l người Raglai ở Ninh Thuận vẫn giữ kho bu (những y trang) của vua chࡺa Champa v l tộc người ch࠭nh quyết định trong cc lễ khai trương cng đền thạp của Champa ở Ninh Thuận[14]. Từ những dữ liệu lịch sử trn, cho thấy giữa cc dꡢn tộc Trường Sơn – Ty Nguyn v⪠ Chăm lun gắn b mật thiết với nhau trong suốt chặng đường lịch sử thăng trầm của vương quốc Champa tồn tại gần 18 thế kỷ ở dảy đất Miền Trung -T䳢y Nguyn Việt Nam. V vậy khꬴng c g ngạc nhi㬪n, khi hiện nay người Chăm cn sử dụng giấy để viết chữ nhưng khng ai lⴠ người Chăm biết lm giấy m xuất hiện nghề lࠠm giấy truyền thống ở người Raglai. Tương tự, ngy nay người Chăm cn sử dụng chiếc nhẫn Mata nhưng kh಴ng ai l người Chăm biết lm mࠠ xuất hiện nghề lm nhẫn Mata ở người Churu. Bởi v Champa lଠ một quốc gia đa dn tộc, do đ, kh⳴ng phải bất cứ nghề g người Chăm cũng lm m젠 c sự phn c㢴ng r rng, t堹y theo vng, từng địa phương m họ c頳 nghề khc nhau. Chẳng hạn, ở H Nội cᠳ 36 phố phường, mỗi phố phường lm những nghề thủ cng khഡc nhau. V Champa cũng vậy, c thể người Chăm Mỹ Nghiệp lೠm nghề dệt, người Raglai lm giấy, người Churu lm nhẫn Mata,v.v rồi đem bࠡn hoặc trao đổi với nhau l việc bnh thường, chứ kh଴ng phải nghề lm nhẫn Mata của người Churu l ảnh hưởng từ người Chăm như một số học giả đࠣ lầm tưởng.4. Kết luậnNghề l m nhẫn Mata của người Churu l một nghề thủ cng quഭ gi cn sᲳt lại trong di sản văn ha của người Churu. Hiện nay chiếc nhẫn Mata ny c㠲n đang được sử dụng phổ biến trong đời sống hng ngy cũng như trong phong tục cưới gࠣ, tang ma, lễ hội của người Churu. V vậy n c쳳 gi trị cả về vật chất v tinh thần. Chiếc nhẫn Mata, xᠩt từ cng cụ, nguyn liệu, c䪴ng đoạn chế tc, đến trang tr hoa văn đ᭣ biểu lộ trnh độ tay nghề tinh xảo của thợ thủ cng v촠 nghề nay cũng đ pht triển từ l㡢u đời. Đặc biệt qua hoa văn chng ta c thể nhận biệt được đặc trưng văn h곳a của chủ nhn chiếc nhẫn ny v⠠ mối quan hệ của họ với cư dn quanh vng, đặc biệt c⹳ quan hệ với người Chăm v vương quốc Champa trong qu khứ lịch sử. Với ࡽ nghĩa như vậy, cho nn chng t꺴i đề nghị Đảng – Nh nước, cc cơ quan chức năng nࡪn gấp rt nghin cứu, bảo tồn vꪠ pht triển nghề lm nhẫn Mata nᠳi ring v nghề kim hoꠠng ni chung nhằm pht huy tay nghề thợ thủ c㡴ng, tạo ra nhiều sản phẩm (kể cả truyền thống v hiện đại) để đp ứng nhu cầu đa dạng về thị trường đồ trang sức ngࡠy nay. Qua đ m tạo c㠴ng ăn việc lm, vừa pht triển kinh tế vừa bảo tồn một loại h࡬nh di sản văn ha qu hiếm c㭲n st lại trong một gia đnh của người Churu ở Việt Nam./. [1]㬠Nguyễn Văn Huy (Chủ bin),Bức Tranh cꠡc dn tộc Việt Nam, Nxb Gio dục, 1997, tr. 25-26. [2]⡠Ghi theo lời kể của ng Ya Bơyu 39 tuổi tại lng Hawai, x䠣 Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh Lm Đồng vo ng⠠y 27/12/2009. [3]Ghi theo lời kể của 4ng Ya Bơyu, 39 tuổi tại lng Hawai, x Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh L࣢m Đồng vo ngy 27/12/2009. [4]ࠠGhi theo lời kể của ng Ya Bơyu, 39 tuổi tại lng Hawai, x䠣 Tura, huyện Đơn Dương, tỉnh Lm Đồng vo ng⠠y 27/12/2009. [5]Sakaya, “Nghề thủ cng truyền thống của người Raglai Ninh Thuận”,Tạp ch䠭D"n tộc học,Viện D"n tộc học, Số 6/2003, tr. 65-68. [6] Sakaya, “Xc định lại tượng thờ hong hậu tại thᠡp Po Rom Ninh Thuận”, Trong sch顠Những pht hiện mới về Khảo cổ học năm 1997, Nxb Khoa hoc X hội, Hᣠ Nội, 1998, tr. 646 -650; Lễ hội Kat Chăm, Sở Du lịch v Thương Mại Ninh Thuận xuất bản, Phan Rang, năm 2000. Bꠠi thơ Paoh Catuai,Văn bản Cham k- hiệu PC.141 đang lưu giữ tại EFEO – Malaysia. [7] L. Finot, Notes d’pigraphie. XI. Les inscriptions de Mi‑son,黠BEFEOIV, 1904, tr .897–977.
0 Rating 958 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On November 30, 2017
    Nhi?u ng??i Vi?t Nam th??ng ngh? r?ng, ??t n??c này là n?n nhân c?a nh?ng cu?c xâm l?ng, nh?ng th?c t? l?i không hoàn toàn nh? v?y. Nhi?u ng??i ngh? s?ng c?nh Trung Qu?c khó, nh?ng s?ng c?nh ng??i Vi?t m?i th?c s? là n?i b?t h?nh ??i v?i b?t k? m?t s?c dân nào, dù v?n minh, hay còn ? tr?ng thái bán khai . Nh?ng ng? nh?n! ??i Vi?t ngày Th? k? X - XI và các qu?c gia, vùng lãnh th? láng gi?ng Ng? nh?n th? nh?t: Ch?ng xâm l?ng, qu?t c??ng ?ánh tr? ngo?i xâm ?úng nh?ng thi?u m?t v?: ng??i Vi?t ?i xâm l?ng nhi?u h?n ch?ng xâm l?ng. T? khi l?p qu?c (938) t?i nay, ng??i Vi?t g?p ph?i m?y ??i th? l?n nh? Trung Qu?c, Pháp, và c? Hoa K? và c?ng ch? có ba ?? qu?c này t?ng ?óng chân t?i Vi?t Nam trong nh?ng quãng th?i gian nh?t ??nh. Trong khi ?ó danh sách n?n nhân c?a ??i Vi?t thì dài d?ng d?c. 1.   1. Ng?u H?ng – m?t qu?c gia là t?p h?p c?a các b?n m??ng ng??i Thái t?i Tây B?c, ??n th? k? XV danh x?ng Ng?u H?ng bi?n m?t trong các b? s? Vi?t. T? hàng ch? h?u vào c?ng lãnh th? Ng?u H?ng tr? thành c??ng th? ??i Vi?t, tàn d? còn r?i r?t l?i là Khu t? tr? Tây B?c b? xóa s? n?m 1975.        2. ??i Nguyên L?ch; vùng lãnh th? ??c l?p n?m ? khu v?c Cao B?ng, b? Lý tri?u xóa s? vào n?m 1022. 3.    3. ??i Lý: Sau tr?n chi?n 1014, ??i Vi?t ?ánh b?t th? l?c ??i Lý kh?i khu v?c sông H?ng – Sông Lô, hoàn toàn qu?n tr? ???c khu v?c Tuyên Quang và sáp nh?p Hà Giang vào b?n ??. 4   4. Khu v?c ?ông B?c là lãnh ??a t? tr? c?a các t?c Tày Nùng b? khu?t ph?c hoàn toàn vào n?m 1041, sau khi cha con Nùng T?n Phúc – Trí Cao th?t b?i trong vi?c gây d?ng n?n ??c l?p.  5.    5. Chiêm Thành: Sau m?t ngàn n?m t?n công, ??i Vi?t xóa s? hoàn toàn liên bang này. 6.    6. Ngay c? T?ng (t?c Tàu, t?c Trung Qu?c) c?ng là n?n nhân c?a ??i Vi?t. Cu?c vi?n chinh n?m 1075 c?a Lý Th??ng Ki?t b?t gi?t 10 v?n ng??i T?ng; riêng Ung Châu có 58 nghìn ng??i, quân Lý gi?t s?ch, ch? ch?a m?ng nào. 7.   7. B?n Man nay là Xiêng Kho?ng c?a Lào, Lang Xa, Lão Qua ??u tr? thành n?n nhân c?a cu?c chinh ph?t n?m 1478 d??i tri?u Lê Thánh Tông. 8.    8. Chân L?p hay Kh? Me. ?àng Trong ?ã b?ng m?i ph??ng cách c? quy?n l?c m?m, l?n v? l?c quân s? chi?m ???c khu v?c ?ông – Tây Nam B?. Sang ??n th?i Nguy?n – Minh M?nh, trên lãnh th? Kh? Me, thành Tr?n Tây ???c l?p v?i toan tính 50 n?m bi?n ng??i Kh? Me thành ng??i Vi?t. 9.    9. Th?y Xá Qu?c – H?a Xá Qu?c – m?t thành t? - ho?c m?t b? ph?n trong liên bang Ch?m, b? bu?c ph?i th?n ph?c ??i Nam, sau này ng??i Pháp ?em khu v?c Tây Nguyên sáp nh?p vô b?n ?? An Nam, Th?y Xá – H?a Xá không còn. 1   10. Siam. ??i Nam và Siam tranh ch?p ?nh h??ng khu v?c Cao Miên (Kh? Me) và Ai Lao (Lào). ??i Nam dành th?ng l?i quân s?, sáp nh?p ??i b? ph?n lãnh th? Cao Miên vào b?n ?? g?i là tr?n Tây Thành. Cu?c vi?n chinh g?n ?ây nh?t c?a ng??i Vi?t k?t thúc ch?a ??y 30 n?m v? tr??c, ân nhi?u oán c?u c?ng l?m. Trong 1000 n?m có t?i m??i m?y qu?c gia, vùng lãnh th? là n?n nhân các cu?c chinh ph?t, lãnh th? Vi?t Nam hình ch? S r?ng ch?ng 336.363km2 (g?p kho?ng g?n 10 – 15 l?n th?i l?p qu?c) là do chinh ph?c, t?m máu lân bang mà có ???c. Ng? nh?n th? 2. T? th?a mang g??m ?i m? cõi S?ng c?nh ng??i Vi?t Nam khó kh?n ??n d??ng bao! Hàng xóm b? ta ?ánh ??n t?t nguy?n là còn may, r?i thì ch?t m?t xác, không còn chút t?m tích nào. L??i g??m m? cõi c?ng là l??i g??m xâm l?ng, chu?c bi ai cho láng gi?ng. Xem s? ta, s? tây, s? tàu coi khi Tàu, Tây xâm l?ng có v? nào h? b?t nào 5 v?n ng??i Vi?t ?em v? n??c? Có v? th?m sát nào nh? ta gi?t B?n Man? Có hành ??ng s? nh?c nào nh? vi?c Lý Thái Tông mu?n hi?p M? Ê, Quân chúa Nguy?n nh?t r? vua Po Romé? Có dã man nào nh? lính nhà Nguy?n gi?t ng??i Ch?m vào m?i bu?i sáng ?? l?y ti?n? + Th?m sát B?n Man: n?m 1478, d??i tri?u Lê Thánh Tông, ??i Vi?t ti?n ?ánh B?n Man, k?t thúc chi?n tranh, v??ng qu?c này t? 9 v?n h? còn .... 2000 ng??i. N?u th?ng kê này chính xác thì h?n 99% dân s? B?n Man b? quân ??i ??i Vi?t gi?t, ch?t ?ói, ch?t vì b?nh t?t, ho?c ch?y t? tán tìm ???ng s?ng. + Vua Po Romé c?a Panduranga Champa (ti?u v??ng qu?c Champa cu?i cùng). Tr? vì t? 1627 - 1651, ông b? quân chúa Nguy?n b?t, nh?t vào c?i s?t ?em v? Phú Xuân. Quá ph?n u?t, nhà vua ?ã tìm ??n cái ch?t. Tàu, Tây dù xâm l?ng h? v?n ?em l?i cho ng??i Vi?t l?i ích ch?ng h?n nh? h?c thu?t, ph??ng cách tr? n??c làm nên n?n v?n hi?n ngàn n?m, hay ch? qu?c ng?, ?ô th?, th??ng c?ng ki?u ph??ng tây, ???ng s?t r?i ki?n trúc, ?iêu kh?c, v?n h?c... Còn ta khi xâm l?ng thì ch? chém gi?t, ??y ti?ng oán h?n; th?m chí có dân t?c ch? còn m?ng nào mà nuôi d??ng s? oán h?n ?y. Ng? nh?n th? 3: Tàu ?áng s? vì luôn l?m le thôn tính ta Th?c t? quan h? Vi?t – Tàu trong ngàn n?m khá là ?n, hai bên ?ánh nhau c? th?y 8 l?n (k? c? Mông – Nguyên ?ánh Vi?t 3 l?n), bình quân c? 120 n?m m?i ph?i ??ng ??n binh ?ao m?t l?n (chi?n s? th??ng kéo dài 6 tháng). Sau chi?n tranh c? hai bên ??u l?y hòa bình, phát tri?n buôn bán (v?i nhau) làm tr?ng. Vi?t c?ng tàu, thì Tàu c?ng tr? l? v?i giá tr? t??ng ???ng, th?m chí nhi?u h?n. Hài h??c nh?t là Tàu không ?áng s? b?ng Tây. Pháp ?ánh Vi?t Nam n?m 1858 sau 30 n?m thì ??i Nam ??u hàng, n?m 1956, Pháp rút quân hoàn toàn kh?i Vi?t Nam, t?ng th?i gian quãng tr?m n?m; th?i gian cai tr? tr?c ti?p g?n 70 n?m. Nh?ng Tàu ch? có th? ?ô h? Vi?t Nam trong 20 n?m (1407 – 1427), ?VSKTT chép k? thu?c Minh ch? có 3 n?m (1414 - 1417), t? 1407 ??n 1414 thu?c v? nhà H?u Tr?n; 1417 tr? ?i chép vào K? nhà Lê. Ng? nh?n th? 4, dân t?c anh hùng nh?ng l?i yêu chu?ng hòa bình. Th?c t?, n?u không ph?i ch?ng xâm l?ng thì ng??i Vi?t s? ?i xâm l?ng, tàn phá lân bang; nhàn, không ?ánh nhau v?i ai thì anh em trong nhà chém nhau cho ... ?? khát. Riêng Lê – M?c ?ánh nhau 66 n?m (1527 – 1592); Tr?nh – Nguy?n giao tranh 7 l?n su?t th?i gian t? (1627 – 1672) có khi l?y ??i l?y, tr?ng tr?n h?a mai sáng r?c tr?i ?êm ròng rã ??n 5 n?m tr?i; Tây S?n kh?i lo?n 30 n?m (1771 – 1802), Chi?n tranh Vi?t C?ng – Qu?c Gia 20 n?m (1955 – 1975). T?ng c?ng th?i gian n?i chi?n ??c 160 n?m ??y là ch?a k? lo?n 12 s? quân, lo?n cu?i Lý, cu?i Tr?n, cu?i Lê s?, Tàn d? nhà M?c cát c? Cao B?ng – Tuyên Quang (60 n?m); chúa Tr?nh d?p nông dân kh?i lo?n th? k? XIIX, N?a cu?i th? k? XIX, nông dân làm lo?n kh?p n??c, th?m chí câu k?t v?i ngo?i xâm ?? m?u cát c?, chia c?t ??t qu?c gia nh? cu?c phi?n lo?n (1861 – 1856) c?a Lê V?n Ph?ng. Tính t?ng c?ng l?i th?i gian n?i chi?n ??c b?ng 1/4 t?ng th?i gian t? ngày l?p qu?c ??n nay, con s? này là g?n g?p ?ôi th?i gian ch?ng xâm l?ng và b? ngo?i bang ?ô h?. N?i chi?n thì chém gi?t còn ??m máu h?n c? ch?ng xâm l?ng; ??n t?n ngày nay, ng??i Vi?t v?n ch?a h?c ???c cách ch?p nh?n nhau và s?ng hòa bình v?i ... chính ng??i Vi?t. M?i ng??i m?t góc nhìn, ?úng sai tùy ý b?n, nh?ng s? th?t v?n là s? th?t.   Theo Hantimesblog.blogspot.com
0 Rating 879 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On June 2, 2013
Chó hú bu?i tr?a Tác gi?: qu?ng ??i gi?i Lúc nh? tôi thích ?i câu cá l?m ch? nh?t nào c?ng ?i .hôm ???c ngh? tôi xin ba ?i câu cá, ba tôi h?i :”mày ?i câu ? ?âu ?“ d? g?n nhà ông t? lát ák ba. “?! G?n ?ó thôi ??ng qua g?n cây mít” ,sao v?y ba? ”ng??i ta nói ?n c?p mít thì mày tính làm sao nh? ?ó c?m” con bi?t r?i! Lulu ?i thôi .su?t m?t bu?i sáng lèo phèo tr? ???c con cá nào.?ang b?c mình tr?t nh? ra m?y ??a b?n nói qua ch? cây mít có nhi?u con cá to l?m? , Th? là l?i c?i ??n ch? ?ó . cây mít kà lulu ch? ?ó câu mát ?ó ?i thui! ,tôi t? ngh? ...tr?i cây mít to th? này mà tr? có trái nào ,ch?c không có ai nói mình ?n c?p ?au nh? !,ng?i xu?ng câu,câu su?t c? bu?i tr?a mà tr? ???c con nào b?c,v?a câu v?a ch?i m?y th?ng b?n,” m?y th?ng này ch?i mình ?ây mà” ,m?t lát sau ??t nhiên lulu hú lên nó c? hú và nhìn lên cây mít ,?ang lúc b?c tôi héc lên mày im ?i lulu” nh? ai ?ó ?ang ti?n l?i g?n” ,nó lùi l?i g?n tôi và c? hú nh? v?y ,tôi c? nhìn v? phía tr??c tr? th?y gì c?,b?t ch?t có cái gì ?ó thoáng qua m?t l?n...l?n n?a, hình nh? là bóng c?a m?t ng??i ?àn bà ?ang bé ??a con thì ph?i? Bi?n m?t trong choát lát , tôi t? an ?i mình ch?c là ?o giác thui! ,lát sau nghe vân v?n ?âu ?ây ti?ng m?t ??a tr? khóc....?m ?m...! ,tôi ngh?:tr?i !tr?a n?ng th? này mà ai b?m con ?i bi?t n?a? bà m? c?t ti?ng ru con “con ?i ! m? không s? gì h?t m? ch? s? c?c chì ,v?i roi mây” . nghe xong tim tôi nh? mu?n r?t ra , b?ng d?ng gió th?i ngày càng m?nh ,làm cho tôi xù lông gà tôi b?t ??u th?y s? ,tôi l?y c?n câu ??nh v? nhà ,tr?i ?! c?n câu ?ang run ..run.. tôi nghi! là con cá nào ?ó dính zùi,tôi c? gi?t th?t m?nh nh?ng không ???c,càng gi?t m?nh thì nó c? kéo vào.....anh...h?..!,cái con nh? này ,mày làm gi?t mình tao mày...!,qua ?ây làm chi? ba kêu anh ?i ?n c?m kà...tao bi?t zùi! . nh? em h?i:” su?t bu?i tr?a ,mà không có con cá nào h?! i tr?i anh nhìn kìa móc câu dính vào cành cây kìa! N?y gi? ?ang kéo cái này ák h?n? v? thui anh ba ?ang ch? ?ó”,? thì v?, tr?i ngh? quê ghê .v? nhà không dám k? v?i ba , th? là ?n c?m xong tôi ch?y sang nhà ông ngo?i ch?i ,tôi ngh?: s?n ti?n k? luôn chuy?n bu?i tr?a nay, vì ông ngo?i là th?y cúng nên bi?t nhi?u chuy?n trong làng l?m ,nh?t là ba cái chuy?n l? h?i tr?a nay ,tôi k? cho ông nghe ,ông nói :”cháu g?p ma zùi ?ó” tr?i thi?t không ngo?i?” ?? ông k? cháu nghe cách ?ây m?y n?m thì nhà ông t? lát có ??a con gái, c? mà không m?t thì gi? g?n 33 tu?i r?i,tu?i tr? l? d?i mang b?u, b? ng??i yêu b? ,c? ngh? qu?n ,cây mít là n?i c? t? t? n?m n?m ?y ,t?t c? nh?ng gì cháu nghe và th?y là c? ??y.” nghe xong x?ng tóc gá ,ngh? ??n là rùn ...mình,à! Ngo?i ?i! cháu không hi?u sao lulu nó hú v?y? nó c?ng th?y h? ngo?i? ,lulu không nh?ng th?y mà còn th?y rõ h?n cháu n?a .cháu bi?t không loài chó là c?n v? trung thành nh?t c?a loài ng??i ,nó xua ?i nh?ng r?i ro,không may c?a loài ng??i, ??c bi?t loài chó th?y ng??i th? gi?i c?i âm thì nó báo cho loài ng??i ??ng th?i còn b?o v? ?? tránh ?i ?i?u không may ?ó .cháu bi?t không khi l?y máu con chó bôi lên m?t , t?i bu?i ?ám tan ng??i ch?m thì s? nhìn th?y m?i ho?t ??ng c?a th? gi?i c?i âm và truy?n này ngo?i ch? k? cháu nghe thôi ??ng b?t tr??c gì c?, vì ngo?i ?ã th?y nhi?u tr??ng h?p nh?ng ng??i mà làm nh? th? này không có k?t qu? t?t ??p gì c?:”không ch?t thì c?ng b? ?iên n?ng” v?y h? ngo?i? “?”. Thôi mây cho cháu ?êu s?i dây bùa không thì b? ‘c? b?t ?i bé con cho c? luôn r?i...haha...”ngo?i này z?n hoài ! Ch?ng ngày hôm sau ông ngo?i ?i cúng t?i cây mít ?? siu h?n ng??i ?àn bà ?ó . The end
0 Rating 875 views 6 likes 0 Comments
Read more
By: On October 13, 2014
" Katê - lễ hội bản địa truyền thống Champa: Sự tiếp nối của văn minh Sa Huỳnh"  ( CHAU DONG KIEU-pleirem)  Nguồn: https://www.facebook.com/groups/LichsuChampa/ Gần đây xuất hiện một chùm ý kiến trái chiều với dòng chảy tự nhiên của truyền thống Kate. Một nhà nghiên cứu hàng đầu người Cham đã có cách tiếp cận, nhìn nhận và đánh giá lễ hội Kate đang thực hiện ở hải ngoại theo một cách khác thường và “phát minh” ra hai định nghĩa khác nhau về Kate mà sự thật, Kate chỉ có một ý nghĩa duy nhất vốn có được các thế hệ người Chăm tiếp nối nhau lưu giử. Tên gọi Kate có thể khác, hình thức tổ chức có thể khác nhau theo thời gian, không gian nhưng “định nghĩa”, nội dung và ý nghĩa Kate thì chỉ có duy nhất một. Kate từng có nhiều tên gọi khác nhau như là lễ hội truyền thống, lễ hội tin ngưỡng bản địa, và là lễ hội dân gian đó là theo GS-TS Trần Ngọc Thêm, TS Phan Quốc Anh. Trong tài liệu nghiên cứu của mình ThS Trương Văn Món, Ngô Văn Doanh và ThS Đàng Năng Hòa cho Kate là lễ hội truyền thống dân gian đặc sắc nhất. Đặc biệt theo nghiên cứu của TS Phan Quốc Anh, ThS Đàng Năng Hòa và tư liệu trong Đại Nam Nhất thống Chí cho rằng Kate là lễ hội dân gian có qui mô lớn như tết nguyên đán. Dân gian là yếu tố bản địa trung tính không phụ thuộc tôn giáo. Theo đa số các nhà Champa học, Kate là lễ hội bản địa dân gian truyền thống. Trong nghiên cứu của Harak Champaka 40, 41 và PGS-TS Po Dharma, Kate chỉ là lễ tục Ahier, lại còn có phát hiện ra định nghĩa khác tại hai hội đoàn Champa ở Hoa Kỳ mâu thuẩn với Kate ở quê nhà. Qua bài viết ngắn này, chúng tôi không có tham vọng nói hết về Kate, vẫn còn nhiều điều bí ẩn cần nhiều nghiên cứu thêm mới giải mã được, chỉ muốn nhấn mạnh ở hai điểm mà độc giả có thể tự mình kết luận được là: 1/. Kate có một định nghĩa duy nhầt hay có thể có hai định nghĩa như Harak Champaka đã tìm thấy ở hai hội đoàn khác nhau tại Mỹ và khác với ý nghĩa Kate bên nhà hay không? 2/. Kate là lễ tục Ahier hay là lễ hội truyền thống dân gian? Do phát hiện mới này, khiến tất cả các bài nghiên cứu liên quan đến Kate, tất cả các DVD, you tube về Kate phải được duyệt lạI, để thấy, và mừng là Kate luôn hoành tráng và sinh động, nhất là Kate 2009 được xem là Kate lớn nhất từ trước đến nay. A/. Kate, có duy nhất một định nghĩa hay nhiều định nghĩa?: PGS-TS Po Dharma định nghĩa Kate, trong trang 15 và 16, Harak CPK 41, cho là theo ý nghĩa Ahier (tàn dư Balamon) Kate là lễ tế Yang Po amư là duy nhất nam thần Shiva; Theo ý nghĩa tín ngưỡng địa phương là lễ tạ ơn ba vị thần linh Po Klaung Garai, Po Rame, Po Ana Nagar, cũng là biểu trưng của thần Shiva và Bhargavati. “..lễ tục Kate truyền thống, một khi đến xứ Hoa Kỳ, đã trở thành hai lễ hội và mang hai ý nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của từng hội đoàn.” Còn Kate bên nhà: Theo báo Du Lịch Việt Nam, Kate: “như là ngày tết, là lễ hội thiêng liêng để tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, tổ tiên ông bà, tạ ơn các thần linh đã giúp mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.” Trong báo Bình Thuận: “ nhằm tưởng nhớ đến những người đã khuất, anh hùng dân tộc, các vị Vua (được người Cham tôn vinh làm thần), tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên.” Theo Sakaya ThS Trương Văn Món: “Đây là lễ hội của người Chăm nhằm tưởng nhớ các vị Nam thần như Pô Klong Garai, Pô Rôme (vua)… Và tưởng nhớ ông bà tổ tiên, trời đất đã phù hộ độ trì cho con người.” Quê hương online cho rằng: “ Kate là tết Cham nhằm tưởng nhớ anh hùng liệt sĩ, tổ tiên ông bà, tạ ơn thần linh”. Theo TS Phan Quốc Anh, đây là lễ trọng như ngày tết nguyên đán, cúng tế thần- vua, cầu cúng thần linh, ông bà tổ tiên phù hộ độ trì, chúc tụng nhau may mắn, phát đạt. Nhiều nhà Champa học đã dẫn ở trên và các báo đài đều ý chung như nhau. Tóm lại Kate có duy nhất một định nghĩa: LÀ LỄ TƯỞNG NIỆM VÀ TẠ ƠN THẦN- VUA, ANH HÙNG, TIỀN NHÂN, ÔNG BÀ, TỔ TIÊN, CẦU MONG AN BÌNH, HẠNH PHÚC CHO CON CHÁU CHAMPA. Căn cứ trên hiện thực nêu trên và thực tế đại lễ Katê tại Hội Bảo Tồn Văn Hóa Champa và Hội Truyền Thống Champa Hoa Kỳ các năm qua, chúng tôi thấy hoàn toàn đúng như Kate bên nhà, cần thiết phải ghi công họ vì đã tổ chức liên tục các Lễ hội Kate mẫu mực để đời cho ngàn năm con cháu mai sau tự hào. B/. Kate là Lễ tục Chăm Ahier hay là lễ hội dân gian?: Theo PGS-TS Po Dharma trang 18, Harak CPK 41: “Trong hệ thống tín ngưỡng người Chăm, cũng như tín ngưỡng của nhiều dân tộc chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo trong khu vực Đông Nam Á, dân tộc Chăm Ahier và Awal chỉ có lễ tục (culte, cérémonie) chứ không bao giờ có lễ hội (fête, festival)”. Ông ta nhìn thấy Kate chỉ là lễ tục Ahier thờ thần Shiva và Bhargavati. Trên lý thuyết và thực tiển trong sinh hoạt tâm linh của người Ahier không có tên Shiva và Bhargavati, như GS-TS Trần Ngọc Thêm trong phần “Balamon và văn hóa Việt Nam” có đề cập: “đối với số đông người dân Chăm, thần Siva, tượng Linga,v.v.. chỉ là hình thức, còn ước vọng phồn thực và lòng sùng kính các nữ thần địa phương, các anh hùng dân tộc mới là nội dung.” Hơn thế nữa, ý nghĩa Kate hôm nay ít hoặc không liên quan đến Shiva, Brahma, Vishnu, hay Bhargavati thuộc văn minh Balamon vì các lẽ sau: 1/. Truyền thống thờ mẫu và văn hóa mẫu hệ không bị phai nhạt, dù trải qua thời kỳ đầu lập quốc Lâm Áp, ảnh hưởng Trung Hoa văn hóa trọng nam, (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) sau đó tiếp thu văn minh Ấn độ trong nhiều thế kỷ, cũng phụ hệ, đến thế kỷ thứ X, nhận thêm văn minh Hồi giáo là phụ hệ, trọng nam. Ngày nay người Cham vẫn nguyên vẹn tôn vinh Po Ana Nagar, là Nữ Thần Mẹ Xứ Sở, được người Việt tiếp thu và lưu giử truyền thống thờ mẫu, với những tên gọi khác như: Thiên Y Ana, Bà Chúa Sứ, Chuà Thiên Mụ, Muk Juk. Đất nước Chămpa lúc cực thịnh là một vương quốc giào có kháp nơi đền đài, dinh thự, vàng bặc châu báo và lễ hội múa hát quanh năm (theo Wikipedia và Đại Việt Sử Ký toàn thư). Một trong các lễ lớn đó chắc chắn là dấu vết của Kate, vì Kate chỉ có duy nhất ở Champa, có sẵn, không là yếu tố ngoại nhập (theo Huỳnh Ngọc Trảng). Phải Chăng đó là lễ hội Po Ana Nagara? Hoặc dể hiểu nhất là tại khởi nguồn Vương quốc Champa, chưa có vua, thì lời tụng của On Kadhar lúc bấy giờ chắc chắn chỉ có một Po Ana Nagar. 2/. Từ thế kỹ 15, Champa là quốc gia hồi gíao: Kể từ thời Po Kabrah (1448-1482/ 1460-1494) các vua ở Pangduranga đều theo Hồi Giáo Bàni, nhưng vẫn còn giử những nghi lễ truyền thống của hoàng gia. Khi đó nếu có Kate thờ Thần- Vua, liệu người Cham có còn chấp nhận Vua là thần Shiva nữa hay không Hay là Vua chính là thiên sứ của Allwah, vẫn mô hình Thần- là Vua trị vì vương quốc Champa?!! Trong triều đình Po Rame, đa số theo đạo Hồi giáo. Quyền lực trong tay nhưng yếu tố bản địa và tàn dư Balamon vẫn được tôn trọng trong các sinh hoạt tâm linh theo phương châm “hoà hợp hòa đồng tôn giáo”. Đó là sự tiếp tục tham dự của Ahier và “Gru urang” trong lễ lớn Kate của dân tộc. Không phải ngẫu nhiên trong lời tụng ca công đức các ngài của On Kadhar có đề cập đến các thần Islam: Po Allwah, Po Li, Po Phuatimâh, Po Biruw, Po Hanim Pan, Nai Mâh Ghang Tang Nagar, v.v. (trong Po Dharma, HCK 41, T.17). 3/. Tháp Cham là của chung Champa, đền thờ Ahier là thang Banrach: Trong lời tụng ca của tất cả các On Kadhar hiện nay trong cung thỉnh, ca ngợi công đức các ngài, và cung tiển, vào dịp lễ Kate, không bao giờ thấy xuất hiện từ Shiva, Vishnu, Brahma, hay Bhargavati. Luôn có tên của các vị vua Champa, là của chung của mọi người Cham, không thể của riêng Ahier. Các tháp Chàm là những tượng đài, lăng tẩm tưởng niệm các vì vua không thể hiểu nhầm là nhà thờ Balamon hay Ahier. Nhà thờ Balamon, hay Ahier là Thang Banrach trụ trì bởi các Po Dhia (theo Mai Tường & Bá Đại Long). 4/. Người Bani có dự Kate Cham không?: Theo lời kể của một cụ già làng Phước Nhơn dịp Kate 1993 trên tháp Po Rame: “Trước 75, dòng tộc Po Rame tại Phước Nhơn dến lễ ngài thường xuyên hằng năm bằng lễ vật và tiền mặt. Chúng tôi tập trung ở thang Po Yang giửa làng Phước Nhơn rồi cùng nhau đến thẳng Danauk Po Rame và lên tháp làm lễ ngài. Nay khó khăn nên thưa thớt hơn.” Theo lời kễ của các nhân sĩ trí thức Cham gốc Islam như mik Yasin Ba, Thanh Ngoc Co, Dohamide và một số bạn trẻ từng là vũ công trong đoàn văn nghệ: “ Kate ở Mỹ từng là ngày hội rất lớn và vui, người Cham Islam đông nên đảm trách hầu hết các khâu chuẩn bị lễ hội Kate…” Được Qasim Từ khẳng định: ““gần 13 năm, kể từ năm 1982 đến năm 1995, Katê trở thành một lễ hội Champa tại hải ngoại (ở Pháp, ở Danmark, ở Hoa Kỳ) do hội CSC-Champa và IOC-Champa tổ chức mà đa số thành viên của hội này là bà con Chăm Bani và Chăm Islam. Và trong ngày đại hội Katê này lúc nào cũng có sự hiện diện của nhiều sắc tộc Champa khác như Jarai, Bahnar, Stieng ở hải ngoại và hai nghệ sĩ Chế Linh (Chăm Ahiér) và Từ Công Phụng (Chăm Islam)” PGS-TS Po Dharma cũng khẳng định trong trang 19 Harak Champaka 41: “…số lượng người Chăm Awal tham gia trong ngày lễ hội Kate tại quê nhà hôm nay rất đông đảo. Sự hiện diện của họ đã chứng minh rằng dù Kate là lễ tục của Chăm Ahier nhưng đã trở thành di sản văn hóa chung của vương quốc Champa mà mỗi người Chăm phải có bổn phận bảo tồn và phát triển.” Năm 2000 và 2004, Lễ hội Kate tại Ninh Thuận co sự tham gia của tất cả các địa phương có người Cham cư trú, có cả Cham Islam Nam Bộ. Gần đây cộng đồng Cham Bani Bình Thuận đã lên làm lễ Katê năm 2009 tại Bimong Po Sah Inư, theo nhiều nguồn tin, báo Binh Thuận, Xalo tin tức và Doanh Nhân Sài Gòn. 5/. Vai trò quan trọng của người Raglai- Lễ rước hoàng bào ngày trước Kate: Đáng chú ý là hoàng bào của Vua từ các đền tháp ở Ninh Thuận và Bình Thuận đều được người Raglai, gia đình Ja Angui, đồng loạt cất giử: ngày cuối tháng 6 (Cham lịch) tất cả các đền tháp đều cử người làm lễ rước hoàng bào từ nhà Ja Angui đến Danauk để ngày Kate đón lên các đền tháp làm lễ. Nghi lễ này hiện nay còn thực hiện tại tháp Po Klaung Garai, Po Rame, Po Sah Inư, Đền Po Inư Nưgar, Đền Po Binthor, Po Dam, Po Klaung Mưnai, nhà thờ hoàng tộc Cham tại Bình Thuận. Vậy thì Kate là lễ hội dân gian chung của dân tộc Cham không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng. C/. Kate là lễ tục hay hễ hội?: Theo PGS-TS Po Dharma trong Harak CPK 41, trang 19: “..lễ tục Kate truyền thống, một khi đến xứ Hoa Kỳ, đã trở thành hai lễ hội và mang hai ý nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của từng hội đoàn.” “…biến lễ tục cổ truyền Kate sang mô hình hiện đại của ngày kỷ niệm bậc tiền nhân Champa cũng như sự dân chủ hóa lễ hội này thành ngày quốc lễ Champa… quyết định ngày quốc lễ và mô hình kỷ niệm anh hùng liệt sĩ Champa.” Và ông ta tự mình trả lời: “Nếu Kate tại Việt Nam hôm nay đã trở thành một ngày lễ rất trang nghiêm trong phần lễ tục và rất linh đình và nhộn nhịp qua phần lễ hội, là vì Kate được tổ chức trong biên giới cổ truyền của nó, từ ý nghĩa của lễ tục cho đến nội dung của lễ hội, không mang nội dung chính trị, không trang điểm màu sắc văn chương đấu tranh, không bài diễn văn và cũng không có lời cảm tưởng, cảm tạ, cám ơn, v.v. chỉ làm phiền hà quần chúng đang chờ xem lễ hội.” Tuy với chung một ý nghĩa, tưởng niệm- tạ ơn tiền nhân, nhưng hình thức thể hiện lại phong phú vô cùng. Ví dụ: năm 2000 tại tháp Po Klaung Garai, phó chủ tịch tỉnh Ninh thuận đọc bài diễn văn khá dài và khá tai tiếng: “…Kate của người Cham Balamon…” để nhận được góp ý ngay từ các nhà nghiên cứu đến tham dự như: Ngô Văn Doanh, TS Nguyễn Chí Bền và nhân sĩ trí thức Cham. Kate làng tổ chức tại văn phòng của Hợp tác xã, thường có một phút mật niệm. Kate tại mỗi gia đình thì sự đa dạng và phong phú đến bất ngờ, tùy điều kiện và cảm nhận của gia chủ. Đây là sự thật vì nhiều người quan niệm rằng có lợi cho con cháu hơn là cho tiền nhân, giúp giáo dục con cháu luôn nhớ về cội nguồn không bị mất bản sắc khi đi xa quê, xa gia đình, nơi chốn thị thành nhiều cám dỗ. Quả vậy, chỉ cần đọc lại các bài mô tả và xem các DVD về Kate, ta có thể cảm nhận được không khí linh thánh của lễ hội, sự sôi động, nhộn nhịp, hoành tráng lạ thường, như không phải do con người tạo nên, chói lòa, bừng vở, lan tỏa khắp nơi từ đền tháp-xã hội- cá nhân, cộng đồng, địa phương, đất nước, vùng người Cham cư trú rất tự nhiên. Vậy thì Kate luôn là lễ hội truyền thống dân gian Champa hoành tráng, đặc sắc và độc đáo nhất Đông Nam Á, vẫn luôn hoành tráng, nhân bản, làm ngây ngất lòng người dù là Cham hay Việt hay người nước ngoài, theo như sự khẳng định của nhà Champa học, TS Phan Quốc Anh: “… lễ hội luôn diễn ra trong một không gian lớn từ các đền tháp đến làng, dòng họ và cuối cùng là gia đình. Katê cũng là dịp để người Chăm từ mọi miền đất nước trở về quê cha đất tổ để cùng đoàn tụ cùng gia đình bạn bè, dòng họ. Lễ hội Katê là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm, là tấm gương phản chiếu sinh hoạt cộng đồng; nơi hội tụ những giá trị tinh hoa văn hóa của dân tộc. Do đó, lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính – nơi hội tụ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật của nền văn hóa Chăm mà còn gắn với những yếu tố khác của văn hóa như: đồ cúng tế, ẩm thực, y phục…Đặc biệt, đến với lễ hội Katê quí khách sẽ thưởng thức một nền âm nhạc độc đáo, với những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nước. Lễ hội còn những phần biểu diễn trước công chúng một nền ca – múa - nhạc dân gian với một phong cách riêng, độc đáo.” D/. Chúng ta cần làm gì? Đến đây thì chúng ta thấy rõ ngày lễ hội Kate là ngày giổ tiền nhân, quốc tổ, và gia tiên Champa, là di sản quý báo, lưu truyền cho muôn đời con cháu mai sau. Người Cham tại hải ngoại, nhất là tại Hoa Kỳ cần đoàn kết và bản sắc trên con đường phát triển và hội nhập, rất nên phát huy những gì cộng đồng mình đã đạt được. Cái khác biệt nếu có trong chúng ta là “cách nhìn nhận về Kate” mà mọi người đều có trách nhiệm. Hãy ngồi lại với nhau, tôn trọng nhau, mọi khác biệt, nếu có, sẽ tiêu tan, để cùng nhìn về một hướng. Giá như những “lễ hội Kate đó”, trong 13 năm (từ 1982 đến1995) tổ chức chung (theo Qasim), được liên tục thì cộng đồng Cham ở Hoa Kỳ có lẽ đã tiến một bước dài, có thể chúng ta đã có một đại diện Dân biểu trong chính quyền tiểu bang, và thấy nhiều đám cưới của con em Cham mình với nhau trên đất Hoa Kỳ này. Dù là Aval, Ahier, Islam, Tin Lành hay Thiên Chúa, chúng ta vẫn còn điểm chung Kate Cham, Champa. Hãy ngồi lại với nhau trước khi quá muộn, lúc chúng ta không còn gì chung để nói chuyện và cải vã nhau. Hãy vì con cháu mà cảm thông tha thứ cho nhau, điều lành sẽ đến với con cháu Champa. p\S CHAU DONG KIEU-pleirem.
0 Rating 868 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On June 5, 2015
Ts. Po Dharma Đại Hội Champa 2015 là diễn đàn dành cho thanh niên Chăm để định hướng lại thế nào là vai trò của họ đối với sự sống còn của dân tộc Chăm trong thế kỷ thứ 21. Trên diễn dàn có nhiều bài phát biểu, trong đó có bài phát biểu bằng tiếng Anh của Pgs. Ts. Po Dharma, một nhà nghiên cứu chuyên về lịch sử và nền văn minh Champa mà chúng tôi chuyễn ngữ sang tiếng Việt.     Những biến cố quan trọng trong lịch sử Champa   Pgs. Ts. Po Dharma (Viện Viễn Đông Pháp)   Champa là một vương quốc cổ chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Giáo, nằm ở miền Trung Việt Nam kể từ thế kỷ thứ 2. Vương quốc Champa theo thể chế liên bang, tập trung 5 tiểu vương quốc: Inrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Dân tộc Champa bao gồm dân tộc Chăm ở vùng đồng bằng và người Tây Nguyên sinh sống ở miền cao. Mỗi dân tộc thường đóng một vai trò riêng biệt trong hệ thống tổ chức chính trị và xã hội của quốc gia này.   Theo kết quả điều tra dân số năm 2009, dân tộc Chăm Việt Nam có hơn 160 000 người và Chăm ở Campuchia, khoảng 200 000. Riêng về người Tây Nguyên, dân số ước tính khoảng hơn một triệu người.   Tổ chức chính trị và xã hội   Trong suốt chiều dài của lịch sử, vương quốc Champa chịu ảnh hưởng của hai nền văn minh riêng biệt. Trước 1471, tức là năm đánh dấu ngày thất thủ thành Đồ Bàn (Vijaya) trước đoàn quân hùng mạnh của Việt Nam, Champa là vương quốc hoàn toàn theo nền văn minh Ấn Giáo, từ phong cách sinh hoạt xã hội, cách cấu trúc gia đình hoàng gia cho đến hệ thống tổ chức tín ngưỡng và ngôn ngữ Phạn. Sau 1471, Champa tìm cách xa lánh dần dần những yếu tố văn hóa và tôn giáo vây mượn từ Ấn Độ để tạo cho mình một nền văn minh mới dựa vào các yếu tố mang tính cách bản địa của tiểu vương quốc Panduranga, pha trộn với nền văn hóa Hồi Giáo do người Mã Lai mang đến kể từ thế kỷ XVI.   Lịch Sử   Trong suốt 800 năm tồn tại từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 10, Champa là một quốc gia hòa bình và thịnh vượng. Sự ra đời của trung tâm Ấn Giáo vô cùng đồ sộ ở Mỹ Sơn (thế kỷ thứ 4-13) được UNESCO công nhận vào năm 1999 là di sản văn hoá của nhân loại và công trình xây dựng nhiều cơ sở Phật Giáo ở Đồng Dương (thế kỷ thứ 8-9) cho thấy rằng Champa là vương quốc có nền văn minh cao độ.   Sự chuyển mình của Việt Nam trên bàn cờ chính trị ở Đông Dương sau ngày độc lập vào cuối thế kỷ thứ 10, là móc ngoặc mới cho tương lai của vương quốc Champa. Kể từ đó, lịch sử của Champa hoàn toàn bị chi phối bởi các cuộc chiến đẫm máu chống lại chính sách mở rộng đât đai về phía nam của dân tộc Việt.   Năm 1069 đánh dấu sự thất bại đầu tiên của Champa trước cuộc nam tiến của Việt Nam. Vào năm đó, Việt Nam đã thành công thôn tính lãnh thổ của Champa nằm ở hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị.   Trong suốt 237 năm đấu tranh để khôi phục lại lãnh thổ bị chiếm đóng vào năm 1069, vương quốc Champa không đạt đến mục tiêu, nhưng cũng không mất một tắt đất đai của mình. Tiếc rằng, vì lời hứa kết hôn với công chúa Huyền Trân, vua Jaya Simhavarman III chấp nhận giao nhượng cho Việt Nam vào năm 1306, một phần lãnh thổ của mình nằm trong khu vực Thừa Thiên-Huế.     Một thế kỷ rưỡi sau đó, tức là vào năm 1471, Việt Nam phát động một chiến dịch quân sự hùng mạnh nhằm tiêu huỷ thủ đô Vijaya (Bình Định), tức là trung tâm quyền lực chính trị và tôn giáo của vương quốc Champa và di dời biên giới phía nam của mình đến đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên).   Từ trái sang phải: Sary (Châu Đốc), Po Dharma, Farina So (Campuchia), Châu Văn Triển (Ninh Thuận), Từ Công Thu (Ninh Thuận), Gs. Coroline Valverde   Theo chúng tôi, sự thất thủ thành Đồ Bàn vào năm 1471 không đánh dấu cho sự suy vong của vương quốc Champa, mà là sự sụp đổ của nền văn minh Ấn Giáo đã từng thống trị đời sống chính trị và tâm linh của dân tộc Champa trong suốt 13 thế kỷ.   Và sau ngày thất thủ Vijaya vào năm 1471, cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt phải đối mặt với sự kháng cự vô cùng mãnh liệt của nhân dân Panduranga, một tiểu vương quốc nằm phía nam của Champa. Bởi vì Việt Nam phải mất hơn ba thế kỷ rưỡi để chiếm trọn lãnh thổ đất đai của tiểu vương quốc nhỏ bé này.             Năm 1611, Việt Nam xua quân xâm chiếm Phú Yên và tiến vào Nha Trang vào 1653. Ba năm sau, tức là năm 1658, Việt Nam chiếm đóng Saigon và đưa đẩy Champa vào một tình thế địa dư mới: Vương quốc Champa đã trở thành một vùng trái độn nằm ngay trong lãnh thổ của Việt Nam.   Năm 1692, Việt Nam mở thêm cuộc tấn công chống lại vương quốc này, thay đổi tên gọi Champa (Chiêm Thành) thành Trấn Thuận Thành và biến Champa thành quốc gia đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Huế.   140 năm sau, tức là năm 1832, hoàng đế Minh Mệnh quyết định xóa bỏ danh xưng Champa trên bản đồ Đông Dương và khởi động chiến dịch tiêu diệt dân tộc Champa vô cùng dã mang và tàn bạo về tội theo Lê Văn Duyệt để chống lại triều Huế.   Vào năm 1841, hoàng đế Thiệu Trị bãi bỏ chính sách của vua cha (Minh Mệnh) đối với người Chăm và ban cho dân tộc này một qui chế tự trị dưới lá cờ của Huyện Thổ Dân, tức là huyện dành riêng cho người Chăm bản địa.   Tình hình sau năm 1832   Vào cuối thế kỷ XIX, chính quyền Pháp ở Đông Dương đưa ra chính sách nhằm bảo vệ dân tộc Tây Nguyên và Chăm trước mối đe dọa của sự diệt chủng. Ngày 27-5-1946 chính quyền Pháp hình thành “ Quốc gia người Thượng ở miền nam Đông Dương” (Pays Montagnard du Sud Indochinois-PMSI), tức là lãnh thổ tự trị dành dành cho dân tộc Tây Nguyên, đặt dưới quyền kiểm soát của chính phủ Pháp thuộc.   Ngày 21-5-1951, “Quốc gia người Thượng ở miền nam Đông Dương” trở thành khu vực “Hoàng Triều Cương Thổ” của triều đình Huế, nhưng hưởng quyền tự trị đặt dưới quyền chỉ đạo của chính phủ Pháp.   Cũng vào thời điểm đó, dân tộc Chăm trở thành cộng đồng đặt dưới quyền cai trị của chính phủ Pháp ở Đông Dương, theo Hiệp ước Harmand đã ký vào ngày 25-8-1883 tại Huế. Theo hiệp ước này, người Chăm nộp thuế trực tiếp cho chính phủ Pháp và có một lãnh thổ tự trị do người Chăm quản lý.   Năm 1955, Ngô Đình Diệm lên nắm quyền ở miền Nam Việt Nam, đưa hàng trăm ngàn người Việt lên định cư ở vùng cao nguyên Champa. Biến cố này đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tồ chức xã hội và gia đình của người dân bản địa, kéo theo những cuộc xung đột hàng ngày giữa hai dân tộc: Việt và Tây Nguyên.   Trước sự hiện diện quá đông đảo của người Kinh trên cao nguyên, người Thượng và Chăm tìm cách vùng dậy để bảo vệ lợi ích kinh tế và quyền tự quyết của mình dưới ngọn cờ của phong trào Bajaraka ra đời vào năm 1955 và tổ chức vũ trang Fulro vào năm 1964.   Để giải quyết những yêu sách của Fulro, chính quyền Sài Gòn công nhận phong trào Fulro là một lực lượng đấu tranh chính trị có pháp lý để bảo vệ quyền lợi của người dân bản địa. Ngày 16-12-1967, chính quyền Sài Gòn ký nghị định hình thành Bộ Phát Triển Sắc Tộc có trách nhiệm điều hành các chương trình có mối liên hệ với dân tộc Tây Nguyên và Chăm, và chấp nhận Bộ Trưởng của Bộ Phát Triển Sắc Tộc là người bản địa đã từng tham gia trong phong trào Fulro. Thông qua chính sách này, dân tộc Tây Nguyên và Chăm có cơ hội để làm chủ trên định mệnh của mình, tìm lại bản sắc chính trị, văn hóa và nhân phẩm của họ với tư cách là người dân bản địa.   Tình hình dưới chế độ cộng sản   Năm 1975, đoàn quân miền bắc chiếm đóng miền nam và xây dựng chế độ theo chủ nghĩa cộng sản. Biến cố này đã làm đảo lộn hoàn toàn hệ thống tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, đạo đức và tâm linh của dân tộc Tây Nguyên và Chăm.   Trước năm 1975, dân tộc Tây Nguyên và Chăm sống chủ yếu về ngành nông nghiệp và hưởng qui chế tự trị. Cũng nhờ qui chế đặc biệt này, dân tộc Tây Nguyên và Chăm làm chủ tuyệt đối trên nền kinh tế của mình và nắm sẳn trong tay bao quyền lực để phát triển các cấu trúc xã hội và gia đình của họ và sống một cuộc sống thanh bình và thịnh vượng.   Vừa nắm chính quyền vào năm 1975, chế độ cộng sản quyết định xoá bỏ quyền sở hữu của người Thượng và Chăm, tịch thu tất cả đất đai tư nhân và cộng đồng của dân tộc này nhưng không bồi thường một cách thỏa đáng những tài sản của họ bị tịch thu.   Đối với người Chăm và Tây Nguyên, quốc hữu hóa đất đai của dân tộc bản địa không phải là cuộc cải cách đất đai để xóa bỏ sự độc quyền về kinh tế, mà là hành động cướp đoạt tài sản của họ bằng vũ lực một cách trắng trợn.   Sống trong chế độ không công ăn việc làm và cũng không có quyền sở hữu đất đai, người Chăm và người Thượng trở thành tập thể đang lâm vào cảnh nghèo đói và bần cùng.Tình hình kinh tế thảm khốc này đã buộc các giới thanh niên bản địa rời khỏi thôn làng để tìm công ăn việc làm trong các thành phố lớn. Lợi dụng cơ hội này, các công ty Việt Nam không ngừng tìm cách biến giới thanh niên Chăm và Tây Nguyên trở thành tập thể nô lệ của thời đại mới: nộ dịch vô cùng vất vả với đồng lương vô cùng thấp, nhưng còn bị đối xử tồi tệ và không có bảo hiểm y tế một khi bệnh tật hay gặp tai nạn.   Người dân bản địa vốn đã nghèo lại càng nghèo thêm. Để tìm miếng cơm sống qua ngày,người Chăm và Tây Nguyên phải tìm cách vây mượn tiền bạc người Kinh để phát triển kinh tế với số lãi vượt hơn 100% hàng năm. Vì không có phương tiện để trả nợ, người dân bản địa chỉ còn có cách là mang cả đất đai và tài sản của mình để nộp cho chủ nợ người Kinh.   Nghèo đói và bần cùng là hai yếu tố có tầm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và nền giáo dục của những người Thượng và Chăm. Đối với dân tộc này, mối quan tâm chính của họ không phải là vấn đề giáo dục đối với con em của họ, mà là làm thế nào để tìm được 15.00 đola mỗi tháng hầu nuôi gia đình.   Sống trong một đất nước mang danh nghĩa là Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, người Chăm và Tây Nguyên không được hưởng qui chế bảo hiểm xã hội một khi lâm vào bệnh tật hoặc tai nạn. Để được có giấy phép vào bệnh viện, người Thượng và Chăm phải nộp trước tiên tiền lệ phí đăng ký, chi phí thuốc men và giường ngủ. Nếu không có phương tiện tài chính, người dân bản địa không có quyền hưởng sự chăm sóc thuốc men cần thiết, một khi lâm vào bệnh tật.   Trong lúc các cuộc cải cách ruộng đất đang tiến hành vào năm 1975, nhà nước Việt Nam tung ra hàng loạt bộ máy cải tạo nhằm biến người Tây Nguyên và Chăm thành tập thể vô sản, luôn luôn trung thành với chế độ cộng sản. Chính quyền Hà Nội còn ngân cấm những người dân bản địa phát triển di sản văn hóa và tôn giáo của họ mà Đảng Cộng sản xem đó là các tập tục mê tín dị đoan.   Việt Nam là quốc gia theo chế độ độc tài và đảng trị, ngân cấm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp. Những nhà bất đồng chính kiến luôn luôn bị sách nhiễu, hăm dọa, tra tấn và bỏ tù. Đối với chính quyền Hà Nội, dân tộc Chăm và Tây Nguyên chỉ là thành phần ủng hộ chế độ cũ Sài Gòn, là nhóm đánh thuê cho quân đội Mỹ và là những kẻ phản động theo tổ chức Fulro. Chính vì nguyên nhân đó mà hai dân tộc bản địa này đã trở thành nạn nhân đầu tiên của chế độ cộng sản.   Đàn áp tôn giáo, hạn chế tự do, hoàn cảnh nghèo đói và bần cùng đã trở thành yếu tố cơ bản giải thích cho những cuộc vùng dậy lớn của những người Tây Nguyên vào năm 2001 và 2004 nhằm chống lại chính sách của Hà Nội, kéo theo phong trào di dân lớn của người Thượng sang Campuchia.   Ts. Po Dharma đang ký tặng tác phẩm Lịch sử Champa     Kết Luận   Việt Nam là quốc gia đã ký vào Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về “Quyền của dân tộc bản địa”, được thông qua vào năm 2007. Kể từ khi ban hành Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc, chính quyền Hà Nội chưa thực hiện một dự án gì để cải thiện tình hình của dân tộc Chăm và Tây Nguyên bản địa tại quốc gia này.   Hôm nay, Việt Nam vẫn tiếp tục lặp đi lặp lại rằng người Chăm và Tây Nguyên hôm nay chỉ là thành phần dân tộc thiểu số, chứ không phải người dân bản địa, mặc dù hai dân tộc này đã có mặt ở miền Trung Việt Nam kể từ thế kỷ thứ hai. Thái độ này đã chứng minh rằng chữ ký của Việt Nam trên bản Tuyên Ngôn về "Quyền của dân tộc bản địa" chỉ là hiệp ước quốc tế không có giá trị gì.   Sau năm 1975, các cơ cấu tổ chức kinh tế, xã hội và gia đình của người Tây Nguyên và Chăm đang đối mặt với bao sự thay đổi, kể từ khi cộng sản lên nắm chính quyền. Thêm vào đó, chính quyền Hà Nội xoá bỏ quyền tự quyết dành cho người Tây Nguyên và Chăm được ban hành dưới thời Việt Nam Cộng Hoà. Việc bãi bỏ qui chế đặc biệt này không cho phép người dân bản địa có quyền tự do phát triển hệ thống kinh tế, xã hội, gia đình và văn hóa của họ nữa.   Vì quá đơn phương đối mặt với chính sách “Việt Nam hóa” của chế độ cộng sản, không ai có thể tiên đoán rằng liệu dân tộc Tây Nguyên và Chăm có thể tồn tại với tư cách là người dân bản địa tại Việt Nam trong những thập niên sắp tới của thế kỷ 21 này. theo Champaka.info
0 Rating 833 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On May 8, 2016
+Văn hoá Sa Huỳnh Khu vực ven biển miền Trung Việt Nam từ Quảng Bình đến Bình Thuận và một phần Tây Nguyên từ lâu đã là địa bàn sinh tụ của các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo - Polynesien, trong đó người Chăm là đông nhất.   Phát hiện khảo cổ học về các khu cư trú và mộ táng của người cổ ở vùng này cho thấy có một trung tâm nông nghiệp trồng lúa thuộc thời đại kim khí phát triển từ tiền Sa Huỳnh tới Sa Huỳnh với các giai đoạn văn hóa Xóm Cồn (Khánh Hòa), văn hóa Long Thạnh, văn hóa Bình Châu và văn hóa Sa Huỳnh liên tục cách ngày nay khoảng 3.500 - 2.200 năm. Thời tiền Sa Hùynh, cư dân cổ tại đây sở hữu những đồ đất nung gồm chum, vò hình trứng có nắp đậy trang trí hoa văn thừng, khắc vạch… được tô màu, miết láng. Thời Văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) cư dân đã có nhiều nghề cơ bản: đúc đồng, rèn sắt, làm gốm, dệt vải, nấu thủy tinh, chế tạo đồ trang sức và buôn bán thương mại mà di vật còn lại là các loại khuôn đúc đồng, xỉ đồng, công cụ và vũ khí bằng sắt, đồ trang sức bằng đá quý, thủy tinh trong đó có vật đeo hai đầu thú, các loại khuyên tai đa dạng: loại khối tròn phía ngoài có 3 mấu hình tam giác, loại tròn phình quăn như con đỉa… làm bằng đất nung, đá quý hoặc thủy tinh, kim loại đồng… và đồ gốm với các hình dạng, hoa văn đặc trưng: bát chân cao có hai lỗ dưới chân trang trí văn chấm dải, nồi miệng loe có hai lỗ trên cổ… đặc biệt là tục chôn người chết trong các loại vò gốm [51, tr.11] với đủ loại đồ tùy táng như đồ trang sức, đồ gốm, vũ khí… được chế tác tinh xảo. Văn hóa Sa Huỳnh được xem là tiền đề của văn hóa Champa. Bát chân cao:  Bát được tạo hình như một chiếc đĩa bồng chân cao hơi loe nhưng đường kính chân chỉ nhỏ bằng nửa so với miệng bát. Vành miệng có thành hơi xiên. Bát được nặn bằng tay, nung nhẹ lửa, văn chấm dải. + Văn hoá Chămpa (TK II- TK XVII) Năm 179 tr. CN, mảnh đất miền Trung - Sa Huỳnh cùng chung số phận với Âu Lạc - Đông Sơn khi Triệu Đà xâm lược. Năm 111 tr. CN, miền đất này thuộc nhà Hán, được gọi là quận Nhật Nam. Nhưng cùng với nhân dân Giao Chỉ và Cửu Chân ở phía Bắc, nhân dân Nhật Nam nhiều lần khởi nghĩa đòi quyền độc lập và đã trở thành bộ phận đầu tiên giành được độc lập: Năm 192, Khu Liên (Srimara?) lãnh đạo nhân dân huyện Tượng Lâm thuộc Nhật Nam đuổi được quân Hán thành lập nước với tên gọi là Lâm Ấp có nghĩa là xứ rừng. Đến TK VII, Sambhuvarman (Phạm Chí) khẳng định tên nước là Champa mà thủ đô trước đó ở Sinhapura (Trà Kiệu). Tuy nhiên người Trung Quốc lại gọi Champa là nước Hoàn Vương (758 - 859) và sau đó gọi là nước Chiêm Thành. Lịch sử Champa hiện nay còn nhiều điểm chưa rõ ràng nhưng về đại thể có thể chia làm các giai đoạn như sau:  - Giai đoạn Sinhapura - Trà Kiệu (192 - 750): bước đầu thống nhất.  - Giai đoạn Virapura (750 - 850): khẳng định vị thế.  - Giai đoạn Indrapura - Đồng Dương (850 - 982): bắt đầu phát triển  - Giai đoạn Vijaya - Bình Định (982 - 1471): thịnh đạt và đi vào khủng hoảng.  - Từ năm 1471, khi bị vua Lê Thánh Tông chia làm 3 nước nhỏ, vương quốc Champa chấm dứt sự tồn tại. Sau đó, các chúa Nguyễn Đàng Trong dần kiểm soát đất đai còn lại của Champa, năm 1693, kiểm soát miền đất cuối cùng Phan Rang - Bình Thuận. Tuy nhiên người Chăm vẫn được chúa Nguyễn và nhà Nguyễn phong vương kéo dài đến năm 1822 khi vua Chăm cuối cùng là Po Chơn Chan bỏ sang Campuchia thì vương triều Champa thật sự chấm dứt.  Dân tộc Chăm cơ bản được hình thành từ hai thị tộc: Cau (Caramukar) ở phương Nam và Dừa (Narikelanamsa) ở phương Bắc. Về không gian sinh tồn, vương quốc Champa có 5 vùng: Amaravati tương ứng với Quảng Bình - Huế, Indrapura (Quảng Nam – Đà Nẵng), Vijaya (Quy Nhơn – Bình Định) với kinh đô là thành Chà Bàn (Đồ Bàn), Kauthara (Khánh Hòa), Pandurangar (Bình Thuận – Đồng Nai).  Qua hàng ngàn năm lịch sử, nhân dân Champa đã xây dựng nên một nền văn hóa độc đáo mang đậm tính bản địa và chịu ảnh hưởng tôn giáo Ấn Độ trong đó chủ yếu là Bà la môn giáo và Phật giáo. Trong đạo Bà la môn, người Chăm tôn thờ Shiva trong tam vị nhất thể, Vishnu và Brahma ít quan trọng hơn. Từ khoảng thế kỷ XI đạo Hồi xuất hiện trong cộng đồng Champa.  Champa đã để lại một khối lượng di tích và di vật rất lớn về kiến trúc, điêu khắc đá, các loại đồ đồng, đồ gốm, đồ thờ cúng bằng vàng, bạc, các loại đồ trang sức… các loại hiện vật này phản ánh những nét sinh hoạt trong xã hội Champa xưa, từ đời thường đến tôn giáo và cung đình, chúng có giá trị về nhiều mặt, nhất là về nghệ thuật. Đặc biệt có một quần thể kiến trúc đền tháp thuộc tôn giáo của Chămpa ở Mỹ Sơn (Quảng Nam) còn gọi là “thánh địa Mỹ Sơn” được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới vào tháng 12 năm 1999. Ngoài ra, người Chămpa còn để lại các di sản ca múa nhạc thể hiện một phần trên điêu khắc đá: các tượng vũ công hoặc người chơi nhạc cụ.  - Kiến trúc Champa chủ yếu là các loại đền tháp (kalan) bằng gạch được xây dựng theo một kỹ thuật đặc biệt với nghệ thuật chạm khắc tinh xảo trên gạch. Trong quá trình tồn tại, người Champa đã xây dựng hàng trăm đền tháp nhằm thờ cúng thần và các vị vua, tuy nhiên khi người Champa suy yếu các tháp đã bị bỏ hoang và bị phá hoại nghiêm trọng, hiện nay còn lại khoảng 70 tháp, rải rác ở Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Đaklak... tập trung nhiều ở Quảng Nam, nhất là Mỹ Sơn nơi được coi là vùng đất thánh dùng xây đền tháp thờ các vị vua đã qua đời mà mỗi vị vua được xây dựng một cụm kiến trúc gồm 4 tháp (tháp cổng, tháp nước, tháp lửa và tháp thờ). Tháp Chăm thường có mặt bằng vuông, dùng gạch làm vật liệu xây dựng chính, chỉ có một ít bộ phận bằng đá như mi cửa, trụ cửa, bậc cửa. Mỗi tháp có ba tầng, nhỏ dần khi lên cao theo dạng núi Meru - nơi trú ngụ cùa các thần Bà la môn, tháp chỉ mở một cửa chính hướng về phía Đông, 3 cửa còn lại đóng kín. Theo quan niệm của người Chăm thì hướng Đông là hướng của thần linh, Bắc là hướng của ma quỷ, Tây Nam là hướng của dân chúng nên nhà cửa của người Chăm thường mở cửa về hướng Tây Nam.  - Điêu khắc đá Champa là một bộ môn nổi tiếng được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX. Các nhà nghiên cứu đã định ra được các phong cách tạo hình của Champa từ giai đoạn trước TK VII (chịu ảnh hưởng nghệ thuật Amaravati của Ấn Độ) cho tới giai đoạn nửa sau TK VII trở đi, đã tạo ra được những nét riêng của điêu khắc đá Champa qua 8 loại phong cách: Mỹ Sơn E1, Hòa Lai, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chánh Lộ, Tháp Mắm, Yang Mun, Pô Rô Mê. Hiện nay sưu tập điêu khắc Champa tập trung ở các Bảo tàng Lịch sử Hà Nội, Bảo tàng Chăm Đà Nẵng, Bảo tàng Tổng hợp Huế, Bảo tàng Bình Định và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam –Tp. HCM. Nghệ thuật điêu khắc Champa rất phong phú với nhiều tác phẩm phù điêu, tượng tròn gắn với sinh hoạt tôn giáo Bà la môn, trên những tác phẩm này thường bắt gặp nét chủng tộc, y phục, trang sức Chăm hòa trộn với hình ảnh các vị thần Bà la môn, hoặc những nét tả thực cũng như cách điệu thể hiện trong hình ảnh con người, loài vật… hết sức sinh động. - Nữ thần Devi: Được tạo tác bán thân, tóc búi kiểu hình tháp, lông mày liền nhau, mắt mở to, sống mũi thẳng, cân đối, miệng hơi nở nụ cuời tạo nên khuôn mặt xinh đẹp, hài hòa, tượng để hở bộ ngực tròn căng sức sống nhưng lại tạo nên một cảm giác thánh thiện. Theo truyền thuyết, nữ thần Devi có tên Champa là Rija kula hara Devi, là vợ của vua Indravarman II, người sáng lập triều đại Đồng Dương, triều đại Phật giáo vào thế kỷ thứ IX. Vì Devi có công với đất nước, đặc biệt là thường giúp đỡ những người nghèo, cô nhi quả phụ, nên sau khi mất bà được phong thần và được vua Jaya Shinhavarman I dựng tháp thờ.    - Thần Shiva: Shiva là thần Bà la môn giáo được người Chăm thờ cúng và tôn vinh là vị thần tối cao. Khoảng TK IV, sự tôn thờ Shiva một cách tuyệt đối của các vua Champa khởi đầu bởi vua Bhabravarman đã hình thành một tôn giáo chuyên thờ thần Shiva gọi là Shiva giáo mà từ đó ra đời khu “thánh địa Mỹ Sơn”. Shiva vừa mang tính hủy diệt vừa mang tính sáng tạo, vừa được coi là hung thần phá hoại, hủy diệt muôn loài vừa là phúc thần bảo vệ đời sống của cư dân Champa. Shiva thường thể hiện dưới dạng một nam nhân có ba con mắt với mắt thứ ba ở giữa trán, ba mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, ngọn lửa thế gian, và có thể nhìn thấy hết quá khứ, hiện tại, tương lai. Tay Shiva có khi cầm đinh ba biểu tượng cho sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, có khi cầm rìu biểu hiện cho sự tuyệt đối hoặc cầm cây kiếm xua đuổi những sợ hãi và một tay ban phúc lành. Shiva cũng là vị thần tổng hợp, vạn sự đều qui tụ vào đó, khác nào như biển là nơi qui tụ tất cả mọi dòng nước trong, nước đục.  Biểu tượng của Shiva là Linga. Linga cũng là biểu hiện của tam vị nhất thể với chỏm đầu hình cầu tròn là Shiva, phần giữa là Vishnu có tám cạnh và phần cuối là Brahma có bốn cạnh. Chiếc Linga đầu tiên xuất hiện dưới triều vua Bhadravarman thế kỷ IV. Nhà vua cho xây tại thánh địa Mỹ Sơn một đền thờ thần Shiva Bradravarman, mà biểu tượng là một Linga. - Thần Ganesha: Là con của Shiva và Parvati, được thể hiện dạng đầu voi mình người với cái bụng to ăn quá no bị vỡ phải quấn con rắn Naduki bó lại. Theo thần thoại Ấn Độ, thần Ganesha có đầu voi là vì do trong một cơn nóng giận, Shiva lỡ chặt mất đầu Ganesha. Ngay sau đó Shiva sửa chữa sai lầm bằng cách lập lời nguyền sẽ lấy đầu kẻ nào gặp trước tiên để gắn vào thân hình Ganesha cho Ganesha sống lại, nhưng sinh vật mà Shiva gặp đầu tiên sau khi chém con mình lại là một chú voi nên Ganesha đành mang đầu voi mình người. Ganesha được coi là thần tài, thần hạnh phúc. Ở những quốc gia theo Ấn giáo, Ganesha rất được sùng kính. Ganesha Chăm được thể hiện như trong thần thoại với tư thế ngồi, đầu đội vương miện, có con mắt thứ ba giữa trán,bụng cuốn con rắn Naduki. Tượng bị mất cả 2 cánh tay.   - Sư tử (Trà Kiệu – Quảng Nam, TK X - XI) Sư tử, người Chăm gọi là “Rimon”, là hình tượng phổ biến trong điêu khắc Champa, đặc biệt là ở kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử) - Trà Kiệu. Sư tử là con vật không có ở Champa nhưng vua chúa Champa lại dùng sư tử biểu hiện cho vương quyền. Theo quan niệm của người Chăm sư tử biểu tượng cho quý tộc, cho sức mạnh vì theo truyền thuyết, sư tử là một trong mười kiếp hóa thân của thần Vishnu và đã giết được quỷ Hiraya Kapipu. Sư tử Champa thường được tạo thân hình vạm vỡ với các tư thế đứng, ngồi, quỳ, phổ biến là tư thế đứng. Nghệ nhân thể hiện sư tử không hoàn toàn đúng theo đời thường nhưng lại được mang rất nhiều đồ trang sức.  - Đồ gốm: Nghề gốm ở Champa ít được biết đến. Khoảng nửa cuối TK XX mới có một số công trình đề cập về gốm Champa nhưng từ đó đến nay những hiểu biết về dòng gốm này vẫn còn ít ỏi so với lãnh vực kiến trúc và điêu khắc của vương quốc Chămpa. Tuy nhiên điều chắc chắn là đã từng tồn tại những lò gốm cổ trong địa bàn cư trú của người Chăm ở Bình Định như các lò Gò Sành, Gò Hời, Gò Trường Cửu, Gò Cây Me, Gò Ké… mà niên đại thuộc thời Vijaya. Điểm quan trọng khác là sản phẩm loại gốm này chủ yếu được phát hiện trong những công trình khảo cổ không những ở Hoa Lư, Thăng Long thuộc Đại Việt, Đại Làng, Đại Lào (Lâm Đồng) mà còn tìm thấy trên con tàu đắm ở Padanan (Philippine), ở cảng Altur thuộc bán đảo Sinai (Trung Cận Đông) [31, tr.236-242] … Điều đó cho thấy gốm Champa thực sự là một loại sản phẩm có chất lượng được tin tưởng sử dụng ở ngoài Champa. Đây có lẽ cũng là một dạng gốm xuất khẩu mà không sử dụng trong nội địa tương tự như gốm Chu Đậu Việt Nam thời Lê.   Sản phẩm gốm Champa rất đa dạng từ các loại gạch, ngói, vật trang trí phục vụ việc xây đền tháp, thành trì hoặc kiến trúc nhà ở cho đến các loại đồ đựng như bát đĩa hũ chóe, âu, bình, vò... Gốm đồ đựng Champa có nét riêng về dáng kiểu và đặc biệt là màu men với các loại men nâu ngả đen, da lươn, men ngọc, men sắt… mà bao giờ phần chân hiện vật cũng được để mộc. Gốm đồ đựng Champa được trang trí kiểu khuôn in, đắp nổi hoặc khắc vạch với những họa tiết hoa sen, dây lá, hình kỷ hà, sóng nước, mặt Kala… cho thấy đây là những thủ pháp trang trí đặc thù của các loại men độc sắc TK XIII - XIV trước khi xuất hiện gốm men xanh trắng. - Lokesvara (Thế tự tại Bồ tát) Người Champa xem Lokesvara là hình thức thể hiện sự kết hợp giữa Shiva (Bà la môn giáo) và Avalokitesvara (Phật giáo) với hình tượng nam nhân, được thờ phổ biến nhất tại vùng Indrapura (Đồng Dương - Quảng Nam), nơi đây tìm thấy nhiều tượng Lokesvara bằng kim loại (đồng, vàng, mạ vàng hoặc bạc) đa số được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam – TP. HCM và Bảo tàng Chàm Đà Nẵng. Lokesvara được thể hiện trong tư thế đứng hoặc ngồi, ngực nở eo thon, mang nhiều trang sức ở tai, cổ, bắp tay, cổ tay, cổ chân… khuôn mặt đầy đặn. Đôi mắt mở, tóc búi cao có miện chạm Avalokitesvara. Tượng thường có hai tay, cầm hoa sen, chuỗi hạt hoặc bình nước cam lồ. Nghệ nhân Champa đã thể hiện Lokesvara với ý nghĩa thuần túy bằng trực giác, những biểu trưng của Phật giáo phù hợp với ước vọng và niềm tin của xã hội Champa xưa.   - Tượng Phật Đồng Dương - TK IV Người Chăm gọi Đức Phật là “phịh”. Tượng Đồng Dương mặc áo choàng hở vai trong tư thế đứng trên tòa sen, tóc hình bụt ốc, tai dài gần đến vai, đôi mắt mở, khuôn mặt thon và đầy đặn.  Tượng Phật được thể hiện khá vạm vỡ, mang đậm phong cách Ấn Độ đến nỗi có nhà nghiên cứu cho rằng tượng được mang từ Ấn Độ sang. Trong các công trình nghiên cứu về Champa, nghề đúc đồng ít được quan tâm nhưng có một điều đáng lưu ý là trong các di vật Champa hầu như không có tượng Phật bằng đá và ngược lại không thấy các loại tượng Bà la môn được đúc bằng đồng. Ảnh hưởng của Phật giáo với Champa thể hiện mạnh nhất vào thời kỳ Indrapura. Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn Xem Ảnh lớn   Theo baotanglichsuvn.com  
0 Rating 800 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On February 18, 2015
Ngoài những bãi biển hoang sơ như Ninh Chữ, Cà Ná và Bình Tiên, tỉnh Ninh Thuận còn nổi tiếng với nền văn hóa đậm chất Chăm từ kiến trúc, lễ hội cho đến làng nghề truyền thống mang vẻ đẹp độc đáo. Thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, Ninh Thuận là tỉnh có đông người Chăm sinh sống nhất cả nước. Bởi vậy khi đến đây, du khách như bước vào một thế giới mới lạ, đầy hấp dẫn với những công trình kiến trúc của Vương quốc Chăm Pa xưa kia, nổi bật nhất là 3 cụm tháp Hoà Lai, Po Klong Garai và Po Rome. Cụm tháp Pôklông Garai được coi là trung tâm rực rỡ nhất của văn minh Chăm.Ảnh: dulichninhthuan. Tháp Chăm Tháp Pôklông Garai là tên gọi chung cho một cụm tháp Chăm hùng vĩ và đẹp nhất còn lại ở Việt Nam, thuộc kinh đô Panduranga của Vương quốc Chăm cổ, nay là thành phố Phan Rang. Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nằm trên đỉnh Đồi Trầu, phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố 9 km về phía Tây Bắc. Từ xa, du khách có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh tháp Pôklông Garai với màu đỏ gạch đặc trưng, nổi bật giữa nền trời xanh biếc. Bước vào tháp, bạn sẽ không khỏi ngạc nhiên bởi những hoa văn điêu khắc tinh xảo trên vòm cửa, trụ ốp, diềm mái được lưu giữ nguyên vẹn sau bao thăng trầm của thời gian và tàn phá khắc nghiệt của khí hậu. Vẻ đẹp bí ẩn pha chút rêu phong, hoài cổ của mỗi ngôi tháp luôn để lại những dấu ấn khó phai trong lòng du khách Nếu có thời gian, bạn nên đến tháp Hòa Lai, huyện Ninh Hải, cách Phan Rang 14 km về phía Bắc và tháp Po Rome, huyện Ninh Phước, cách Phan Rang 25 km về phía Tây Nam để hiểu thêm về nghệ thuật và tôn giáo của người Chăm cũng như một phần văn hóa của người dân tộc nơi đây. Làng nghề truyền thống Ngoài các công trình kiến trúc độc đáo, các làng nghề truyền thống cũng là điểm đến thu hút du khách trong hành trình khám phá Chăm Pa. Làng gốm Bầu Trúc là một trong số đó. Nằm ven quốc lộ 1A, thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, Bầu Trúc được xem là một trong những làng gốm cổ xưa nhất của Đông Nam Á. Vẻ đẹp mộc mạc và kỹ thuật chế tác thô sơ của gốm Bàu Trúc thu hút sự khám phá của nhiều du khách. Ảnh: Báo Ninh Thuận. Điểm ấn tượng nhất với du khách khi thăm làng nghề là cách thổi hồn vào gốm của những người phụ nữ Chăm, thông qua đôi bàn tay khéo léo thay vì sử dụng bàn xoay. Bởi vậy mà bất cứ ai đến Ninh Thuận cũng muốn một lần tận mắt chứng kiến công đoạn làm gốm độc đáo này, để rồi yêu thêm vẻ đẹp bình dị nhưng vô cùng sắc nét của các sản vật gốm nơi đây. Ngay bên cạnh làng Bàu Trúc, làng Mỹ Nghiệp cũng là một điểm đến thú vị với nghề dệt thổ cẩm truyền thống, giúp bạn hình dung bức tranh toàn cảnh về đời sống và con người Chăm Pa. Lễ hội Bên cạnh các giá trị vật thể, văn hóa phi vật thể của người Chăm ở Ninh Thuận cũng phong phú với hơn 100 lễ hội diễn ra quanh năm, trong đó tiêu biểu phải kể đến là lễ hội Ka-tê tổ chức ở tháp Chăm vào tháng 7 lịch Chăm hàng năm. Đây là lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hoá của người Chăm, phản ánh sinh hoạt của cộng đồng người địa phương. Ka-tê là lễ hội văn hóa lớn nhất của người Chăm. Ảnh Báo Ninh Thuận. Du khách không chỉ được thưởng thức một nền nghệ thuật ca - múa - nhạc dân gian với phong cách độc đáo tại lễ hội này mà còn được say sưa trong tiếng trống Gi năng, kèn Saranai và hoà mình cùng điệu múa của các thiếu nữ người Chăm. Bên cạnh đó là vô vàn các lễ hội hấp dẫn khác đang chờ bạn khám phá như lễ cầu đảo, lễ hội Chabun, lễ hội Lamuwan, lễ hội cầu ngư... Du khách đến Ninh Thuận từ TP HCM có thể bắt xe khách hoặc tàu hỏa lên thành phố Phan Rang. Nếu đi từ Hà Nội, bạn có thể bay thẳng đến sân bay Cam Ranh rồi đi ô tô thêm 60 km. Ninh Thuận nổi tiếng là vùng đất của nắng và gió với tiết trời khô nóng, vì vậy bạn nên luôn mang theo nước bên người. Ngoài ra, tránh đi vào mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 11. Đến Ninh Thuận, bạn cũng đừng quên nếm thử các món ngon chế biến từ thịt dê – một phần không thể thiếu trong ẩm thực Chăm như dê nướng, dê hấp, gỏi dê, cari dê, lẩu dê, dê nấu mẻ, dê tái chanh... Kim Anh theo vnexpress.net
0 Rating 796 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 24, 2016
  Chương 12 - CÁC THÀNH PHẦN DÂN TỘC CHAMPA của cuốn sách "Bangsa Champa: Tìm về với một cội nguồn cách xa". Xin thưa cùng mikwa, Xin gởi mikwa Chương 12 này, có thể đọc thẳng trên FB hay tải chương này về với dạng PDF để dành đọc. Cuốn sách này có cả thảy 15 chương, và hiện nay dahlak đã ghép hết hình ảnh vào các trang giống như trong sách, nhưng còn đang tiếp tục tìm và ghi lại tất cả các chú thích (footnote) ở cuối trang. Chuyện này cũng sắp xong. Hiện nay dahlak đã làm tới Chương 13, nhưng sợ mikwa chờ lâu nên xin đăng lên từng chương cho mikwa đọc và đồng thời giúp chỉnh sửa chính tả dùm vì còn có nhiều chổ mà chử ở dạng Unicode bị biến dạng khi chuyển sang Microsoft Word. Dahlak ráng cố gắng tìm nhưng không thể thấy hết lổi, vậy nếu đọc thấy những chổ lổi đó, xin mikwa báo cho biết để sữa lại cho đúng. Đwa karun. Ysa Cosiem --------------------------------------- Chương 12 - CÁC THÀNH PHẦN DÂN TỘC CHAMPA Xuất phát từ cội nguồn thời thượng cổ, và trong tương quan với các bangsa khác trên đời, chỉ có một Bangsa Champa duy nhứt. Tuy nhiên, trên quá trình tồn tại và phát triển, khi đạt trình độ và quy mô quốc gia dân tộc, cơ cấu bangsa được tổ chức theo một nề nếp nhứt định, tính đa dạng đã đưa đến sự hình thành các thành phần không nhứt thiết cùng gắn liền vào một chủng tộc, một giống dòng. Về mặt hình thức, các thành phần này có thể được gọi là các “sắc tộc” cùng hợp thành dân tộc gắn liền với quốc gia nói chung, và cũng có thể cùng được gọi ngang bằng nhau là “dân tộc” trong một quốc gia nhiều dân tộc. Ngoài ra, còn có các thực thể được gọi là “dân tộc” mà thật ra chỉ là những hư cấu dân tộc học. 1. THỂ CHẤT NHÂN LOẠI HỌC BANGSA CHAMPA Trong một phút bất chợt, được đọc trên đất Hoa kỳ một đoạn văn đầy chân tình của bác sĩ Trần văn Tích, một cây bút chuyên khảo kỳ cựu của tạp chí Bách Khoa Thời Đại tại Saigon trước năm 1975: Cuối đời Trần, ở cổ thành phủ Triệu Phong có thành Thuận Châu, tương đương với đất châu Ô của Chiêm Thành nhường cho nhà Trần. Như thế, đồng hương Quảng trị đã ra đời và lớn lên trên đất cũ của người Chàm; chắc không nhiều thì ít đều có mang những gen của Chế Mân, Chế Củ, Chế Bồng Nga. Qua những đợt di dân trong lịch sử, những đoàn người từ châu thổ các sông Hồng, sông Mã đã đến lập nghiệp ở Triệu Phong, Hải Lăng. Chắc phải có những chàng trai tứ chiến giang hồ từ phuơng Bắc tới gá nghĩa cùng các nàng Mỵ Ê thôn dã địa phương để trở thành viễn tổ của người viết bài này.(*)  Nhận xét kể trên của học giả Trần văn Tích nói lên hiện tượng giao lưu nhân chủng, một thực trạng không ai phủ nhận được là trong xã hội Việt Nam ngày nay, nhứt là tại các vùng nguyên là lãnh địa cũ của vương quốc Champa, một số người thực sự có mang dòng máu Champa trong người mặc dầu trong sanh hoạt thường ngày, không thấy có chỉ dấu bề ngoài nào chứng tỏ còn dính dấp đến người Champa ngày xưa nữa. Thực sự, đó là những người dân Champa mà tổ tiên đã không chịu rời bỏ quê nhà khi vùng đất, trong lịch sử, đã bị nhượng lại hoặc bị thôn tính để rồi theo thời gian, trải qua nhiều thế hệ, đã sống hòa đồng với người Việt định cư sau này. Người ta cũng liên tưởng đến những nghệ nhân Champa, trong lịch sử, đã được đưa sang Đại Việt qua nhiều đời khác nhau chắc phải có con cháu mang huyết thống của mình đang sống trong các cộng đồng xã hội người Việt ngày nay.  Tiêu biểu cho thành phần người gốc Chăm đang sống như người Việt này là vừa qua, một số người ở miền Trung Việt Nam, khi cho biết ngày xưa, cha ông thuộc các họ Ôn, Ma, Trà, Chế…... của dân tộc Champa, đã phải đổi thành họ Nguyễn, Trần, ... nhứt là dưới thời vua Minh Mạng, nguyên có một chánh sách Việt hóa quyết liệt đối với dân tộc Champa. Một vài người thuộc diện này đã gây không ít ngạc nhiên cho nhiều người không am tường, và bao nhiêu xúc động cho những ai có mang dòng máu Chăm trong người, khi ngỏ ý tha thiết muốn được quay về với cội nguồn Chăm thực sự của cha ông. Cụ thể nhứt, trong một bức thư trần tình nhận được, lên tiếng về một sự việc xảy ra trong cộng đồng người Chăm, một người tự giới thiệu là Chăm lai Việt “hãnh diện về văn hóa Chăm, và yêu con người Chăm”, hiện đang chuyên viết tiểu luận văn học, cho biết đang lập thủ tục hành chánh cần thiết xin nhà nước Việt Nam cho “nhập tộc Chăm”. Hỏi ra thì mới biết, tại Cọng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, người dân được xếp loại, chánh thức ghi trên giấy căn cước, thuộc thành phần dân tộc Kinh và các dân tộc khác, trong đó, có dân tộc Chăm, nên vị này vì ý thức và tha thiết với gốc nguồn, xin được “nhập tịch Chăm”. Trong các cộng đồng người Champa còn tồn tại đến ngày nay, cũng có một số người gốc Việt hoàn toàn, đã do một số hoàn cảnh cá biệt, nhứt là do hôn nhân hoặc điều kiện sanh sống, đã hội nhập vào xã hội người Chăm, đã và đang sống hoàn toàn như người Chăm tại các gia đình người Chăm. [H80. Một phụ nữ Việt lập gia đình với người Chăm] Trong bối cảnh kể trên, ngày nay, thật khó mà tìm được một mẫu người trong xã hội người Chăm còn tồn tại để nhận diện là người Chăm thuần túy, để xác định các đặc tính nhân chủng cần thiết. Hoàn cảnh chiến chinh và giao lưu với các dân tộc lân cận đã tạo nên những sắc thái nhân dạng phức hợp ngay tại các thôn ấp người Chăm còn sống tập trung và còn duy trì phần nào cuộc sống cổ truyền thể hiện qua cách ăn mặc và ngôn ngữ.  Dầu vậy, các nhà nghiên cứu cũng đã cố gắng làm việc này. Cụ thể, sớm sủa nhứt, có thể kể công trình nghiên cứu khoa học đã được M.E. Farinaud ghi nhận cho thấy công thức máu của người Chăm rất gần gũi với người Rha-đê và người Bahnar, và khá gần gũi với người Sê-đăng cư ngụ tại vùng cao nguyên. Tính gần gũi trong công thức máu này cho người ta ý niệm sơ khởi về quan hệ ruột thịt giữa người Chăm và các sắc dân anh em sống trên vùng đất Cao nguyên Trung Phần. Trong thập niên 1950, hai bác sĩ Pháp Georges Olivier, tại Phan Rang, và Henri Chagnoux,(**) tại Phnom Penh (Cam bốt) đã thực hiện cuộc quan sát và thu thập các dữ kiện một cách có hệ thống để phân tích, sau khi lọai trừ một cách khoa học các yếu tố lai giống của các dân tộc có tiếp xúc hoặc hội nhập. Từ 165 mẫu người Chăm (92 ở Kampuchea và 73 tại Trung Việt), công trình nghiên cứu xác định một mẫu nhân chủng học của người Chăm thuộc chủng tộc Indonesian, khác biệt với các dân tộc khác của Đông Dương tức Việt, Khmer. Người Chăm có nước da sáng sủa của giống người nằm trong đường ranh giữa nước da ngâm ngâm và da vàng, mái tóc đen, dợn sóng (60,5%), có chứng hói đầu (38,2%) và chứng tóc bạc (6,5%), hình dạng mang các sắc nét thanh lịch, xác định sự pha lẫn các yếu tố nhân chủng Indonesian nguyên khởi đã chịu ảnh hưởng gốc Nam Ấn Độ, sau đo, lại hòa lẫn với sắc thái Mông Cổ. Chiều cao trung bình của người Chăm là 1,60m và có cùng công thức huyết rất gần gũi với người Ê-đê, người Bahnar, người Sedang ở Cao nguyên Trung Phần. Chỉ số sọ là 83,1, chỉ số xuyên qua gò má là 89,5, và chỉ số mặt trung bình là 87,4%. Điều đáng lưu ý là người Chăm còn sống ở mãnh đất cũ tại Trung Phần Việt Nam thân hình thoạt trông có vẽ nhỏ thó hơn người Chăm ly hương định cư ở trên đất Kampuchea, một số khá đông có quan hệ hôn nhân với người Mã Lai. Theo giới am hiểu, một công trình nghiên cứu khoa học về sọ người Chăm, dưới quyền điều khiển của cố giáo sư Trần Anh, trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn, cũng đã được tiến hành, đưa đến một số kết quả bước đầu, nhưng đã bị bỏ dang dở do biến cuộc năm1975. 2. CÁC THÀNH PHẦN CỦA DÂN TỘC CHAMPA (1) Chăm & Champa Các nhà nghiên cứu buổi đầu thời thuộc Pháp, nhứt là nhóm Trường Viễn Đông Bác Cổ, khi tìm hiểu Champa thường liên tưởng ngay đến, và giới hạn, thành phần người dân nước này chỉ có người Chàm mà sử sách Việt còn gọi là người Chiêm. Bản thân người Chàm xưa nay vẫn tự gọi mình là người Chăm chớ không phải "Chàm" hoặc "Chiêm" như trên.  Các bia ký cổ xưa viết bằng chữ Phạn, được khai quật cho đến nay, chưa thấy ghi từ "chăm" mà chỉ có từ "champa". Tuy nhiên, nếu căn cứ vào sự kiện này mà lập luận rằng từ “chăm” không liên quan đến từ “champa” thì cũng giống như khi người ta nói, từ “Việt” không liên quan gì đến tên nước “Đại Cồ Việt”, “Đại Việt” hoặc “Việt Nam” cả. Nhân dịp này, tưởng cần mở ngoặc ghi nhận, các từ “Hời”, “Lồi” ở Trung Phần cũng như từ “Chà và” ở Tây nam Nam phần, thường được người Việt dùng có thể là không có một định kiến nào cả để ám chỉ một sắc dân mà thôi; ngay cả cố thi sĩ Chế Lan Viên trong những bài thơ ca ngợi thời vàng son của dân tộc Champa cũng đã dùng chữ “Hời”, cụ thể là trong bài “Trên đường về”, nhưng trên thực tế, đối với người Chăm, các từ này gợi lại một quá khứ chẳng lấy gì làm đẹp, mang tính miệt thị gây mặc cảm với người Chăm, không nên sử dụng trong các quan hệ trao đổi với người Chăm, cũng như từ “mọi” đối với người Thượng vậy. Xin đóng lại dấu ngoặc. Trong cuộc hội thảo tại Viện Đại học Copenhague ngày 23 tháng 5 năm 1987 được tổ chức bởi Trung tâm văn hóa - xã hội Champa Pháp, Viện Văn hóa – Xã hội Campa - Đan Mạch, có bài phát biểu thể hiện quan điểm mới về thành phần dân tộc Champa.(***) Theo bài phát biểu này, từ năm 1975, Giáo sư lão thành Pierre Bernard Lafont (Pháp) đã kết hợp các nhà nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu Khoa Học Paris, thực hiện một công trình quy mô diễn dịch ra tiếng Pháp các bản thảo xưa cũ bằng chữ Chăm cùng các sử biên niên hoàng gia Champa bằng chữ Chăm và chữ Trung Hoa nạp bản tại các thư viện Pháp và Trường đại học Cornell (Hoa Kỳ), đối chiếu một cách có hệ thống với các kết quả nghiên cứu của những người đi trước. Kết quả nghiên cứu này đã soi sáng về thành phần dân tộc Champa, xác định dân tộc Champa ngày xưa, thật ra, không phải chỉ bao gồm toàn người Chăm sống ở vùng duyên hải Trung Phần Việt Nam mà còn có những sắc dân Champa với một số tên gọi khác sống trên vùng cao nguyên. Trong lịch sử, vùng Phan Rang – Phan Rí, Trung Phần Việt Nam, nơi nhóm người Chăm còn tồn tại, trước thuộc chủ quyền của triều đình Huế, bị đặt dưới chế độ bảo hộ của Pháp, sau đó từng bước mới chuyển thành vùng đất trực trị của Pháp trên thực tế. E. Aymonier là viên chức người Pháp đã sớm quan tâm nghiên cứu về người Chăm, đầu tiên khi đến Phan Rang năm 1884, đã được gặp và tiếp xúc với một số người được xác định không phải là người Việt và tự giới thiệu là người Chăm. Trong khi ở Kampuchea, E. Aymonier đã nắm được thông tin về Vương quốc Champa, nên suy luận ngay chỉ người Chăm là con dân của Vương quốc Champa. Các nhà nghiên cứu đi sau đã noi theo E. Aymonier, cứ theo lối mòn đinh ninh một cách máy móc, người Chăm là con dân duy nhứt của Vương quốc Champa. Trong khi đó, khi việc tiếp xúc với dân chúng trên vùng Cao nguyên Trung Phần, người Pháp không thông qua triều đình Huế, mà qua các đoàn thám sát địa thế (nổi tiếng là đoàn Pavie, Henry Maitre, bác sĩ Alexandre Yersin. . .) xâm nhập từng khu vực, thiết lập giao dịch với các lãnh đạo địa phương, rồi từ đó, mới áp đặt một bộ máy thống trị riêng cho toàn vùng, nơi sanh sống của các nhóm thần dân vùng cao của vương quốc Champa ngày xưa, lập nên “Pays Montagnard du Sud d’Indochine” gọi tắt là PMSI có quy chế chánh trị và hành chánh biệt lập, tách biệt hẳn, không còn dính líu đến vùng duyên hải Trung Phần nữa. Đến thời kỳ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng thì đổi danh xưng là “Hoàng triều Cương thổ”, tiếp tục quy chế chánh trị và hành chánh biệt lập. (2) Xếp thành phần theo địa bàn cư trú Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ F.M. Lebar, G.C. Hickey, J.K. Musgrave, căn cứ vào địa bàn cư trú trong Nagar Champa thời cổ, đã phân chia một cách có hệ thống, dân tộc Champa thành 2 nhóm chủ yếu:  1) Nhóm Chăm đồng bằng (low land Cham); 2) Nhóm Chăm cao nguyên (high land Cham). Người Chăm đồng bằng sống trên các vùng đất thung lũng dọc theo duyên hải, một phần sống về nghề nông trên những thửa ruộng hẹp, còn phần lớn là những thủy thủ cang cường, chuyên nghề đi biển, chài lưới, hoặc thương buôn đường dài, một thời nổi danh trong vùng biển đông. Trong khi các sắc dân cao nguyên sống trong vùng núi non hiểm trở, thiếu giao lưu với bên ngoài, một số làng mạc sống theo nề nếp du canh du cư đốt rừng làm rẩy, canh tác ruộng khô, phải di chuyển theo định kỳ để đất luân phiên phục hồi mầu mở. Việc phân chia dân tộc Champa thành 2 nhóm căn cứ vào địa bàn sanh sống kể trên là sự phân chia theo kỹ thuật phân tích của các nhà nghiên cứu, chớ không phải là sự phân chia lịch sử của chính dân tộc Champa, bởi lẽ các văn bia, các văn bản lịch sử Champa còn lưu lại không có sự phân chia này. Trong ngôn ngữ Champa, khi nói orang Champa là bao gồm cả người dân Champa sống tại các vùng đồng bằng lẫn miền núi của vương quốc Champa, không phân biệt nguồn gốc hoặc sanh quán của họ. Tuy nhiên, vì mỗi sắc dân trên vùng Cao nguyên Trung Phần, trên quá trình phát triển ở các địa phương, đều đã có và tự hào với những tên gọi riêng như Ê Đê, Jarai, Bahnar, Churu, Kaho, v.v. . .thể hiện căn sắc dân tộc (ethnic identity) của mình cũng như người Chăm vùng duyên hải, nên một số thành phần trí thức Thượng thị thành mà thời thế đã nâng lên đến một địa vị nhứt định trong bộ máy chánh quyền Việt Nam Cọng hòa trước năm 1975, mặc dầu vẫn xác nhận thuộc thành phần dân tộc Champa trong lịch sử, đã tỏ ra không mấy mặn mà nếu không nói là phủ nhận lối gọi chung người Thượng là “Chăm vùng cao”. Đúng ra, đây chỉ là vấn đề thuật ngữ không hơn không kém. Trong môi trường sống bao quanh bởi núi rừng hiểm trở, khác biệt với người Chăm ở vùng duyên hải, người dân Champa miền núi còn sống gần với thiên nhiên, trong những tập thể xã hội ngăn cách nhau, thiếu phưong tiện giao lưu tối thiểu nên thường được các nhà dân tộc học ngoại quốc, trong quá khứ, nhận diện theo từng bộ tộc thể hiện qua các biểu hiện thực thể văn hóa mà thực chất chỉ là những hư cấu dân tộc học (ethnographic fictions) cho nên có những tên gọi do sách vở đặt cho, nhưng chính người dân trong cuộc lại tự gọi mình với tên gọi khác. Cụ thể như tên gọi Radhê đã được sách vở nghiên cứu ghi từ non một thế kỷ nay thì chính người dân trong cuộc lại thích tự gọi mình là Ê-Đê xuất xứ từ tên gọi Anak H'Đê có nghĩa là con của H'Đê nghe có vẽ trang trọng hơn. Căn cứ vào ngữ học, dân tộc Champa được xếp thành hai nhóm chủ yếu, nhóm Mã lai đa đảo và nhóm Môn khmer. Nhóm Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian), còn gọi là Austronesian (Nam đảo) trong đó, có người Chăm, bao gồm có các tộc người chánh yếu, người Roglai, Churu, Ê-đê, Jarai, Hroy v.v.., trong ngôn ngữ, có những âm chính rất gần gũi nhau và thông cảm nhau dễ dàng được học giới Tây phương xếp vào loại “Chamic”: - Người Roglai gần gũi nhứt với người Chăm, sống trong rừng núi phía Tây Nha Trang, trong khu vực Tây Bắc Phan Rang (Ninh Thuận) và rải rác trong vùng Phan Rí (Bình Thuận).  - Người Churu sống trong vùng thung lũng Đa Nhim (Đa Lạt, mà theo thông tin truyền khẩu, được xem là tộc người lai Chăm và Roglai, Koho, còn được người Chăm vùng duyên hải gọi là Chăm-Ro tức Chăm t nạn đã trốn chạy trước làn sóng Nam tiến của quân binh nhà Nguyễn. - Người Ê-Đê tại Buôn Ma Thuôt, vùng sanh sống về phía Tây giáp giới với Kampuchea. - Người Jarai sống trong vùng Kon Tum, Pleiku, trên một địa bàn nới rộng đến biên thùy Kampuchea về phía Tây và giáp ranh với khu vực người Ê-Đê ở phía Nam. Trong giới người Jarai, có những nhân vật lãnh đạo có tiếng là Patao Apui, tức Vua Lửa từng đựợc triều đình nhà Nguyễn phong là Hỏa xá, Patao Ea, tức Vua Nước, mệnh danh là Thủy Xá; ngoài ra, còn có Patao a-ngin tức Vua Gió... uy danh đượm nhiều màu sắc thần thoại, được dân chúng địa phương kính trọng. - Người Hroy, sanh sống ở phía Tây Cheo Reo, chính là người Chăm, nhưng môi trường sanh sống, theo thời gian, đã khíến họ hội nhập vào sống nếp sống gần gũi hơn với nếp sống văn hóa và xã hội người vùng cao.  Nhóm Môn – khmer còn gọi là Austroasiatic tức Nam Á, chủ yếu gồm có các tộc người Bahnar, Seđang, Mnong, Halang, Jeh, Koho, Mạ, Stiêng, Ta Ôi, K’Yu, Bru-Vân Kiều, v.v...: - Người Bahnar sống tại vùng An Khê (Pleiku) và Kontum. - Người Seđang sống tại vùng Tây Bắc Kontum. - Người Halang ở Kontum và giáp giới Nam Lào. - Người Jeh, ở Đaksut, gần biên giới Lào. - Người Koho, vùng Đa lạt. - Người Stiêng, vùng Biên Hòa - Thủ dầu một, v.v... Ngoài sự gần gũi về ngôn ngữ, có những bằng chứng cho thấy mối quan hệ gắn bó không tách rời của người Chăm và các bộ tộc cao nguyên với tánh cách là dân tộc Champa trong lịch sử. Trước hết, giữa người Chăm và các sắc tộc vùng cao có những quan hệ dòng họ. Trong người Ê-đê là sắc tộc lớn có nhiều bậc trí thức nhứt Cao nguyên, có họ Êchăm là dòng họ ngoại hôn thuộc dòng tộc Eban. Họ R’Com là một dòng họ lớn của người Jarai thường được xem bao gồm những người “văn minh” nhứt do được tạo điều kiện sớm tiếp cận với nền giáo dục trường lớp thời thuộc địa Pháp. Về mặt từ nguyên, từ R’Com rất gần gũi nên có thể là một biến thể của từ R’Chăm. Người Roglai còn có họ Chamalê cũng xuất xứ từ từ “Chăm”. Trong số những vị vua Champa, có một vị vua sanh quán tại vùng cao, đáng chú ý nhứt là Vua Pô Romê, vị vua cho đến nay còn được tôn thờ tại một ngọn tháp ở Phan Rang, được dân chúng cúng bái hằng năm, là người gốc Chu Ru. Một vị vua khác là Pô Top đã lên ngôi năm 1655 là con một người con gái của hoàng hậu người Ê-đê của vua Pô Rômê (tức là cháu ngoại của Pô Rômê). Tiếp nối truyền thống quan hệ này, sau khi vương quốc Champa không còn nữa, người dân Roglai hàng năm vẫn cùng nhau xuống đến tận tháp Pô Romê ở Phan Rang cùng người Chăm tham dự lễ Katê là một lễ hội dân gian hàng năm của dân tộc Champa. Trong lịch sử, các vua Champa trong các lễ vật cống nạp triều đình Trung Hoa, người ta nhận thấy có các lọai gỗ quý giá cùng các hương liệu thì chính xuất xứ từ người Roglai và các sắc tộc vùng cao khác dâng nạp. Ngoài ra, còn có sừng tê giác, bạch tượng, quế, vàng, mật ong... đều là sản phẩm của vùng cao mới có, chứng tỏ mối quan hệ chặt chẽ giữa các bộ tộc cao nguyên với triều đình Champa ngày xưa trong sanh hoạt quốc gia. Vua quan Champa ngày xưa có lúc đã phải nương náu trong sự bảo bọc của người dân Champa vùng cao khi bị yếu thế trong các cuộc xua quân xâm nhiễu của triều đình Đại Việt, hoặc của Trung Hoa từ phía Bắc, hoặc của triều đình Phù Nam từ phía Tây Nam. Tuy nhiên, trong học giới, người ta cũng ghi nhận một khuynh hướng phân cách không tán đồng lập luận thành phần dân tộc Champa bao gồm toàn bộ các bộ tộc Cao nguyên miền Nam. Trong một bài phát biểu tại Hội nghị quốc tế về Champa và thế giới Mã Lai tại Viện Đại học California, Berkeley (Hoa kỳ) năm 1990 do Trung tâm nghiên cứu Á châu (Center for Southeast Asia Studies) và Văn Phòng quốc tế Champa (International Office of Champa) kết hợp tổ chức, một vị phát biểu, chỉ có người Churu mới có điều kiện được kể là thành phần dân tộc Champa, còn các dân tộc Cao nguyên khác từ nhiều ngàn năm, đã hình thành và duy trì những trật tự xã hội khác biệt, có truyền thống văn chương truyền khẩu và các hệ thống cúng tế địa phương riêng biệt.  Một lập luận phân cách khác của nhóm người dân miền núi từ Cao nguyên Trung Phần Việt Nam sang tỵ nạn tại Hoa kỳ sau năm 1975, phản ảnh trong trang nhà Internet của tổ chức hội đoàn “Montagnard Dega Foundation”, trong thập niên gần đây, nhứt là qua trang nhà trên Internet, tự gọi một cách tự hào là dân tộc Dega (chử “Dega” được dẫn giải là “các bộ tộc”). Các lập luận trao đổi về mặt này sẽ bất tận nếu người ta không thỏa hiệp với nhau trước ở tiền đề về một số tiêu chuẩn cần thiết, bởi lẽ khái niệm tùy thuộc vào một thành phần dù của dân tộc nào, đều mang tính nhiệm ý, thể hiện ít nhiều xúc cảm chủ quan, chịu dưới tác động của bối cảnh bao quanh, không thể né tránh vào đâu được. Trong số các thành phần dân tộc một nước, bao giờ cũng có một loại thành phần mang tính cốt lõi, thành phần nắm giữ vai trò chủ động áp đảo trong việc hình thành và phát huy dòng chánh lưu (mainstream) về văn hóa, kinh tế, chánh trị, xã hội, v.v. cho toàn dân tộc. Các thành phần khác trong khi lúc nào cũng có khuynh hướng bảo tồn căn sắc của mình, vẫn phải khép mình hội nhập vào dòng chánh lưu. Sau khi vương quốc Champa không còn nữa, dân tộc Champa - theo đúng nội dung bao gồm cả người Champa vùng duyên hải và các bộ tộc Champa vùng cao - không còn duy trì được một bộ máy chánh quyền vương quốc từ trung ương làm chất kết dính các thành phần đa dạng trong lòng dân tộc Champa như trong lịch sử. Trong lịch sử, thực hiện chánh sách tầm thực trong cuộc Nam tiến vào thế kỷ 19, nhà Nguyễn nước Đại Việt đã cắt bỏ phần đất vùng cao của vương quốc Champa lập thành hai nước khác: Hoa Anh, Nam Phan đặt trực thuộc triều đình nhà Nguyễn. Tiếp theo, nhà cầm quyền thực dân Pháp, sau khi áp đặït bộ máy thống trị Việt Nam, đã thực hiện chủø trương chia để trị, cô lập vùng cao nguyên Trung Phần với phần đất còn lại và từ đó, mới xuất hiện từ ngữ “montagnard”chỉ định các sắc dân thiểu số Champa sống trên đó, đồng thời xây dựng một lớp trí thức tự hào với một căn sắc biệt lập mới. Đến khi chuyển giao chủ quyền cho chánh quyền Bảo Đại vào năm 1949 thì lập nên Hoàng triều cương thổ, gọi các sắc dân montagnard kể trên là “Thượng” được quen dùng đến ngày nay. Trong khuôn khổ các sự kiện kể trên và qua thời gian kéo dài đã non một thế kỷ, tính gắn bó dân tộc Champa, do thiếu điều kiện giao lưu thông suốt của quá khứ, mặt khác, lại phải phấn đấu sống còn tại địa phương, dù muốn dù không, vẫn phải đi đến chỗ phân cách trong không gian. Ngay trong cùng một bộ tộc, cũng lại có khuynh hướng tách rời và có tên gọi mới thọat nhận, có thể nghĩ là không phải cùng thuộc một bộ tộc. Các tên gọi mới này trong một số trường hợp cũng là do quan hệ hôn nhân với bộ tộc lân cận tạo thành một nhóm mới biệt lập. Do đó, tại Việt Nam ngày nay, khi nói đến người Chăm, người ta phải nói rõ là người Chăm Phan Rang - Phan Rí hay người Chăm Châu Đốc, người Chăm Kampuchea. Người Jarai thì có Hđrung, Habau, A-Rap, Tô-buan, Hroy, v.v...; người Ê-Đê thì có Ê-Đê - Kpa, Adham, Ktul, Blo, Epan, Bih, v.v...  Mặc dầu có những sự kiện nêu trên, sự song tồn của thành phần đa số và thành phần thiểu số trên cùng một lãnh thổ quốc gia bao giờ cũng là một thực tế mà mọi người dù muốn dù không cũng phải chấp nhận. Khái niệm dân tộc Champa trong nội dung bao gồm người Chăm và các bộ tộc Champa cao nguyên, vốn là thần dân của vương quốc Champa ngày xưa, dù sao, vẫn có giá trị lịch sử, không ai có thể chối bỏ được. Để tránh những tranh cãi không đi đến đâu, nghĩ có thể dung hòa bằng cách, khi nói đến “dân tộc Champa” trong lịch sử thì sẽ bao gồm toàn bộ các sắc dân đã xuất phát từ một cội nguồn từ thời cổ, đã từng sống đùm bọc gắn bó với nhau ngày xưa trong vương quốc Champa. 3. DÂN TỘC VÀ BANGSA Các thành phần gọi là dân tộc Champa kể trên ngày nay không phải chỉ sanh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Trong lịch sử, vương quốc Champa và vương quốc khmer có những quan hệ khi thì thân thiện khi thì thù địch giết hại lẫn nhau, hậu quả là có một số người Chăm bao gồm cả những nhân vật thuộc hoàng gia Champa sang định cư tại Kampuchea. Ngoài ra, khi nhà Nguyễn nước Đại Việt xua quân thôn tính Panduranga là phần đất có chủ quyền cuối cùng của Champa, thì đã diễn ra những đợt dời cư ồ ạt của người Chăm kể cả dòng tộc hoàng gia còn sót lại sang lánh nạn và đã định cư vỉnh viễn đến ngày nay trên đất nước Kampuchea. Một chi tiết đặc biệt cần được lưu ý là số người Chăm sanh sống tại Kampuchea hiện nay, sau khi đã là nạn nhân của chánh sách tàn sát diệt chủng thời Khmer đỏ sau năm 1975, theo ước lượng của giới có thẩm quyền, là vào khoảng 400 ngàn người, đông hơn Việt Nam (ước khoảng 130 ngàn người) mặc dầu vương quốc Champa ngày xưa nằm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay chớ không phải Kampuchea. Dưới thời Việt Nam Cọng Hòa trước năm 1975, các thành phần thiểu số đều được gọi là các “sắc tộc thiểu số” bao gồm sắc tộc Chàm và các sắc tộc Cao nguyên Trung Phần gọi chung là “đồng bào Thượng”; còn người Việt, đối lại, thì được gọi là “người Kinh”. Từ “dân tộc” chỉ dùng cho toàn dân tộc Việt Nam mà thôi. Chuyển sang chế độ Cọng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi thành phần dân tộc Champa ngày xưa, từ sau năm 1975, đều được chánh thức gọi là “dân tộc” (dân tộc Chăm, dân tộc Jarai, dân tộc Chu Ru, dân tộc Ê Đê, v.v. . ) còn dân tộc Việt là dân tộc Kinh thủ giữ vai trò trội yếu của dòng chánh lưu cùng các dân tộc anh em, tất cả, trên nguyên tắc, hợp thành đại gia đình dân tộc Việt Nam.  Tại Kampuchea, là một nước có dân số gốc Chăm nhiều nhứt thế giới, và người Chăm đã đạt trình độ thăng tiến xã hội đáng kể, thì một có sự kiện nghịch lý là không còn được gọi là “Chăm”. Lý do: cựu Quốc vương Sihanouk, từ trước năm 1975, dựa vào lý do tránh phân biệt chủng tộc, đã ban hành quyết định không gọi người Chăm là “Chăm” nữa, mà chánh thức gọi chung người Chăm là “Khmer Islam”. Nhưng cho đến ngày nay, trong nội bộ người Chăm vẫn tự gọi là “Chăm”.  Riêng người Chăm sang định cư tại Malaysia thì được gọi một cách trang trọng là “Orang Malayu Champa”. Mặc dầu tên gọi chỉ thể hiện mặt hình thức, không nhứt thiết phản ánh trung thực nội dung phong cách đối xử, cách gọi khác biệt như vậy theo thời gian rồi cũng có tác động vào tâm trạng của những người trong cuộc ở những mức độ nhứt định và theo những chiều hướng phát triển khác nhau, qua những tình huống mà họ phải đối phó hoặc xử lý trong cuộc sống thường ngày.  Trong biên cương chánh trị của các nước, nói một cách khác, thân trạng của người Chăm lệ thuộc vào chánh sách của nhà nước nơi đang định cư. Sự lệ thuộc này, cộng với tác động của dòng chánh lưu về văn hóa, xã hội, nhứt là về ngôn ngữ, qua nhiều thế hệ, có hậu quả làm xói mòn và cuối cùng phá vỡ tính thuần nhứt của nền tảng tinh thần dân tộc Champa thời vương quốc Champa còn tồn tại. Tính thuần nhứt này, trái ngược lại, vẫn được bảo tồn nguyên vẹn, mỗi khi được gợi lên, trong tinh thần Bangsa vốn không lệ thuộc vào sự thay đổi địa bàn sanh sống, không lệ thuộc vào những tình huống hoặc những sự kiện đương thời, bởi lẽ Bangsa Champa là cội nguồn, là gốc gác của ông bà tổ tiên; cội nguồn là một yếu tố vốn bất di bất dịch không ai có thể tự mình thay đổi được, kể cả khi một cá nhân, vì một lý do nào đó, thực tâm muốn thay đổi. Theo chiều hướng này, không cần biết hiện đang sống tại đâu, những ai còn ấp ủ tiềm tàng trong lòng tính gắn bó và niềm tự hào về Bangsa Champa thì đều là thành phần của dân tộc Champa. (*) Trần văn Tịch "Quê Cũ, Sách Xưa", trong tạp chí Làng Văn, số 150, tháng 2, 1997, tr. 40. (**) Olivier, Georges & Chagnoux, Henri. “Anthropologie Physique des Chams”. Trong Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, Tập XXVI, số 3, Tam cá nguyệt 3, 1951, tr. 272-318. (***) Gay, Bernard. “Vue Nouvelle sur la Composition Ethnique du Campa” trong Actes du S éminaire sur le Campa. Paris: Travaux du Centre d’Histoire et Civilisation de la P éninsule Indochinoise, 1988, tr. 50-58.
0 Rating 777 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
1. ?ôi nét v? s? hình thành v??ng qu?cChampa Qua nh?ng ghi chép trong th? t?ch c?, bia ký và nh?ng di tích kh?o c? trên m?t và trong lòng ??t, ??a bàn V??ng qu?c Champa trùng h?p v?i ??a bàn phân b? c?a n?n v?n hoá th?i S? s? – v?n hoá Sa Hu?nh. Theo th? t?ch Trung Hoa c?, vào cu?i th? k? II (n?m 192) Khu Liên ?ã l?p ra n??c Lâm ?p.M?c dù còn nhi?u ý ki?n khác nhau xung quanh v?n ?? v? trí, tính ch?t c?a Lâm ?p và m?i quan h? gi?a Lâm ?p v?i Champa, nh?ng m?t ?i?u c?n l?u ý, s? hình thành v??ng qu?c Champa là quá trình ti?n hoá c?a c?u trúc xã h?i trong kho?ng th?i gian vài th? k? và n?m trong qu? ??o phát tri?n chung c?a khu v?c ?ông Nam Á. Trên c? s? nh?ng t? ch?c xã h?i ti?n nhà n??c ?ã phát tri?n t?i nh?ng vùng ??a ph??ng c?a v?n hoá Sa Hu?nh (??c bi?t là ? nh?ng l?u v?c sông l?n) và d??i tác ??ng c?a nhi?u y?u t? bên trong và bên ngoài, vào kho?ng th? k? II ??n th? k? IV AD m?t s? chính th? d?ng nhà n??c s? khai ?ã hình thành ? mi?n Trung Vi?t Nam. Tài li?u kh?o c? thu th?p ???c qua khai qu?t Trà Ki?u (sông Thu B?n, Qu?ng Nam), C? Lu?-Phú Th? (sông Trà Khúc, Qu?ng Ngãi) và thành H? (sông ?à R?ng, Phú Yên) cho th?y t? nh?ng th? k? sau Công nguyên ? nh?ng khu v?c này ?ã có nh?ng trung tâm quân s?-chính tr?-kinh t? ?óng vai trò quan tr?ng trong m?i l?u v?c sông t??ng ?ng. Di tích và di v?t kh?o c? c?ng ch?ng t? nh?ng chính th? d?ng nhà n??c s? khai này có cùng trình ?? phát tri?n kinh t?-xã h?i và quan h? gi?a chúng là quan h? v?a theo xu h??ng liên minh, liên k?t v?a theo xu h??ng thu ph?c và c?nh tranh. ??n kho?ng th? k? V AD nh?ng xu th? này d?n ??n s? ra ??i c?a v??ng qu?c Champa. 2.Nh?ng y?u t? tác ??ng ??n s? hình thành nhà n??c ? mi?n Trung Vi?t Nam.K?t qu? khai qu?t Trà Ki?u, Gò C?m (Duy Xuyên, Qu?ng Nam), di ch? H?u Xá I (H?i An)… cho th?y t?ng v?n hoá s?m nh?t ? nh?ng ??a ?i?m này có niên ??i kho?ng th? k? I, II AD và trùng h?p v?i niên ??i c?a th? t?ch c? v? m?t nhà n??c s?m. N?u so sánh th?i gian ta th?y có s? trùng khít gi?a th?i ?i?m k?t thúc c?a v?n hoá Sa Hu?nh (nh?ng khu m? chum Sa Hu?nh mu?n nh?t ? Gò D?a (Duy Xuyên, Qu?ng Nam), Bình Yên (Qu? S?n, Qu?ng Nam), Lai Nghi (?i?n Bàn, Qu?ng Nam), Hoà Diêm (Cam Ranh, Khánh Hoà)… ???c xác ??nh có niên ??i k?t thúc kho?ng th? k? I ??n II AD) v?i niên ??i kh?i ??u c?a nh?ng nhà n??c s? khai ? mi?n Trung Vi?t Nam. Trong tình hình nghiên c?u hi?n nay, t? li?u ??a t?ng và hi?n v?t kh?o c? ch?a nhi?u ?? tìm hi?u ??y ?? b?n ch?t và n?i dung c? th? quá trình chuy?n ti?p và chuy?n bi?n gi?a hai n?n v?n hoá Sa Hu?nh- Champa. Tuy v?y, s? trùng h?p v? không gian phân b?, th?i gian kh?i ??u, k?t thúc và ti?p n?i c?a hai v?n hoá; s? n?i ti?p trong s?n xu?t và s? d?ng c?a m?t s? lo?i hình hi?n v?t nh? ?? g?m gia d?ng, ?? trang s?c b?ng mã não, thu? tinh; s? ti?p t?c t?n t?i c?a táng t?c ho? thiêu gi?a hai n?n v?n hoá; s? phát tri?n c?a nh?ng thi?t ch? chính tr? phân t?ng; s? chuyên hoá ? m?c ?? nào ?ó c?a s?n xu?t th? công và c?u trúc xã h?i d?a trên c? s? t?ng l?p c?a xã h?i th?i Sa Hu?nh (n?n t?ng ?? hình thành c?u trúc chính tr? m?i – nhà n??c)… m?t m?t h??ng các nhà nghiên c?u t?i vi?c tìm ki?m nh?ng ngu?n g?c b?n ??a c?a v?n hoá Champa, m?t khác giúp ?ánh giá ?úng m?c vai trò c?a nh?ng y?u t? ngo?i sinh bao g?m c? ti?p xúc, trao ??i v?n hoá, kinh t?, làn sóng d?ch chuy?n dân c? trong vi?c hình thành nh?ng ??c tr?ng v?n hoá m?i. ?a s? ý ki?n ??ng thu?n v?i gi? thi?t v?n hoá Champa n?y sinh t? v?n hoá Sa Hu?nh, ng??i Ch?m c? là con cháu ng??i Sa Hu?nh c?. Theo Hà V?n T?n ch? nhân v?n hoá Sa Hu?nh là c? dân Ti?n Ch?m hay S? Ch?m, có ngh?a c?ng là c? dân nói ti?ng Nam ??o nh? ng??i Ch?m sau này. D??i ánh sáng c?a kh?i t? li?u m?i hi?n nay v? tính ??a ph??ng c?a v?n hoá Sa Hu?nh giai ?o?n mu?n ? hai vùng Trung Trung B? và Nam Trung B?, có th? gi? thi?t r?ng, nh?ng nhóm t?c ng??i thu?c m?t s? ng? h? khác nhau ?ã ?óng góp vào quá trình kh?i d?ng n?n v?n minh Champa, trong ?ó vai trò ch? ??o là c?a c? dân nói ti?ng Nam ??o.B?t k? c?u trúc Lâm ?p và nh?ng chính th? t??ng ???ng Lâm ?p nh? th? nào, nh?ng nghiên c?u m?i nh?t cho th?y nh?ng chính th? này ??u ???c b?t ngu?n t? nh?ng d?ng v?n hoá-xã h?i b?n ??a. Nh?ng y?u t? v?n hoá ngo?i sinh Trung Hoa, ?n ??… ?ã có m?t tr??c khi nh?ng chính th? này ra ??i. T? Sa Hu?nh qua Lâm ?p ??n Champa là c? quá trình di?n bi?n d?n d?n và lâu dài mà trong ?ó c? hai nhóm ngu?n l?c n?i sinh và ngo?i sinh có m?i quan h? ch?t ch? và t??ng h?. 3.C?u trúc c?a v??ng qu?c ChampaTr??c ?ây, d?a vào s? li?u Trung Hoa, nhi?u h?c gi? ?ã cho r?ng v??ng qu?c Champa ???c t? ch?c theo mô hình chính quy?n quan liêu t?p quy?n ki?u T?n-Hán. Nh?ng k?t qu? nghiên c?u m?i nh?t c?a C. Jasques, O.W. Wolter, K. Taylor ?ã ch?ng minh r?ng Champa, Phù Nam (th?m chí c? V?n Lang, Âu L?c) là nh?ng liên hi?p, liên minh c?a nhi?u ti?u qu?c có nhi?u nét t??ng ??ng v? v?n hoá. Theo GS. Tr?n Qu?c V??ng, mô hình m?t ti?u qu?c Champa d?a trên tr?c quy chi?u là dòng sông ph?i có ba thi?t ch? – ba trung tâm (tính theo dòng ch?y c?a sông, t? núi ra bi?n) là: trung tâm tôn giáo, t?m g?i là Thánh ??a (th??ng v? phía Tây, ??u ngu?n sông) – trung tâm chính tr? (th??ng n?m ? b? Nam sông) và trung tâm th??ng m?i – kinh t? (th??ng n?m ? g?n sát c?a sông – c?a bi?n).hoáT? th?p k? 60 tr? v? tr??c, nhi?u h?c gi? ph??ng Tây nh? G. Coedès, H. Maspéro… th??ng coi Champa là m?t qu?c gia ?n hoá. Trên th?c t?, ?nh h??ng v?n hoá-tôn giáo c?a ?n ?? ??i v?i Champa là r?t m?nh m? và không th? ph? nh?n. Song, ng??i ta c?ng nh?n th?y nhi?u y?u t? phi ?n, khác ?n ? ?ây. Paul Mus nh?n m?nh t?i nh?ng ??c ?i?m b?n ??a – Ti?n ?n ?? hoá – trong v?n hoá Champa. Trong quá trình ti?p thu v?n hoá Trung Hoa, ?n ??… c? dân Champa ?ã k?t h?p hài hoà gi?a y?u t? v?n hoá ??a ph??ng (n?i sinh) và v?n hoá bên ngoài (ngo?i sinh) trên c? s? phù h?p v?i ?i?u ki?n môi tr??ng sinh thái, tính cách, tâm lý t?c ng??i, ?i?u ki?n xã h?i và l?ch s? ??c thù ?? sáng t?o ra n?n v?n hoá c?a mình có nh?ng nét chung, song có nhi?u nét riêng so v?i nh?ng v?n hoá láng gi?ng khác ? ?ông Nam Á cùng ch?u ?nh h??ng c?a v?n minh ?n ??.T? li?u kh?o c? h?c c?ng cho th?y ?nh h??ng c?a v?n hoá Trung Hoa, ?n ?? và v?n hoá ?ông S?n ??i v?i v?n hoá Sa Hu?nh t? nh?ng th? k? BC. Nh?ng ?nh h??ng này ???c di?n ra qua trao ??i buôn bán hàng hoá, ??ng th?i c?ng là trao ??i k? thu?t gi?a các khu v?c. M?i quan h? – ?nh h??ng v?n hoá – này ???c ??y m?nh t? ??u thiên niên k? I Công nguyên. Theo các nhà nghiên c?u, nguyên nhân ch? y?u c?a vi?c t?ng c??ng các ?nh h??ng c?a v?n hoá ?n ?? chính là nhu c?u th??ng m?i. Các ngu?n t? li?u khác nhau cho bi?t, ngu?n h??ng li?u, g? tr?m, các lo?i d?u th?m, long não, cánh ki?n tr?ng và ??c bi?t là vàng vô cùng phong phú ? ?ông Nam Á ?ã thu hút các th??ng nhân ?n ?? t?i ?ông Nam Á nói chung và Champa nói riêng. Theo sau các th??ng nhân, hay cùng các th??ng nhân là các tu s? Hindu giáo, các nhà s? Ph?t giáo…. Do thâm nh?p ch? y?u qua v?n hoá mà l?i b?ng nh?ng ph??ng th?c hoà bình, t? nguy?n, nên quá trình ti?p xúc và trao ??i v?i v?n hoá ?n ?? (và v?i c? v?n hoá Trung Hoa, v?n hoá ?ông Nam Á) ?ã th?m th?u và ?? l?i nh?ng d?u ?n ??m nét trong m?i khía c?nh ??i s?ng v?n hoá Champa t? v?t ch?t ??n ??i s?ng tinh th?n-tâm linh.ChampaT? cu?i th? k? XIX, v?n hoá Champa ?ã ???c nhi?u h?c gi? n??c ngoài, ??c bi?t là ng??i Pháp, quan tâm nghiên c?u. H? ?ã ti?n hành nhi?u ??t kh?o sát s?u t?m nh?ng di tích ki?n trúc và ?iêu kh?c Champa. ??c bi?t t? n?m 1898 v?i vi?c phát hi?n khu di tích M? S?n, vi?c nghiên c?u Champa càng ???c ??y m?nh. Nh?ng nghiên c?u giai ?o?n này ??t nhi?u thành t?u ?áng k? và ??t n?n móng c? b?n cho nh?ng giai ?o?n sau. Tuy v?y, nh?ng nghiên c?u c?a ng??i Pháp ch? t?p trung vào các l?nh v?c ki?n trúc, ?iêu kh?c và bia ký. Giai ?o?n này h?u nh? không ai quan tâm nghiên c?u ??i s?ng sinh ho?t c?a c? dân qua di tích và di v?t kh?o c? h?c.T? sau ngày ??t n??c th?ng nh?t (n?m 1975), vi?c nghiên c?u v?n hoá Champa ???c ??y m?nh trên nhi?u l?nh v?c và ch? y?u do các nhà nghiên c?u Vi?t Nam ti?n hành. Tuy v?y, cho ??n n?m 1985, v?n ch? là nh?ng cu?c ?i?u tra s?u t?m v?i hai cu?c khai qu?t nh? c?a ?HTH Hà N?i và các m?ng, các ?? tài nghiên c?u còn r?t h?n h?p. H?u nh? chúng ta ch?a có ý ni?m gì v? n?i c? trú, v? ??i s?ng sinh ho?t, v? các ngành ngh? th? công, v? c? c?u kinh t? c?a c? dân.T? sau n?m 1985, ??c bi?t t? th?p k? 90 tr? l?i ?ây, tình hình nghiên c?u Champa ???c ??y m?nh lên m?t b??c m?i. K? th?a thành t?u nghiên c?u c?a các th? h? h?c gi? ?i tr??c, nh?ng ng??i nghiên c?u giai ?o?n này ?ã b? sung và hoàn thi?n h?n k?t qu? nghiên c?u trong các l?nh v?c ?ã ???c th?c hi?n tr??c ?ây nh?: ki?n trúc, ?iêu kh?c, v?n bia…. D??i góc ?? kh?o c? h?c, h? ?ã tri?n khai nhi?u ?? tài m?i nh?: khai qu?t các di ch? c? trú; nghiên c?u ?ô th?, thành c?, th??ng c?ng; vi?c s?n xu?t ?? g?m, ?? trang s?c và các ngành ngh? th? công khác; k? thu?t tr? thu? và s? d?ng n??c; ??i s?ng tâm linh…. Thành t?u l?n nh?t trong giai ?o?n này là vi?c phát hi?n và nghiên c?u nh?ng n?i c? trú c?a c? dân Champa, ngh? làm ?? g?m và g?ch ngói c?ng nh? trang trí, v?t ph?m dâng cúng b?ng ??t nung…. Các cu?c ?i?u tra kh?o sát ?ã phát hi?n thêm nhi?u di tích, di v?t m?i nh? các ph? tích ki?n trúc, tác ph?m ?iêu kh?c ?á, ?? g?m… làm phong phú thêm lo?i hình di tích di v?t. T?ng s? ??a ?i?m phát hi?n có di tích di v?t v?n hoá Champa ? ??u th? k? XX ch? là 229, còn vào cu?i th? k? con s? này ???c nâng lên g?n 300 ??a ?i?m.Nhi?u ??a ?i?m ???c khai qu?t trên di?n r?ng và trong nhi?u n?m li?n. Nh?ng v?n ?? th??ng ???c t?p trung gi?i quy?t là ngu?n g?c, m?i quan h? c?a v?n hoá Champa v?i v?n hoá Sa Hu?nh, ?nh h??ng mang tính “xúc tác” c?a các y?u t? ngo?i sinh Hán, ?n ??, ?ông Nam Á…. Nh?ng v?n ?? khác nh? di v?t hay các lo?i hình c? trú, th? t?, th??ng c?ng và bi?n pháp tr? thu?… c?ng ??t ???c nhi?u k?t qu? ?áng khích l?.Ngh? s?n xu?t ?? g?m c?a c? dân Champa ? giai ?o?n s?m thu hút s? quan tâm ??c bi?t c?a các nhà nghiên c?u trong và ngoài n??c. D?a trên kh?i t? li?u kh?ng l? t? các cu?c khai qu?t H?u Xá, Trà Ki?u, Nam Th? S?n, Bãi Làng, Lý S?n, C? Lu?, thành H?… nhi?u nh?n xét và k?t lu?n v? ch?t li?u, hoa v?n, k? thu?t s?n xu?t g?m ?ã ???c ??a ra.V??ng qu?c Champa n?i ti?ng trong th? t?ch v?i nh?ng ?? kim hoàn l?ng l?y b?ng vàng, b?c, thu? tinh, ?á quý… song ch?ng c? t? các cu?c khai qu?t kh?o c? h?c các ??a ?i?m c? trú h?u nh? không cung c?p b?t c? t? li?u xác th?c nào. ?i?u này là tr? ng?i l?n cho vi?c tìm hi?u ??i s?ng ngh? thu?t và tâm linh c?a c? dân. Chúng ta ch? bi?t qua ghi chép và qua các s?u t?p t? nhân, r?t khó xác ??nh chính xác ngu?n g?c xu?t x? và niên ??i.Tóm l?i, th?i gian v?a qua, ngành Champa h?c Vi?t Nam ?ã làm ???c nhi?u vi?c khi ?i sâu nghiên c?u v?n hoá Champa ? khía c?nh ??i s?ng c?a c? dân. Nh?ng di s?n v?t th? và c? phi v?t th? m?i thu th?p ???c này ?ã ?em l?i nh?ng hi?u bi?t m?i ho?c giúp ?i?u ch?nh nh?ng hi?u bi?t c? v? c? dân Champa c?, v?n hoá Champa trong m?i quan h? v?i các t?c ng??i, các v?n hoá, các qu?c gia…. Thêm nhi?u c? li?u m?i, ki?n th?c càng m? r?ng nh?ng c?ng làm n?y sinh nhi?u v?n ?? m?i. Cái ch?a làm ???c cùng v?i cái ?ã làm ch?a xong ??t ra nhi?u thách th?c và trách nhi?m ??i v?i nh?ng ng??i quan tâm ??n n?n v?n hoá r?c r? m?t th?i ? ?ông Nam Á. 6. Tên g?i: K? t? khi ???c phát hi?n l?i, các di tích ki?n trúc b?ng g?ch c?a v??ng qu?c Champa ???c g?i b?ng nhi?u tên khác nhau nh? tháp, tháp-l?ng m?, ??n-tháp…. ??n nay, các di tích ki?n trúc này ???c th?ng nh?t tên g?i là các ??n-tháp Champa (B?n ?nh 35).C? dân Champa ?ã xây d?ng ???c nhi?u công trình ki?n trúc ??n-tháp ?n ?? giáo và Ph?t giáo r?t quy mô v?i m?t k? thu?t ?iêu luy?n, tinh x?o và m?t n?n ngh? thu?t t?o hình ??y cá tính trong su?t nhi?u th? k?. Ngày nay v?n t?n t?i nh?ng nhóm ??n-tháp t?i các di tích n?i ti?ng nh? M? S?n, ??ng D??ng, Po Nagar, D??ng Long… cùng v?i hàng ngàn tác ph?m ?iêu kh?c b?ng sa th?ch và h?p kim tr?ng bày t?i các b?o tàng. M? thu?t Champa ?ã góp ph?n t?o nên di?n m?o ??c ?áo c?a n?n ngh? thu?t ?ông Nam Á bên c?nh m?t n?n ngh? thu?t ?n ?? k? v?. Tháp Po Nagar, Nha Trang Hi?n nay, theo th?ng kê, hi?n còn l?i t?t c? 19 nhóm ??n-tháp ?ang t?n t?i trên m?t ??t, tính t? t?nh Qu?ng Nam ??n Bình Thu?n và ??k L?k ???c phân b? nh? sau:Qu?ng Nam: M? S?n, B?ng An, Kh??ng M?, Chiên ?àn.Bình ??nh: Ph??c L?c, Cánh Tiên, Bánh Ít, Bình Lâm, Th? Thi?n, D??ng Long, H?ng Th?nh.Phú Yên: Nh?n Tháp.Khánh Hoà: Po Nagar.Ninh Thu?n: Hoà Lai, Po Klaung Garai, Po Rôme.Bình Thu?n: Po ?am (Po T?m), Phú Hài.??k L?k: Yang Prong.Niên ??i c?a nh?ng ??n-tháp này tr?i dài t? th? k? th? VII-VIII ??n th? k? th? XVII-XVIII. Theo v?n bia, ph?n l?n nh?ng ??n-tháp tr??c th? k? th? VII-VIII ???c d?ng b?ng g?, nh?ng sau nh?ng c?n binh l?a, nh?ng ngôi ??n này ??u b? thiêu h?y, cho ??n kho?ng th? k? th? VII-VIII m?i xu?t hi?n nh?ng ??n-tháp xây b?ng g?ch nung và sa th?ch.Ki?n trúc Champa ch?u ?nh h??ng ngh? thu?t ?n ??. M?t t?ng th? nhóm ??n-tháp bao g?m m?t ngôi ??n chính, ti?ng Champa g?i là kalan, k?t h?p v?i nh?ng ??n th? nh?, nh?ng công trình ph? và ???c bao quanh b?i nh?ng b? t??ng th?p. Thông th??ng, m?t nhóm ??n-tháp Champa ph?i có ít nh?t 4 công trình là: mandapa (tháp Nhà), gorupa (tháp C?ng), kalan (?i?n th?) và kosa grha (tháp Ho?).Kalan t??ng tr?ng cho ng?n núi th?n tho?i Meru, cái tr?c c?a v? tr?, trung tâm hoàn v?; bao quanh núi Meru là các thiên th? và nh?ng ??i d??ng ???c t??ng tr?ng b?ng nh?ng ngôi ??n nh? và nh?ng b? t??ng th?p. H??ng chung c?a m?t t?ng th? th??ng là h??ng ?ông, h??ng m?t tr?i m?c, n?i m? ??u cho s? v?n hành c?a th?i gian và v? tr?.Kalan Champa là m?t ki?n trúc có bình ?? hình vuông, mái tháp hình chóp có ba t?ng và m?t ??nh tháp b?ng sa th?ch.??n-tháp Champa xây b?ng g?ch nung, ghép v?i nh?ng m?ng trang trí và ch?u l?c b?ng sa th?ch ? ?? tháp, khung c?a, trán c?a (tym-pan), ???ng di?m, v?t trang trí góc và ??nh tháp…V? k? thu?t xây d?ng c?a ng??i Champa c?, hi?n nay còn nhi?u gi? thi?t và ý ki?n khác nhau. Tuy nhiên, ph?n l?n các nhà nghiên c?u ?ã ??ng thu?n v? ch?t k?t dính có ngu?n g?c nh?a th?c v?t.?iêu kh?c: ??n-tháp Champa ???c trang trí tinh t?, c?u k?, th? hi?n s? k?t h?p hài hoà gi?a ngh? thu?t ?iêu kh?c và ngh? thu?t ki?n trúc. Ch? ?? chính trong ?iêu kh?c trang trí tháp là hoa lá, hình ng??i, hình ??ng v?t, các v? th?n, các con v?t huy?n tho?i theo n?i dung tôn giáo ho?c s? thi ?n ?? .D?a vào các y?u t? trang trí, s? thay ??i c?a k?t c?u ki?n trúc, s? xu?t hi?n hay m?t ?i c?a các motif trang trí, k?t h?p v?i nh?ng tài li?u liên quan (bia ký, các ngu?n s? li?u…), ?nh h??ng c?a các phong cách t? nh?ng n?n ngh? thu?t xung quanh nh? ?n ?? và các n??c láng gi?ng khác (nh? Môn, Kh?me, Vi?t, Java…), các nhà nghiên c?u ?ã chia ngh? thu?t trang trí và xây d?ng ??n tháp Champa t? th? k? th? VII ??n th? k? XV ra làm nhi?u phong cách khác nhau. ?iêu kh?c Champa n?i ti?ng v?i phù ?iêu và t??ng tròn. Riêng phù ?iêu c?ng ?ã có nhi?u hình th?c. Ngoài ch?m kh?c trên ch?t li?u ?á còn có ch?m kh?c tr?c ti?p lên g?ch tháp hay t?o hình trang trí trên g?ch tr??c khi nung. Nét ??c s?c c?a ?iêu kh?c Champa là nh?ng hình ch?m kh?c d??i d?ng phù ?iêu ??u mang xu h??ng h??ng t?i t??ng tròn – phù ?iêu n?i cao. T?ng nhân v?t, t?ng nhóm nhân v?t nh? tách r?i nhau, ??c l?p và g?n nh? bi?n thành nh?ng t??ng tròn riêng bi?t.S?u t?p hi?n v?t ?iêu kh?c l?n nh?t hi?n ?ang ???c l?u gi? t?i B?o tàng ?iêu kh?c Champa ? Tp. ?à N?ng. Nhi?u tác ph?m khác ???c gi? t?i các b?o tàng t?nh, các phòng VHTT huy?n, th?m chí ? c? m?t s? UBND xã. M?t s? không ít hi?n v?t l?u l?c ? các b?o tàng n??c ngoài và trong các s?u t?p t? nhân trong và ngoài n??c.Lo?i hình và ch? ?? ?iêu kh?c khá ?a d?ng, liên quan ??n ?n ?? giáo, Ph?t giáo, tín ng??ng b?n ??a… và có các nhóm chính sau:- T??ng th?.- ?ài th?.- Trán c?a (lá nh?/tym-pan).- Các trang trí ki?n trúc trên tháp.6.2. Minh v?nT?m bia Võ C?nh (Nha Trang, hi?n tr?ng bày ? sân B?o tàng L?ch s? Vi?t Nam) có niên ??i cu?i th? k? III ??u th? k? IV (niên ??i tr??c ?ây ??a ra là th? k? th? II) là bi ký s?m nh?t kh?c b?ng ch? Sanskrit. Sau quá trình ti?p bi?n v?n hoá-ngôn ng?, ng??i Champa ?ã sáng t?o ra h? th?ng v?n t? c?a mình ?? ghi ti?ng Ch?m. Minh v?n vi?t b?ng ch? Champa s?m nh?t ???c tìm th?y ? ?ông Yên Châu (Qu?ng Nam) có niên ??i th? k? IV.N?i dung c?a các minh v?n th??ng g?n v?i vi?c l?p ??n th? th?n, d?ng t??ng ho?c ghi nh? m?t s? ki?n quan tr?ng nào ?ó. Minh v?n ???c kh?c trên vách núi, trên bia, c?t ??n, tr? c?a, b? th?…Cho t?i nay, s? minh v?n Champa ?ã bi?t là 208 v?n b?n, trong s? ?ó có 69 b?n ?ã d?ch và công b? ch? y?u nh? công lao và nghiên c?u c?a các h?c gi? Pháp mà ?i?n hình là A. Bergaigne, E. Aymonier. Ng??i Ch?m hi?n nay c?ng không ??c ???c các v?n bia c? vì ?ang s? d?ng m?t h? th?ng v?n t? hoàn toàn khác.6.3. Thành c?Thành c? là m?t b? ph?n h?u c? c?a v?n hoá Champa. Ng??i Champa ?ã xây d?ng nhi?u toà thành trong ph?m vi v??ng qu?c c?a mình. Ph?n l?n nh?ng thành l?y này ?ã b? phá hu? nhi?u l?n, nh?ng do v? th? ??c ??a l?i th??ng ???c tái d?ng, tái s? d?ng qua nhi?u th?i ??i. Vì v?y, thành c? Champa th??ng ?n ch?a trong lòng nhi?u l?p tr?m tích v?n hoá t? s?m ??n mu?n và không ít tr??ng h?p ???c ng??i Vi?t c?u trúc l?i và tái s? d?ng. Nhi?u toà thành ???c xây d?ng trên c? t?ng c? trú s?m h?n, do v?y niên ??i c?a l?p c? trú không th? coi là niên ??i c?a xây d?ng thành. ?i?n hình nh? thành Trà Ki?u, niên ??i c?a t?ng c? trú s?m nh?t c?a Trà Ki?u hi?n nay ???c xác ??nh là t? th? k? I AD, nh?ng k?t qu? khai qu?t t??ng thành Nam cho th?y có l? t??ng thành ???c ??p s?m nh?t t? th? k? III, IV AD. Thành C? Lu? (Qu?ng Ngãi) ???c xây d?ng trên l?p c? trú Champa s?m có niên ??i ??u th? k? II AD và nh?ng ki?n trúc b?ng g?ch s?m nh?t ? ?ây có niên ??i kho?ng t? th? k? IV AD. Nh?ng nghiên c?u m?i ?ây t?i thành H? (Phú Yên) c?ng cho th?y k?t qu? t??ng t?.Theo s? li?u, vào th? k? th? IV, ng??i Champa ?ã h?c ???c cách xây thành t? Trung Hoa. Nh?ng phát hi?n kh?o c? h?c g?n ?ây ? Trà Ki?u, C? Lu?-Phú Th?, thành H? c?ng cho th?y ?i?u này. S? li?u ghi chép ??u tiên v? thành ???c ?? c?p trong Thu? kinh chú (cu?i th? k? V ??u th? k? VI), sau ?ó trong cu?n ?? bàn thành ký (th? k? XIX), thành Chà Bàn ???c mô t? khá t? m? và bên c?nh ?ó còn ?? c?p t?i 12 toà thành khác… B?n v? thành Trà Ki?u c?a ClayesTrên d?i ??t mi?n Trung hi?n nay còn v?t tích c?a m?t s? thành c? Champa nh? thành C? Lu? (Qu?ng Tr?), thành Hoá Châu, thành L?i (Th?a Thiên Hu?), thành Trà Ki?u (Qu?ng Nam), thành Châu Sa, thành C? Lu?-Phú Th? (Qu?ng Ngãi), Tra (Cha) thành, thành ?? Bàn (Bình ??nh), thành H? (Phú Yên), thành Diên Khánh (Khánh Hoà)…. Nh?ng thành này th??ng ???c xây d?ng ? nh?ng v? trí xung y?u, c?a sông, c?n bi?n hay ngã ba sông trong m?t quy ho?ch t?ng th? c?a vùng l?y sông làm tr?c chính và th??ng n?m bên b? Nam c?a sông.Nh?ng k?t qu? kh?o sát và khai qu?t g?n ?ây ? các thành nh? Trà Ki?u, C? Lu?, thành H?… cho th?y, khi xây d?ng toà thành, ng??i Champa ?ã l?i d?ng t?i ?a ??a hình t? nhiên nh? sông, gò, núi… ?? t?ng c??ng tính phòng th?/phòng ng? c?a t??ng thành và hào lu?. Thành Champa th??ng có c?u trúc kép hay th?m chí nhi?u l?p.Tuy v?y, cho ??n nay ch?a có b?t k? m?t thành nào ???c khai qu?t m?t cách có h? th?ng nên ch?a có m?t bình ?? c? th? v? t?ng th? quy ho?ch thành Champa. Có th? vòng thành bên ngoài th??ng có hình d?ng n??ng theo ??a hình, toà thành bên trong ???c ??p khá quy ch?nh. Nh?ng cu?c khai qu?t c?t thành Trà Ki?u hay thành H? m?i ?ây cho th?y: t??ng thành th??ng có m?t c?t ngang hình thang, bên ngoài d?c ??ng, bên trong thoai tho?i, hai bên ?p g?ch, d??i chân thành kè ?á, lòng t??ng ??p ??t lèn ch?t và t??ng thành th??ng ???c gia c? nhi?u l?n.6.4. C?ng th?Ng??i Champa là c? dân h??ng bi?n. Bi?n ?óng vai trò quan tr?ng và ?nh x? trong nhi?u khía c?nh ??i s?ng c?a h?. ??a hình bi?n mi?n Trung (b? và ??o ven b?) c?ng r?t thu?n l?i cho thuy?n bè neo ??u, trú ng?. Ngay t? th?i v?n hoá Sa Hu?nh ? ?ây ?ã hình thành nh?ng c?ng th? s? khai, có vai trò quan tr?ng trong ho?t ??ng ti?p xúc, giao l?u v?n hoá trong ngoài v??ng qu?c Ti?n Ch?mpa trong s?u t?p H? V?n Em, TP.?à N?ng D?a vào nh?ng phát hi?n ?? g?m Trung Hoa, g?m và thu? tinh Islam… t?i nhi?u các c?a sông ven bi?n l?n t? Qu?ng Tr? vào ??n Ninh Thu?n, k?t h?p v?i ghi chép trong th? t?ch c?, m?t s? nhà nghiên c?u ?ã xác quy?t m?t s? v?t tích c?ng th? c?a ng??i Champa. C?ng th? n?i ti?ng nh?t là Champapura th?i Lâm ?p ? C?a ??i (H?i An, Qu?ng Nam) v?i ti?n c?ng chính là Cù Lao Chàm. ? Quy Nh?n, Bình ??nh còn l?u d?u c?ng Th? N?i. Các c?ng này ?óng vai trò quan tr?ng trong vi?c hình thành và h?ng th?nh c?a con ???ng t? l?a qu?c t? trên bi?n vào nh?ng th? k? IX-X và nh?ng th? k? mu?n h?n. Tài li?u kh?o c? h?c c?a các ??t kh?o sát xác nh?n s? t?n t?i các c?ng Ròn, Gianh, Lý Hoà, Nh?t L? ? Qu?ng Bình; c?a Tùng (Lu?t), Mai Xá (trên c?ng c?a Vi?t hi?n nay 3-4km) ? Qu?ng Tr?; c?a Eo, c?a T? Hi?n ? Th?a Thiên Hu?; Nha Trang ? Khánh Hoà, Phan Rang ? Ninh Thu?n… có nhi?u kh? n?ng t?ng là các c?ng th? Champa.Theo các nhà nghiên c?u, c?u trúc th??ng c?ng Champa d??ng nh? khá th?ng nh?t theo m?t bình ?? t? ngoài vào nh? sau: C?a bi?n – ??m n??c – tháp – thành hay th? t? . Tuy v?y, c?n ph?i thêm vào c?u trúc này vai trò che ch?n, ti?n tiêu/ti?n c?ng c?a h? th?ng ??o ven b?. H? th?ng ??o này liên quan m?t cách h?u c? v?i nh?ng c?u trúc trong ??t li?n theo m?t tr?c sông ch? ??o. Ví d? ?i?n hình v? c?u trúc này là Cù Lao Chàm (Chiêm B?t Lao) ngoài c?a sông Thu B?n. Cù Lao Ré ? Qu?ng Ngãi. Có th? nh?n rõ vai trò c?a các ??o-c?a sông khác ngay trên b?n ?? ??a lý mi?n Trung hi?n ??i.6.5. ??a ?i?m c? trúCho t?i nay, ?ã phát hi?n và khai qu?t hàng ch?c ??a ?i?m thu?c v?n hoá Champa. Ph?n l?n di tích có tính ch?t ph?c h?p, ?a ch?c n?ng. D?a trên nghiên c?u v?t tích c? trú còn l?i có th? th?y nh?ng di tích c? trú Champa, ??c bi?t là nh?ng di tích thu?c giai ?o?n n?a ??u thiên niên k? I AD phân b? trùng kh?p v?i ??a bàn c?a v?n hoá Sa Hu?nh tr??c ?ó. Hi?n t??ng chung là trên các khu m? v?n hoá Sa Hu?nh th??ng có l?p v?n hoá Champa, hay nh?ng di tích Champa hay ???c tìm th?y k? c?n nh?ng khu m? chum c?a v?n hoá Sa Hu?nh.Tính ch?t c?a các ??a ?i?m r?t ?a d?ng và ph?c t?p, nh?ng ??a ?i?m này th??ng ?a ch?c n?ng (c? trú, phòng v?, trung tâm chính tr?, kinh t?…), trong khi các cu?c khai qu?t l?i có di?n tích h?n ch?. Thông th??ng các di tích nh? thành hay ??n-tháp trong m?t ph?c h?p di tích th??ng ???c xây d?ng trên n?n c?a l?p c? trú s?m h?n, ví d? ?i?n hình nh? khu di tích Trà Ki?u, C? Lu?, thành H?…Niên ??i c?a các ??a ?i?m: Có hai nhóm hay chính xác h?n có ba giai ?o?n ?ng v?i tính ch?t v?n hoá s?m mu?n c?a các di tích. Nhóm 1: giai ?o?n s?m t? Công nguyên ??n th? k? II, III AD. Nhóm 2: t? th? k? III AD ??n th? k? VII,VIII và nhóm 3: t? th? k? IX-X… v? sau. H?u h?t các ??a ?i?m ??u có niên ??i kéo dài su?t t? nhóm niên ??i 1 ??n 2, ?i?n hình nh? Trà Ki?u, H?u Xá I (di ch?), Tr?ng S?i…. M?t s? khác ch? thu?c nhóm niên ??i 3 nh? Nam Th? S?n, Bãi Làng…7. ??i s?ng c?a c? dânNg??i Champa có m?t n?n kinh t? ?a ngành ngh?. Tr??c tiên là ngh? nông tr?ng lúa n??c, dâu t?m, bông, hoa màu (v?i nhi?u gi?ng cây ngo?i nh?p t? Nam Thái Bình D??ng nh? mía, khoai…); ngh? r?ng, khai thác lâm th? s?n g? quý nh? qu?, tr?m h??ng, h? tiêu…; ngh? bi?n; ngh? th? công (rèn s?t, d?t v?i l?a, làm g?m, g?ch, ngói, ch? t?o ?? thu? tinh, ?á ng?c, khai khoáng và làm m? ngh? vàng b?c…), phát tri?n ngh? buôn bán ???ng bi?n, ???ng sông và ???ng núi. C? c?u kinh t? này là s? k? th?a và phát huy c? c?u có s?n tuy ch?a hoàn ch?nh c?a v?n hoá Sa Hu?nh tr??c ?ó. M?t s? ngành ngh? nh? làm g?m, g?ch, ngói, rèn s?t, ch? t?o ?? trang s?c b?ng thu? tinh, buôn bán b?ng ???ng bi?n ?ã ???c xác nh?n qua nh?ng tài li?u kh?o c? h?c nh?ng n?m g?n ?ây. Nh?ng thành t?u c?a các ngành ngh? khác m?i ch? ???c bi?t qua nh?ng t? li?u gián ti?p, qua nh?ng ghi chép trong th? t?ch c? Trung Hoa, bia ký…M?t trong nh?ng thành t?u n?i b?t c?a Champa là nh?ng ti?n b? v? nông nghi?p. Ng??i Ch?m ?ã t?o ra gi?ng lúa ch?u h?n. Khi di th?c gi?ng lúa này ra châu th? B?c b? (trong s? g?i là lúa Chiêm Thành hay lúa Chiêm, lúa Ch?m), gieo c?y c? hai v?. T? tháng 7 ??n tháng 10, tr?ng lúa tr?ng ? ru?ng b?ch ?i?n, t? tháng 12 ??n tháng 4, tr?ng lúa ?? ? ru?ng xích ?i?n. ?? thích ?ng v?i vùng ??t khô h?n Trung B?, c? dân v??ng qu?c Champa ?ã có hàng lo?t các bi?n pháp tr? thu? và s? d?ng n??c nh? c?n n??c, gi?ng, kênh, h? ??p…. ??c bi?t là h? th?ng khai thác nh?ng ngu?n n??c m?nh n?i hay ng?m, phân c?n, chia dòng ch?y s? d?ng n??c vào các m?c ?ích khác nhau ch?ng xói mòn ? nh?ng vùng ??i gò hay c?n cát… (“thu? h?” ch? dùng c?a Tr?n Qu?c V??ng). Có nhi?u kh? n?ng nh?ng “thu? h?” c?a ng??i Champa mà sau này ng??i Vi?t k? th?a và s? d?ng là m?t trong nh?ng bi?n pháp tr? thu? ??c ?áo, thích ?ng tuy?t v?i v?i môi tr??ng sinh thái v?a khô h?n v?a l? l?t mi?n Trung Vi?t Nam. V?t tích c?a nh?ng “thu? h?” này hi?n nay v?n còn th?y ? nhi?u vùng thu?c các t?nh Qu?ng Tr?, Qu?ng Nam, Ninh Thu?n, Bình Thu?n…. Nh?ng công trình s? d?ng n??c nh? gi?ng hay tr? thu? nh? ??p, kênh mà d?u v?t còn l?i cho ??n t?n ngày nay ? mi?n Trung Vi?t Nam c?ng là minh ch?ng cho chi?n l??c thích nghi này. Ng??i Champa ?ã bi?t khai thác và t?n d?ng m?i th? m?nh c?a các h? sinh thái ? mi?n Trung Vi?t Nam. Nh?ng gi?ng n??c c?a ng??i Champa không nh?ng ph?c v? cho nhu c?u tôn giáo, dân d?ng, mà còn ???c ph?c v? cho m?c ?ích th??ng m?i. Nhi?u s? li?u còn ghi l?i vi?c ng??i Champa bán n??c ng?t cho các thuy?n buôn n??c ngoài. Ngh? làm ngói, g?ch hình thành và phát tri?n t? r?t s?m. T?i nh?ng ??a ?i?m kh?o c? h?c có niên ??i t? ??u Công nguyên nh? Gò C?m, Trà Ki?u, V??n ?ình-Khuê B?c (l?p trên)… ?ã phát hi?n ra nhi?u lo?i ngói khác nhau. Theo các nhà nghiên c?u, ngh? s?n xu?t v?t li?u xây d?ng này có ngu?n g?c t? bên ngoài, có nhi?u kh? n?ng t? Trung Hoa (tr?c ti?p ho?c gián ti?p qua mi?n B?c Vi?t Nam), n?u so sánh lo?i v?t li?u này v?i nh?ng v?t li?u t??ng t? ? Trung Qu?c, Mi?n B?c Vi?t Nam, Nh?t B?n, Tri?u Tiên… cùng giai ?o?n. Theo Chamstudies.wordpress.com
0 Rating 755 views 0 likes 0 Comments
Read more
Nhạc cụ truyền thống của dn tộc Chăm Nhạc cụ l th⠠nh tố quan trọng để tạo nn phần hồn lễ hội Chăm. Nhạc cụ Chăm khng chỉ l괠 sản phẩm vật chất đơn thuần m cn lಠ phương tiện biểu diễn nghệ thuật mang lại biểu cảm thẩm mỹ trong đời sống tm linh. Phải ni lễ hội Chăm lⳠ nơi bảo tồn, lưu giữ nhạc cụ Chăm. Hầu hết cc loại nhạc cụ Chăm nhằm mục đch để phục vụ cho lễ hội. Nhạc cụ Chăm sử dụng trong lễ hội bao gồm: Đ᭠n Kanhi,trống Ghinăng, Paranưng, k(n Saranai, Hagar (trống nhỏ), Ching, Asăng (t v깠), Tăngek (nhạc g bằng 2 cy gỗ). Ngo墠i ra cn c Mⳣ la do người Ra glai biểu diễn. Cc nhạc cụ trn c᪳ cc đặc điểm sau đy: Đᢠn Kanhi: L loại đn kࠩo một dy tương tự như đn nhị của người Kinh. Th⠢n đn Kanhi được lm bằng mai r࠹a vng. Trn thઢn mai ra vng c頳 gắn một đoạn tre nhỏ đặc cỡ ngn chn c㢡i, di khoảng 0,65cm. Ở đầu đoạn tre ny c࠳ hai cần để ko dy gọi l颠 hai tai Kanhi. Từ hai cần ko (hai tai) nối xuống với cy tre bằng một sợi l颠 dy đn ch⠭nh của Kanhi. Ngoi ra cần ko n੠y nối với cy tre bằng lng đuⴴi ngựa uốn cong như cnh cung. Đy ch᢭nh l dy kࢩo của đn Kanhi để tạo ra m thanh. Theo truyền thuyết Chăm đࢠn Kanhi l biểu tượng cho 4 đứa con của thần mẹ xứ sở - Po Inư Nưgar c t೪n l: Jakak, jakan chuyn tr઴ng coi việc trn trời v jalo, jalai tr꠴ng coi ở trần gian (dun ya). Do vậy đn Kanhi người Chăm sử dụng trong hai trường hợp sau: Kanhi dng trong đ๡m tang gọi l “Kanhi đam”. Người Chăm thường sử dụng 2 đn Kanhi cho đࠡm tang 2 thầy Paseh v sử dụng 4 ci cho đࡡm tang 4 thầy Paseh. Kanhi trong nghi lễ ny do nghệ nhn biểu diễn phục vụ cho cࢴng việc trần gian l nhằm để phụ hoạ với bi hࠡt lễ tiễn đưa hồn người qu cố về thế giới bn kia. Đ᪠n Rabap cũng tương tự, cng họ với đn Kanhi tr頪n nhưng chỉ được sử dụng đơn chiếc. Rabap vừa l vật tổ mn phഡi của thầy Kadhar - một thầy tn ngưỡng dn gian Chăm thờ thần mặt trời (yang prong). Do đ� Rabap chỉ được thầy Kadhar sử dụng để ho m với cࢡc bi thnh ca, ca ngợi cࡡc vị thần trn trời ở lễ hội như lễ hội đền thp, lễ tế thần linh puis, payak, lễ tế trꡢu… Cả hai loại Kanhi v Rabap đều c 2 ấm ch೭nh: k v k⠭. Khi diễn tấu thầy Kadhar phải ngồi xếp bằng đặt tay ln đi tay phải k깩o cnh cung, tay tri điều khiển nốt nhạc. Khi khai lễ (Pachah yawa Rabap) thầy Kadhar phải kᡩo Rabap pht ra 3 tiếng kh vᲠ 3 tiếng kh để thức giấc mọi sinh linh v c�c thần thnh ở vũ trụ. Kn Saranai: Đᨢy l nhạc cụ thổi bằng hơi, cấu trc gồm 3 phần gắn liền nhau: Phần chuິi (gali) lm bằng đồng, bn trong cળ gắn lưỡi g bằng l buࡴng, dng để thổi; phần thn (rup) l颠m bằng gỗ đục rỗng 7 lỗ chnh pha tr�n v một lỗ phụ ở pha dưới để điều khiển cୡc nốt nhạc;v bộ thứ ba loa kn lਠm bằng gỗ qu, sừng tru hoặc ng� voi, rỗng ruột. Đy l phần ph⠡t m thanh. Kn Saranai c⨳ 5 nốt m thanh tương đương với nốt nhạc đồ, pha, sol, la, r v⪠ cũng l tượng trưng cho 5 ngũ quan con người. Kn Saranai được nghệ nhਢn Chăm sử dụng trong cc lễ hội Chăm như lễ hội ma Rija. Thổi kẨn Saranai Trống Paranưng Đ"y l loại trống trn, bịt da một mặt, đường kಭnh khoảng 0,45m. Mặt trống bịt da d, thn trống bằng gỗ. Xung quanh thꢢn trống c đục 12 lỗ, mỗi lỗ được giữ chặt bằng mỗi con nem v c㠳 quấn dy my xung quanh. Đ⢢y l bộ phận tăng giảm m thanh vࢠ nốt nhạc của trống. Trống c 3 m ch㢭nh: tc, tăm, tằm. Trống ny được người Chăm xem lᠠ biểu trưng cho lồng ngực (tim, phổi, ngũ tạng), l biểu hiện ci tࡢm con người. Trống Paranưng được xem l nhạc cụ, l vật tổ của thầy Mưdu࠴n - thầy cng lễ tn ngưỡng dꭢn gian phục cho lễ hội ma Rija. Trống vỗ với tư thế ngồi, đặt trống vo đ꠹i, m st v䡠o ngực, vỗ hai tay vo trống. Ảnh: Diendanvanhoahoc Trống Ghinăng: Trống Ginăng. Ảnh: Tạ Quang Động Trống ghi năng Chăm lࠠ trống di hnh trụ, thường biểu diễn bằng cặp đ଴i để nghing nằm cho nhau. Thꩢn trống thường lm bằng gỗ lim, khot rỗng b੪n trong. Thn trống di khoảng 0,72m, hơi ph⠬nh ở giữa v được bo nhẵn cả trong lẫn ngoࠠi. Hai mặt trống căng da, mặt nhỏ căng da d, đường knh 0,24m, mặt nꭠy người Chăm gọi l chang (mặt dương) vỗ bằng tay c 2 ೢm chnh tớ, tn. C�n một mặt lớn căng da tru, đường knh khoảng 0,28m, mặt n⭠y l mặt chnh của trống người Chăm gọi lୠ Băm (mặt m) c hai Ⳣm chnh l: d�n, gleng v lun đഡnh bằng đi gỗ. Trống Ginăng tượng trưng cho đi ch鴢n con người. Theo quan niệm của người Chăm về 3 loại nhạc cụ: kn Saranai, trống Paranưng, Ghinăng l tượng trưng cho con người v蠠 một vũ trụ thu nhỏ (trời, đất) hon chỉnh. Do vậy khi biểu diễn 3 nhạc cụ ny kh࠴ng được tch rời nhau m luᠴn ha quyện vo nhau, trong đ⠳ kn Saranai l nhạc cụ chủ đạo. Ba nhạc cụ n蠠y đ tạo nn linh hồn cho lễ hội Chăm. Hagar (trống c㪡i) Đy l loại trống cơm, th⠢n trống di khoảng 0,5m lm bằng gỗ đục rỗng bࠪn trong. Mặt trống căng bằng da d đường knh khoảng 0,2m. Đꭢy l loại trống nhỏ chỉ sử dụng trong đm tang Chăm. Cࡹng họ với loại trống ny cn cಳ trống gọi lễ trong thnh đường nhn lễ hội Ramưwan của người Chăm Awal. Như trống gọi lễ nᢠy c kch thước lớn hơn, h㭬nh bầu dục, đường knh khoảng 0,4m. Ching (cheng) Đ�y l loại nhạc cụ g bằng đồng c൳ đường knh 0,3m. Ching c� 2 loại: ching mặt bằng v chi꠪ng c nm. Chi㺪ng thường dng di gỗ, ở đầu d鹹i quấn vải mềm dng để g. Chi鵪ng được sử dụng trong cc lễ hội Chăm như lễ ma Rija, tế lễ thần linh Puis, payak. NgoẠi ra cn được sử dụng trong đm tang. B⡪n cạnh ching cn c겳 M la nhưng nhạc cụ ny do người Raglai biểu diễn nh㠢n ngy hội cng lễ ở đền thມp.. T V (săng) Đ頢y l nhạc cụ bằng ốc biển dng để thổi. Theo truyền thuyết đ๢y l vật linh m đấng Dࠪbitathur dng để s乡ng tạo vũ trụ v mọi sinh vật trn trần gian, tહ v cn lಠ vật tổ Po Adhia dng để hnh lễ trong đ頡m tang Chăm Ahir, đặc biệt trong nghi thức lễ tẩy uế (talih) đất thp trong cꡡc lễ hội ở đền thp Chăm. Nhạc cụ Chăm tuy chưa phong ph vẠ đa dạng nhưng l một phương tiện khng thể thiếu được trong lễ hội Chăm. Nhạc cụ Chăm chỉ vang lപn khi c lễ, c hội, kh㳴ng phục vụ cho sinh hoạt đời thường. Nhạc Chăm chỉ đnh thức những sinh linh ở ci trần vᵠ thần thnh nơi chốn thin đường v᪠ li cuốn người xem về với tn ngưỡng, về với lễ hội. Như vậy, đến lượt m䭬nh nhạc cụ Chăm đ thực sự trở thnh phương tiện nghệ thuật l㠴i cuốn người xem về với lễ hội v ngược lại lễ hội Chăm chnh lୠ nơi nui dưỡng, bảo tồn nhạc cụ Chăm. (Theo Sắc Chăm Ninh Thuận)
0 Rating 752 views 0 likes 0 Comments
Read more