Select
Tag Cloud

Anything in here will be replaced on browsers that support the canvas element

  • Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
By: On January 10, 2015
Pieh Khik Phun Pajaih CampaThanh Phu Ba       Anâk Cam drei thei thei jang caong khik phun pajaih Campa deng rai di ngaok dunya ni.       Nagar Campa lihik liwik biak jeh, min muk kei Cam hu caik wek ralo drap ar siam hatuah saong hadom anâk tacaow daok ka-ndaong, calah caluen grep gilaong. Manâng drei nduec nao aia lingiw pa-ndap daok yaong, manâng drei daok wek dalam aia khik peng paga ala sang.       Mâng kal dahlau, hu patao bia pakreng nagar, buel Cam dah danuh pajieng hu ralo drap ar caik rai.      Tel harei ni, buel Cam wer glai, mblung rakak ka palei nagar oh hu urang kaya pan akaok; adat ca-mbat mada harei mada hao karang, po halau janâng o khin ba jalan tuei tapak; akhar tapuk thruw duw ngap ka bhap bini ruw ri, calah tung tian.        Anâk Cam pok mata maong gep, thuak yawa, ké sanâng duah baoh kadha khik phun pajaih. Mayah Cam thau anit bengsa, marat hatai khik phun pajaih Campa nan hu macai jalan pieh ngap. Likau biai sa jalan biak asit min ba marai ligaih makrâ biak praong : Yau panuec bhian ndem "Sap Cam daok, pajaih Cam daok" Sap ndem anâk mânuis drei mai dahlau di hu akhar tapuk. Nyu pagem saong rup ita mâng harei tabiak di awal amaik tel harei tagok suor riga. Tapa sap ndem, khaol ita thau gep, peng gep, ba tung tian anit ranam gep. Khik hu sap ndem Cam nan khik hu pajaih Cam ye. Panuec sinbiai :      1/ Dom mik wa praong thun ngap amaik amâ ba jalan ndem harat sap Cam dalam ma-ngawom drei. Harei harei pahader anâk tacaow ndem sap Cam. Pakep nyu ndem sap urang lingiw dalam sang. Liwik harei jieng tana siam lo.      2/ Kanâ dom mik wa glaong akhar tapuk Cam wak jieng tapuk asit asit  pataow ndem sap Cam mâng akhar latinh pieh ka anâk ranaih mbuen si bac, payua nao grep libik palei Cam tok khik anguei.      3/ Dalam gruk nyaom biai, ngap cheh chai tamia adaoh halar kieng ndem harat sap Cam ka ralo drei peng para-ndap.      Harung wek, pieh khik pajaih Campa deng rai di baoh tanâh ni, Anâk Cam abih drei mâng dalam tel lingiw aia hader ew gep, kaih gep, ba gep ndem sap Cam. Ngak hu yau nan, paran Cam hadah hadai harei hadei. ------------------------------------------------------------***------------------------------------------------------------   pY-H K[` PU# pEjH c.f\ anI` c. Rd] T] T] j) Oc= K[` PU# pEjH c.f\ d-) Er d{ Oq_` dU#y n{..,,ng^ c.f\ l[h[` l[w[` bY` j-H, m[# mU` k] c. hU Ec` w-` rOl Rd$ a^ sY. htWH Os= hOd. anI` tOc_* Od_` kOV=, clH clW-# Rg-$ g[Ol=, mnI~ Rd]VW-! On_ aY l[q[* pV$ Od_` Oy=, mnI~ Rd] Od_` w-` dl. aY K[` p-) pg al s) ,, m) k& dhL-U  hU pOt_ bY pRk-) ng^ ,, bW-& c. dH dnUH pjY-) hU rOl Rd$ a^ Ec` Er,,t-& hr] n{, bW-& c. w-^ EgL, vLU~ rk` k\ pl] ng^ oH hU ur) ky p# aOk_` ,, ad@ cv@ md hr] md Oh_ kr), Of- hl-U jnI~ o K[# b\ jl# tW] tp` ; aK^ tpU` RTU* dU* Q$ k\ B$ b[n{ rU* r{ clH tU~ tY#,,   anI` c. Op` mt Om_) g-$, TW` yw Ok- Sn) dWH Ob_H kD K[` PU# pEjH,,myH c. T-U an[@ b-) S\ mr@ hEt K[` PU# pEjH c.f\ N# hU mEc jl# pY-H Q$,, l[k-U EbY s jl# bY` aS[@ m[# b\ mEr l[EgH mRkI bY` ORp= : y-U pnW-! BY# OV. "S$ c. Od_`, pEjH c. Od_`" S$ OV. anI` mnW[( Rd] Em dhL-U d{ hU aK^ tpU`, zU pg< Os= rU$ i[t m) hr] tbY` d{ aw& aEm` t-& hr] tOg` OsW^ r[g ,,tp S$ OV. OK_& i[t T-U g-$, p-) g-$, b\ tU~ tY# an[@ rn. g-$,,K[` hU S$ V. c. N# K[` hU pEjH c. y|,, pnW-! S[# EbY :1: Od. m[` w ORp= TU# Q$ aEm` amI b\ jl# V. hr@ S$ c. dl. mQ\Ow. Rd], hr] hr] phd-^ anI` tOc_* OV. S$ c.,, pk-$ zU V. S$ ur) l[q[* dl. s), l[w[` hr] jY-) tn sY. Ol,,2: knI Od. m[` w OgL= aK^ tpU` c. w` jY-) tpU` aS[@ aS[@ pOt_* V. S$ c. mI) aK^ lt[# k\ anI` rEnH vW-# s{ b!, pyW On_ Rg-$ l[b[` pl] c. Ot` K[` aqW],,3: dl. RgU` Oz+ EbY, Q$ C-H EC tmY aOd_H hl^ kY-) V. hr@ S$ c. k\ rOl Rd] p-) k\ f\N$,, hrU~ w-`, pY-H K[` pEjH c.f\ d-) Er d{ Ob_H tnIH n{, anI` c. ab[H Rd] m) dl. t-& l[q[* aY hd-^ ew g-$, EkH g-$,  b\ g-$ V. S$ c.,, Q` hU y-U N# pr# c. hdH hEd hr] hd] ,,  
0 Rating 595 views 4 likes 0 Comments
Read more
By: On March 20, 2014
Từ thế kỷ XI nước Đại Việt đã là một quốc gia độc lập tự chủ, có nền kinh tế phát triển, nền quốc phòng hùng mạnh, đất nước vừa gần 100 năm thoát ra khỏi ách Bắc Thuộc này đã vươn lên mạnh mẽ, sức mạnh của các vương triều Đại Việt đang độ “xuân thì”, nở rộ. Đại Việt lúc nào cũng khát khao tăng cường thế lực, củng cố quốc gia, giữ vững sơn hà. Để thực hiện điều này họ phải ra sức “Bắc hòa, Nam tiến”: trong khi với Trung Hoa thì họ phải luôn tỏ ra thần phục cho dù phải liên tục đối phó với các cuộc xâm lăng của Trung Hoa, với các quốc gia ở lân bang khác thì ra sức tăng cường vị thế và mở rộng cương thổ. Trong khi đó cùng thời điểm này về phía Nam, Chăm Pa đã bước vào một thời kì suy thoái: hết chiến tranh với Đại Việt trong thế kỷ XI, lại chiến tranh với Chân Lạp suốt 100 năm (thế kỷ XII – XIII) vừa tạm ổn với lân bang (Đại Việt – Chăn Lạp) lại phải đối phó với đế quốc Mông Cổ hùng mạnh để mưu cầu độc lập, chiến tranh vừa hết, quan hệ với Đại Việt trở nên tốt đẹp chưa được bao lâu. Nước Chăm Pa lại bước vào một giai đoạn chiến sự liên tục với Đại Việt trong suốt từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII (thời điểm mà vương quốc này bị tiêu diệt). Mối Quan hệ giữa Đại Việt với Chăm Pa đã được hình thành trong hoàn cảnh đó, nó trở thành một xu thế tất yếu của dòng chảy lịch sử. Trong mối quan hệ này Chăm Pa chắc hẳn mất nhiều hơn là được (thậm chí mất nước) và ngược lại Đại Việt được nhiều hơn là mất. Nếu như chỉ nhìn bề ngoài người ta sẽ thấy mối quan hệ này là của hai quốc gia khác nhau, như nhiều mối quan hệ khác, nhưng chính từ mối quan hệ này, người ta sẽ thấy được cả một trang sử mở nước của dân tộc Việt Nam và cả một trang sử về sự suy vi của vương quốc cổ Chăm Pa, cho tới ngày nó trở thành một “cố quốc” – trở thành một phần của đất nước Việt Nam. Như vậy nhìn ở một góc độ nào đó Lịch sử mối quan hệ Đại Việt – Chăm Pa cũng chính là một phần của lịch sử dân tộc. Quá trình đó là một chuỗi dài của những biến hóa, thay đổi không ngừng, mà chúng ta không thể biết trước. Vận mệnh của hai quốc gia Đại Việt, Chăm Pa cũng nằm trong quy luật chung đó: Một quốc gia Đại Việt vừa thoát khỏi Bắc Thuộc đã vươn lên, đánh bại các nước bên cạnh mở mang lãnh thổ, khẳng định sức mạnh; Một dân tộc Chăm Pa đang trên đà suy thoái, nhưng ai ngờ được nó có thể nhanh chóng suy sụp, rồi không lâu sau cũng diệt vong. Thật sự như vậy, trên con đường mở mang và phát triển của một dân tộc, chính là sự suy thoái, sụp đổ của một dân tộc khác. Đại Việt, phía bắc lúc nào cũng lo bị Trung Quốc xâm lăng, trong khi họ còn phải giải quyết nhu cầu kinh tế, xã hội khi mà sức ép dân số, tài nguyên ngày càng đè nặng lên khu vực Bắc Bộ thì Nam Tiến chính là một giải pháp để duy trì sự sống còn và phát triển của dân tộc. Như một định mệnh , vương quốc Chăm Pa đang trong giai đoạn đang tàn lụi (chiến tranh liên tục, đất nước phân hóa, mâu thuẫn nội bộ…), đã đụng phải một dân tộc đang mạnh lên và lúc nào cũng khát khao tăng cường quốc lực đất nước. Trong bối cảnh đó với quy luật “cá lớn nuốt cá bé”, vương quốc Chăm Pa không thể thoát được định mệnh, nếu có trách thì chỉ trách quốc lực Chăm Pa quá yếu, nếu có tiếc thì chỉ tiếc số phận Chăm Pa đã tận. Việc mở mang lãnh thổ vì nhu cầu sinh tồn là chuyện xảy ra ở mọi nơi, mọi lúc, gần như là hiện tượng tự nhiên, cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam đã xóa nhòa và hòa tan các dân tộc khác. Quốc gia Chăm Pa từng phát triển và phồn thịnh, nền văn hóa rực rỡ, có một nền văn minh cao độ,  từng hùng mạnh khắp khu vực; một nước “trước kia như thế, mà nay như thế này” tránh sao cho khỏi sót xa và tiếc rẻ. Trước đây chúng ta khi nói đến “Mối Quan Hệ Đại Việt – Chăm Pa”, thì người ta thường biết đến các cuộc chiến tranh, các lần sứ giả hai nước qua lại, thương mại hai nước… nhưng một phần quan trọng không kém liên quan đến mối quan hệ này chính là những giao lưu và hội nhập văn hóa, văn minh giữa hai nước, hai dân tộc, thì chúng ta ít quan tâm và nói đến, dù nói đến cũng chỉ khái lược và sơ xài. Trong đó người Việt đã vây mượn văn hóa, kỹ thuật, phong tục của người Chăm rất nhiều trong đời sống của mình. Từ sự tiếp thu của người, cộng với cái của mình vốn có, họ đã làm nên một văn hóa Việt Nam phong phú và đa dạng, như vậy dấu ấn Chăm tồn tại đầy rẫy trong văn hóa Việt, không chỉ ở miền Trung nước ta mà cả khu vực Nam Bộ và ngay trong lòng Bắc Bộ (mà cụ thể là trong kinh thành Thăng Long). Như vậy có thể thấy không phải kẻ chiến thắng nào cũng văn minh hơn kẻ chiến bại. Thậm chí ngược lại quy luật thường thấy là kẻ chiến thắng thường tiếp thu tinh hoa văn hóa của kẻ chiến bại, tạo nên bản sắc riêng của mình. Và nó đã đúng trong mối quan hệ Việt – Chăm. Trong Mối Quan Hệ Đại Việt – Chăm Pa, Đại Việt lúc nào cũng có ly do biện minh cho các cuộc chinh phạt Chăm Pa trong những năm 1044, 1402,1471… như : “ nước Chăm Pa sang cướp phá”, “ Nước Chăm Pa không sang dâng cống”… Và cứ thế cứ mỗi lần đó Đại Việt thường mượn cớ  để mà sang chinh phạt, giết dân, bắt người và chiếm đất Chăm Pa. Những gì mà Nguyễn Bỉnh Quân đã ghi (ở trên), thật sự là một thực tế đáng buồn: các tác giả, sử gia, các sách báo, bài viết…cũng như trong ý thức của nhiều người trong Mối Quan Hệ Đại Việt – Chăm Pa, thì các cuộc chiến tranh đều bắt nguồn từ Chăm Pa, Đại Việt chỉ đi chinh phạt Chăm Pa, ổn định chư hầu, “chiếm vài ba Châu”, “giết, bắt mấy ngàn người ”…mà thôi. Trong lĩnh vực lịch sử cũng như trong những trao đổi và giao lưu văn hóa vai trò của Chăm Pa vẫn chưa được đánh giá cao chẳng hạn vai trò của họ trong kháng chiến chống  Mông – Nguyên, hay ảnh hưởng của dân tộc Chăm với người Việt. Dẫu biết rằng những điều trên là một sự thật, nhưng xuất phát tư tưởng “lấy bản triều làm trung tâm” (bản triều là Đại Việt) của khổng giáo, đối với các sử gia và nhiều người khác để nói ra sự thật của vấn đề trên là “nhạy cảm – mặt cảm”, “không tiện nói ra”. Hay dựa vào các tài liệu của các sử gia người Việt từ xưa (là tài liệu đầy đủ và chi tiết nhất còn lại), nhiều  người trong chúng ta vẫn nghỉ, ngay cả các sử gia vẫn lấy đó làm khuôn mẫu cho những vấn đề, sự kiện liên quan Thiết nghĩ đã đến lúc ta cần phải nhìn lại toàn diện về mối quan hệ này, đánh giá đúng tầm quan trọng của mối quan hệ này và vai trò của Chăm Pa trong lịch sử, văn hóa, văn minh Đại Việt. Cụ thể những vấn đề mà theo ý kiến thô thiển của tôi cần phái đánh giá, xem xét lại một cách khách quan những vấn đề liên quan đến chủ đề Mối Quan Hệ Đại Việt – Chăm Pa là: Nguyên nhân từ cuộc chinh phạt của Lý Thái Tông năm 1044, hay cuộc chinh phạt của Lê Thánh Tông năm 1471(chủ yếu là vì vua Lê yêu cầu Chăm Pa phải dâng cống và coi mình như thiên triều – tức là muốn coi Chăm Pa chỉ là chư hầu;  sự thật sự kiện Công Chúa Huyền Trân lên giàn thiêu và bị cướp về nước; tại sao lúc nào Chăm Pa cũng muốn phá hoại Đại Việt vì họ hiếu chiến hay vì muốn giành lại những vùng đất đã bị Đại Việt lấy bằng chiến tranh và âm mưu (Châu Ô, Châu Lý là được tặng cho Đại Việt, để đổi lấu Công Chúa Huyền Trân, nhưng sau khi vua Chăm mất Đại Việt lại mượn cớ cướp công chúa về mà không trả lại đất)… Đánh giá lại cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên, chiến thắng của Đại Việt không thể  có nếu như không có chiến thắng của nhân dân Chăm Pa, và ngược lại không có chiến thắng của Đại Việt thì không có chiến thắng Chăm Pa. Thay vào đó các sử gia thường đề cao vai trò của mình trong cuộc kháng chiến này. Cuối cùng nên đánh giá đúng ảnh hưởng, tác động, những biểu hiện của dấu ấn Chăm Pa với văn hóa và văn minh Đại Việt, góp phần làm nên nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. Hy vọng trong một tương lai không xa chúng ta sẽ có những “cái nhìn mới” về các vấn đề nêu trên. Và nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu mang những “cái nhìn mới “ này của các chuyên gia, nhà nghiên cứu sẽ ra đời. Để tất cả chúng ta có thể tiếp cận những vấn đề liên quan đến chủ đề này theo một chiều hướng mới khách quan quan hơn, tiến bộ hơn… JASHAKLIKEI
0 Rating 588 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 8, 2014
Từ đỉnh núi MAHA giáp ranh giữa xã nhơn thành và phù cát( bình định), nhìn xuống về hướng tây, ta như thấy ẩn hiện đâu đó thành cổ đồ bàn trong nắng hoàng hôn.Dòng sông kôn lưỡng lề uống quanh những cánh đồng lúa xanh rờn.Phía bắc thành đồ bàn là tháp Phú lốc, phía tây thành là tháp cánh tiên và phía nam xa xa là tháp bánh ít.(Phía tây thành có lăng Võ Tánh và Ngô Tùng châu.) Gần chân thành này có 2 con voi đá và 2 con sư tử đá đang trầm mặc với thời gian.Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắngNhững đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành Gốm Champa,mà đỉnh cao là gốm Bình Định thế kỷ X- XV, ngay từ dáng vẻ độc đáo, sắc men thâm trầm của nó đã chứa đựng ẩn ngữ của tâm hồn, là một lời mời gọi, hướng vọng đến những kẻ tha nhân cất bước, sống trọn một hành trình,hướng vọng của những linh hồn đồng điệu.Vậy mà phần hồn rất đỗi thân thương ấy, từ lâu nay, đã chẳng được các bậc thức giả chú ý. Cứ nghĩ đến nền nghệ thuật Champa, người ta nghĩ ngay đến những đền tháp (kalan) nguy nga, huyền diệu còn sót lại đó đây hay chỉ là phế tích chìm sâu trong lòng đất từ Ngũ Quảng đến Bình Thuận, đến những đường nét chạm khắc “ thần thái nguyên sơ lung linh từng khuôn mặt, lửa bật ra từ những khối săn dòn” (Trần Kỳ Phương). Gốm Champa, mộc mạc mà thô phác, suốt mấy thế kỷ, lặng lẽ và im lìm trong lòng đất hay lưu lạc đến những xứ miền xa xôi nào đó, trong tấm lòng trân trọng mà vẫn còn là bí mật, kể từ nguồn gốc, đối với các sưu tập gia thế giới. Có một phần linh hồn Chàm ẩn khuất trong từng dáng gốm, màu men, nét vẽ, có một phần của đất và nước “ xứ trầm hương” hóa thân thành những tác phẩm nghệ thuật, mang tải linh hồn của một dân tộc.Nếu có nhắc đến gốm Champa, người ta lại chỉ nghĩ đến truyền thống nung ngoài trời với lò di động hay kiểu nung chấy củi ở ngoài trời, những sản phẩm thô không men thời tiền Vijaya hay tận bây giờ còn thấy ở Bàu Trúc (Bình Thuận), để rồi từ đó, có người đâm ra nghi ngờ chủ nhân Champa của những lò gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV.Gốm Champa giai đoạn Bình Định thế kỷ X- XV, sẽ còn là bí mật nếu không có những hoạt động tích cực, những ghi nhận đầu tiên của các nhà khảo cổ học miền Nam lúc đó (nhóm Nguyễn Bá Lăng, Nghiêm Thẩm... thuộc Viện Khảo cổ học Sài Gòn) vào đầu thập kỷ 70 và tiếng nói khẳng định nguồn gốc Chăm của nó trong luận văn “ Giám định niên đại gốm Đông Nam Á (The ceramics of South- East Asia- their dating and indentification) mười năm sau đó của Roxana Brown. Nhưng những phát hiện đó cũng nhanh chóng đi vào quên lãng. Phải đến thập kỷ 90, với những cuộc khai quật khảo cổ học tiến hành ở Bình Định các nhà khảo cổ học trong nước và sau đó, với sự hợp tác của các đồng nghiệp Nhật Bản, đã tiến hành đào thám sát rồi khai quật khu Gò Sành, phát hiện thấy lò gốm ở đây thì vấn đề nguồn gốc và chủ nhân Chăm của chúng mới được khẳng định chắc chắn. Từ đây, những ẩn ngữ của gốm - một trạng thái của linh hồn Chàm mới cất tiếng:Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi Những đền xưa đổ nát dưới thời gianNhững sông vắng lê mình trong bóng tốiNhững tượng Chàm lở lói rỉ rên thanĐây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau điNhững rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độnLừng lửng đưa nơi rộn rã tiếng từ quy Đây chiến địa đôi bên giao trận Muôn cộ hồn tử sĩ thét gầm vangMáu Chàm cuộn tháng ngày niềm uất hậnXương Chàm tuôn rào rạo nỗi căm hờn Gốm Champa giai đoạn này phát triển cực thịnh, song trùng với bước thiên di lớn của dân tộc Champa, cất bước từ đô thành Trà Kiệu, theo tiếng gọi “ hướng vào Nam”, đóng đô mới trên mảnh đất Bình Định “ không đồng khô cỏ cháy, năm dòng sông chảy, sáu dãy non cao, biển Đông sóng vỗ rạt rào” (ca dao), mở ra một giai đoạn cực thịnh, thấm đẫm vinh quang và nước mắt của cả một dân tộc. Một trăm năm chinh chiến với Khmer để giành độc lập dân tộc, cuộc kháng chiến hợp lực với Đại Việt để chống quân xâm lược Nguyên Mông, và sự bành trướng của đại việt... Từ những thế kỷ đau thương, từ cuộc sống thấm đẫm vinh quang và tủi nhục, thăng hoa lên thành nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc phong cách Bình Định (tháp Mẫm). Để rồi đến cuối thời kỳ Vijaya, khi đã giành được độc lập dân tộc, khi vương quốc Champa đã dần dần thịnh trị và phát triển toàn diện về mọi mặt, các mối quan hệ bang giao trong và ngoài khu vực đã mở ra, trên cơ sở sự cần cù và khéo léo của bàn tay người thợ Chăm, gốm Champa đột biến, đạt được thành tựu quan trọng, từ ứng dụng vươn lên thành nghệ thuật.Một giai đoạn cực thịnh của gốm Champa, vào nửa sau thời kỳ Vijaya, mới được khám phá. Dẫu cho đến nay, đã và đang có những ý kiến nghi ngờ về chủ nhân Champa của những lò gốm này, sự nghi ngờ chỉ căn cứ đơn thuần vào một số nét khác biệt có tính tìm tòi so với bản sắc văn hóa gốm sứ của người Champa. Những sản phẩm có xương gốm đục xám với màu men đơn sắc hay đa săc ấy, một mặt cho ta thấy, đã kế thừa truyền thống gốm Sa Huỳnh vào khoảng thế kỷ V trước công nguyên, đã được phủ một lớp men chì nhẹ lửa tuy chưa bóng, cũng như gốm Champa giai đoạn trước mà các cuộc khai quật, chẳng hạn ở Trà Kiệu, đã tìm ra đặc trưng của nó... Sự kế thừa đó, thể hiện qua một số điểm về kỷ thuật, tạo dáng và trang trí cũng như loại hình đặc trưng Champa. Mặt khác có sự phát triển vượt bậc về kỹ thuật là kết quả của những ảnh hưởng từ các trung tâm gốm khác (mà các sản phẩm của chúng đã được tìm thấy ở nhiều địa điểm khảo cổ trên đất Chăm xưa) cũng như sự sáng tạo về nghệ thuật của chính các thế hệ nghệ nhân Champa xưa.Con sông Kôn uốn quanh đồng bằng Bình Định như chiếc cầu nối liền các trung tâm sản xuất gốm: Trường Cửu (Nhân Hòa- An Nhơn), Lệ Nghi (Nhân Mỹ- An Nhơn), Gò Sành (Nhân Hòa- An Nhơn), Cây Ké và Gò Hời (Tây Vinh- Tây Sơn) với vùng nguyên liệu và tiêu thụ thông qua thương cảng Thị Nại, vươn dài trong và ngoài phạm vi “ xứ Trầm Hương”. Một trong những nét độc đáo của gốm Chăm là dù đã dùng đất sét trắng (kaolin) có sẵn trong khu vực làm nguyên liệu, nhưng dường như quá e ngại với sắc trắng không màu vô bản sắc và vô tình ấy, người thợ Chăm đã pha thêm đất sét đỏ, bã thực vật và cát với tỉ lệ thích hợp vừa tạo độ sâu cho sắc gốm, vừa tăng độ bền cho sản phẩm. Những sản phẩm gốm ấy, được nghệ nhân Chăm tạo tác qua bàn tay sử dụng thành thạo bàn xoay, làm cho gốm có độ mịn cao, độ dày của xương gốm đều, dáng rất cân xứng, sự hòa điệu của sắc men thâm trầm, dáng gốm thô mộc mà thanh nhã đã tạo dáng vẻ kỳ diệu. Cộng thêm vào đó là men, những sắc men đa dạng với nhiều sắc độ: men xanh nhạt, xanh xám, xanh xám đậm, xanh phớt xám, vàng nhạt, vàng nâu, vàng chanh, nâu sẫm, nâu nhạt, đen xám, đen sẫm, đen nhạt, trắng ngà, trắng đục, trắng sữa. Men được phủ lên, đơn sắc hay đa sắc, đâu chỉ ở các sản phẩm gốm dân dụng mà cả ở một số vật liêu kiến trúc bằng gốm sứ. Trên cơ sở sự đa dạng về loại hình và kích cỡ, bàn tay tài hoa của người thợ Chăm thao tác với bình, lọ, chậu, ấm, nồi, chén, bát, đĩa, cốc... những tác phẩm mỹ thuật như tượng, phù điêu trang trí và cả ở vật liệu xây dựng. Họ vẽ chìm lên xương gốm rồi phủ men lên đó. Những nét vẽ mảnh mai, phóng khoáng, dù là vạch vào thân gốm hay múa bút trên men, một lớp men dày, đều và màu không ổn định đã tạo ra một dáng vẻ độc đáo riêng. Các dạng đề tài trang trí khá đơn giản gồm hoa văn sóng nước, hoa lá, cánh sen, hoa cúc, hoa dây, một số hình ảnh rồng, chim, thú, mặt kala, maraka, tạo cho gốm một phong cách Chăm đậm đà. Riêng tai Gò Sành, kiểu hoa văn in khuôn, trên nền men đơn sắc với hai màu chủ đạo là xanh ngọc ngả xám và vàng cháy phổ biến hơn, không có gì độc đáo hơn sự pha màu tự nhiên của sắc men và xương gốm, của tạo dáng và trang trí. Tất cả, tạo thành dáng vẻ, vừa lạ lẫm, vừa gần gũi,thô mộc mà ấm áp, chứa đầy bí ẩn tự một cõi linhchỉ có thể cảm nhận và khám phá.Gốm, đó là nghệ thuật chơi với lửa. Lửa thăng hoa đất thành linh hồn. Những lò nung gốm Champa độc đáo đã được khám phá, cho thấy có khác biệt với lò rồng (phía Bắc). Điều dễ thấy là lò hình ống được xây dựng rất lớn cho phép nung được nhiều sản phẩm. Tường lò dày, có tác dụng giữ nhiệt cao, làm bằng nguyên liệu tại chỗ. Các hệ thống cửa đốt, cửa tiếp lửa, hệ thống thóa khí và thông gió đã được hoàn chỉnh. Những yếu tố có tính kỹ thuật này cho phép tạo ra những sản phẩm gốm đạt chất lượng cao, độ cứng tốt. Tại lò Cây Mận đã phát hiện một kiểu đốt lửa độc đáo: lửa đốt từ bầu lò, dẫn qua ống, phả lên trần lò, có khả năng giữ nhiệt đều, ít gây bụi bám cho sản phẩm. Kĩ thuật vốn vô hồn, nhưng ở đây, kĩ thuật đã thăng hoa cho nghệ thuật. Qua lửa ẩn hiện cả một thế giới hồn của đất và nước champa.Đặt gốm Chăm-pa ở Bình Định thế kỷ XIV- XV vào lịch sử chung của truyền thống gốm Chăm-pa cho thấy đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất và được công nhận về giá trị không thua kém các trung tâm khác đương thời. Dấu tích gốm Bình Định tìm thấy ở malaysia ,philippin ,indosia Trung Cận Đông... đã chứng minh cho sự công nhận ấy. Việc khẳng định chủ nhân Chăm cho các trung tâm sản xuất gốm này là có cơ sở, căn cứ vào sự khu biệt giữa lò ở đây và lò phía Bắc, kiểu dáng, men và kĩ thuật trang trí mang rõ đặc trưng Chăm, trong đó có một số sản phẩm thuần Chăm. Tuy nhiên, khi mà vào thế kỷ X- XV, với sự giao lưu mạnh mẽ về kinh tế và văn hóa trong và ngoài khu vực, chắc chắn gốm Champa có chịu ảnh hưởng của các trung tâm khác như gốm Sungkalok (Sukhothai- Thái Lan), đặc biệt là ảnh hưởng của kĩ thuật gốm men nâu phía Bắc Việt Nam. Sự hỗ tương văn hóa bao giờ cũng tạo ra những điều kỳ diệu.Nhìn những sản phẩm gốm thô phác, giản dị như chính hơi thở của trời và biển, ta chìm đi trong vẻ đẹp nguyên sơ của đất và lửa, của sự kết hợp tính vật chất và trừu tượng, của những nét chạm khắc ẩn chứa sức sống di truyền của cả một dân tộc. Đó là vẻ đẹp độc đáo, khác với cái cầu kỳ, sang trọng của gốm sứ Tàu, khu biệt với vẻ giản dị, chắc khoẻ, phóng khoáng, đầy chất dân dã của gốm Việt. Những sản phẩm có xương gốm nặng đục, dày ẩn qua một màu men tiến dần đến đơn sắc, u trầm như một điệu Nam ai hơi oán, mang trong nó màu của cỏ cây, của đất và nước, của những con người Chăm-pa trầm nhã mà cuồng say ẩn chứa. Cái đẹp khỏe khoắn, cuồng say ấy, họ đã phổ vào trong điêu khắc, trong những vũ điệu Chàm mang “ tiết tấu biển cả” (chữ của GS Cao Xuân Phổ), một trong ba yếu tố chính hợp thành truyền thống Đông Sơn. Đặc biệt đến thời kỳ Vijaya, những ngọn tháp Chăm ngự trên đỉnh đồi, thu mình trong ngôn ngữ của hình khối, vươn mình lên thành những mũi giáo, những nét vươn cao của các tầng diềm mái, như chính là sự khẳng định bản lĩnh của dân tộc mình. Còn nét trầm nhã- u buồn của linh hồn Chàm, họ đã biểu hiện qua gốm mà mỗi sản phẩm là một thế giới bí mật của những giấc mơ về cái đẹp mà chỉ những ai biết lắng lòng mình lại trước thường tại của cuộc đời, để cả đời mình hòa điệu mới có căn duyên để lắng nghe ẩn ngữ của gốm, tiếng nói của một mảnh linh hồn Chàm. Không chỉ là tiếng vọng của quá khứ mà chính là hiện tồn trong thực tại, bởi gốm Champa đã đi trọn một hành trình từ đất qua lửa, được thổi tâm hồn bằng bàn tay của người nghệ nhân Chàm vô danh. Gốm cất bước vào đời như một tiếng nói vượt thắng qua không gian và thời gian, qua những biên giới hữu hạn của cuộc đời. Gốm Champa đẹp, cái đẹp nguyên sơ và giản dị như đất, như chính những linh hồn Chàm thâm trầm mà dâng trào một sức sống mãnh liệt qua nắng và gió để dựng xây một trong những nền văn minh rực rỡ nhất Đông Nam Á.Từ gốm và qua gốm cho thấy ở giai đoạn Vijaya, người Chăm đã tiếp cận đến đỉnh cao trong sáng tạo nghệ thuật, trình độ thưởng thức và sáng tạo những giá trị văn hóa. Bởi vậy, bên cạnh vẻ đẹp rực rỡ của phong cách Tháp Mẫm với ngôn ngữ hình khối chắc khỏe trong kiến trúc, vẻ chững chạc, gân guốc trong điêu khắc đạt đến đỉnh cao vào nửa đầu giai đoạn Vijaya, thì gốm và những trung tâm sản xuất gốm ở Bình Định thế kỷ X- XV, đỉnh cao của nghệ thuật gốm Champa cũng phải được xem như một thành tựu của nghệ thuật Chăm, hợp thành phong cách Bình Định độc đáo của thời kỳ nghệ thuật đẳng trung (art secondaire) trong nền nghệ thuật Chàm, đáng lưu tâm, sưu tập, bảo tồn và nghiên cứu. Giá trị của chúng cùng với những đền tháp “ lở lói với thời gian” sừng sững trong ánh chiều tà Bình Định, là một phần cuộc sống của dân tộc Chăm còn hiển hiện và nó “ sẽ mãi mãi là một trong những cái cao quí nhất mà nhân loại đã tưởng tượng ra để được tha thứ cho cái tội đã lỡ sinh trên kiếp trần này”.Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại 8 địa danh như: Bánh Ít; Dương Long; Hưng Thạnh; Cánh Tiên; Phú Lốc; Phú Thiện; Bình Lâm và Hòn Chuông. Ngoài ra còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, Nhơn Thành, Uất Trì và hàng loạt các tác phẩm điêu khắc, những phế tích của tháp Champa như giếng cổ hình vuông; rắn Naga; trụ văn bia; tượng thần điểu Garuda; phù điêu Lăng Ông; tượng tu sĩ; khu mộ cổ,đều được phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện được, đáng chú ý là di vật tượng tu sĩ ở chùa Linh Sơn, thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, Tp. Quy Nhơn. Những cư dân ở đây trong lúc đang canh tác đã phát hiện bức tượng chôn sâu dưới lòng đất và đã đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phương gọi là chùa “Phật lồi”. Ở Quy Nhơn hiện vẫn còn dấu vết các lăng mộ cổ của người Champa tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Champa từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã trải dài trên 2000 năm đã lưu lại cho hậu thế hàng chục ngôi cổ tháp với những kiểu kiến trúc, chạm trỗ độc đáo, bí hiểm.Ở khu vực duyên hải miền Trg hiện có trên 19 khu tháp với hơn 40 ngôi thấp cổ lớn nhỏ.Huyền thoại về con tàu chở kho báu Champa??? Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Champa được phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm “Les Tours Kiames de la Province de Binh Dinh” (Sài Gòn 1980) như sau: “Trong các tháp có các tượng, rất có thể chúng bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cương. Chúng đã bị lấy mất ngay từ đầu. Những tượng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Người ta đã đào các bức tượng để bóc gỡ các tranh thánh đã được gắn vào đó. Các tháp Bạc (người Việt Nam quen gọi là tháp Bánh Ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lưu ý, phần lớn các tượng đều bằng vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tượng cuối cùng che vòm đã được mang sang Pháp năm 1886. Gần 80 tấn đá chạm được dành cho Bảo tàng Lyon đã được tàu Mêkông chuyển về Pháp dưới sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những người Somalis tưởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhưng họ chỉ tìm thấy đá và đá…”Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những người tìm cách sở hữu kho báu trên tàu Mêkông có giáo sư Robert Stenout (Pháp) và sau hơn 30 năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thư viện, sở lưu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng tàu biển… Đến tháng 10.1995, R.Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R.Stenout, Mêkông là một con tàu lớn được thiết kế với hai chức năng chở khách và chở hàng nhưng điều này không làm ảnh hưởng đến sự thanh nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dương-Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông được xây dựng, bài trí hoàn hảo, sang trọng và nguy nga như một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến tàu viễn dương định mệnh của tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan thủy thủ, 66 hành khách cùng với rất nhiều tấn cổ vật bằng và và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn thuộc tàu Scorpio do thuyền trưởng Campell chỉ huy (tàu Scorpio là con tàu mà Stenout sử dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thoi vàng có trong khoang hàng bí mật này như huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị được tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nước có chủ quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã xảy ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại…kho báu mà tàu Mêkông có n/vđưa về Pháp chủ yếu được thu gom trên khu vực Vijaya từ Q.Nam đến B.Thuận và chắc chắn đây chưa phải là kho báu duy nhất của Champa.Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở TP. Quy nhơn có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các thủy thủ người da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cướp đoạt và mang xuống tàu sau một cuộc tấn công chớp nhoáng. Người Champa cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng chúng với khối lượng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của mình. Có thể lý giải rằng đó là do dân tộc này được tạo hóa ưu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ vàng có trữ lượng phong phú. Vàng được đem đi đúc tượng thần để thờ, đúc phù điêu và dát lên các tượng thờ để trang trí… Truyền thuyết cũng cho biết rằng người Champa sau khi dựng tượng vàng ở các đền tháp thường quét lên thân tượng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Champa được nhắc đến từ khá lâu bởi các nhà khoa học Pháp. Kho báu cuối cùng, nơi lưu giữ những gì còn lại của Vương triều Champa đã được đề cập trong tác phẩm Un Royaume Disparu – Les Chams et Leur Art-1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vương quốc Champa có thể đúng như các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhưng ngay cả khi sự thật không phải là như thế thì với việc thừa hưởng 14 quần thể tháp Champa cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định rằng – Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại. Ngàn năm còn một chút này…Ở Tp. Quy Nhơn có 2 ngọn tháp đứng kề nhau, dân gian gọi là Tháp Đôi. Các tư liệu xưa còn ghi chép Tháp Đôi là tháp Hưng Thạnh. Vào ngày 10.7.1980, Tháp Đôi được nhà nước xếp hạng vào danh mục những di tích lịch sử-văn hóa quốc gia. Tháp Đôi được tiến hành trùng tu đầu tiên ở Bình Định và được các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc Champa. So với các ngọn tháp khác trong tỉnh, trong vùng Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi tháp cổ nào hiện có. Thế nhưng các nhà khoa học đến nay vẫn chưa tìm ra lý do khác thường nầy. Tháp Đôi xây dựng vào khoảng cuối thế XII.Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngược lên vùng “Tây Sơn hạ đạo”, để chiêm ngưỡng cụm tháp Dương Long.Ngày xưa người Pháp gọi đây là “Tháp Ngà”, dân địa phương thì gọi là tháp An Chánh. Tháp Dương Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 mét. Các hệ thống cửa giả phần lớn đã bị sụp đổ, hư hỏng. Tuy vậy nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại giúp ta liên tưởng đến những nghệ nhân Champa đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau thế kỷ 12. Đây là cụm di tích thứ 2 được Bộ văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi và tháp Dương Long, là tháp “Cánh Tiên” và tháp “Bánh Ít”. Tháp Cánh Tiên được người Champa xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận xã Nhơn Hậu, h.An Nhơn, tỉnh Bình Định.Được biết vào tháng 11.2004 vừa qua, tháp Cánh Tiên đang được Chính phủ CHLB Đức tài trợ 100.000 Euro để trùng tu, khôi phục. Theo tài liệu của người Pháp thì tháp Cánh Tiên còn được gọi là “Tháp Đồng”, nhưng vì sao có tên gọi nầy thì vẫn chưa xác định được nguồn gốc. Tháp cao khoảng 20 mét, trông xa giống như đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay lên trời xanh. Khác với các tháp Champa khác, tháp Cánh Tiên được xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi cổ tháp một dáng vẻ độc đáo.Khác với “Cánh Tiên”, cụm tháp“Bánh Ít” có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh Ít bởi vì khi đứng xa trông cụm tháp giống như những chiếc bánh ít lá gai-một sản vật thường thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Người Pháp gọi đây là “Tháp Bạc”. Tất cả đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phước Hiệp, huyện Tuy Phước, cách TP. Quy Nhơn khoảng 20 km. Bốn ngôi cổ tháp đều có các tượng thờ, hình vũ nữ đang múa, hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác như đang lạc vào thế giới thần bí của người Champa cổ xưa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã Phước Hòa (Tuy Phước) Người dân ở đây kể lại rằng: thôn Bình Lâm là nơi có những cư dân người Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống tháp Champa Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất.Một cụm di tích khác có tên là tháp Thủ Thiện, còn gọi là “Tháp Đồng” hiện đang tồn tại ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm 1995 ngọn tháp nói trên được xếp hạng di tích Nhà nước. Tuy vậy, cũng giống như các cụm di tích tháp Champa khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng. Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con người phá hủy. Di tích cuối cùng được xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc .Người Pháp đặt tên là “Tháp Vàng”. “Phú Lốc” nằm giáp giới giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phước. Tháp nằm trên đỉnh một quả đồi cao 76 mét so với mực nước biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy vậy nhìn một cách tổng quát vẫn thấy được dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ. Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã được Nhà nước xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do người dân đào bới tìm vàng, trong đó có tháp “Hòn Chuông” ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp này cùng nhiều tháp Champa khác đang chờ Nhà nước trùng tu.Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định được xem như một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nước ta. Những bí ẩn về tháp Champa mặc dù đã được tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền thoại lý thú cần làm sáng tỏ.Thanh Trà
0 Rating 586 views 3 likes 0 Comments
Read more
Mẹ xứ sở Po Inư Nưgar trong tm thức người Chăm HOI QUẢNG T‭n ngưỡng thờ Mẫu l gi trị văn hࡳa tinh thần cao đẹp của dn tộc Việt Nam. Từ khi đất nước đổi mới đến nay, tn ngưỡng d⭢n gian ni chung v thờ Mẫu n㠳i ring đ được phục hồi ở người Việt v꣠ cc dn tộc thiểu số khᢡc. Điều đ gp phần l㳠m cho bộ mặt văn ha nước nh th㠪m phong ph: v sống động. Nữ thần Po Inư Nưgar của người Chăm Nữ thần Po Inư Nưgar lࠠ biểu tượng linh thing nhất của người Chăm về Mẹ. Ngy nay cꠡc huyền thoại, truyền thuyết, kiến trc, lễ hội… về Nữ thần vẫn cn tồn tại v겠 in đậm trong đời sống nhn dn. Nữ thần Po Inư Nưgar được coi l⢠ người Mẹ xứ sở của người Chăm, l người sng lập ra vương quốc Champa. Từ thời cổ đại đến thời cận đại đࡣ c rất nhiều thần thoại viết về nguồn gốc của Nữ thần. Ngay từ thời sơ thủy, trong dn gian đ㢣 bắt đầu kể về B: "Ngi lࠠ Nữ thần mẹ của vương quốc Ngi tạo dựng nn vહng đất cho cy cối v rừng gỗ qu⠽ sinh si Ngi g䠢y ra giống la v dạy dꠢn gian trồng la Vua trn trời ngửi thấy hương thơm của lꪺa đang trổ chọn, pha lẫn hương thơm trầm gỗ của người trần gian dng tế trời. Po yang Inư Nưgar mới cho đưa ln trời một hạt l⪺a c cnh trắng như đ㡡m my. Vua trn trời gieo hạt l⪺a ấy m lm nࠪn tất cả mọi giống la. Tuy khc nhau về mꡠu sắc bn ngoi nhưng b꠪n trong th hon to젠n như nhau. Po Inư Nưgar ght hạng người độc c, thường gi顺p đỡ hạng người hiền lnh. Lễ cng Ngຠi chỉ c trầu, dng tr㢪n hai cnh tay nng cao". Theo truyền thuyết, Bᢠ l vị thần từ ci trời xuống trần gian. Bൠ c 97 người chồng, 36 người con. Nữ thần c nhiều t㳪n gọi khc nhau: Po Inư Nưgar (thần Mẹ xứ sở), Po yang Inư Nưgar Taha (thần Mẹ lớn xứ sở), Muk Juk (B Đen), Pataw Kamei (Vua của đᠠn b), Bahagavati vari (Nữ thần Mẹ lớn Linga – Shiva). Khi B La M࠴n gio xuất hiện ở Champa, người Chăm B La Mᠴn gio đ đồng nhất Po Inư Nưgar với Nữ thần Uma – vợ thần Shiva trong Bᣠ La Mn gio của người Ấn Độ. Về sau, dưới c䡡ch nhn của người Chăm B ni lại cho rằng B젠 l con gi của ࡂu Loa H (thượng đế). Trong qu trꡬnh tiếp xc, giao lưu với văn ha Ấn Độ th곬 đ c sự h㳲a nhập giữa vị thần Bhavapara (Uma – vợ của thần Shiva) của Ấn gi!o với nữ thần bản địa Po Inư Nưgar của người Chăm v sau ny c࠲n được Hồi gio B ni hᠳa nữa. Kết quả của qu trnh tiếp biến văn hᬳa đ, Po Inư Nưgar được cc triều đại vua Champa ở v㡹ng Kauthara (Nha Trang) tn thờ ở vị tr tối cao. C䭳 thể ni, Po Inư Nưgar hiện diện trong tm thức người Chăm như một vị thần tối thượng sinh ra mọi thứ từ vũ trụ đến đất đai, c㢢y cối, la gạo v cả con người. Bꠠ lại l nữ thần mẹ của xứ sở che chở con người Chăm v gi࠺p họ tồn tại với chức năng l nữ thần nng nghiệp bởi đള l ngnh kinh tế ch࠭nh của họ từ trước đến nay. Do vậy đối với người Chăm, Po Inư Nưgar l vị thần tối thượng ton năng, lࠠ đấng sng tạo, l đấng bảo vệ, lᠠ đấng hủy diệt những điều xấu, điều c. Chnh v᭬ thế m trong hầu hết cc nghi lễ, nữ thần Po Inư Nưgar luࡴn được người Chăm cầu xin ban phước v bảo vệ. Trong suốt mười mấy thế kỷ cho đến nay, người Chăm vẫn lun tഴn thờ một B mẹ xứ sở của từng thn lഠng họ. Vai tr của tn ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống người Chăm v⭹ng Nam Trung Bộ Đối với văn ha của dn tộc Việt Nam vốn c㢳 nguồn gốc nng nghiệp, vai tr của người phụ nữ rất được đề cao trong đời sống cộng đồng, n䲳 khng chỉ biểu hiện qua thức m你 cn cả trong tnh cảm lẫn cuộc sống t⬢m linh của mỗi người. Đối với người Chăm, vai tr của Nữ thần Po Inư Nưgar đặc biệt quan trọng, B dạy người Chăm biết c⠡ch trồng la, dệt vải, l vị thần đầy quyền năng sꠡng tạo. B đ n࣢ng đỡ người Chăm đi những bước đầu trong tiến trnh lập quốc của mnh. H쬬nh ảnh Po Inư Nưgar l B mẹ nhiệm mࠠu đ xa đi mọi ngăn c㳡ch tn gio, vậy n䡪n d l t頭n đồ của bất kỳ tn gio n䡠o th B cũng c젳 một vai tr quan trọng trong đời sống tinh thần của họ. B được t⠴n thờ một cch độc lập v trở thᠠnh một biểu tượng thing ling. Nghi lễ rước kiệu vꪠ y phục nữ thần Mặt khc, tn ngưỡng thờ Mẫu c᭳ rất nhiều nt gần gũi với tn ngưỡng thờ c魺ng tổ tin, một tn ngưỡng cꭳ vai tr quan trọng hng đầu trong hệ thống t⠭n ngưỡng dn gian Việt Nam ni chung vⳠ người Chăm ni ring. Ngay cả t㪭n đồ đạo Hindu cũng cảm nhận được tn ngưỡng thờ Mẫu c rất nhiều n�t gần gũi với họ, đ l đức tin v㠠o người mẹ. Thực tế trn lịch sử cho thấy giữa Ấn gio vꡠ Champa đ c sự giao thoa ảnh hưởng lẫn nhau thể hiện qua h㳬nh ảnh nữ thần Uma (vợ thần Shiva) m người Chăm đ tiếp nhận dưới h࣬nh tượng Po Inư Nưgar. Đặc biệt vo thng 3 ࡢm lịch hằng năm, từ Bắc tới Nam đều tiến hnh “giỗ Mẹ”. Ở người Việt l lễ v࠭a Thnh Mẫu Thin Y Ana, người Hoa l᪠ lễ va B Thi�n Hậu, cn người Chăm l lễ v⠭a Thần nữ Po Inư Nưgar. Vo dịp ny khࠡch thập phương c thể chim ngưỡng sắc m㪠u lễ hội, tạo nn khng kh괭 no nhiệt trn khắp cả nước. Tựu trung lại, c᪳ rất nhiều tộc người c tục thờ Mẫu, mỗi tộc người c một b㳠 Mẫu khởi nguyn v họ xem đ꠳ l tổ tin của mબnh như Mẫu u Cơ của người Việt v Po Inư Nưgar của người Chăm. Việc thờ cng ny lꠠ dấu vết sớm của tục thờ cng tổ tin của mỗi gia đꪬnh hiện nay. Lịch sử x hội pht triển, c㡡c giai cấp v hnh thଡi x hội ra đời, ngoi những vị Mẫu được xem l㠠 nguồn khởi nguyn giống ni th견 ring từng nhm người lại t곴n thờ một vị Mẫu thần cụ thể, gần gũi v cần thiết cho cuộc sống tm linh của bản thࢢn. T i liệu tham khảo:- Cc nữ thần Việt Nam (Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chc), NXB Phụ Nữ, HẠ Nội, 1993. - Đạo mẫu ở Việt Nam (Ng Đức Thịnh chủ bin), NXB Văn H䪳a Thng Tin, 1996. - Về tn ngưỡng lễ hội cổ truyền (Ng䭴 Đức Thịnh chủ bin), NXB Văn Ha Th곴ng Tin (2007). - Tn ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (Nguyễn Hữu Thng chủ bi�n), Phn viện Nghin cứu văn h⪳a tại thnh phố Huế, NXB Thuận Ha, 2001. - Tiếp cận t೭n ngưỡng dn gian Việt Nam (Nguyễn Minh Sang), NXB Văn Ha DⳢn Tộc H Nội (1994). - Từ thần thoại Po Inư Nưgar đến Thin Y Ana. Những vấn đề dઢn tộc học ở miền Nam Việt Nam, Tập II, quyển 2 (Văn Đnh Hy). Viện Khoa học x hội TP Hồ Ch죭 Minh, 1978.
0 Rating 582 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
Trang ph?c
0 Rating 577 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 24, 2012
inrasaraNguyên tác Akhar thrah – Chuy?n t? La tinh B?n d?ch Vi?t ng? - Index- T?ng lu?n- 3 Akayet Ch?m+ Akayet Dewa M?no+ Akayet  Inra Patra+ Akayet  Um M?rup T?NG QUAN AKAYET – S? THI CH?M   1. Khái quátNgay t? th?i ti?n s?, ?n ?? ?ã có nh?ng giao l?u quan tr?ng v?i ?ông Nam Á. T? nhu c?u phát tri?n kinh t? ??n nh?ng b?t an, xáo ??ng c?a th?i cu?c, t? cu?c thiên di kh?ng l? vào th? k? th? III, nhân cu?c chinh ph?c ?? máu ??t Kalinga th?i Açoka Nhà Maurya ??n các th?i kì chuy?n di c?a các giáo phái Ph?t giáo sau khi b? ?ánh b?t kh?i ??t ?n, ph?i tìm ???ng bành tr??ng ra ph??ng ?ông… T?t c? nh?ng s? ki?n trên ?an b?n v?i nhau, kéo theo sau chúng dòng v?n hóa ?n và v?n ch??ng Ph?n ng? nh?p ??a ?ông Nam Á.Tuy nhiên, s? giao l?u không h?n ch? x?y ra m?t chi?u t? Tây sang ?ông. Dân Indonesia, thông th?o ngh? bi?n, có th? ?ã ??n ?n ?? khá ?ông nh? ng??i ?n ?? ??n ?ông Nam Á. Và sau m?t th?i gian dài trao ??i qua l?i, ?ông Nam Á tr?i qua m?t bi?n ??ng l?n lao ?? r?i ??u th? k? th? II sau Công nguyên, ?nh h??ng c?a ?n ?? b?t ??u tràn lan ? ?ông Nam Á.Nh? th?, V??ng qu?c Champa, c? ng? d?c mi?n duyên h?i Bi?n ?ông c?a Vi?t Nam ngày nay, c?ng ?ã nh?n ???c nh?ng ?nh h??ng quan tr?ng t? phía ?n ??. Nhà s? h?c Henri Maspéro xác ??nh r?ng, kho?ng n?m 380, Bhadravarman, v? vua Champa có tên kh?c trên bia ?á ? Qu?ng Nam, ?ã d?ng ??n th? th?n Shiva Bhadresvara ? M? S?n. S? ki?n ch?ng t? là Bà-la-môn giáo tr??c ?ó ?ã ?âm r? sâu vào m?nh ??t này. Ph?t giáo Nguyên th?y ch? ??n vài th? k? sau nh?ng r?i l?i m?t ?nh h??ng ít lâu sau ?ó tr??c s?c ép quá l?n c?a giáo phái Brahma.Dù là Ph?t giáo hay Bà-la-môn giáo, trong su?t quá trình sinh thành và phát tri?n c?a chúng, th? ngôn ng? chuyên ch? giáo lí này – Sanskrit và Pâli – v?n ?ã ?? l?i m?t d?u ?n r?t ??m nét trong ngôn ng? c?a ng??i b?n ??a.Nh?n xét sau ?ây c?a s? gia G.D.Hall cho chúng ta m?t am hi?u khái quát:“?n giáo là tôn giáo c?a giai c?p quý t?c, nên không thu ???c l?p bình dân ??i chúng. T?p quán b?n x? v?n ti?p t?c phát tri?n song song v?i t?p quán ?n. Mãi ??n m?y th? k? sau, khi Ph?t giáo Nguyên th?y Theravada và H?i giáo nh?p ??a và ???c truy?n bá nh? m?t tôn giáo bình dân, nh?ng ?nh h??ng ngo?i lai này m?i th?t s? va ch?m v?i n?p s?ng ng??i dân quê. ??n khi ?y, c? hai tôn giáo m?i hòa mình vào n?n v?n hóa b?n x? r?i bi?n th? sâu ??m (…). Và khi mà th? ng? không ?? hi?u l?c ?? di?n t? nh?ng í t??ng m?i này, thu?t ng? ?n có ???ng ti?n th?” [1].   Tr??c tiên, ngôn ng? và v?n minh ?n ch? ?nh h??ng ??n ??i s?ng sinh ho?t ? th??ng t?ng c? c?u c?a t? ch?c xã h?i mà Bà-la-môn giáo là ??i di?n ??c quy?n. Gi?i th??ng l?u Ch?m suy t? và vi?t b?ng ti?ng Ph?n. Nên có th? nói bên c?nh các bi kí b?ng ch? b?n ??a ít ???c l?u ý, g?n nh? toàn b? v?n bia kí Ch?m t? th? k? XVI tr? v? tr??c ???c vi?t b?ng ch? Ph?n, và ?nh h??ng b?i Ph?n ng?.Nh?ng sau khi ?? qu?c ?n ?? (t? th? k? XI, và nh?t là vào th? k? XV) ki?t qu? b?i s? ?ánh phá và chi?m ?óng c?a quân ??i H?i giáo thì ?nh h??ng c?a v?n hóa ?n c?ng suy d?n ? kh?p vùng ?ông Nam Á. V??ng qu?c Champa, trong quãng th?i gian ?ó, ch? quan h? giao l?u v?i các n??c trong khu v?c ? phía Nam mà các s? ki?n l?n ???c ghi nh?n là vào cu?i th? k? XIII và ??u th? k? XIV, Jaya Simhavarman III (t?c Ch? Mân) c??i công chúa Nhà Tr?n là Huy?n Trân và công chúa Java là Tapasi. Vào th?i ?i?m này, v??ng qu?c Champa c?ng ?ã k?t h?p v?i ??i Vi?t và Java t?o thành m?t liên minh quân s? ch?ng ?? qu?c Mông – Nguyên. Vi?c Ppo Kabrah (1460-1494) c??i m?t công chúa Mã Lai, s? m?ng quân s? và tôn giáo c?a hai hoàng t? Mã Lai ? ??t Champa vào cu?i th? k? XVI, hay s? ki?n Ppo Rome (1627-1651) sang Kelantan tìm hi?u giáo lí H?i giáo Mã Lai và công d?ng c?a nó… [2] nói lên m?i quan h? m?t thi?t c?a v??ng qu?c Champa v?i các n??c trong khu v?c.??y là nh?ng ?i?u ki?n thu?n l?i cho h?t gi?ng v?n hóa t? t??ng H?i giáo n?y m?m và phát tri?n trong m?t ??t n??c ?ang suy y?u này. ?? không lâu sau ?ó, kho?ng cu?i th? k? XVI ??u th? k? XVII [3], v?n hóa H?i giáo ?ã gi? vai trò quan tr?ng trong V??ng qu?c Champa. Và vì H?i giáo là tôn giáo mang tính ??i chúng nên t? t??ng c?a nó ?ã có nh?ng ?nh h??ng sâu ??m ??n nhi?u t?ng l?p c?a xã h?i.Có th? nói v?n h?c Ch?m, sau th?i kì suy tàn c?a v?n bia kí, ít nhi?u c?ng mang d?u ?n c?a tôn giáo Islam. Nguy?n T?n ??c nh?n ??nh ??i ý là, c? vùng ?ông Nam Á, b? ph?n v?n h?c b?ng ti?ng vay m??n chi?m ?u th? nh?ng sau ?ó nh??ng l?i cho v?n h?c b?ng ti?ng dân t?c [4]. V?n h?c Ch?m c?ng không ?i ra ngoài thông l? ?y. Cho nên, ch? ??n th? k? XVII, v?i s? xu?t hi?n c?a S? thi Dewa M?no và các thi ph?m ti?p theo sau ?ó, v?n h?c dân t?c m?i th?t s? có c? h?i ?? nói lên ti?ng nói c?a mình.M?c dù hai trong ba akayet n?i ti?ng ???c vay m??n t? ngoài, vay m??n t? c?t truy?n ??n tên nhân v?t, ??a danh… nh?ng v?i ch? vi?t (akhar thrah) và ngôn ng? c?a mình, các thi s? Ch?m ?ã k?p th?i hoán c?i chúng cho phù h?p v?i ??c tr?ng v?n hóa dân t?c.Do ?ó, xét v? m?t hình th?c, dù các akayet Ch?m không có ???c cái t?m vóc ?? s? c?a s? thi ?n ?? hay các tác ph?m cùng th? lo?i c?a các n??c trong khu v?c, nh?ng chúng luôn ??t t?i m?t b? c?c g?y g?n và cô ?úc. ?i?u c?t y?u là chúng ?ã nêu b?t ???c hành ??ng và tính cách anh hùng c?a nhân v?t b?ng các tr?n giao chi?n v?i k? thù, các chi?n công l?y l?ng, í chí v??t tr? ng?i ?? ?i ??n tiêu ?ích m?t cách anh d?ng. C? ba s? thi ??u l??c b? m?i sinh ho?t ??i th??ng, các l? nghi phong t?c t?p quán r??m rà và c? quang c?nh hùng v? c?ng ???c ti?t ch? m?t cách ?áng k?. T?t chi ti?t ??u n?m trong màn k?ch và ch? ph?c v? cho t?n k?ch.M?t khía c?nh khá ??c ?áo n?i b?t lên ? các akayet này là, bên c?nh hai khuôn m?t ??i di?n cho s?c m?nh c?a th? l?c c? là Dewa M?no và Inra Patra, xu?t hi?n m?t khuôn m?t hoàn toàn m?i: Um M?rup. Có l? chính vì th? mà trong khi Dewa M?no và Inra Patra, sau khi v??t qua m?i hi?m nguy, tr? v? quê h??ng trong khúc ca kh?i hoàn thì, Um M?rup l?i kiêu d?ng g?c ch?t n?i chi?n tr??ng. Nh?ng cái ch?t c?a tráng s? này báo hi?u m?t l?c l??ng m?i ?ang ?i t?i, r?m r? và không gì c?n n?i, h??ng v? v??ng qu?c Champa. ?? r?i sau ?ó, Champa, tr??c nguy c? tan rã, ?ã ph?i m? vòng tay ?ón nh?n m?t lu?ng ?nh h??ng m?i khác t? bên ngoài: v?n hóa H?i giáo. 2. S? thi Ch?m2.a. Dân t?c Ch?m ? Vi?t Nam Hi?n nay, ng??i Ch?m g?m h?n m?t tri?u ng??i s?ng r?i rác trên kh?p th? gi?i. Riêng ? Vi?t Nam, có s? m?i nh?t ???c ghi nh?n là: 130.000 ng??i [5]. H? s?ng thành c?ng ??ng phân b? không ??u ? m??i t?nh thành khác nhau. Trên bình di?n v?n hóa - ??a lí, có th? phân chia làm ba nhóm nh? sau:? hai t?nh Bình ??nh và Phú Yên, ng??i Ch?m Hroi có kho?ng 21.000 ng??i. Ng??i Ch?m khu v?c này v?n còn l?u truy?n phong t?c t?p quán b?n ??a có ph?n pha tr?n v?i t?p t?c dân t?c Bana, c? ngôn ng? hàng ngày h? c?ng dùng pha l?n ti?ng Bana. Không còn l?u gi? ch? Ch?m truy?n th?ng akhar thrah nh? ng??i Ch?m ? hai t?nh Ninh Thu?n và Bình Thu?n, các tr??ng ca và s? thi ch? ???c k? truy?n mi?ng nh? m?t th? lo?i v?n h?c dân gian [6].? khu v?c phía Nam bao g?m các t?nh An Giang, Tây Ninh, Thành ph? H? Chí Minh, ??ng Nai, Bình Ph??c,… dân s? Ch?m có kho?ng 24.000 ng??i. T?i khu v?c này, ??i b? ph?n ng??i Ch?m theo tôn giáo Islam (quen g?i là H?i giáo m?i), sinh ho?t phong t?c t?p quán hoàn toàn theo H?i giáo. Bà con c?ng bi?t ??n ch? Ch?m truy?n th?ng và v?n b?n c? c?a t? tiên, nh?ng các tác ph?m n?i ti?ng nh? Kabbon Muk Thruh Palei ch? còn ???c k? nh? là truy?n c?; ch? có r?t ít ng??i thu?c th? h? c? còn thu?c và ??c cho con cháu nghe. Khu v?c t?p trung ng??i Ch?m ?ông h?n c? là ? hai t?nh Ninh Thu?n và Bình Thu?n, g?m kho?ng 87.000 ng??i. ??i ?a s? ng??i Ch?m c? trú t?i khu v?c này theo ??o Bà-la-môn (g?i là Cam Ahier) và H?i giáo c? (H?i giáo b?n ??a hóa g?i là Cam Awal), m?t s? ít còn l?i theo ??o Islam. Có th? nói, ?ây là khu v?c v?n hóa - ??a lí c?ng ??ng Ch?m còn l?u gi? ???c nhi?u nét phong t?c t?p quán và v?n hóa c? x?a h?n c?. Trong ?ó n?i b?t là ch? Ch?m truy?n th?ng akhar thrah và akayet (s? thi). Ba m??i n?m qua, ch? truy?n th?ng v?n còn ???c d?y trong các tr??ng Ti?u h?c (song ng?) có con em dân t?c Ch?m h?c. S? thi ???c l?u truy?n qua akhar thrah ???c các gia ?ình Ch?m c?t gi? trong ciet sách r?t trang tr?ng. Và ???c h? xem nh? nh?ng báu v?t linh thiêng. Chính t? các ciet sách này, các v?n b?n s? thi Ch?m ???c s?u t?m, và ?n hành trong giai ?o?n qua [7].2. b. Quá trình s?u t?m, nghiên c?u s? thi Ch?m:S?u t?m, biên d?ch và xu?t b?n:4 s? thi Akayet Deva M?no, Akayet Inra Patra, Akayet Um M?rup và Akayet Pram Dit Pram Lak dù r?t n?i ti?ng trong c?ng ??ng Ch?m, nh?ng chúng ch? t?n t?i d??i d?ng v?n b?n chép tay ho?c truy?n kh?u b?ng k? (akhan), ngâm (hari) hay ??c (pw?c). Tên s? thi Akayet Deva M?no và Akayet Inra Patra l?n ??u tiên ???c nh?c ??n vào n?m 1931 b?i nhà nghiên c?u ng??i Pháp: Paul Mus [8].   N?m 1970, b?ng tên g?i Rw?h Dwah (s?u t?m) - Kh?o l?c nguyên c?o Chàm, b?n in s? thi Akayet Inra Patra m?i xu?t hi?n l?n ??u do Trung tâm v?n hóa Chàm - Phan Rang ?n hành, v?i s? ch? trì c?a G. Moussay cùng nhóm trí th?c Ch?m c?ng tác g?m N?i Thành Bô, ?àng N?ng Ph??ng, L?u Ng?c Hi?n, Thiên Sanh C?nh, Lâm Gia T?nh và Tr??ng T?n. N?m 1971, s? thi Akayet Deva M?no c?ng ???c in và phát hành d??i d?ng này, ?? 3 n?m sau ?ó, 1974, tác ph?m ???c “tái b?n” v?i ch? vi?t chân ph??ng và ít sai sót h?n [9]. Giai ?o?n này, song hành v?i ho?t ??ng s?u t?m c?a Trung tâm v?n hóa Chàm, Thiên Sanh C?nh qua vai trò ch? bút t?p san Panrang – Ti?ng nói c?a c?ng ??ng s?c t?c Ninh Thu?n, ?ã cho ra m?t các v?n b?n c? Ch?m, trong ?ó có  Akayet Deva M?no. Nh?ng ngoài vi?c ??a ra v?n b?n Ch?m nh? ch? tr??ng c?a G. Moussay, Thiên Sanh C?nh còn chuy?n d?ch s? thi ra ti?ng Vi?t, bên c?nh chú thích t? v?ng, t?o ti?n ?? quan tr?ng cho các nhà nghiên c?u sau này [10].  ? t?t c? các ?n ph?m trên, v?n b?n ch? Ch?m akhar thrah ch? có m?t d??i d?ng vi?t tay. N?m sau, 1976, Nara Vija có m?t lu?n v?n v? Akayet Inra Patra v?i v?n b?n s? thi ???c chuy?n d?ch ra ti?ng Pháp [11].N?m 1982, Tùng Lâm và Qu?ng ??i C??ng ??a ra hai b?n ti?ng Vi?t c?a s? thi Ch?m Akayet Deva M?no và Akayet Um M?rup v?i tên g?i Hòa Nô và Hoàng T? Um M?rup và cô gái ch?n dê trong cu?n Truy?n th? Chàm [12]. ?áng ti?c là b?n d?ch không có ph?n ??i chi?u v?i nguyên tác, và ng??i d?ch không cho bi?t ?ã d?a vào b?n chép tay nào. Có l? nh? th? ch?ng mà b?n d?ch có s? sai l?ch quá l?n so v?i các b?n v?n c?a thi ph?m Ch?m ???c tìm th?y. M??i n?m sau, “b?n d?ch” trên ???c ??ng Nghiêm V?n cho in l?i trong m?t tuy?n t?p v? v?n h?c dân t?c thi?u s? [13]. N?m 1989, m?t công trình nghiên c?u v? akayet vi?t b?ng hai th? ti?ng Pháp và Mã Lai ???c in ? Kuala Lumpur [14]. Tác ph?m g?m n?m ph?n chính. Riêng ph?n chuy?n t? Latinh v?n b?n Ch?m, có l? vì ??c không k? tác ph?m Ch?m b?ng akhar thrah, nên ng??i làm công tác sao chép ?ã ph?m nhi?u l?i v? t? v?ng - ng? ngh?a.V? hai “s? thi” b?ng ti?ng Vi?t c?a Tùng Lâm - Qu?ng ??i C??ng và P. Dharma, G. Moussay và Inrasara ??u có bài vi?t trao ??i nghiêm xác [15]. Ti?p nh?n s? phê bình c?a Inrasara, P. Dharma ?ã s?a ch?a và in l?i Akayet Dewa M?no do C? quan s?u t?p th? b?n Champa Koleksi Manuscrip Melayu Campa th?c hi?n, r?t ?áng tin c?y. M?t ?n ph?m khác v? Akayet Inra Patra c?ng ???c xu?t b?n b?i C? quan trên vào n?m 1997. T? ?ây các v?n b?n akhar thrah ??u tiên xu?t hi?n d??i d?ng ch? Ch?m trên vi tính [16]. Tr??c ?ó hai n?m, Inrasara c?ng ?ã cho in hai s? thi Akayet Dewa M?no và Akayet Um M?rup trong b? ba V?n h?c Ch?m, Khái lu?n - v?n tuy?n, g?m v?n b?n ti?ng Ch?m, b?n Vi?t ng?, thích ngh?a t? c? và b??c ??u ??i chi?u d? b?n [17]. Nh? v?y sau “truy?n th?” Hoàng T? Um M?rup và cô gái ch?n dê ???c cho ra m?t vào n?m 1982, ?ây là l?n ??u tiên Akayet Um M?rup ???c trình bày m?t cách nguyên v?n.Nghiên c?uVi?c nghiên c?u s? thi Ch?m ???c ti?n hành v?i nhi?u khó kh?n, b?t tr?c và không liên t?c. Ban ??u, s? sai l?m v? vi?c trình bày v?n b?n ?ã d?n ??n sai l?c trong c?ng vi?c nghiên c?u. ?ình Hy và Tr??ng S? Hùng ?ã ph?m ph?i l?i này khi vi?t bài nghiên c?u v? s? thi Ch?m mà ch? d?a trên v?n b?n ch?a ???c ki?m ch?ng [18]. Trong khi tr??c ?ó, ?ã có nhi?u công trình giá tr? ra ??i.Công trình nghiên c?u ??u tiên v? s? thi Ch?m - Akayet Dewa M?no - thu?c v? G. Moussay qua lu?n án EPHE c?a ông ???c b?o v? vào n?m 1975 [19]; m?t n?m sau ?ó ông có bài nghiên c?u v? Pram Dit Pram Lak [20]. ?? mãi 15 n?m sau ông m?i có bài vi?t chuyên sâu khác v? Akayet Inra Patra [21]. ? trong n??c, n?m 1994, Inrasara trong t?p th? nh?t c?a b? ba V?n h?c Ch?m, Khái lu?n - v?n tuy?n ?ã dành nguyên m?t ch??ng bàn v? s? thi Ch?m [22]. Sau ?ó r?i rác có các bài vi?t c?a Inrasara, Phan ??ng Nh?t, Nguy?n Ph?m Hùng v? th? lo?i v?n h?c này c?a Ch?m, v?a chuyên sâu th? lo?i v?a ??t akayet trong t?ng th? v?n h?c Ch?m và có khi c? n?n v?n h?c c? Vi?t Nam [23]. S? thi Ch?m v?i 4 tác ph?m Akayet Deva M?no, Akayet Inra Patra, Akayet Um M?rup và Akayet Pram Dit Pram Lak c?ng ???c ?? c?p nhi?u l?n v?i nhi?u d?ng th?c và m?c ?? khác nhau qua tác ph?m ti?u lu?n - nghiên c?u - phê bình dày d?n c?a Inrasara: V?n hóa - xã h?i Ch?m, nghiên c?u & ??i tho?i [24].2. c. AKAYET CH?M2. c.1. AKAYET DEWA M?NOTrong các s? thi Ch?m (Akayet Dewa M?no, Akayet Inra Patra, Akayet Um M?rup), Akayet Dewa M?no (S? thi Dewa M?no) chi?m v? trí quan tr?ng nh?t. Quan tr?ng không nh?ng ? quy mô và ?? dài c?a nó mà còn ? ch? nó là m?t tác ph?m b?ng th? có l? c? nh?t, có giá tr? v?n ch??ng cao, ??ng th?i có tính nhân b?n sâu s?c.Akayet Dewa M?no ???c truy?n bá r?ng rãi trong qu?n chúng. Ng??i Ch?m hãnh di?n vì nó, xem nó nh? là Truy?n Ki?u c?a dân t?c Ch?m. Và c?ng nh? ng??i KInh v?i Truy?n Ki?u, ng??i Ch?m say Dewa M?no, nói Dewa M?no, ??c Dewa M?no, phân tích Dewa M?no và ngâm Dewa M?no v?i m?t gi?ng ngâm ??c ch?t Dewa M?no. ?ây không ph?i là sáng tác c?a ng??i tr?n m?t th?t mà là m?t t?ng ph?m c?a th?n thánh ban cho, ông bà Ch?m ngh? th?.Akayet Dewa M?no [25] g?m 471 câu l?c bát [c?p 6/ 8] c? ?i?n Ch?m. C?ng nh? các tác ph?m khác trong n?n v?n h?c c? ?i?n Ch?m, Dewa M?no không có tác gi?. Ng??i ta c?ng không xác ??nh ???c n?m sáng tác và ngay c? th? k? ra ??i c?a nó. C?n c? vào tính ch?t c? c?a ?a s? ngôn t? ???c s? d?ng trong tác ph?m (xem b?ng kê):B?ng kê m?t s? t? c? ???c dùng trong Dewa M?no:take: kh?i hành, ?i              P?p: g?pbinix: ch?t, hi sinh       praittarabi: m?t ??tbican: nói, nh?n ??nh   sunit ginr?h: th?n thôngn?m?x sukal: l?y t?   ditbiya: v??ng qu?c, hoàng t?ckuram?: cây chà là   ?wan laik: cam ?oannorapat: vua                bharriya: v?, ch?ngrabiy?ng: n? tì                kapaklima: t? t??ngm?ligai: ngai                kupiah: m? (c?a ng??i H?i giáo)nix pabha: ch?t                kathieng: thiên th?ch; tuy?t.tathik kuradong: bi?n kh?i   jallidi: ??i d??ng…Bên c?nh s? có m?t c?a m?t s? y?u t? Mã Lai trong akayet, chúng ta có th? nói r?ng Akayet Dewa M?no ?ã du nh?p vào Champa qua con ???ng Islam vào kho?ng cu?i th? k? XVI ??u th? k? XVII [26].Trong bài kh?o lu?n c?a mình, G. Moussay xác nh?n r?ng Akayet Dewa M?no c?a Ch?m ???c vay m??n t? Hikayat Dewa Mandu c?a Mã lai. Ông c?ng s? b? ??i chi?u tên ??a danh và tên nhân v?t gi?a hai tác ph?m này:Mã Lai                        Ch?mDewa Mandu           Deva ManoAnggeran Dewa           Akar DewaDewa Arkas Peri             Arakas KaphwariLangka dura           Birung LangdaraBerhamana           Brah mannaCendera                 CandraDewa Raksa Malik           Deva SamalaikGangsa Indera           Gan Sri InraNaga Samandam           Ina MadongKarama Raja           Kurama RajaLang Kawi Rama           Langgiri CahyaPalinggem Cahya           Palingan CahyaLila Ratna Cahya           Ratna Cahya Sri BiyangZenggi                        SanggiDuri Patem Dewi           Sapatan DiviSaribu Cahya           Sri Ramut Cahya [27]Nh?ng khi vay m??n tác ph?m Mã Lai, Akayet Dewa M?no ?ã có nhi?u thay ??i quan tr?ng v? nh?ng tình ti?t c?a c?t truy?n l?n tâm lí nhân v?t. Chúng ta hãy theo dõi câu chuy?n:Vua Kurama Raja x? Gan Xrik Inra v? ??i ???c vua các n??c ch? h?u xung quanh th?n ph?c, h?ng n?m mang l? v?t ??n tri?u c?ng. V??ng qu?c hùng m?nh, nhân dân yên ?n làm ?n. B?ng d?ng, m?t ngày kia, con voi quý trong v??n nhà vua khóc r?ng th?m thi?t. M?t ?i?m g? ???c báo tr??c. Vua cho v?i ngay quan ??i th?n và nhà chiêm tinh Lakxamana ??n h?i s? tình. Nguyên nhân ???c t? bày: nhà vua không có con trai n?i ngôi cha tr? vì ??t n??c. Nhà chiêm tinh nói thêm: vua cha có th? c?i m?nh b?ng cách t? hi sinh thân mình. Y l?i v? chiêm tinh, nhà vua ban ân ph??c cho th?n dân, r?i sau khi tr?ng tr?i v?i hoàng h?u Runna Runga Cahya, vua hóa thân v? tr?i ?? tròn m?t n?m sau hoàng h?u h? sinh m?t ??a con trai kháu kh?nh: hoàng t? Dewa M?no. Dewa M?no k?t ngh?a anh em v?i ?ngkar Dewa là con trai c?a quan ??i th?n Binara. Khi hai anh em tr??ng thành, h? ??u không th?y cha ?âu, h?i ra m?i bi?t c? s?. Và h? quy?t ?i tìm cha, b?t k? bao l?i can ng?n, mong ???c nhìn th?y m?t cha m?t l?n thôi ?? th?a lòng khao khát.Cùng th?i, bên x? Birung L?ngdara có m?t nàng công chúa n?t na thùy m? v?i s?c ??p chim sa cá l?n tên là Ratna Xribiy?ng ???c Rija Dewa Xam?laik – m?t hoàng t? tài ba có ?? phép th?n thông m?i n?i ngôi vua cha v?a b?ng hà ? x? bên c?nh – ?? ý và xin ??n làm r?, nh?ng công chúa Ratna không thu?n. Cùng lúc, vua Intan ? x? Sumut Didin Didan v??t ??i d??ng mang vàng b?c châu báu ??n h?i c??i công chúa. Hai bên ?ng thu?n trao ??i l? v?t. Dewa Xam?laik c?m th?y b? s? nh?c, ngay t?c kh?c hóa phép bi?n công chúa Ratna thành con voi tr?ng, g?m lên m?t ti?ng th?t thanh r?i ch?y bi?n vào r?ng. Vua Intan, t?n m?t nhìn th?y phép th?n thông c?a Dewa Xam?laik, s? nguy ??n tính m?ng, t?p h?p ?oàn tùy tùng, v?i vã lên tàu v? n??c.Trong khi ?ó, trên cu?c hành trình ?i tìm cha, tình c? hai anh em Dewa M?no g?p con voi tr?ng ?ang ??ng r? bu?n d??i g?c cây l?n. Chàng ??n bên h?i và nàng k? l? s? tình. ??ng lòng tr??c c?nh trái ngang, Dewa M?no hóa phép bi?n con voi tr?ng thành nàng công chúa, xinh ??p l?i càng xinh ??p h?n x?a. Nh?ng ?ây là V??ng qu?c c?a Dewa Xam?laik. Rak ?ang bay ??n hái trái kuram? cho chúa mình. Nhìn th?y M?no, Rak lên ti?ng khiêu khích. Nh? ??n tâm ??a nh? nhen c?a Xam?laik ??i v?i công chúa Ratna khi x?a, và khi nghe m?y l?i khiêu khích c?a Rak, Dewa M?no n?i gi?n chém Rak tr?ng th??ng r?i dùng m?i tên th?n b?n Rak bay ?i v?i l?i nh?n g?i ??n Xam?laik: công chúa Ratna ?ã là v? c?a Dewa M?no.Rak bay ?i r?t ngay tr??c m?t Xam?laik, tr?ng tr?i r?i ch?t. Xam?laik ?ùng ?ùng n?i gi?n. Th? là các cu?c chi?n b?t ??u n?i ?uôi nhau ti?p di?n. Ngay trong cu?c giao chi?n ??u tiên, Dewa M?no gi?t ch?t vua Rak r?i ???ng hoàng ??a công chúa Ratna tr? v? quê h??ng nàng. ? ?ây, hôn nhân gi?a Dewa M?no và công chúa Ratna ???c chính th?c công nh?n. Bên c?nh ?ó, ?? th??ng công chàng, vua Lang Dara còn g? cháu gái c?a mình là Cahya cho Dewa M?no.V? ph?n Xam?laik, u?t ?c vì b? m?t m?t tr??c Dewa M?no, chàng cùng chú là Arakix Kaphwari b? x? s? lên núi tu luy?n trong b?y n?m. Hai chú cháu cùng ??n g?p các tù tr??ng th? dân yêu c?u giúp s?c. Nh?ng c? các tù tr??ng này c?ng b? ?ngkar Dewa ?ánh b?i trong m?t cu?c giao tranh. Trên ???ng kéo quân tr? v?, anh em Dewa M?no b? Xam?laik b?n lén. M?i tên vàng c?a Xam?laik mang hai anh em bay r?t vào gi?a lòng ??i d??ng, l?u l?c b?y ngày ?êm m?i g?p l?i m?t nhau trong m?t dòng n??c xoáy. Nh? l?i bùa thiêng c?a X?nggi khi x?a, ?ngkar Dewa nh?c tên và Jin X?nggi –  ng??i x?a kia ???c ?ngkar Dewa c?u s?ng – xu?t hi?n v?t hai anh em Dewa M?no ch? v? x? s? c?a m?t v? vua. ? x? này, ?ngkar Dewa l?y công chúa Tw?n Ramai và Dewa M?no l?y công chúa Lima Girakxa.Sau m?t n?m chung s?ng v?i công chúa Lima và có ???c m?t c?u con trai, Dewa M?no ???c tin báo Xam?laik ?ang bao vây x? L?ngdara và ?òi l?y cho b?ng ???c công chúa Ratna m?c dù nàng c??ng quy?t t? ch?i. Chàng cùng em t?c t?c lên ???ng. T??ng r?ng cu?c chi?n m?i s? x?y ra ác li?t h?n. Nh?ng không, m?t c?m b?y khác ?ã ???c gi?ng ra, và hai anh em Dewa M?no th?t thà ?ã b? trúng thu?c ??c. Xam?laik sai các binh lính h?u c?n mang g??m t?i, quy?t b?m nát xác hai anh em Dewa M?no. Th? nh?ng nh?ng nhát g??m b? xu?ng ?ã không làm h? h?n gì hai thi th? ?ã b?t ??ng này. Tin xác hai anh em Dewa M?no ?ang ???c quân Rak canh gi? c?n m?t ??n lan sang x? s? bên c?nh, công chúa Jotna x? Hàm R?ng cho ng??i tìm cách mang xác h? v?, làm phép gi?i ??c cho Dewa M?no ??ng th?i y?m bùa cho chàng quên quê h??ng cùng v? con ?? chung s?ng v?i mình. May m?n cho Dewa M?no, ?ngkar Dewa khi t?nh ng? ?ã g?i Jin X?nggi t?i c?u c? ba ng??i thoát kh?i x? Hàm R?ng bí hi?m kia.Trong khi ?ó, ? v??ng qu?c Il?ng X?ngkata, Xam?laik sau m?t tháng ròng ch? ??i (th?i gian mà Xapatan – em gái út chàng, lúc này c?ng là v? c?a Dewa M?no – ?? ngh? v?i anh cho các công chúa ???c ?? tang ch?ng), ?ã v?i vã lên ???ng mong ???c h?i ng? v?i công chúa Ratna. Không ng?, khi t?i n?i, nhìn th?y Dewa M?no ???ng hoàng ng? trên ngai vàng, chàng vô cùng gi?n d?. Cu?c chi?n tái di?n, kh?c li?t h?n bao gi?, vì hai bên ??a ra toàn b? l?c l??ng quy?t m?t tr?n s?ng mái. Quân Rak và Jio Wanna b? Jin X?nggi ?ánh b?i và Arakix c?ng b? ?ngkar Dewa h? m?t cách nhanh chóng. Xam?laik dàn quân và Dewa M?no ?i ?ng chi?n, bay ?i cùng v?i sáu nàng công chúa m?t lòng cùng s?ng ch?t v?i ch?ng, quy?t không ?? b? Xam?laik b?t n?a. Hai bên chi?n ??u liên t?c trong nhi?u ngày ?êm, ?i qua nhi?u hành tinh xa l?, ?ánh nhau gi?a không trung, trong bi?n c?, trên ??t li?n không ng?ng ngh?. ??n th?i ?i?m quy?t ??nh, Xam?laik b?n m?i tên vàng c?a chàng. M?i tên b? Dewa M?no b? g?y. Ngay l?p t?c Dewa M?no ph?n công, s? d?ng ??n ngón tuy?t chiêu: g??m kuraba k?t li?u m?ng s?ng c?a Xam?laik.Cu?c chi?n d??i tr?n gian vang ??ng ??n Nhà Tr?i. Th??ng tình cho anh chàng Xam?laik si tình t?i nghi?p, ??ng th?i ?? c?u vãn danh d? cho chàng, ??ng Th??ng ?? chí tôn phái thiên s? xu?ng m? n?m m? và ban h?n cho chàng s?ng d?y. Hai bên l?i ti?p t?c chi?n ??u. Khi cu?c chi?n kéo dài quá lâu v?n b?t phân th?ng b?i, lúc ?ó, Ngài m?i giáng th? gi?i hòa cho hai ng??i kh?ng l? ngang s?c ngang tài, chính th?c tuyên b? công chúa Ratna là v? c?a Dewa M?no và cho Xam?laik c??i bóng c?a nàng (ôi! Cái khôn khéo c?a ??ng Chí tôn Chí ??i) Dewa M?no, ?ngkar Dewa, Jin X?nggi và sáu công chúa kh?i hoàn, tr? v? quê h??ng trong s? ?ón ti?p t?ng b?ng c?a th?n dân cùng vua các n??c ch? h?u. Dewa M?no ???c tôn ngôi v??ng, ?ngkar Dewa làm quan ??i th?n. X?nggi t? giã m?i ng??i tr? v? c? quân.B? c?c ch?t ch?, c?t truy?n ??y k?ch tính c?ng v?i l?i k? truy?n lôi cu?n ?ã t?o cho Akayet Dewa M?no m?t s?c h?p d?n ??c bi?t. M?c dù thi ph?m ?ã ph?i khoác lên mình chi?c áo huy?n tho?i, nh? các lo?i v? khí ???c s? d?ng trong cu?c chi?n (tr?mpaik: m?t lo?i d?a bay, ir?x kuraxi: m?t th? gh? bay th?n kì, padak lakkuraba: m?t lo?i g??m th?n) hay tên trái cây, tên x? s?, tên nhân v?t ??u là nh?ng tên xa l? v?i ngôn ng? dân gian, nh?ng chính là bi?u hi?n tâm lí ng??i, r?t ng??i c?a nhân v?t ?ã ?? l?i d?u ?n ??m nét trong lòng ng??i ??c. S? c?m gi?n c?a Jin X?nggi, cái hèn nhát c?a vua Intan, tính th?p hèn c?a Xam?laik, lòng ghen tuông, nh?ng ni?m vui, n?i bu?n, nh?ng n? c??i và nh?ng gi?t n??c m?t… ??u n?m trong s? ?? chung c?a tâm lí con ng??i phàm tr?n.??c gi? không th? nào quên ???c c?n gi?n d? c?a Jin X?nggi khi nhìn th?y n??c m?t l?n dài trên má Dewa M?no lúc chàng tr? v? sau c?n ho?n n?n, ch?t b?t g?p công chúa Cahya tay ?ang n?m ch?t con dao toan t? v?n vì ngh? ?ây là Xam?laik ??n hãm h?i nàng. C?n gi?n d? c?a Jin r?t ? con ng??i: h?n nhìn th?y t?n m?t th?n t??ng h?n v?a s?p ?? v?i nh?ng gi?t n??c m?t y?u ?u?i! Và càng con ng??i h?n n?a: nh?ng gi?t l? này c?a Dewa M?no th?n thánh. Chi?u sâu tâm lí c?a con ng??i ???c khai phá m?t cách kì tuy?t!Dòng th? c?a b?n s? thi nh? mu?n bay cao bay xa nh?ng bao gi? c?ng r?i tr? l?i m?t ??t. M?t ??t luôn là tâm ?i?m cho các nhân v?t x? s? và tung hoành.Th?t th?, Dewa M?no là m?t thi ph?m mang ??m tình ng??i. ?ó là tình ph? t? c?a vua Karama Raja ?ã ch?u ch?t ?i cho con ???c có m?t trên tr?n gian; là lòng chí hi?u c?a Dewa M?no ?ã không qu?n hi?m nguy gian kh?, lên ???ng ?i tìm cha, b? l?i sau l?ng ngai vàng cùng s? giàu sang phú quý; ?ó là lòng trung thành c?a Jin X?nggi, ?ã bao l?n ra tay c?u anh em Dewa M?no thoát kh?i c?nh nguy kh?n; là ??c chung th?y c?a công chúa Xapatan m?t m?c yêu th??ng ch?ng dù b? ch?ng hi?u l?m và ru?ng b?, c?a công chúa Ratna ?ã ?ánh l?a Xam?laik ?? ???c th? ti?t v?i ch?ng khi ch?ng b? n?n, và trong tr?n quy?t ??u ?ã sát cánh bên ch?ng ?? ???c cùng s?ng ch?t. Và nh?t là tình máu m? c?a công chúa Xapatan ??i v?i ng??i anh là Xam?laik. Khi ng??i anh ru?t b? sát h?i b?i chính bàn tay ch?ng mình trong tr?n chi?n cu?i cùng, nàng ?ã khóc. Nhà th? vi?t nên m?t ?o?n th? r?t ??p:Dom nan Xapatan DiwiCauk x?p nhu hari gr?p n?gar jang pax?ngIa di kraung ?w?c m?ng ngauk mai t?lCamauh patri cauk nan ia dawing ?w?c o truhTh? r?i công chúa Xapatan khócTi?ng khóc th?m thi?t, c? x? s? ??ng lòngVà dòng sôngT? trên cao ch?y l?iN??c cu?n xoáy mãi không n? trôi ?iAkayet Dewa M?no còn là bài th? ng?i ca lòng cao th??ng hào hi?p c?a con ng??i. Dewa M?no r?t cao th??ng, cao th??ng khi chàng t? ch?i ?ánh Xam?laik ?? r?i ph?i m?c n?n b? k? thù b?n lén sau l?ng, cao th??ng khi chàng cho phép v? khóc cho ng??i anh ru?t c?a nàng v?a là k? t? thù c?a mình, khi chàng không cho ng??i em k?t ngh?a ?ngkar Dewa gi?t quân lính k? ??ch trong khi chi?n ??u ch?ng Xam?laik. Và ngay c? Xam?laik, m?t nhân v?t ph?n di?n, c?ng ?ã làm ???c m?t c? ch? cao th??ng: chàng ?ã không ??ng ch?m ??n công chúa Ratna khi ???c nàng yêu c?u ?? tang cho ch?ng (vì t??ng ch?ng ?ã ch?t). C? ??n ??ng Th??ng ?? Chí Tôn c?ng ?ã th? hi?n ???c m?t c? ch? nhân t? cao c?: không ?? cho Xam?laik, m?t con ng??i có tài n?ng l?n ph?i ch?u m?t m?t tr??c ng??i yêu, khu?t nh?c tr??c k? thù; vì khi b? ??y ??n b??c ???ng cùng, con ng??i d? ?i ??n nh?ng hành ??ng thi?u chín ch?n, m?i thù kéo dài dây d?a, và con dân Ngài d??i tr?n mãi ch?u c?c kh?; nên Ngài ?ã ngh? ra h??ng ?? g? danh d? cho Xam?laik b?ng cách cho chàng m?t l?n n?a ???c chi?n ??u v?i Dewa M?no, và cu?i cùng ???c c??i bóng công chúa Ratna. Th?t không th? tìm ???c gi?i pháp nào tài tình h?n!Và cu?i cùng, Akayet Dewa M?no v? ??i ? n?i nó ?ã th?a mãn ???c nh?ng khát khao muôn thu? c?a con ng??i. Con ng??i bao gi? v?n th?, dù h? c? ng? trong b?t kì không gian th?i gian nào, nhu c?u ???c truy?n gi?ng (Vua Kurama Raja ph?i t? hi sinh ?? có ???c ??a con n?i dõi), nhu c?u ???c yêu th??ng ?ùm b?c (Xapatan c?n ???c bàn tay Dewa M?no ôm ?p), ???c s?ng ?m no trong m?t ??t n??c an lành (t?t c? qu?n chúng nhân dân trong m?i x? s?) v?n là nh?ng nhu c?u b?c thi?t nh?t.? Akayet Dewa M?no, con ng??i ?ã bi?t quên ?i b?n thân mình và bi?t hi sinh cho ng??i khác, cha hi sinh cho con, em bi?t quên mình vì anh, b?n bè dám l?n x? vào khói l?a ?? c?u nhau, ch?ng bi?t tha th? cho v?… nh?ng ??c tính này c?a con ng??i khi k?t h?p l?i, có th? t?o nên nh?ng kì tích mà n?u thi?u nh?ng kì tích này thì cu?c s?ng s? tr? nên vô v? và con ng??i muôn ??i mãi không th? ??t t?i nhân b?n tính ?ích th?c.Th? nh?ng, các ??c tính cao c? này c?a nhân v?t s? nh?t nh?o bi?t bao n?u nó không ??t trong c?nh ng?, tình hu?ng t??ng ?ng, và n?u nó không ???c k? l?i b?ng m?t ngh? thu?t th? chín ch?n nh? ? Akayet Dewa M?no. Qu? th?t, l?i k? chuy?n c?a Akayet Dewa M?no ?ã ??t ??n m?c tinh x?o.Không gi?ng nh? các tác ph?m khác thu?c dòng v?n h?c c? ?i?n Ch?m, r?t ít chi ti?t ???c l?p l?i trong Akayet Dewa M?no. T?t c? ??u ???c phóng ??i, và phóng ??i ??n m?c d? th??ng, cái d? th??ng này l?i luôn luôn có th? ch?p nh?n ???c. Có th? nói, chính cái d? th??ng này ?ã góp ph?n t?o nên s?c h?p d?n riêng c?a tác ph?m. Chúng ta c?ng c?n l??t qua m?t s? ?o?n:– Dewa M?no ?ang chu?n b? xu?t quân:Tanrak ginuh glaung m?t?h ad?rhaApan padak lakkuraba ?ik asaih kauk p?rHào quang r?c sáng l?ng ch?ng tr?iTay c?m g??m th?n, c??i ng?a tr?ng bay   – C?n gi?n d? c?a Xam?laik:Nhu ginaung tatr?m takai d?ng m?kaikDom kathieng jruh laik, c?k car jang jal?hN?i c?n th?nh n?, h?n gi?m chânThiên th?ch r?ng r?i, núi non nghiêng ??– Di?n t? c?nh cung ?i?n c?a công chúa Ratna thì: "?? xây cung ?i?n cho công chúa Ratna, nhà vua cho v?i nh?ng th? luy?n kim b?c th?y. Ba l?p hàng rào bao b?c l?y cung ?i?n bao la: vòng ngoài c?ng ???c rào b?ng s?t, vòng gi?a b?ng ??ng và vòng trong ???c s?n son th?p b?c. C?ng thành ???c ng?n b?ng ba l?p c?a có kh?c hình các con r?ng bay l??n. B?n góc khuôn viên cung ?i?n ??u có b?n cái gi?ng xây kh?ng l? mà m?t sân toàn cát vàng. Hai bên ???ng t? c?ng d?n vào cung ?i?n chính tr?ng ?? lo?i hoa quý ???c mang v? t? kh?p n?i trên th? gi?i mà h??ng th?m t?a bay kh?p m?i mi?n ??t n??c. D??i m?i cây hoa ??u có m?t lo?i chim quý hi?m su?t ngày ?êm múa hát. Trong thành, m?t ng?n núi cao ng?t ???c d?ng nên. Ng?n núi này ch? ???c tr?ng ??c nh?t cây chà là th?n tr?u n?ng trái chà là vàng, và trong thân cây luôn âm vang ngàn ?i?u nh?c mê li. Xung quanh ng?n núi là m?t vùng bi?n c? v? sóng êm ngân hòa cùng ?i?u nh?c trong thân cây chà là. M?t chi?c c?u b?ng vàng ròng ???c l?c t? ??i d??ng b?c qua bi?n n?i li?n ng?n núi v?i bi?t th?. Bi?t th? v? ??i cao l?ng ch?ng tr?i ???c l?p b?ng nh?ng t?m kim c??ng, trên cùng là mái làm toàn b?ng vàng ròng. ? b?n góc c?a bi?t th?, b?n con r?ng th?n nâng b?n bóng ?èn kh?ng l? ngày ?êm soi sáng toàn v??ng qu?c".??y là m?t c?nh t??ng siêu nhiên ch? ???c th?y trong óc t??ng t??ng hay trong nh?ng tr? x? c?a các v? b? tát trong kinh Hoa nghiêm c?a ??o Ph?t. Và ?ây là bãi chi?n tr??ng trong tr?n giao tranh cu?i cùng gi?a Dewa M?no và Dewa Xam?laik:"Trên m?t ??t, nh?ng ng?n lao c?a h? ch?m nhau n? bùng nh?ng ?ám l?a thiêng cháy tr?i núi non. H? l?i kéo nhau ra ??i d??ng, hóa thân thành loài r?ng bi?n, ti?p t?c chi?n ??u trong b?y ngày ?êm làm ??i d??ng n?i sóng, bão t? mù tr?i ??t. Th?y ch?ng ?n thua gì, h? l?i l?n sâu vào lòng ??t (lúc này h? ?ã hóa thân thành r?ng ??t) ti?p t?c thí võ. Cu?c chi?n l?i di?n ra trên không trung làm s?m sét n? tung, ch?n ??ng m?t n?a v? tr?".C? th? ti?p t?c. C? th?, Dewa M?no và Xam?laik tung hoành, tung hoành cùng v?i óc t??ng t??ng bay b?ng c?a thi s?, cùng v?i v?n th? hoa m? và ngôn t? bay b??m kì tuy?t.Th? nh?ng, tài n?ng c?a thi s? không ch? ng?ng l?i ? t??ng t??ng và phóng ??i. Ng??i ta ngh? r?ng có gì khó ?âu! C? t??ng t??ng nh?ng ?i?u kì qu?c nh?t r?i th?i ph?ng nó lên. Làm nh? ai c?ng có th? làm ???c chuy?n ?y! Picasso, khi ?? cây c? c?a mình tung hoành v?i nh?ng tác ph?m hi?n ??i, tr??c ?ó ông ?ã có các h?a ph?m c? ?i?n giá tr?. Và thi s? Tô Thùy Yên có nói ??i í r?ng không th? ?em Tháp Chàm v?i Angkor c?a Campuchia ra mà so sánh. B?i vì n?u c?n, nhà th? chúng ta c?ng có th? di?n t? tài tình nh?ng khía c?nh vi t? nh?t c?a tâm lí con ng??i.Chúng ta hãy th? phân tích m?t tình ti?t trong akayet: Dewa M?no v?i vã v? quê h??ng sau khi ???c công chúa Jotna gi?i ??c và ???c Jin X?nggi c?u thoát. Lúc ?y, Ratna và Cahya b? giam l?ng, ?ang th? s?n con dao ?? k?p t? v?n khi qua th?i h?n ???c Xam?laik cho phép ?? tang ch?ng. Lòng th?p th?m, chàng nh? nhàng ??y c?a b??c vào.Patri tangi thei jwak dr?h takaiPathang kuw bhian nau mai, Dewa M?no nan nhu hiaNàng h?i ai ?i t?a ti?ng b??c chânCh?ng ta ?i l?i nh?ng ngày th??ngVà Dewa M?no b?t khóc.Dewa M?no, ng??i anh hùng cái th? này ?ã b?t khóc. Chàng khóc vì chàng hi?u r?ng ch? có nh?ng ng??i th?t s? yêu nhau, th?c lòng nh? mong nhau m?i có ???c cái tinh t? ?y c?a thính giác. Các chi ti?t v?t vãnh nh?t và t??ng nh? d? b? khu?t l?p b?i bao lo âu th??ng nh?t, nh?ng v?i n?i nh? mong, b?ng s? ch? ??i trong câm l?ng và qua m?t th?i gian dài h?i t??ng, chúng t? t? l?n d?y và l?n mãi trong kí ?c sâu th?m mà ta h?u nh? không hay bi?t cho ??n khi, b?i m?t c? duyên nào ?ó, nó v? ra và l? nguyên hình. Các nhà tâm lí h?c ??t cho nó cái tên: vô th?c. Nh? ti?ng gi? áo sau khi có ti?ng m? t?, thói quen chà hai chân vào nhau khi lên gi??ng, hay nh? ? ?ây – ti?ng b??c chân ?i l?i.Tr? l?i v?i câu chuy?n. Lúc ?y, Dewa M?no nhanh tay gi?t l?y con dao n?i tay công chúa, b?ng b? nàng kháng c? l?i. Vô th?c nàng tin r?ng ?ó là ti?ng b??c chân c?a chàng - là chàng, ng??i ch?ng yêu d?u c?a mình nh?ng í th?c nàng li?n ph?n bác: chàng ?ã ch?t.Trong m?t c?nh ng? r?t th?c, v?i m?t ngh? thu?t phân tích tâm lí sâu s?c, thi s? ?ã th?i ???c vào ?o?n th? s?c s?ng kì l?. ??y là ?i?m son khác c?a Akayet Dewa M?no.Và m?t ?i?u n?a c?n nói ? ?ây là k?t thúc có h?u c?a tác ph?m (chính ngh?a th?ng hung tàn, Dewa M?no ca khúc kh?i hoàn, tr? v? quê h??ng ?oàn t? v?i gia ?ình) ?ã làm cho ??c gi? hoàn toàn mãn nguy?n khi ??t cu?n sách xu?ng.Ít ra, trong “m?t vài tr?ng canh”, Akayet Dewa M?no c?ng ?ã m?t l?n ??a bao th? h? con ng??i ch?t phác, thoát ???c nh?ng c? c?c c?a ??i th??ng, nh?ng b?t công c?a ch? ?? phong ki?n, ???c th? h?n bay theo v?n th? ?? cùng v?i Dewa M?no ?i qua m?y t?ng tr?i bao la, vi?ng th?m các cung ?i?n nguy nga tráng l?, chiêm ng??ng dung nhan các nàng công chúa xinh ??p tuy?t tr?n; cùng bay theo Dewa M?no trong cu?c tr??ng chinh ch?ng l?i cái x?u ác, chi?n th?ng cái x?u ác ?? an toàn cùng hoàng t? tr? v? quê h??ng - n?i mà ng?n lúa t? do tr? bông, cây r?ng t? do l?n d?y, dân làng an tâm làm ?n sinh s?ng (gr?p baul thuk hatai).(gr?p baul thuk hatai).______________________________(5) Chi ti?t này d? khi?n chúng ta liên t??ng ??n ti?ng b??c chân trong m?t ?o?n th? c?a Paul Valéry c?ng vang lên cùng âm h??ng:      Tes pas, enfants de mon silence      Saintement, lentement placés      Vers le lit de ma vigilance      Procedent muets et glacés  
0 Rating 573 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On October 16, 2014
Giới thiệu Người Chăm là một dân tộc thiểu số ở Việt Nam có số dân khoảng 137 ngàn người, sinh sống trên nhiều địa phương như Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh... Nhưng Ninh Thuận là nơi có người Chăm sinh sống lâu đời và có số dân tập trung đông nhất, chiếm 50% người Chăm ở Việt Nam. Hiện nay họ vẫn còn bảo lưu nhiều phong tục tập quán, nghi lễ hội hè liên quan đến đền tháp. Trong đó có Lễ hội Katé là lễ hội đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa người Chăm . Lễ hội Katé được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 lịch Chăm nhằm để tưởng nhớ các vị Nam thần như Po Klaong Garai, Po Romé... Lễ hội được diễn ra trên một không gian rộng lớn từ đền tháp (bimong- kalan) - làng (palei) - đến gia đình (sang danaok). Lễ hội được lần lượt tổ chức theo thứ tự trước sau tạo thành một dòng chảy của lễ hội Chăm phong phú, đa dạng. Lễ hội Katé là một lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hóa của người Chăm. Nơi ấy chính là tấm gương phản chiếu sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ những giá trị, tinh hoa văn hóa. Do đó lễ hội không những gắn với đền tháp cổ kính - nơi ngưng tụ những gía trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa Chăm mà còn đem đến một phần khác của văn hóa như đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ; những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân, với nuớc và hát kể về công việc đồng án, mùa màng, sản vật trăm hoa trăm quả trăm nghề. Lễ hội còn xuất trình trước công chúng một nền nghệ thuật ca- múa- nhạc dân gian mang một phong cách riêng biệt, độc đáo. Lễ hội Katé là giây phút thiêng liêng của người Chăm hành hương về cội nguồn dân tộc, đánh thức tháp Chăm cổ kính lặng ngủ dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, sáng loà, tỏa ra trăm sắc ngàn hương trong vườn hoa văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.   Nội dung và ý nghĩa cuả Lễ hội Katé Lễ hội Katé được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 lịch Chăm.Ðây là lễ hội của người Chăm nhằm tưởng nhớ cá vị Nam thần như Po Klaong Garai, Po Romé... Và tưởng nhớ ông bà tổ tiên , trời đất đã phù hộ độ trì cho con người. Lễ hội Katé là biểu hiện một nữa cấu trúc lưỡng hợp thuộc về dương đối lập với yếu tố âm - Lễ Cabur (lễ cúng các vị Nữ thần vào tháng 9 lich Chăm). Sự đối lập, liên kết giữa Nam thần (po) - Nữ thần (bia), Trời - Ðất (lingik- tanah), Ðực – Cái (likei – kumei), Mẹ - Cha (ama- amaik), Tối – Sáng hoặc Mặn – Lạt (yuer – klam)... là nét đặc trưng phổ quát trong nền văn hóa Chăm được thể hiện sâu sắc trên nhiều bình diện như nghi lễ hội hè, ăn mặc, màu sắc cho đến loại hình biểu diễn nghệ thuật khác. Tất cả những yếu tố trên toát lên nội dung, hàm chứa một ý nghĩa phồn thực với sự liên kết lưa đôi, cầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi, cây trồng ... Bản thân lễ hội Katé chứa đựng cốt lõi nội dung và ý nghĩa ấy.   Không gian của lễ hội Katé Katé là lễ hội lớn của cộng đồng người Chăm. Lễ hội được diễn ra trên một không gian rộng lớn từ đền tháp (bimong - kalan) - làng (palei) - đến gia đình (sang danaok). Lễ hội được lần lượt tổ chức theo thứ tự trước sau tạo thành một dòng chảy của lễ hội Chăm phong phú, đa dạng. Trình tự diễn ra lễ hội Katé người Chăm như sau :   Katé ỏ Đền- Tháp Chăm   Đền Po Nagar ở thôn Hữu Đức Lễ đón rước y phụ Po Nagar diễn ra ở đây từ lúc 12h00 đến 13h00 cùng ngày thì kết thúc. Ðịa điểm tại thôn Hữu đức, xã phước Hữu, huyện Ninh Phuớc, tỉnh Ninh Thuận , cách thị xã Phan Rang 12km về hướng Tây Nam. Ðây là lễ đón rứơc y phục của Nữ thần Po Nagar- Thần mẹ xứ sở của người Chăm gắn liền với nhiều huyền thoại, truyền thuyết. Chính Nữ thần là thủy tổ của người Chăm, đã dạy người Chăm trồng lúa, trồng bông dệt vải, và dạy cho người làm lễ hội như ngày nay. Lễ diễn ra tại một ngôi Ðền thờ (Danaok) trong làng - Ðền được xây dựng vào 1942. Nơi đây, du khách sẽ chứng kiến cuộc đón rước, trao báu vật của Nữ thần và giao lưu văn hóa giữa người Chăm và người Raglai.Tuy nhiên rất tiếc, hai ngôi tượng của Nữ thần bằng đá đã bị mất cắp vào năm vào 1997 (tượng Adakan, cao 0,80 m, nặng khoảng 100 kg, có niên đại thế kỉ 9 và tượng Po Tâh, cao 0,50m được làm bằng ximăng 1955).   Tháp Po Klaong Garai Lễ diễn ra bắt đầu từ lúc 8h30 đến 14h00 cùng ngày kết thúc. Tháp Po Klaong Garai nằm trên ngọn đồi trầu (cék hala) thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về phía Tây Bắc. ThápPo Klaong Garai là một tổng thể kiến trúc nghệ thuật bao gồm 3 ngôi tháp: Tháp chính (kalan po) cao 20,5m bên trong có thờ một tượng vua Po Klaong Garai bằng đá dưới hình thể Mukhaling (Linga có gắn mặt thần chủ) và một tượng Bò Nandin bằng đá ở lối ra vào; Tháp cổng (kalan tabah mbang) cao khoảng 8,56 m; tháp lửa (sang cuh yang apuei) cao 9,31m.Ngoài ra ở phía sau tháp chính còn có một ngôi miếu nhỏ thờ một phiến đá. Xung quanh tháp được bao bằng một vòng thành.Tháp đượcngười Chăm xây dựng vào cuối thế kỷ 12 đầu thế kỷ 13 để thờ vị vua Po Klaong Garai (1151 - 1205) - một vì vua có công với dân, với nước, được người Chăm suy tôn thành thần thủy lợi. Tháp Po Klaong Garai là một cụm tháp hoàn mỹ, đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ trong nền nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Champa. Tháp được Bộ Văn Hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật vào năm 1979. Chính vì vậy, nơi đây đã trở thành trung tâm thu hút cộng động người Chăm Ninh Thuận trong ngày Hội Katé hàng năm.   Tháp Po Romé Lễ diễn ra bắt đầu từ lúc 8h30 đến 14h00 cùng ngày kết thúc (lễ hội được diễn ra cùng ngày cùng giờ với tháp Po Klaong Garai).Tháp Po Romé nằm trên một ngọn đồi “buen acaow” thộc thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã Phan Rang- tháp chàm 15 km về phía Tây Nam. Tháp Po Romé được xây dựng vào thế kỷ 17 để thờ vị vua Po Romé.Tháp là tổng thể kiến trúc gồm có 3 ngôi tháp: Tháp chính, tháp cổng và tháp lửa. Nhưng hiện taị chỉ còn lại một ngôi tháp chính cao 19m bên trong có thờ một tượng vua Po Romé bằng đá dưới hình thể Mukhalinga và một tượng thờ hoàng hậu Bia Than Can bằng đá - người Eđê. Phía sau tháp chính còn có một ngôi miếu nhỏ thờ tượng Hoàng hậu Bia Than Cih bằng đá - người Chăm. Cả hai tượng đã bị mất vào 1993 và 1994. Còn hai ngôi tháp: Tháp cổng và tháp lửa đã sụp đổ. Tháp Po Romé không cao to bề thế như tháp Po Klaong Garai nhưng tháp có một phong cách nghệ thuật kiến trúc riêng biệt- Phong cách Po Romé . Tháp Po Romé được xem la ngôi tháp cuối cùng trong lịch sử nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đền tháp của người Chăm ở Việt Nam. Tháp Po Romé còn gắn liền với vị vua Po Romé có nhiều huyền thoại, truyền thuyết trong mối tình sử bi đát giữa vua Po Romé với công chúa người Eđê- Bia Than Can và công chúa Ngọc Khoa nước Ðại việt. Tháp Po Romé được Bộ Văn Hóa xếp hạn di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1992.   Diễn tiến lễ Katé ở tháp Chăm Lễ hội Katé của người Chăm Ninh Thuận diễn ra ở 3 đền tháp: Ðền Po Nagar ( Hữu đức ), Tháp Po Romé ( Hậu sanh )và Tháp Po Klaong Garai ( Ðô vinh, Tháp chàm ). Lễ diễn ra ở cả 3 nơi cùng ngày cùng giờ. Các nghi lễ cơ bản như nhau về nội dung , nghi thức hành lễ. Tuy lễ hội diễn ra ở 3 nơi nhưng thu hút được nhiều tín đồ nhất, tổ chức qui mô nhất vẫn là lễ hội Katé ở tháp Po Klaong Garai. Tiến trình lễ hội theo các bước như sau: Lễ hội Katé tại đền tháp được điều hành bởi Ban tế lễ bao gồm : - Po Adhia (cả sư Chăm Ahier) trụ trì đền tháp làm chủ lễ - Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) hát thánh ca - Muk Paya, bà múa và dâng lễ vật lên các vị thần - Camanei ( ông từ giữ đền tháp) chủ trì lễ tắm tượng - Và cùng một số Basaih (Tu sĩ Chăm ahier) phụ lễ. Lễ vật dânng cúng Katé tại đền háp bao gồm : - 01 con dê - 03 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp - 05 mâm cơm, canh cúng với thịt dê - 01 mâm cơm với muối vừng ( lithey thap) - 03 cổ bánh gạo và hoa quả - Ngoài ra còn có rượu trứng, trầu cau, xôi chè ... Sau khi lễ vật đã chuẩn bị xong, ban tế lễ đã sẵn sàng thì lễ hội bắt đầu tiến hành theo các buớc sau: Lễ rước y phục (Rok aw khan po yang) Tất cả các y phục của vua chúa thờ ở đền tháp Chăm đều do người Raglai cất giữ. Do vậy khi đến ngày lễ Katé thì người Chăm phải làm lễ đón rước người Raglai chuyển y phục về lại các đền tháp Chăm. Ðây là nghi lễ mở đầu cho ngày hội diễn ra rất trọng thể. Lễ rước y phục diễn ra ở 3 đền tháp: Ðền Po Nagar (Hữu đức), Tháp Po Romé (Hậu Sanh) và tháp Po Klaong Garai ( Ðô Vinh, Tháp Chàm). Trong đó lễ đón rước y phục Po Nagar diễn ra vào buổi chiều ngày 26/ 9/ 2000, trước ngày hội chính thức ở đền tháp một ngày. Còn lễ đón rước y phục ở tháp Po Romé và tháp Po Klaong Garai thì diễn ra vào buổi sáng ngày 27/ 9/2000. Mặc dù 03 đền tháp tổ chức nghi lễ đón rước y phục trong thời gian khác nhau nhưng nghi thức hành lễ cơ bản đều giống nhau. Ở đây chỉ mô tả lại lễ đón rước y phục cuả vua Po Klaong Garai từ đền thờ vua Po Klaong Garai tại thôn Phước Ðồng (Phuớc Hậu - Ninh Phước) đến tháp Po Klaong Garai trong ngày lễ Katé năm 1998. Trong ngày Lễ rước y phục Po Klaong Garai vào buổi sáng tại đền thờ Po Klaong Garai ở Phước Đồng, đoàn người Raglai đã tập trung đầy đủ, ông Camanei (ông từ giữ đền) dâng cúng lễ vật rượu trứng xin phép thần cho rước y phục về tháp Po Klaong Garai cúng lễ. Khi lễ đón rước kết thúc thì y phục vua Po Klaong Garai được đưa lên kiệu để đưa về tháp Po Klaong Garai. Trật tự đoàn rước lễ được sắp xếp như sau: Dẫn đầu đoàn là 05 người Raglai; tiếp theo là cả sư (Po Adhia) chủ trì đền tháp Po Klaong Garai; Thầy Kadhar keó đàn ka nhi; Payau ; Ðội vũ nhạc ; ở chính giữa là kiệu khiêng y phục vua Po Klaong Garai; hai bên là những người cầm cờ và cuối cùng là đoàn người phụ lễ đi theo. Ðoàn rước đi trên con đường dài 4km, từ thôn Phước Đồng đến tháp Po Klaong Garai. Khi đoàn rước kiệu về đến tháp Po Klaong Garai thì đội múa lễ của đoàn múa mừng trước tháp. Ðây cũng là điệu múa mừng khi kết thúc một công đoạn trong nghi thức hành lễ người Chăm. Lễ mở cửa tháp (Péh mbang yang): Sau khi kết thúc Lễ rước y phục thì các tu sĩ xin phép thần Siva làm lễ mở cửa tháp. Lễ này đượcdiễn ra trước cửa tháp, được sự điều hành bởi cả sư (Po Adhia) và ông Camanei. Lễ vật cúng xin mở cử tháp gồm có: rượu trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương và cá hương vị khác. Trong không khí trang nghiêm thầy cúng tế hát cầu lễ thần linh như sau: Jhaok aia di kraong praong, klah ba maraila ai ngap di yang Po Maâk jiep ba marai ka Po njam takai, ni ngap yau nan klau mbang  Lấy nuớc từ sông lớn Đem về tháp tắm thần Thần là thần của trời đất Lấy khăn đem đến cho thần lau chân Làm như thế ba lần (Các đoạn thơ được trích và dịch theo kinh hành lễ Katé Chăm) Sau khi đọc xong lời cầu nguyện Camanei cầm lọ nước tắm thần tạc lên tượng phù điêu thần Siva trên vòm cửa chính của tháp.Tiếp đó, thầy Kadhar kéo đàn Rabap và Payau tiến đến trước cửa tháp chính ngồi bên tượng bò thần Nandin để hát lễ xin mở cửa tháp. Lời hát lễ có đọan sau : Cuk [< cuh] dhuk pahuel gihlau, Peùh bi-mbang yang bitau yang Po laong Garai la ayet Cuk dhuk klaong ba ka-mbah hala, Peùh bi-mbang yang Po Klaong Garai la a yet Đốt bệ xông hương trầm Mở cửa đá tháp Po Klaong Garai ayet Đốt bệ trầm con mang trầu lễ Mở cửa đá tháp Po Klaong Garai ayet Khi đoạn hát lễ kết thúc, thì đòan lễ tiến vào tháp, bà Payau và ông Camanei bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm toả ra nghi ngút. Lễ mở cửa tháp kết thúc. Lễ tắm tượng thần (Manei yang) Lễ tắm tượng thần được diễn ra bên trong tháp. Lễ này gồm có Po Adhia, thầy Kadhar keó đàn Rabap, bà Payau, ông Camanei và một số tín đồ nhiệt thành thực hiện. Khi mọi người đã ngồi vào bàn lễ, xung quanh bệ thờ thần thì bà Payau rót rượu dâng lễ, thầy Kadhar kéo đàn Rabap bắt đầu hát lễ theo. Bài hát lễ tắm thần có đọan: Jhaok aia di kraong, ndua marai manei Po Klaong Garai Jhaok aia di kraong, klah ba marai manei yang Po Klaong Garai Maâk jiep njam ka Po njam trik, Po nao liwik di sap [  Múc nước ở sông, Đội đến tắm thần Po Klaong Garai Múc nước từ sông, Đem tắm thần Po laong Garai Thần đi lâu ngày lấy khăn lau mồ hôi (cho thần) Trong tháp, khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap đang hát thì ông từ cầm lọ nước tắm lên pho tượng đá, mọi người bắt tay cùng nhau tắm thần. Lúc này những tín đồ nhiệt thành lấy nước từ trên thân tượng bôi lên đầu, lên thân thể mình để cầu sức khỏe, tài lộc, may mắn. Lễ mặc y phục cho tượng thần (Anguei khan aw Po yang): Sau khi lễ tắm thần kết thúc thì đến nghi lễ mặc áo cho thần. Lễ thức được tiến hành theo lời hát thánh ca của thầy Kadhar. Lời thầy hát lễ đến đâu thì y phục thần được mặc vào đến đó. Ðầu tiên là lễ mặc váy. Lời thầy hát lễ như sau:   Danaây aia lek di cek, Po Klaong kraân jih tamun di aia tagaok manei Danaây aia laik di tuel, Yang Po Klaong Garai kraân talei ka-ing jih tamun di aia tagok manei Danaây aia laik di kraong sa [ Yang Po Klaong Garai kraân cuk aw lita di aia tagok manei)    Nghe tiếng thác đổ trên núi Thần Po Klong Garai mặc váy viền hoa jih tamun lên tắm Tiếng thác đổ xuống vịnh sâu Thần Po Klaong Garai thắt dây lưng hoa Jih tamun lên tắm Tiếng thác đổ xuống sông lớn Thần Po Klaong Garai mặc áo liat về dự lễ. Khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát thì ông Camanei, bà Payau mặc váy, áo cho tượng thần. Cứ như vậy cho đến kết thúc bài hát.   Ðại Lễ (Maliéng yang) Sau khi lễ macë y phục hoàn tất, lúc này tượng thần đã mang trên mình bộ long bào lộng lẫy, thì cũng là lúc vật dâng cúng được bày ra trước bàn thờ. Ðại lễ bắt đầu, lúc này Po Adhia làm chủ điều khiển nghi lễ, ba Payau dâng lễ vật, thầy kadhar kéo đàn Rabap hát mời các vị thần về dự lễ. Các vị thần được mời là các vị thần có công với dân với nước được dân làng ngưỡng mộ suy tôn như thần Po Nagar (thần mẹ xứ sở), thần Po Klaong Garai ( Vua Chăm trị vì năm 1151 - 1205), Po Romé (1627 - 1651), Po Par... Mỗi vị thần được mời về dự thì bà Payau dâng lễ vật, thây Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh ca, bà con dự lễ chấp tay cầu thần phù hộ độ trì cho nên công của. Lời hát lễ cuả thầy Kadhar có đoạn như sau : - Hát về Nữ thần Po Nagar: Thần là Nữ thầ xứ sở vĩ đại Thần sinh ra đất nước con người Thần mẹ cho trần gian cuộc sống Thần cho cây cối tốt tươi con người nảy nở Thần mẹ sinh ra cây lúa ruộng vườn tốt tươi  - Hát về thần Po Klaong Garai : Vào canh một, canh hai Po Klaong Garai hiện về hưởng lễ vật Vào canh hai, canh ba Po Klaong Garai hiện về hưởng lễ vật Ngài Po Klaong Garai dựng lên tảng đá vĩ đại Ngài đem ngăn sông đắp đập giữa núi Dân làng phủ phục, tôn vinh ngài làm vua Xây tháp, tạc tượng thờ thần Po Klaong Garai  - Hát mời thần Po Romé: Nước tràn về đập vỡ ra, Po Romé hiện về đắp đập giữ nước, Thần dẫn nước vào ruộng cho dân làng cày cấy Nước về đập vỡ ào ra, Trai làng chất đá đắp đập ngăn sông Trai làng bơi thuyền trên sông nước, Hoàng hậu tắm mình trong dòng nước mát trong lành - Hát về thần Po par : Em lên cao nguyên đã lâu Nhớ hái rau rừng đem vê cho anh Em lên vùng núi đã lâu Nhớ chặt cây trúc đẹp làm ống rượu cần cho anh. (Xem bài hát lễ bằng tiếng Chăm trong sách Sakaya, Lễ hội của người Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội -2003) ....... Cứ như thế thầy Kadhar kéo đàn Rabap mời trên 30 vị thần về dự , mỗi vị thần là một bài hát lễ. Po Adhia làm phép đọc kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ vật mà phù hộ độ trì dân làng. Kết thúc phần đại lễ bằng vũ điệu múa thiêng cuả bà Payau. Trong lúc bà Payau xuất thần điệu múa thiêng trong tháp để kết thúc đại lễ thì bên ngoài bắt đầu dân làng mở Hội. Những điệu trống Ginan, kèn Saranai cùng vang lên, đánh nhịp say xưa với những điệu múa và dòng dân ca Chăm. Không khí Hội cứ thế mà náo nhiệt cho đến lúc mặt trời ngã về chiều thì lễ hội Katé trên các tháp Chăm kết thúc.   Lễ hội Katé ở làng Sau khi lễ Katé ở tháp kết thúc, không khí Hội lại bùng lên ở làng Chăm. Đặc biệt, hai làng nghề Chăm (làng dệt Mỹ Nghiệp và làng gốm Bầu Trúc) là sôi động hơn cả so với những hội ở làng Palei Chăm khác. Lễ hội Katé ở làng Chăm Mỹ Nghiệp Lễ Katé ở làng dệt Mỹ Nghiệp bắt đầu diễn ra từ 13h00 – 21h00  Đây là làng thuộc thị trấn Phước Dân , huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã 12km về phía Ðông Nam. Làng Mỹ Nghiệp có tên Chăm là Caklaing, theo truyền thuyết đây là nơi sinh ra vị vua Chăm Po Klaong Garai. Làng còn có nghề dệt thủ công truyền thống nổi tiếng có lịch sử phát triển lâu đời. Ðây là nghề”mẹ truyền con nối”, hiện nay có hơn 95% gia đình làm nghề dệt. Mặc dù là nghề thủ công, dệt vải bằng tay nhưng người thợ dệt đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Sản phẩm dệt được du khách trong và ngoài nướcưa chuộng. Trong ngày lễi Katé, làng Chăm Mỹ Nghiệp, ngoài tổ chức lễ dâng cúng thần làng, tổ sư nghề dệt và tổ tiên, còn tổ chức nhiều trò chơi như thi dệt vải, đội nước, đá bóng, văn nghệ.,v.v phục vụ du khách. Lễ hội Katé làng Bầu Trúc Lễ Katé ở làng gốm Bầu Trúc cũng bắt đầu diễn ra từ 13h00 – 21h00 , Làng thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thị xã 10km về phía Tây Nam. Làng Bầu Trúc có tên Chăm là Hamu Craok, theo truyền thuyết đây là quê hương Po Klaong Can, bạn vua Po Klaong Garai. Làng còn có một nghề dệt thủ công truyền thống nổi tiếng có lịch sử phát triển lâu đời. Ðây là nghề”mẹ truyền con nối”, hiện nay có hơn 95% gia đình làm nghề gốm. Mặc dù là nghề thủ công, gốm làm bằng tay, không bàn xoay nhưng người thợ gốm đã đạt đến trình độ điêu luyện, tinh xảo. Sản phẩm gốm hiện nay rất đẹp, đa dạng về mẫu mã được du khách trong và ngoài nước ưa chuộng. Trong ngày lễ Katé, làng Bầu Trúc, ngoài việc tổ chức lễ dâng cúng thần làng, tổ sư nghề gốm, còn tổ chức biểu diễn gốm, văn nghệ, đá bóng phục vụ du khách. Ðây thực sự là hội làng hấp dẫn ở Ninh Thuận. Diễn tiến Katé ở làng Trước ngày lễ, dân làng thường phân công nhau quét dọn đền thờ, nhà làng, chuẩn bị sân khấu, sân bãi. Cùng với việc trên, một bộ phận khác chuẩn bị lễ vật cúng thần. Các cô thợ dệt làng Mỹ Nghiệp xem xét kỹ luỡng khung dệt, tơ sợi; các gia đình ở làng gốm Bầu Trúc chuẩn bị nguyên vật liệu, dụng cụ để làm gốm biểu diễn cho du khách xem. Buổi sáng ngày lễ, (thường làng cúng vào ngày thứ tư hoặc thứ bảy trong tuần đầu của lễ Katé) mọi người làm lễ cúng Katé ở nhà Làng để cầu mong thần phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt . Tương tự như người Việt, mỗi làng Chăm đều thờ một vị thần riêng.. Làng Mỹ Nghiệp thờ thần Po Rayak, làng Hữu đức thờ Po Klong Halau, làng Bầu Trúc thờ Po Klaong Can,v.v. Trong lễ cúng tế thần làng, chủ tế lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà thường là chủ làng (Po Palei) hoặc già làng có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Ông thay mặt dân làng cúng lễ vật cho thần và cầu mong thần phù hộ độ trì dân làng. Nếu như Katé ở đền tháp nặng về phần lễ, thì Katé ở làng phần lễ rất đơn giản, còn phần Hội đóng vai trò quan trọng. Làng Mỹ Nghiệp phần Hội diễn ra các trò chơi như thi dệt, đội nước, đá bóng, văn nghệ. Cuộc thi diễn ra trên một sân bãi rộng, các khung cửi đã được xếp thành hàng. Các cô gái dự thi đã chuẩn bị sẵn tơ sợi. trong hơn một giờ đồng hồ nếu cô nào dệt được một tắm vải dài nhất, đẹp nhất thì sẽ thắng cuộc. Những chiếc thoi đưa hối hả, những sợi chỉ giăng mắc đủ màu tạo nên một nền vải Chăm muôn màu, muôn sắc. Ở một địa điểm khác,
0 Rating 570 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On October 27, 2016
Andrew Hardy Nguyễn Thị Hồng Hạnh dịch Tại kinh đô ở Nam Kinh, ngày 25 tháng 7 năm Hồng Vũ thứ tư (1371), hoàng đế nhà Minh của Trung Hoa tiếp nhận một tấu văn cỡ lớn làm bằng vàng lá, trên khắc chữ ngoại quốc. Sau khi dịch, hoàng đế biết rằng những hàng đầu tiên của tấu văn này được đọc như sau: “Hoàng đế Đại Minh đã lên ngôi vỗ yên bốn bể. Bệ hạ như bầu trời và mặt đất bao phủ và chứa đựng muôn loài, như mặt trời và mặt trăng chiếu sáng vạn vật. Sánh với bệ hạ, A-da-a-zhe chỉ như một cọng cỏ. Bệ hạ thương kẻ hạ thần đã sai sứ ban cho thần ấn vàng và sắc phong cho thần làm vua xứ này. Thần rất biết ơn và tự hào, và sẽ như vậy mãi mãi”(1). Tác giả của tấu văn này, A-da-a-zhe, được biết đến trong lịch sử là vua Chămpa Chế Bồng Nga. Trong sắc phong 1 năm trước đó, hoàng đế đã giải thích những nguyên tắc trong mối quan hệ của họ ở tương lai: “Rõ ràng là đứng giữa thiên hạ, vỗ về bên ngoài, ta coi tất cả là như nhau. Ngươi phải chú tâm vào nhiệm vụ bảo vệ biên cương và chăm sóc dân chúng một cách cẩn trọng và nhất quán, mãi duy trì là một chư hầu”. Với tấu văn trên, Chế Bồng Nga bắt đầu việc trao đổi thư từ với hoàng đế, kéo dài trên một phần tư thế kỷ. Đọc chúng trong biên niên sử nhà Minh, chúng ta có thể thấy Chế Bồng Nga ngày càng tăng cường thử độ nhẫn nại của hoàng đế như thế nào qua việc phá vỡ luật lệ đã được giải thích từ những năm đầu của triều đại. Một thế kỷ sau, cũng biên niên sử đó mô tả việc trao đổi thư từ khác thử độ nhẫn nại của hoàng đế, thậm chí còn căng thẳng hơn. Trong trường hợp này, không phải vua Chămpa đã phá vỡ luật lệ mà là hàng xóm của ông ở phía bắc, vua Việt Nam Lê Thánh Tông. Nguyên nhân khiến cho cả hai vị hoàng đế bực tức là những câu chuyện lịch sử nổi tiếng và có một điểm chung: cả hai đều có kết quả là quân đội của nước kia phá hủy kinh đô của một nước. Chế Bồng Nga chiếm Thăng Long trong những năm 1370; Lê Thánh Tông chiếm Vijaya (nay là Đồ Bàn, tỉnh Bình Định) năm 1471. Từ nhãn quan của triều đình Trung Hoa, bài viết này xem xét sâu hơn bối cảnh lịch sử của hai câu chuyện với mục đích đề ra một cuộc tranh luận về sự trường tồn khác thường của Thăng Long trong vai trò là thủ đô chính trị của Việt Nam, điều mà tôi coi là vấn đề quan trọng nhất đối với các nhà sử học nghiên cứu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu. Chế Bồng Nga Trong tấu văn năm 1371, sau phần thăm hỏi được trích dẫn ở trên, Chế Bồng Nga đi thẳng vào vấn đề. Ông kêu rằng Việt Nam “đang sử dụng quân đội tấn công biên cương” và đề nghị giúp đỡ dưới dạng “vũ khí, nhạc cụ và nhạc công”. Hoàng đế đã từ chối can thiệp; với đề nghị về âm nhạc, ông khuyên Chế Bồng Nga chọn người của mình “và gửi họ tới kinh đô để học hỏi”(2). Hai năm sau, hoàng đế thiết triều cùng các quan cận thần quyết định cách xử lý liên quan đến chiến tranh giữa Việt Nam và Chămpa: “Năm trước, An Nam dâng biểu tâu rằng Chămpa đã xâm phạm biên cương. Năm nay, Chămpa hiện quả quyết rằng An Nam đã quấy rối cương vực của mình. Cả hai nước này đều phụng sự triều đình, nhưng ta chưa xác minh được bên nào đúng và bên nào sai. Hãy cử sứ thần tới hai nước này lệnh cho họ chấm dứt chiến tranh và để cho dân chúng nghỉ ngơi”(3). Năm 1377, biên niên sử ghi lại thất bại và cái chết của vua Việt Nam trong cuộc tấn công vào kinh đô Chămpa(4). Hai năm sau đó, hoàng đế vẫn tiếp tục duy trì cách tiếp cận không thiên vị đối với chiến tranh, răn đe Chế Bồng Nga bằng những lời lẽ sau: “Các ngươi phải bảo vệ biên cương và chăm sóc dân chúng. Không được đề cập đến chuyện tranh cãi. Ngươi phải được răn rằng Hoàng thiên có thể hài lòng lẫn không hài lòng”(5). Năm 1380, thái độ căng thẳng của hoàng đế bộc lộ trong chiếu chỉ gửi vua Việt Nam: “Ai đúng ai sai ta không biết. Nếu oán giận không được xoa dịu và thù địch không được hóa giải, điều gì sẽ xảy ra trong tương lai? Nếu ngươi nghe theo lệnh ta, chấm dứt chiến tranh và nuôi dưỡng dân chúng, điều đó sẽ được phản ảnh lên Thiên kính và ngươi rõ ràng sẽ chứng kiến sự thịnh vượng lâu dài. Nếu ngươi không theo lệnh ta và khăng khăng tiếp tục theo cách của mình, ta e rằng nó sẽ giống như đã xảy ra trong thời Xuân Thu và ngươi sẽ mang tai họa đến cho mình”(6). Vài tháng sau, chiếu chỉ của hoàng đế gửi cho Chế Bồng Nga cũng chứa đựng sự răn dạy: “Một số nước rõ ràng có khả năng hành động một cách nhân đức và do đó họ phù hợp với Thiên đạo. Những nước này sao mà không tồn tại lâu dài, con cháu kẻ cai trị sao mà không thịnh vượng? […] Nếu ngươi không làm như vậy và vẫn muốn tiến hành tấn công, năm này qua năm khác sẽ trở thành cuộc chiến tranh cay đắng. Không có cách nào để xác định ai thắng ai bại. Trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi”(7). Khoảng năm 1388, sự nhẫn nại của hoàng đế bị cạn kiệt. Chế Bồng Nga phái con trai của mình tới Nam Kinh với một thái độ kính trọng, đồng thời ra lệnh cho người đóng giả cướp biển để trộm đồ cống nạp cho thiên triều trên đường đến từ Campuchia. Hoàng đế hỏi: “Sao ngươi đứng đầu một nước vẫn có thể xúc phạm tàn bạo đối với Thiên tử?”(8). Sứ thần Chămpa sau đó “đã dâng cống sản phẩm địa phương để thú tội”(9). Tiếp theo, chúng ta thấy Chămpa trong biên niên sử ở mục ngày 2 tháng 12 năm 1391: Quốc sư Tao-bao Jia-zhi được phái đến từ nước Chămpa đã trình biểu chương bằng vàng và dâng cống sừng tê, nô lệ và vải vóc. Hoàng đế nói với Thượng thư Bộ Lễ rằng: “Tất cả những vật này là đồ cướp bóc. Chúng sẽ không được thu nhận!”. Trước đó, Thái sư Chămpa là Ge-sheng đã giết vua và tự lập mình làm vua. Vì vậy mà hoàng đế ra lệnh từ chối đồ cống nạp(10). Đó là quan điểm về triều đại Chế Bồng Nga từ hoàng cung đế chế Trung Hoa ở Nam Kinh. Lê Quý Đôn đưa ra một nhãn quan thẳng thắn và Việt Nam hơn về những sự kiện trong chiến dịch quân sự đầu tiên của Chế Bồng Nga: Năm Thiệu Khánh thứ 10, vua Trần Nghệ Tông (năm Tân Hợi) [tức 1371 sau CN.], tháng 3 nhuận, người nước Chiêm Thành vào cướp phá nước ta. Thuyền họ vào cửa biển Đại An [thuộc địa phận tỉnh Nam Định], rồi thẳng đến xâm phạm Kinh kỳ, đốt phá, cướp bóc rồi trở về(11). Các sự kiện vào cuối những năm 1370 và đầu những năm 1380 được tóm tắt lại như sau: Trần Phế Đế (1377 – 1388) lên ngôi thay Duệ Tông. Chỉ 6 tháng sau khi Duệ Tông tử trận, quân Chiêm “vào cửa Thần Phù (Yên Mô, Ninh Bình) rồi lên cướp phá kinh thành Thăng Long”. Không ai chống giữ được. Năm 1378, quân Chiêm lại sang đánh Nghệ An rồi ngược sông Hồng lên đánh phá Thăng Long. Từ năm ấy đến 1383, nhiều trận giằng co Chiêm – Việt trên đất Nghệ An – Hà Tĩnh. Giữa năm 1383, Chế Bồng Nga lại đem quân đánh phá Thăng Long, vua ra vào Việt Nam như đi vào chỗ không người, chỉ trong mấy năm đến phá kinh đô 3 lần, làm cho vua tôi phải kinh hoàng”(12). Lê Quý Đôn cung cấp một phiên bản súc tích về kết thúc ngoạn mục của triều đại Chế Bồng Nga. Năm 1390, khi cua Chămpa bị giết trên chiến trường trong lần cuối của hàng loạt các cuộc tấn công vào kinh đô Việt Nam: “Chế Bồng Nga bị tướng Trần Khắc Chân đánh phá và bị đại bại, chết ở sông Hải Triều. Còn bao nhiêu quân lính đều trở về nước họ”(13). Đọc điều này, chúng ta không ngạc nhiên về lời lẽ bực dọc của hoàng đế Trung Hoa trong những chiếu thư khác nhau gửi Chế Bồng Nga và các vua nhà Trần của Việt Nam. Trong các cuộc chiến tranh chiếm phần lớn thời gian của hai thập kỷ, kinh đô Việt Nam đã bị phá hủy nhiều lần, một vua Việt Nam bị giết tại cổng kinh đô Chămpa, và cuối cùng là vua Chămpa bị giết tại cổng của kinh đô Việt Nam. Vài năm sau đó, từ hậu quả không trực tiếp của những sự kiện này, Việt Nam học được sự thật cay đắng trong thành ngữ của hoàng đế về “trai và cò”. Nhà Trần nhanh chóng kết thúc và ít lâu sau, “ngư ông” triều Minh thiết lập sự cai trị trên toàn cõi Việt Nam. Lê Thánh Tông Biên niên sử ghi lại rằng ngày 15 tháng 6 năm 1471 – đúng một trăm năm sau khi việc trao đổi thư từ với Chế Bồng Nga bắt đầu – hoàng đế Trung Hoa tiếp nhận sứ thần từ vua Việt Nam là Lê Thánh Tông, được biết dưới cái tên Lê Hạo. Thông điệp của vua rất thẳng thắn: “Nước của thần rất gần với Chămpa và trong một thời gian dài, chúng thần bị nước này tấn công và hăm dọa. (…) Thần muốn tập hợp binh lính để chiến đấu, nhưng sợ rằng điều này sẽ vi phạm chỉ dụ của Thiên triều. Thần cũng muốn nhẫn nại chịu đựng sự đau khổ (…). Trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, thần quyết định nhẫn nại và gửi sứ kèm theo tới triều đình để kiến nghị điều này”. Tại kinh đô Trung Hoa, Thượng thư Bộ Binh không tin một câu nào trong thông điệp đó, tâu với hoàng đế rằng Lê Hạo “tham lam vô độ và trong khi ngấm ngầm lên kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ, hắn công khai kiến nghị yêu cầu này”. Hoàng đế viết răn đe vua Việt Nam: “Sao ngươi có thể kích động sự thù hằn, tăng cường quân đội và tham gia tấn công chống lại nhau và dành toàn bộ thời gian để khiển trách người đáng kính. […] Người phải rất, rất cẩn trọng”(14). Một năm sau, biên niên sử ghi lại thông điệp được sứ thần chămpa mang tới triều đình Trung Hoa: “Trong tháng hai năm Thành Hóa thứ bảy (tháng 2-3 năm 1471), quân đội An Nam đã tới và tấn công kinh đô của chúng thần, bắt nhà vua Bàn La Trà Toàn và gia quyến đem đi, tổng cộng hơn 50 người. Họ còn thu giữ ấn, đốt nhà cửa, giết hoặc đem đi vô số binh lính và dân thường, cả đàn ông lẫn đàn bà. Hiện nay, em trai của nhà vua Bàn La Trà Toại tạm thời nắm giữ việc quản lý các công việc của đất nước và khiêm nhường đón đợi sắc phong”. Biểu chương này được gửi tới Bộ Binh. Thượng thư Bộ Binh Bai Gui và những người khác tâu rằng: “Vào năm Thành Hóa thứ bảy (1471-72), An Nam tâu rằng Chămpa đã vượt biên giới tấn công họ, và yêu cầu triều đình rủ lòng thương bằng cách kiểm soát sự áp bức. Khi đó chúng thần cảm thấy rằng Lê Hạo đã ngấm ngầm lên kế hoạch xâm chiếm lãnh thổ nhưng lại công khai tâu rằng hắn bị tấn công. Nay hắn đã tàn phá đất nước đó và đem vua của họ đi. Nếu hắn không bị trừng phạt, không chỉ Chămpa sẽ đánh mất lòng trung thành với Trung Hoa mà nó còn có thể khiến An Nam trở thành ngoan cố. Chúng ta cần phái người mang lệnh dụ của triều đình đến cho Hạo, đòi hắn trả vua, gia quyến và ấn tín mà họ đã cướp cho Chămpa, để hành động của hắn không gây nên thảm họa quân sự”. Lệnh của triều đình ban rằng: “Không cần phải phái người tới An Nam. Hãy đợi khi sứ thần từ An Nam đến và ban lệnh của triều đình cho hắn”(15). Vài tháng sau đó, khi sứ thần của Lê Thánh Tông đến, hoàng đế khẳng định mô tả của Việt Nam và Chămpa về các sự kiện là rất “mâu thuẫn”, dụ rằng nhà vua phải ứng xử một cách chính trực và “ngày càng tôn trọng các chuẩn mực đạo đức”(16). Tuy nhiên vào năm 1475, sứ thần Trung Hoa tới triều đình Chămpa, khi đến cảng đã bị từ chối không cho vào và phát hiện ra rằng “toàn bộ gia đình cua Chămpa đã bị An Nam đem đi và lãnh thổ Chămpa đã được đổi tên là thừa tuyên Quảng Nam”(17). Trường nhiều năm, Lê Thánh Tông tiếp tục gửi các tấu biểu không chính xác tới hoàng đế; hoàng đế tiếp tục khuyên ông “tự sửa mình” (18), cho tới ngày hoàng đế nhận được văn bản sau đây trong năm 1478. “Thủ lĩnh Chămpa Bo-long-a-ma trước đây giao hảo với đất nước của chúng thần. Vào năm thứ 11 thời Thành Hóa (1475-1476), hắn thu nhận lực lượng hải thuyền của nước Lưu Cầu bị gió đánh dạt tới đó, sai họ xâm chiếm và cướp bóc. Họ đã bị lính sơn phòng của chúng thần đánh bại. Sứ thần họ Lý nay vừa từ Thiên triều trở về và thần kính cẩn nhận chỉ dụ của triều đình, trách mắng thần đã chiếm đất Chămpa và biến nó thành như quận huyện. Thần phải trình bày nghiêm túc thực tế một cách chi tiết để chứng tỏ rằng tại sao chúng thần rõ ràng không thể đã làm điều đó. Vùng đất mà Chămpa được phong không có đất đai màu mỡ. Nhà cửa ở đó có vài gia súc và ít lương thực dự trữ, làng quê thiếu dâu và đay, núi non không có vàng và đá quý, trong khi biển thiếu cá và muối. Họ chỉ có ngà voi, sừng tê, gỗ mun. Tuy nhiên, đất nước của chúng thần sản xuất ra những thứ đó nhiều hơn nhiều so với nhu cầu. Làm sao mà chúng thần có thể coi đó là những vật có giá trị? Nếu chúng thần lấy đất của họ, chúng thần không thể sống ở đó; nếu chúng thần lấy người của họ, chúng thần không thể dùng họ; nếu chúng thần lấy hàng hóa của họ, chúng thần sẽ không thể giàu hơn bởi những thứ đó; nếu chúng thần lấy quyền lực của họ, chúng thần sẽ không thể mạnh hơn. Cũng sẽ rất khó khăn cho chúng thần để canh giữ vùng đất này và chúng thần sẽ nhận được rất ít ích lợi từ đó. Sự mất mát sẽ rất lớn và lợi lộc thì ít, tai họa là rõ ràng và danh tiếng giành được là không có. Đó là những lý do khiến chúng thần không chiếm Chămpa và biến nó thành như quận huyện. Nay triều đình lại dụ thần trả đất cho họ, để dòng dõi cai trị không bị tuyệt diệt. Thần kính cẩn cho rằng sứ thần của triều đình do vội vàng khó có thể tiến hành những yêu cầu chi tiết, và người Chămpa, trốn tránh loạn lạc và căm ghét đất nước của chúng thần, đã nói với sứ thần tin tức này. Lời của họ không thể tin được. Thần khiêm nhường mong rằng sứ thần của triều đình sẽ được đặc biệt gửi tới để sắp đặt lãnh thổ và phục hồi dòng họ bị đứt đoạn, để Chămpa được yên bình cả trên lẫn dưới, biên cương đất nước thần được hưởng sự nghỉ ngơi. Chămpa từ đó sẽ là bình phong của Trung Hoa và sự sắp đặt sẽ ích lợi cho các dân tộc xa xôi. Đó là mong ước lớn của thần và thần kính cẩn gửi sứ thần Nguyễn Đức Trinh tới tâu lên điều này”(19). Tiếp theo vài tháng sau là tin tức từ Zhai-ya-ma-wa-an đề nghị sắc phong là vua của Chămpa. Sứ thần của ông tâu lên hoàng đế rằng “Người An Nam đã trả cho thần vùng đất ở biên giới phía nam của nước họ để thần cai quản. Thần đã tái lập đất nước, nhưng e sợ quyền lực của Hoàng thiên, không muốn nhận vương hiệu cho chính mình, đặc biệt phái sứ thần dâng biểu xin sắc phong”. Hoàng đế nhà Minh đồng ý với đề nghị này, chấp nhận thực tế tình trạng mới của Chămpa. Tuy nhiên vào năm 1481, một lần nữa, chúng ta lại thấy ông phản đối Lê Thánh Tông về sự chiếm đoạt của Việt Nam: “Việc này như thể ngươi không biết hay không thấy điều gì đã xảy ra sau khi cha ông ngươi tham gia vào các cuộc tấn công trả thù chống Chămpa” (20). Quan thanh tra của các tỉnh miền Nam Trung Hoa gợi ý phái quân đội triều đình đến chống Lê Thánh Tông để “trừng phạt tội lỗi”: tuy nhiên, quan thanh tra này bị nghi là hành động vì tham vọng cá nhân và sau đó đã bị trừng phạt (21). Vào năm 1481, sự quở trách nặng hơn từ kinh đô Trung Hoa đến Thăng Long: “Trong những năm trước, ngươi kiến nghị rằng tất cả đất đai của Chămpa bị các thủ lĩnh địa phương của nước này tranh giành chia ra và chiếm cứ. Nay xem xét cáo buộc của Gu-lai, rõ ràng là nước của ngươi đã chiếm đất và đẩy họ đi chỗ khác. […] Sao ngươi có thể muốn che đậy sự xấu xa và tỏ vẻ có đạo đức, che giấu tội lỗi của chính mình, ở trên thất bại trong việc duy trì lòng trung thành của một người phụng sự bề trên, ở dưới thất bại trong việc duy trì mối quan hệ tốt với các nước láng giềng. […] Nếu ngươi tiếp tục giả dối và bất lương, răn rằng Thiên đạo mang lại thịnh vượng cho người tốt và tai họa cho kẻ xấu” (22). Răn đe cuối cùng được ban bằng miệng cho sứ thần năm 1490: nếu cương giới không được tôn trọng, “Triều đình sẽ lập tức nổi giận và binh lính Thiên triều sẽ phá hủy lãnh thổ của người giống như những sự kiện trong thời Vĩnh Lạc (1403 – 1424). Liệu ngươi có thể không hối lỗi” (23). Trong khi biên niên sử ghi lại khởi hành của một sứ thần “vô cùng sợ hãi”, không chắc rằng cảm xúc như vậy đã được cảm thấy tại hoàng thành ở Thăng Long khi sứ thần trở về. Hai thập kỷ đã trôi qua kể từ khi kinh đô Chămpa sụp đổ và gần 3 thập kỷ sẽ qua trước khi cái chết của lê Thánh Tông được ghi trong biên niên sử Trung Hoa năm 1498” (24). Tại một thời điểm trong giai đoạn này, biên niên sử ghi lại tuyên bố quan trọng sau đây của hoàng đế: Xem xét An Nam, ta coi nó cũng giống như ngoại quốc. Mỗi khi nó phạm luật hay kháng lệnh, ta khoan dung tha thứ nó. Công khai, chứng tỏ vẻ trung thành và kính trọng, nhưng ngấm ngầm chúng xảo quyệt và khôn lỏi. Tuy nhiên, hành động của chúng không thể che giấu được. Binh pháp có nói: “Không được giả định rằng kẻ địch sẽ không tới. Dựa vào phòng thủ của mình để bảo vệ chống lại chúng” (25). Sự phòng thủ của Trung Hoa được tăng cường thích đáng dọc biên giới phía nam. Nhưng không có đội quân Trung Hoa nào từng có ý định vượt biên giới vào Việt Nam. Thảo luận Vào cuối thế kỷ XIII, kinh đô Việt Nam bị quân đội từ phía nam cướp phá. Cuối thế kỷ XIV, kinh đô này không bị quân đội từ phía bắc cướp phá. Từ cuối thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XIV, kinh đô Việt Nam đã nhiều lần rơi vào tay quân xâm lược nước ngoài. Mặc dù vậy, nó vẫn là kinh đô của đất nước trong nhiều thế kỷ sau. Trái lại, vào cuối thế kỷ XIV, sự sụp đổ của kinh đô Chămpa đã dẫn đến sự chấm dứt của vương quốc Chămpa. Có thể thấy khá rõ về những sự kiện lịch sử khá nổi tiếng. Nhưng chúng ta học được điều gì của Chế Bồng Nga và Lê Thánh Tông, về lịch sử của Thăng Long? Theo quan điểm của tôi, chúng ta có thể vạch hai đường tìm hiểu từ các câu chuyện trên để định hướng suy nghĩ của chúng ta về Thăng Long. Cả hai đều được dẫn dắt bởi một câu hỏi lịch sử quan trọng nêu ra từ di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu, Ba Đình, Hà Nội. Câu hỏi này có thể được nêu ra theo hai cách. Thứ nhất, tại sao kinh đô của Việt Nam lại duy trì ở đúng một chỗ trong một giai đoạn dài như vậy? Thứ hai, tại sao kinh đô của Việt Nam lại chuyển vào miền Trung ở cuối giai đoạn này (đến Huế vào đầu thế kỷ XIX)? Giúp chúng ta nghĩ về câu hỏi này, các nhân tố tổ chức hành chính, bối cảnh khu vực và sự phát triển kinh tế – xã hội là rất quan trọng. Thăng Long không thể được hiểu chỉ đơn giản bằng việc nghiên cứu riêng Thăng Long. Bối cảnh mà tôi muốn nêu ra để chúng ta xem xét ở đâu là bối cảnh nổi lên từ mối quan hệ lâu dài giữa Chămpa và Việt Nam. Khác biệt chủ yếu giữa Chế Bồng Nga và Lê Thánh Tông là mục đích tấn công của người này vào kinh đô của người kia. Một mặt, chúng ta không có cứ liệu cho thấy rằng Chế Bồng Nga có ý định chiếm cứ Thăng Long: mục tiêu của ông trước tiên là quân sự, thứ đến là cướp bóc, là giả thuyết có khả năng nhất. Nếu ông thực sự có tham vọng chiếm cứ, ông thiếu mô hình chính trị và cấu trúc hành chính cần thiết để đảm bảo sự lâu bền của lãnh thổ chiếm được. Mặt khác, mục tiêu của Lê Thánh Tông là rõ ràng trong thư từ của ông với hoàng đế Trung Hoa. Chúng ta hãy xem xét đoạn văn sau trong biểu chương của ông năm 1475, nhớ đọc nó với nhận thức về phong cách hoàn toàn không trung thực trong trao đổi thư từ của ông với Thiên triều trên danh nghĩa: “Nếu chúng thần lấy đất của họ, chúng thần không thể sống ở đó; nếu chúng thần lấy người của họ, chúng thần không thể dùng họ; nếu chúng thần lấy hàng hóa của họ, chúng thần sẽ không thể giàu hơn bởi những thứ đó; nếu chúng thần lấy quyền lực của họ, chúng thần sẽ không thể mạnh hơn”. Những tuyên bố này không chính xác – lịch sử đã chứng minh điều đó – vừa dường như vua Việt Nam biết rằng chúng không trung thực. Văn bản này quả thật ẩn chứa giải thích rằng vua Việt Nam bị thúc đẩy bởi ham muốn chiếm đoạt những thứ đắt giá mà ông tỏ ra coi thường: ngà voi, sừng tê, gỗ mun trong hệ thống buôn bán mà nền kinh tế liên quốc thời đó dựa vào. Và ông biết rõ răng trong tay nông dân Việt Nam, ngay cả đất đai bạc màu của Chămpa cũng có thể sản xuất ra lúa gạo. Xét như vậy, ta không thể bỏ qua cấu trúc kinh tế – xã hội tương ứng của Chămpa vận hành một hệ thống kinh tế – xã hội theo hướng đông – tây mang tính dịch chuyển cao qua các địa hình khác nhau, dựa rên buôn bán được thực hiện trên một phạm vi trải dài: điều này cũng cung cấp nền tảng kinh tế cho hệ thống chính trị mang tính liên kết của nó. Hệ thống kinh tế – xã hội Việt Nam kém dịch chuyển hơn, dựa trên nông nghiệp trồng lúa, ủng hộ hệ thống chính trị có cấu trúc trung tâm và phân cấp: định hướng địa lý bắc – nam là một chức năng của khả năng tái tạo mô hình kinh tế và hành chính, thực hiện bởi những cuộc di dân vừa là binh lính vừa là nông dân trên một địa hình duy nhất: vùng đất thấp phù hợp với canh tác ruộng nước. Những cấu trúc đối lập này có các hệ quả sau: sự dịch chuyển và đa dạng của mô hình Chămpa đã tạo nên sự giàu có, được đầu tư vào việc phát triển một loạt các trung tâm cố định mang tính biểu tượng về chính trị (các đô thị lớn, tất nhiên và cả Mỹ Sơn, khu thánh địa của triều đình). Tuy nhiên, mô hình này không đòi hỏi sự mở rộng lãnh thổ thống nhất. Sự không dịch chuyển và thống nhất của mô hình Việt Nam tạo ra ít của cải hơn: không có các đô thị mà là xã hội của các l&a
0 Rating 564 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 10, 2012
1 n?m sau Fukushima: Ý ki?n trí th?c VN v? Nhà máy ?i?n H?t nhân ? Ninh Thu?n Ngày mai 11-3-2012, th? gi?i nhìn l?i th?m h?a Fukushima kinh hoàng t?i Nh?t B?n. N?m 2014, Vi?t Nam d? ??nh kh?i công xây d?ng Nhà máy ?i?n H?t nhân ??u tiên t?i Ninh Thu?n. ?? giúp b?n ??c bi?t qua vài ph?n bi?n v? ch??ng trình này, ??ng th?i ?? bà con Ch?m “an tâm”, Inrasara.com xin trích d?n 4 ý ki?n c?a trí th?c hàng ??u Vi?t Nam hi?n nay ???c ??ng t?i trên báo chí trong n??c và th? gi?i, ?? h?u b?n ??c: Bài vi?t c?a nhà v?n Nguyên Ng?c, bài tr? l?i ph?ng v?n c?a Giáo s? Ph?m Duy Hi?n- nguyên Vi?n tr??ng Vi?n nguyên t? ?à L?t, ý ki?n c?a Giáo s? Nguy?n Kh?c Nh?n – Nguyên C? v?n chi?n l??c c?a T?p ?oàn ?i?n t? Pháp Electricité de France, ý ki?n c?a  GS Nguy?n Minh Thuy?t – C?u ??i bi?u Qu?c H?i. Chúng ta là ng??i ngo?i ??o (ít hi?u bi?t v? h?t nhân) nh?ng là ng??i trong cu?c (c? trú n?i s?p có Nhà Máy ?i?n H?t nhân) nên ch?a v?i ý ki?n “ph?n h?i” v? ch??ng trình này. Inrasara   1. “Bây gi? không có gì là mu?n. Mu?n d?ng thì d?ng ngay, ch? có cái gì ?âu. Bao gi? ?ã xây r?i, lúc ?ó anh tháo g? m?t nhà máy ?ã ch?y, anh s? t?n kém hàng ch?c t? (?ô-la), anh t?n ba, b?n, n?m ch?c n?m m?i tháo g? xong. “Hi?n ch?a làm gì h?t, n?m 2014 m?i b?t ??u xây, m?i ch? th?a thu?n trên nguyên t?c thôi, ch? ?ã ký k?t mua bán xong gì ?âu mà không cho rút lui. Bây gi? v?n còn thì gi? ?? rút lui và tôi xin cam ?oan là Chính ph? th? nào c?ng rút lui. Không th? nào ?i ti?p ???c, b?i vì ?i ti?p thì nó s? là Fukushima ??y.” Gs Nguy?n Kh?c Nh?n, BBC Ti?ng Vi?t, 2-3-2012 2. “V? d? án xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân ? Ninh Thu?n, khi bàn th?o ? Qu?c h?i, tôi cho r?ng không ?áng ph?i phiêu l?u v? s? an toàn và v? c? an toàn kinh t? ?? m? ra hai nhà máy mà ch? ?óng góp có 4% t?ng n?ng l??ng qu?c gia. “Sau khi tôi ?ã có ý ki?n nh? v?y, tôi th?y có r?t nhi?u chuyên gia ?ã phân tích r?t sâu v? s? t?n kém và s? không an toàn c?a ?i?n h?t nhân. Và hi?n nay, xu h??ng ? trên th? gi?i, ng??i ta c?ng b? d?n ?i?n h?t nhân. “Khá nhi?u qu?c gia ?ã ?ình ch?, ti?n t?i g? b? các nhà máy ?i?n h?t nhân. Không có lý do gì mà chúng ta c? c? ki?t làm m?t vi?c ?i ng??c l?i xu h??ng chung c?a khoa h?c k? thu?t th? gi?i nh? v?y, mà nh?ng kh? n?ng x?y ra m?t an toàn c?ng r?t d?.” “Chúng ta ?ã th?y Nh?t là m?t ??t n??c tiên ti?n nh? th? nào, nh?ng ch? m?t tr?n sóng th?n c?a h? ?ã làm cho nhà máy h?t nhân ? Fukushima tr? nên m?t an toàn và làm cho Nh?t thay ??i chính sách v? ?i?n h?t nhân. “Chúng tôi ngh? r?ng c?n thay ??i t? duy. N?u nh?ng ?i?u ?ã ??a ra trong ngh? quy?t c?a Qu?c h?i, c?a ??ng, bây gi? so sánh v?i th?c t? có nh?ng ?i?u không phù h?p n?a, thì mình có th? thay ??i” Gs Nguy?n Minh Thuy?t, BBC Ti?ng Vi?t, 4-3-2012 3. Gs Ph?m Duy Hi?n: Xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân mà ch?a n?m ???c công ngh? thì nên hoãn Thu Hà th?c hi?n – Báo V?n ngh? tr?, s? 23, 6-6-2011 Ch? còn 3 n?m n?a (n?m 2014) nhà máy ?i?n h?t nhân (?HN) Ninh Thu?n 1 s? chính th?c ???c kh?i công. Theo l? trình ??n n?m 2020 s? chính th?c phát ?i?n th??ng m?i. Theo khuy?n cáo c?a các nhà khoa h?c c? 1MW ?i?n công su?t t??ng ???ng v?i m?t nhân l?c. Nh? v?y, ??t gi? thi?t n?u Vi?t Nam xây lò 1.000MW, s? ph?i c?n t?i 1.000 nhân l?c cho t?t c? các b? ph?n. Trong s? ?ó c?n có t? 200 – 300 chuyên gia. ?ó là xét trên m?t lý thuy?t, còn th?c t? d? lu?n xã h?i ?ang ??t câu h?i, v?y Vi?t Nam ?ang có nh?ng l?i th? gì ?? có th? xây d?ng và v?n hành thành công nhà máy ?i?n h?t nhân? Nh?t là trong giai ?o?n hi?n nay ??i tác th? hai c?a Vi?t Nam – Nh?t B?n – ?ang d?n hé l? nh?ng thông tin ch?a t?ng công b? v? s? lúng túng c?a Chính ph?, quan ch?c Nh?t B?n tr??c s? c? nhà máy ?i?n h?t nhân Fukushima s? 1…; cùng th?i ?i?m này, ??c, Th?y S? là nh?ng c??ng qu?c v? ?i?n h?t nhân ?ã chính th?c tuyên b? ch?m d?t ?i?n h?t nhân… T?t c? nh?ng s? ki?n này ?ã tác ??ng ??n ng??i dân Vi?t Nam. M?t l?n n?a câu h?i “nên hay không nên xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân” l?i tr? nên nóng h?n bao gi? h?t. V?n ngh? tr? ?ã có cu?c trao ??i v?i Giáo s? Ph?m Duy Hiên – nguyên Vi?n tr??ng Vi?n nguyên t? ?à L?t – xung quanh v?n ?? này. * Vì sao VN v?n kiên trì xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân, vi?c xây d?ng này có l?i gì th?a ông? Ph?m Duy Hi?n: Nói v? ?i?n h?t nhân (?HN), lâu nay trong công lu?n trên th? gi?i luôn có hai phe, ?ng h? và ch?ng ??i. Các chính ph? c?ng v?y. Ngay trong gi?i khoa h?c c?ng th?, có nhi?u nhà khoa h?c h?t nhân l?i c??ng quy?t ph?n ??i ?HN. V?n ?? th?t không ??n gi?n ?? ch? nói ng?n g?n nh? ch? v?a nêu. Nh?ng ng??i ph?n ??i và ?ng h? ?HN ??u có nh?ng lý do xác ?áng. Hai lu?ng ý ki?n trái chi?u này th? hi?n ?HN có nh?ng ?u ?i?m và nh??c ?i?m nh?t ??nh. M?t s? n??c nh? Pháp, Nh?t ?ã t?ng xem ?HN ?óng vai trò tr? c?t trong ch??ng trình phát tri?n n?ng l??ng c?a mình. Song nhi?u n??c v?n minh khác l?i không ch?p nh?n. ?âu có ph?i vì dân trí c?a h? th?p. Tr??c Fukushima ?ã nh? v?y, sau Fukushima phía ch?ng ??i càng có ch?ng c? ?? m?nh lên và tác ??ng ??n nhi?u qu?c gia. ??c là m?t ví d?, tr??c ?ây Chính ph? ??c ?ã nói không v?i ?HN, nh?ng sau ?ó h? nh?n th?y n?u không ti?p t?c duy trì các nhà máy ?i?n h?t nhân thì s? không ?? ?i?n cho n?n kinh t? nên h? ?ã kéo dài th?i h?n cho m?t s? nhà máy c?. Tuy nhiên v?a qua chính ph? ??c l?i tuyên b? ch?m d?t h?n ?HN tr??c 2020. Sau ??c là Th?y S?, và ngay c? Nh?t B?n c?ng ?ã quy?t ??nh s? t?m d?ng phát tri?n ?HN. Nh?ng M?, Nga và Pháp thì v?n kiên trì theo ?u?i ?HN, và ?? tr?n an dân chúng h? h?a s? nâng chu?n m?c an toàn lên cao h?n… Các n??c ?ang phát tri?n nh? Trung Qu?c và ?n ?? c?ng s? theo ?u?i ?HN. Nói tóm l?i, nên làm ?HN hay không tùy thu?c vào hoàn c?nh c?a m?i qu?c gia. Không có m?t công th?c nào chung cho toàn th? gi?i ???c xem nh? chân lý. Nh?t là t? duy theo hai thái c?c: ho?c lo?i b? hoàn toàn, ho?c xem ?HN là con ???ng ??c nh?t vô nh?. Ông có th? nói rõ h?n? Và c? th? Vi?t Nam nên theo công th?c nào? Ph?m Duy Hi?n: N??c nào làm ?HN c?ng ??u xu?t phát t? m?t s? ?u th? nh?t ??nh mà h? s?n có. M?, Nga, Pháp, ??c là quê h??ng c?a khoa h?c h?t nhân, công ngh? ?HN c?ng ra ??i t? các n??c này. ?ó là ch?a k? h? có nhi?u l?i th? khác c?a nh?ng n?n công ngh?p tiên ti?n. Trung Qu?c, ?n ?? ?i sau, nh?ng c?ng ?ã có v? khí h?t nhân, m?t lo?i ??nh cao trong công ngh? h?t nhân. H? có ??i ng? v?a ?ông, v?a gi?i, h? có nh?ng ??nh cao ?? có th? gi?i quy?t bài toán ? t?m qu?c gia. Và h? ?ã ch?n con ???ng ?HN b?i bi?t ch?c s? s?m làm ch? ???c công ngh? này. Và h? ?ã thành công. Vi?t Nam ta ch?ng có b?t c? m?t l?i th? nào v? ?HN c?. Tài nguyên uranium h?u nh? không có. Tri th?c khoa h?c công ngh? còn ? m?c a, b, c. So v?i nh?ng n??c ?ang v?n hành nhà máy ?HN thì trình ?? ??i ng? c?a chúng ta còn quá th?p kém. Ti?n b?c ph?i ?i vay m??n, ?âu có sung túc nh? m?y n??c A r?p thuê ng??i n??c ngoài làm t?t. C? s? h? t?ng công nghi?p quá th?p, ch? có s?c lao ??ng gi?n ??n là không ph?i nh?p t? n??c ngoài. Trình ?? qu?n lý và k? lu?t công nghi?p hi?n ??i còn lâu m?i x?ng t?m v?i ?HN, tai n?n lao ??ng x?y ra liên t?c, m?i n?i. L?i thêm v?n n?n tham nh?ng và l?i ích riêng, ?HN ?âu ph?i là ?c ??o ?? tránh ???c v?n n?n này. Nh?ng ngày qua nhi?u thông tin t? n??c Nh?t cho th?y th?m h?a tr?m tr?ng th? nào khi ?HN b? nhóm l?i ích thao túng h? th?ng chính quy?n. Mà ?ó là ? m?t n??c v?n minh nh? Nh?t B?n. Nhi?u nhà khoa h?c h?t nhân trên th? gi?i chông ??i ?HN c?ng vì lý do này.  Hóa ra chúng ta không có b?t c? m?t l?i th? nào? Ph?m Duy Hi?n: Cái chúng ta hi?n có ch? là ý mu?n làm ?HN ? m?t s? ng??i. Mà m?t khi ý mu?n tr? thành duy ý chí, nh?t là trong ?i?u hành ch? ??o, thì ta không nh?n ra nh?ng khó kh?n thách th?c, không bi?t mình là ai. Nguy hi?m! ?HN có an toàn hay không chính là ? ch? này, ch? ?âu ph?i là c?ng ngh? th? h? hai, ba hay b?n. Ch? quan, coi th??ng tri th?c KHCN mà ch? luôn hô hào an toàn tuy?t ??i, 100%, s? làm cho toàn b? h? th?ng tê li?t, ng? quên gi?a ban ngày, ?t s? d?n ??n nh?ng k?ch b?n t?i t?. Sau Fukushima, m?t s? ng??i mu?n tr?n an công chúng b?ng cách khoác lác r?ng chúng ta s? có công ngh? tiên ti?n h?n, và ??ng ??t hay sóng th?n ? n??c ta s? không d? d?i nh? ? Nh?t. Trên th?c t?, ch?a có công ngh? ?HN nào ???c xem là an toàn tuy?t ??i c?. Mà cái khái ni?m an toàn tuy?t ??i là vô ngh?a, ch? nh?ng ai th?t h?c m?i ngh? v?y. Cái lý thuy?t xác su?t x?y ra s? c? ?HN “m?t l?n trong hàng tri?u n?m” h?u nh? ?ã phá s?n sau ba s? c? l?n liên ti?p x?y ra trong vài th?p k?. Th? mà gi? ?ây các t?p ?oàn ?HN v?n ti?p t?c qu?ng cáo cho cái xác su?t ?y. H? còn thi nhau nâng th?i gian ch?u ??ng m?t ?i?n c?a nhà máy do sóng th?n. ?HN s? ??t lên do ph?i ch?y theo nh?ng công ngh? “tiên ti?n” ?y. Nh?ng ?âu có ph?i c? ??i ??n ??ng ??t hay sóng th?n m?i x?y ra th?m h?a. Tai n?n ?HN có th? x?y ra theo nhi?u k?ch b?n khác. Chuy?n này thì ng??i ta c? tình ph?t l?. Trên h?t, ?HN có an toàn hay không, nh?t là ? nh?ng n??c nh? Vi?t Nam, là do con ng??i quy?t ??nh (bao g?m c? h? th?ng qu?n lý), ch? không ph?i do máy móc. Tôi ?ã t?ng ??a ra thí d?. Tr??c m?t hành trình dài b?n ???c quy?n ch?n m?t trong hai chi?c xe. Chi?c th? nh?t ??i m?i, r?t hi?n ??i v?i tài x? có t?m b?ng d?m. B?n s? không d?i gì mà ng?i vào ?ó. B?n s? ch?n chi?c th? hai, tuy ??i c? nh?ng ng?i tr??c vô l?ng là m?t tài x? chuyên nghi?p. Làm ?HN mà không ?? tri th?c ?? t?ng b??c làm ch? công ngh?, l?i thích xây ào ?t, 16 lò trong 10 n?m, thì ch? còn cách l? thu?c hoàn toàn vào ng??i n??c ngoài. Trong hoàn c?nh ?y, ?HN r?t có th? tr? thành m?t th? con tin chính tr? khi ai ?ó mu?n gây s?c ép lên chúng ta. V?y GS có ki?n ngh? c? th? gì? Ph?m Duy Hi?n: Nên t?m lùi th?i h?n 2020 l?i ít nh?t là m??i n?m. Trong th?i gian này t?p trung xây d?ng c? s? h? t?ng v? nhân l?c. Ch?ng nào ch?a có ít nh?t 100 chuyên gia th? thi?t, và m?t h? th?ng ?i?u hành t?t trong ngành h?t nhân ?? h? phát huy n?ng l?c c?a mình, thì ch?a ngh? ??n chuy?n b?t ??u. Ch?a k? các ?i?u ki?n khác ??u ph?i ??t ??n kh?i l??ng t?i h?n v? tài chính, h? t?ng công nghi?p ?? s?c tiêu hóa ???c công ngh? ?HN, và nh?t là ni?m tin c?a công chúng, y?u t? s? m?t b?o ??m s? thành công.  Ngh?a là không t? b? hoàn toàn nh? n??c ??c? Ph?m Duy Hi?n: Không, ta không nên ?u tiên ?HN b?ng cách ??nh k? ho?ch 2020 v?n hành t? máy ??u tiên, sau ?ó xây m?t lèo 16 lò ph?n ?ng trong 10 n?m. Nh?ng ?HN v?n nên xem là m?t thành ph?n trong c? c?u n?ng l??ng ?a d?ng sau 2030. Tôi nói th? không ph?i v?i t? cách m?t trong hai ng??i ???c nhà n??c giao nhi?m v? xây d?ng ngành này cách ?ây 35 n?m, cho nên tôi ph?i theo ?u?i nó. Nh?ng tôi tin r?ng, r?i ra, ?HN s? v??t qua nh?ng khó kh?n hi?n nay ?? ???c công chúng ?ón nh?n h?n, ngay c? ? Vi?t Nam. V?y gi?i quy?t v?n ?? thi?u ?i?n hi?n nay b?ng cách nào? Nhà n??c c?n t? ch?c nghiên c?u bài toán n?ng l??ng m?t cách khoa h?c, khách quan, ??ng duy ý chí, ??ng ?? nh?ng nhúm l?i ?ch thao t?ng. Ch?c ch?n chúng ta s? tìm ra gi?i ph?p. V? ph?n mình, tôi ?ã phát bi?u r?t nhi?u l?n r?i. Chúng ta s? d?ng ?i?n n?ng r?t không hi?u qu?. Hàng n?m ?i?n t?ng v?i t?c ?? g?p ?ôi t?c ?? t?ng tr??ng GDP là chuy?n không th? ch?p nh?n ???c. ? các n??c khác, t?c ?? t?ng ?i?n ch? b?ng ho?c th?p h?n t?c ?? GDP. Bao nhiêu công trình tiêu t?n ?i?n n?ng không hi?u qu?, ho?c do công ngh? l?c h?u, ho?c không có lu?n ch?ng thuy?t ph?c. Ti?n c?a, ngu?n l?c ?? vào xây nhà máy ?i?n, gi?ng nh? ?? x?ng vào m?t bình th?ng ?áy. Hãy ?i tìm l? th?ng, b?t chúng l?i, và ?ây chính là gi?i pháp c? b?n cho bài toán thi?u ?i?n. T?t nhiên còn có nh?ng gi?i pháp khác. - C?m ?n ông ?ã tr? l?i ph?ng v?n. *Tuy nhiên sau hàng lo?t s? c? liên ti?p x?y ra t?i nhà máy ?i?n h?t nhân Fukushima s? 1 c?a Nh?t B?n, Vi?t Nam v?n s? ti?n hành xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân Ninh Thu?n nh? d? ki?n… Phó C?c tr??ng c?c N?ng l??ng nguyên t?, ông Hoàng Anh Tu?n, cho r?ng, s? c? h?t nhân ? Nh?t B?n m?t l?n n?a cho chúng ta cân nh?c k? h?n các ?i?u ki?n hi?n có ?? xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân. Nh?ng v?n ?? ch?n ??a ?i?m xây d?ng, c?n ph?i xem xét l?i. Bên c?nh ?ó, các thi?t b? ngo?i vi nh? thi?t b? d?n ?i?n c?ng c?n ???c tính toán k? h?n. B? tr??ng B? Công th??ng V? Huy Hoàng c?ng cho r?ng s? cho làm lu?n ch?ng v? vi?c xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân,, n?u th?y không an toàn thì thôi… 4. Nguyên Ng?c: ?I?N H?T NHÂN: NÊN HAY KHÔNG NÊN VÀ BAO GI?? Tôi có quy?n bi?t s? th?t… Báo Ng??i Lao ??ng, 25-6-2004 Sau khi Báo NL? Cu?i tu?n (ngày 19-6) ??ng chuyên ?? “?i?n h?t nhân: Nên hay không nên và bao gi??”, chúng tôi có nh?n ???c ý ki?n c?a các nhà khoa h?c, c?a b?n ??c. Trong s? báo này, chúng tôi xin trích ??ng ý ki?n c?a nhà v?n Nguyên Ng?c. Các t?a l?n và nh? do tòa so?n ??t Kho?ng ??u n?m nay tôi có ???c ??c bài “?i?n h?t nhân, vì sao ph?i v?i?” c?a Ph?m Duy Hi?n ??ng trên Báo Tu?i Tr? Ch? Nh?t (ngày 11-1- 2004). Theo ch? tôi ???c bi?t, tác gi? Ph?m Duy Hi?n là m?t nhà v?t lý h?t nhân hàng ??u ? n??c ta. Và ?ây không ph?i là l?n ??u tiên ông lên ti?ng v? v?n ?? quan tr?ng và nh?y c?m này v?n ???c nhi?u ng??i không ch? ? trong n??c quan tâm. Tr??c ?ây m?y n?m, ông ?ã vi?t m?t bài r?t ?n t??ng nói rõ trong tình hình n??c ta hi?n nay (“hi?n nay” ? ?ây có th? là m??i hay vài m??i n?m n?a) ch?a nên v?i “dan díu” v?i chuy?n này, s? l?i b?t c?p h?i. ?i?n h?t nhân: L?i thoát duy nh?t?.- Ít lâu sau bài vi?t c?a Ph?m Duy Hi?n, Th?i báo Kinh t? Sài Gòn trong hai k? liên ti?p ?ã ??ng m?t bài vi?t công phu c?a ti?n s? Nguy?n Kh?c Nh?n, nguyên c? v?n Nha Kinh t?, d? báo, chi?n l??c EDF Paris, giáo s? Tr??ng ??i h?c Bách khoa Grenoble (Pháp), phân tích c?n k? t?i sao ch?a nên làm ?i?n h?t nhân ? Vi?t Nam. Riêng trong bài vi?t ??ng trên Báo Tu?i Tr? Ch? Nh?t nói trên, tác gi? Ph?m Duy Hi?n không ch? d?ng l?i ? m?t v?n ?? c? th? v? ?i?n h?t nhân, có nên làm ?i?n h?t nhân ? n??c ta hi?n nay hay ch?a. Qua câu chuy?n v? m?t nhà máy ?i?n h?t nhân nghe nói d? ki?n có th? ???c xây d?ng ?âu ?ó ? Ninh Thu?n vào n?m 2017, ông ?? c?p ??n m?t v?n ?? khác, chung h?n và có l? còn quan tr?ng h?n: chuy?n nh?ng t? ch?c n??c ngoài nào ?ó d?n ý ki?n c?a “các chuyên gia ??y uy tín” khuyên nh?, thuy?t ph?c công lu?n r?ng nên nh?t nh?t làm theo h?, ??u t? vào nh?ng công trình có th? t?n hàng nhi?u t? ?ô la, b?t ch?p h?u qu? c? th? có th? d?n ??n ?âu. Các v? “chuyên gia ??y uy tín” l?n này là m?t cái g?i là Di?n ?àn nguyên t? Nh?t B?n. G?n ?ây h? sang t? ch?c ? ta m?t cu?c trình di?n ???c tuyên truy?n khá ?n ào, trong ?ó h? ch? y?u nêu cao hai ?i?u. Th? nh?t, h? ?e chúng ta r?ng Vi?t Nam s?p thi?u n?ng l??ng ??n n?i r?i, t? m?t n??c xu?t kh?u n?ng l??ng các anh ?ang có nguy c? tr? thành n??c ph?i nh?p kh?u n?ng l??ng. L?i thoát duy nh?t: c?n nhanh chóng xây d?ng nhà máy ?i?n h?t nhân. Th? hai: ?i?n h?t nhân r?t an toàn, kinh nghi?m c?a chính Nh?t B?n ??y, ch?ng có gì ph?i lo. Trong khi ?ó s? th?t là nh? th? nào? Ph?m Duy Hi?n vi?t: “Ai dám ?oan ch?c v?i dân chúng r?ng sau m??i n?m n?a Vi?t Nam s? ph?i nh?p kh?u n?ng l??ng?… Nhi?u ng??i tin r?ng ti?m n?ng v? than, d?u m?, khí ??t c?a ta c?ng v?i các gi?i pháp ti?t ki?m n?ng l??ng v?n còn ?? ?? ch?a c?n ??n ?i?n h?t nhân ít nh?t là tr??c n?m 2030”. V? ch?ng, nh? tác gi? Ph?m Duy Hi?n nói rõ trong bài vi?t c?a mình: C? gi? nh? chúng ta s?p ph?i nh?p kh?u n?ng l??ng ?i n?a, thì ?ã sao nào? Ch?ng ph?i chính Nh?t B?n là n??c ch? y?u nh?p kh?u n?ng l??ng mà v?n là m?t n??c công nghi?p phát tri?n hàng ??u th? gi?i ?ó sao? Th? hai: ?i?n h?t nhân ? Nh?t B?n, nh? b?t c? ng??i nào ít nhi?u có theo dõi báo chí ??u có th? bi?t rõ, ch?ng h? an toàn nh? v? khách ??n trình di?n n? c? tình khoe khoang. V?i m?t trình ?? và m?t k? lu?t công nghi?p n?i ti?ng th? gi?i, h? c?ng ?ã t?ng ph?i ch?u hàng ch?c v? tai n?n h?t nhân, có v? ?ã ??a ??n ch? ph?i ?óng c?a toàn b? 17 lò ph?n ?ng c?a TEPCO, t?p ?oàn s?n xu?t ?i?n l?n nh?t n??c Nh?t… Quan ?i?m: ?i?n h?t nhân là ngu?n n?ng l??ng quan tr?ng. V?n ?? là an toàn h?t nhân. Ng??i dân có quy?n yêu c?u m?t quy trình công ngh? an toàn g?n nh? tuy?t ??i. Ngh? chào hàng mà l?i!.- Vi?c cái di?n ?àn kia h?ng hái ??n t? ch?c cu?c trình di?n n? và “chân thành” cho ta nh?ng l?i khuyên nh? tha thi?t ??n th?, nói cho cùng c?ng là chuy?n th??ng tình thôi. Ngh? ?i chào hàng mà l?i! V?n ?? là ? ch? có ng??i chào hàng thì c?ng có ng??i d?t hàng, ch? sao, trong ngh? buôn bán làm sao có anh này mà không có anh kia! Hãy xem các c? quan và t? ch?c có trách nhi?m c?a chúng ta ti?p nh?n nh?ng l?i chào m?i ???ng m?t ?ó nh? th? nào? H? c? tình ?? cho các ph??ng ti?n truy?n thông ra s?c khu?ch tr??ng nh?ng rêu rao c?a “các chuyên gia n??c ngoài”, làm cho d? lu?n yên trí r?ng chuy?n làm ?i?n h?t nhân nh? th? coi nh? là ?ã xong, ch? còn vi?c tính thêm ?ôi chút c? th? bao gi? làm, làm c? th? ? ?âu. Còn h? thì im l?ng m?t th?i gian khá dài, c? tình làm nh? không h? bi?t ??n nh?ng ti?ng nói c?a ngay nh?ng chuyên gia trong chính ngành này. H? ch?i chi?n thu?t im l?ng… R?i g?n ?ây, có l? cho r?ng hi?u qu? nh?ng v? tuyên truy?n kia ?ã khá ng?m, b?ng nhiên l?i th?y h? ra quân r?m r?, nào vi?t báo, nào tuyên b? n?i này n?i n?, nào làm “bàn tròn khoa h?c” trên vô tuy?n truy?n hình truy?n ?i kh?p n??c và l?i t? ch?c tri?n lãm, l?n này r?m r? h?n, ngay gi?a th? ?ô, có thêm b?n ??i tác m?i ??n chào hàng ngoài v? ?ã ??n rao hàng l?n tr??c… H? ?ã t? b? chi?n thu?t im l?ng ch?ng? Không ?âu. V?n là chi?n thu?t im l?ng, nh?ng là theo ki?u khác: nói, th?m chí nói r?t nhi?u, nh?ng c?ng nh? không nói. Nói vào ch? tr?ng không, hoàn toàn l? ?i, không tr? l?i ?úng vào nh?ng v?n ?? nh?y c?m nh?t mà nh?ng ng??i ph?n bác h? ?ã nêu ra, gi? t?ng ?i nh? hoàn toàn không h? nghe th?y, không h? có nh?ng ph?n bác c?a các chuyên gia ?ó. H? tranh th? công chúng không bi?t chuyên môn b?ng nh?ng l?i to tát và b?ng nh?ng thu?t ng? r?t chi là bác h?c, thuy?t gi?ng hùng h?n và ??y t? tin và coi nh? ch? còn m?t ít b?n kho?n lo l?ng c?a nh?ng ng??i không bi?t gì v? khoa h?c hi?n ??i c?a h? mà h? d?p m?t l?n này n?a là xong. Có v? nh? h? ?ang quy?t d?n d? lu?n l?n cu?i cùng ?? b?t ??u ra tay ??n n?i. Tr? l?i c?a ti?n s? Nguy?n Kh?c Nh?n.- R?t may s? vi?c ch?a ch?u d?ng ? ?ó. Ti?p theo bài báo quan tr?ng ?ã ??ng tr??c ?ó, trên Th?i báo Kinh t? Sài Gòn ngày 27-5-2004 ti?n s? Nguy?n Kh?c Nh?n l?i ?ã có bài ng?n g?n nh?ng rõ ràng nêu l?i nh?ng ý ki?n chính c?a mình v? v?n ?? c?c k? quan tr?ng này và tr? l?i chính xác vào t?ng ?i?m m?t nh?ng lý l? c?a ông ???ng kim vi?n tr??ng Vi?n N?ng l??ng nguyên t? (VNLNT) Vi?t Nam: - Cho ??n n?m 2030, n??c ta không có v?n ?? v? cân b?ng n?ng l??ng nh? VNLNT nói. Trong khi tính toán nhu c?u n?ng l??ng c?a n??c ta m?y ch?c n?m ??n, VNLNT ?ã quá l?c quan v? t?c ?? t?ng tr??ng c?a n?n kinh t? Vi?t Nam t? ?ó d?n ??n nhu c?u t?ng tr??ng n?ng l??ng (14-15%/n?m), trong khi l?i quá bi quan v? các ngu?n n?ng l??ng thiên nhiên trong n??c. Trong t??ng lai – và ?i?u này c?ng ?ã th? hi?n rõ trong m?y n?m l?i ?ây r?i – t?c ?? t?ng tr??ng ch? có th? ??t trung bình 7%/n?m, t?c nhu c?u n?ng l??ng c?ng ph?i ???c tính theo ?ó. Ti?m n?ng n?ng l??ng c? ?i?n n?i ??a c?a ta do v?y có th? ?áp ?ng nhu c?u ??n n?m 2030. Còn n?u c? cho ?úng nh? d? tính c?a VNLNT, ??n n?m 2020 n??c ta s? thi?u t? 36-65 t? KWh và n?m 2030 t? 119-188 t? KWh và m?i n?m ta xây 2 lò ?i?n h?t nhân (?HN) cho trung bình 12 t? KWh, thì ?? bù l?i ch? còn thi?u ch?ng l? ta ph?i xây t? 6 ??n 11 lò cho ??n n?m 2020 và ??n n?m 2030 ph?i có 20 ??n 31 lò. Xây b?ng ph??ng ti?n nào? V?y rõ ràng ?HN không gi?i quy?t ???c v?n ?? cân b?ng n?ng l??ng cho ??t n??c. Và chúng ta s? ph?i ph? thu?c n??c ngoài lâu dài v? thi?t b?, nhiên li?u, k? thu?t, l?u gi? ch?t phóng x?. .., t?c c?ng không có an ninh n?ng l??ng. - Không ph?i ch? có con ???ng phát tri?n ?HN m?i t?ng c??ng m?nh ???c ti?m l?c khoa h?c, công ngh? qu?c gia- ông vi?n tr??ng nói, nó là m?t l?nh v?c khá riêng bi?t vì tính an toàn r?t cao (nên ?òi h?i r?t nhi?u kinh phí). Nó c?ng ch? là m?t ph?n c?a ngành n?ng l??ng. - Th?t quá l?c quan khi tuyên b? “v?i công ngh? ?HN hi?n nay s? không có tai n?n ki?u Tchernobyl”. Không có công ty nào trên th? gi?i lúc bán lò h?t nhân cho ta dám ký h?p ??ng b?o ??m s? không có tai bi?n l?n x?y ra x?p ? c?p 7, cao nh?t c?a thang ??, nh? ki?u Tchernobyl. V? ch?ng n?u qu? th?t “các lò ph?n ?ng th??ng m?i hi?n nay ?ã ??t ??n ?? an toàn r?t cao”, “cho ??n nay chúng ta m?i nghe nói ??n m?t vài s? c?”(!), thì t?i sao nhi?u n??c l?i ph?i tính b? ra hàng nhi?u t? ?ô la ?? trang b? lo?i lò m?i d? tính ??n vài ch?c n?m n?a m?i có? L?i n?a: Su?t n?a th? k? khoa h?c ?ã không tìm ra gi?i pháp ?? chôn c?t an toàn ch?t th?i phóng x? dài ngày, làm sao ông vi?n tr??ng VNLNT l?i dám ?oan ch?c ??n n?m 2050, t?c là theo ông ??n lúc ta ph?i chôn ch?t th?i, ch?c ch?n s? không còn v?n ?? gì trong chuy?n x? lý này n?a? L?i b?o r?ng “ch?t th?i s? không còn phóng x?” thì ?úng là coi th??ng hi?n t??ng v?t lý… - Ông vi?n tr??ng VNLNT c?ng ??a ra nhi?u thông tin không chính xác v? xu h??ng phát tri?n ?HN hi?n nay trên th? gi?i, xu h??ng ?ó là ?ang gi?m ch? không ph?i ?ang t?ng nh? ông nói. Theo C? quan N?ng l??ng Qu?c t?, t?ng công su?t ?HN th? gi?i hi?n nay là 358.000 MW s? h? xu?ng còn 320.000 MW vào n?m 2030. Nhi?u n??c châu Âu nh? ??c, Th?y ?i?n, B?, ý, Anh, Tây Ban Nha, Th?y S?… ?ã tuyên b? rút ho?c không h??ng ?ng phát tri?n ?HN n?a. Trong bài vi?t c?a mình, ti?n s? Nguy?n Kh?c Nh?n c?ng v?ch rõ m?t ?i?u ?áng chú ý: “Nhi?u nhóm th? l?c (lobby) qu?c t? ?ã ??u t? quá nhi?u t? ?ô-la M? vào l?nh v?c h?t nhân nên l?i d?ng vi?c ch?ng hi?u ?ng nhà kính ?? c?u vãn tình tr?ng kh?ng ho?ng kéo dài t? 25 n?m nay, b?ng cách nêu kh?u hi?u ?HN góp ph?n gi?i quy?t môi tr??ng”. Nói nôm na ra là h? c? ý th?i ph?ng tác h?i c?a hi?u ?ng nhà kính, r?i rêu rao ?HN “s?ch” h?n các lo?i n?ng l??ng khác ?? rao bán nh?ng cái c?a n? c?a h? mà h? trót tiêu t?n quá nhi?u ti?n c?a ??u t? nay ?ã b? kh?ng ho?ng. Tôi c?ng ???c ??c trong m?t bài vi?t c?a ông ???ng kim vi?n tr??ng VNLNT nh?n ??nh sau ?ây: “Nh?ng ý ki?n cho r?ng chúng ta không th? qu?n lý v?n hành nhà máy ?i?n h?t nhân trong t??ng lai là không có c? s? khoa h?c… Lò ph?n ?ng h?t nhân ?à L?t – m?t mô hình thu nh? c?a nhà máy ?i?n h?t nhân do M? b? l?i sau chi?n tranh – ?ã ???c chúng ta khôi ph?c, c?i ti?n, b?o d??ng, v?n hành an toàn và khai thác có hi?u qu? trong 20 n?m qua, là m?t b?ng ch?ng sinh ??ng…”. Tôi có ?em ?i?u này h?i l?i ông Ph?m Duy Hi?n, là ng??i ?ã khôi ph?c chính cái lò ph?n ?ng h?t nhân ?à L?t ?y và làm giám ??c ? ??y su?t hàng ch?c n?m. Ông cho bi?t: ??y là hai vi?c hoàn toàn khác nhau. Lò ?à L?t là m?t lò nghiên c?u lo?i nh?, ch? có công su?t 500 KW nhi?t n?ng, còn m?t nhà máy ?i?n h?t nhân thì công su?t ??n 5.000.000 KW nhi?t n?ng, khác nhau m?t tr?i m?t v?c! Ti?ng nói c?a m?t công dân bình th??ng.- Trong chuy?n ?HN, c?ng nh? r?t nhi?u ng??i khác trong n??c bây gi?, tôi là ng??i ngo?i ??o, ch?ng có chút hi?u bi?t chuyên môn gì. Nh?ng là m?t công dân bình th??ng, khi ???c nghe nh?ng nhà v?t lý có uy tín và có chuyên môn sâu v? l?nh v?c này có ý ki?n, thì tôi ngh? tôi có quy?n ???c bi?t s? th?t ? ?ây th?c ra là th? nào, tôi có quy?n ?òi h?i nh?ng ng??i có trách nhi?m tr?c ti?p trong vi?c này tr? l?i c? th? th?ng vào nh?ng ý ki?n ?ó, không ???c gi? t?ng l? ?i. ?ó là quy?n dân ch? s? ??ng.   Nguon Inrasara.com
0 Rating 553 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On January 24, 2016
  Lịch sử nền văn minh Champa theo khoa khảo cổ học   Nhà nghiên cứu khoa học người Pháp Étienne François Aymonier vào năm 1885 đã khai quật dưới lòng đất tại làng Võ cạnh Nha Trang khám phá ra một văn bia (khắc chữ trên phiến đá granit [hoa cương]) bằng Phạm ngữ (Sanskrit) có niên đại vào cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên  Những nhà nghiên cứu/khảo cổ Pháp tại Đông Dương: Henri Parmentier, Charles Carpeaux à Đồng Dương en 1902 và Étienne Aymonier. Nguồn: http://www.champapura.fr/ Trên văn bia ấy có ghi rõ công trạng của một vị vua Sri-Mara, người đã khai sáng ra một triều đại Vương Quốc Champa đầu tiên. Ðối chiếu với sách Thủy Kinh chú(1)Trung Hoa đã nói ở đoạn trên, ta thấy sử liệu của Trung Hoa và bia ký đã khai quật được hoàn toàn giống nhau về không gian và thời gian lập quốc.Nhân vật Sri-Mara chính là Khu Liên. Trên văn bia Phạm ngữ của SambhuVarman (Phạm Phàn Chí) vào thế kỷ thứ XI có khắc tên một quốc gia cổ mà trong sách Tân đường Thư(2) có đề cập đến. Âu Dương Tu, Tổng kỳ đã phiên âm ra Hán ngữ là Chiêm Bà tức Champa ngày xưa. Người Champa xuất thân từ người tiền thân nam đảo cổ Malayo Polynesian, tiền thân của tộc người Nam Đảo ngày nay, sống trên dãi bờ biển trải dài từ đảo Hải Nam Trung quốc đến Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay. Đông giáp biển Champa ( biển đông), tây giáp Tây Lào. Người Champa định cư trên dãi đất này từ đầu những năm 2000 trước công nguyên. Tài liệu chính xác nhất là những gì còn lại của nền văn hóa sa huỳnh. Từ thông tin đầu tiên trong Niên giám 1909 của tập san Trường Viễn Đông bác cổ về việc phát hiện “một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong một cồn cát ven vùng biển Sa Huỳnh” (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi), đến nay hàng trăm di tích của nền văn hóa này đã được tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Diện mạo của văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến các giai đoạn phát triển, từ loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa… ngày càng rõ nét. Suốt 100 năm qua là một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của các nhà khảo cổ, các nhà nghiên cứu về một nền văn minh cách chúng ta hàng nghìn năm. M.Vinet – một nhà khảo cổ người Pháp – phát hiện những mộ chum đầu tiên vào năm 1909 và cũng là nơi xuất hiện những hiện vật có niên đại sớm nhất của văn hóa Sa Huỳnh. Thật ra thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh” không phải có ngay sau khi ông M.Vinet phát hiện khu mộ chum này mà phải đợi một thời gian dài sau đó, khi bà La Barre – vợ một viên chức quan thuế Pháp ở Sa Huỳnh – vốn ham thích trang sức đá quý và thủy tinh trong chum nên đã huy động dân đào khu mộ chum ở Phú Khương và Thạnh Đức, mỗi nơi thu được 120 chiếc. Đến năm 1934, một nhà khảo cổ học khác tên M. Colani tiếp tục mở rộng không gian ra các vùng lân cận như Phú Lu, Đồng Phú (Quảng Ngãi), Tăng Long, Phú Nhuận (Bình Định). Hàng trăm mộ chum tương tự cũng được phát hiện qua đợt khai quật này. Năm 1935, bà M.Colani đã công bố những phát hiện của mình cùng các đồng nghiệp trước đó tại một cuộc hội nghị tiền sử Viễn Đông ở Manila (Philippines). Bản đồ Champa cổ. Nguồn: nguoicham.com cáo của M. Colani lập tức thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ. Cái tên Sa Huỳnh cùng thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh” bắt đầu hình thành và liên tục mời gọi tất cả giới khảo cổ. Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm sau đó đã không cho phép họ thực hiện ý định của mình mà phải đợi đến sau ngày 30 tháng 4, 1975, các nhà khảo cổ Việt Nam mới làm tiếp những dang dở trước đó. Nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung được giới khảo cổ phát hiện từ hơn nhiều năm trước. Mười nhà khoa học Đức-Việt tiến hành khai quật di chỉ Lai Nghi ở Điện Bàn, Quảng Nam. Kết quả lần này cùng với hai đợt tiến hành năm trước đã cho ra bức tranh văn hóa Sa Huỳnh chi tiết hơn. Từ trước năm 1975, các nhà khoa học đã phát hiện ở vùng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) một di chỉ chứng minh tại đây đã từng tồn tại một nền văn hóa phát triển đồng thời với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở miền Nam, có niên đại cách đây ít nhất từ 2.400 đến 3.000 năm. Di vật tìm thấy là đồ tùy táng chôn theo người chết được hỏa táng, đặt trong các mộ chum bằng đất nung và chưa xác định được chủ nhân, vì vậy giới khảo cổ tạm gọi đó là nền văn hóa Sa Huỳnh. Do hầu hết các di chỉ đều là mộ táng, lại tập trung ở vùng duyên hải nên giới nghiên cứu đoán định rằng chủ nhân của chúng cư trú tại các hòn đảo trên Thái Bình Dương, có tục hỏa táng và chôn ở đất liền. Do hoàn cảnh chiến tranh, những phát hiện về văn hóa Sa Huỳnh cũng chỉ dừng lại đó. Riêng tại Quảng Nam, từ những năm sau 1985, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với bảo tàng tỉnh đã đưa lên từ trong lòng đất những kho tàng khảo cổ có liên quan đến nền văn hóa này. Các di vật xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt dày đặc ở Hội An, Điện Bàn.Năm 1993-1995 với sự tài trợ của Tổ chức Toyota Foundation (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Hà Nội đã thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ lớn tại Hội An. Phạm vi khảo cổ trên bình diện 70 km2, kéo dài dọc theo sông Thu Bồn. Kết quả có ý nghĩa từ cuộc khai quật này là ở đâu có dấu vết văn hóa Sa Huỳnh thì nơi đó có vết tích của văn hóa Champa. Có thể nhận định đã có sự kế thừa nào đó về mặt địa lý giữa cư dân hai nền văn hóa… Ngoài ra, sự kiện tìm thấy 2 đồng tiền Ngũ Thù, Vương Mãng niên đại thế kỷ 1, 2 trước công nguyên, cùng các loại gốm văn in hình học kiểu Hán Hoa Nam tại Hậu Xá, đã xác định một quan hệ giao lưu giữa chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh với bên ngoài. Đồng thời, nhiều hiện vật cũng cho thấy thấp thoáng những di chỉ cư trú nằm cùng tầng văn hóa với văn hóa Sa Huỳnh… Tuy vậy với chừng đó chưa thể xác nhận được chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh từ đâu đến; có quan hệ kế thừa với vương quốc Champa cổ đại sau này hay không? Đợt khảo sát lần này của Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức cùng Đại học Quốc gia Hà Nội tại di chỉ Lai Nghi (giáp ranh với Hội An) là để làm sáng tỏ những nghi vấn đó. Gian trưng bày gốm Sa Huỳnh tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Nguồn: gpquinhon.org Có một “trung tâm thương mại” Hội An cổ đại. Tiến sĩ Andreas Reinecke, Trưởng đoàn khai quật Viện Khảo cổ chung và so sánh thuộc Viện Khảo cổ học quốc gia Đức, cho biết, kết quả thu được từ khai quật tại Lai Nghi rất lớn và có ý nghĩa rất quan trọng. Trong ba đợt đào, nhóm đã phát hiện khoảng 40 địa điểm có văn hóa Sa Huỳnh, với 62 mẫu mộ chum và mộ đất cùng hơn 10.000 di vật có giá trị. Trong đó số hạt cườm trang sức nhiều chưa từng có từ trước đến nay với 200 loại hạt chuỗi, chế tác bằng 5 loại đá khác nhau; giá trị là hai mề đay (medal) bằng đá đỏ hình chim nước và hổ chế tác rất tinh xảo, lần đầu tiên được tìm thấy tại các di chỉ ở Đông Nam Á. Giá trị nữa là 5 bộ đồ đồng (2 gương soi thời Hán), khuyên tai vàng chưa bao giờ tìm được ở Việt Nam (di chỉ giồng Cá Vồ có, nhưng loại nhỏ, có hình dáng khác). Nhiều loại trong đó chứng tỏ rằng nghề tiểu thủ công của cư dân vùng này rất phát triển. Ví dụ hai chiếc lọ gốm gần như nguyên vẹn được trang trí hoa văn tia mặt trời (thường thấy trên mặt trống đồng Đông Sơn) lạ mắt, rất đẹp bằng ba màu đỏ đen và trắng, gần như chưa từng phát hiện từ trước đến nay tại các hố khai quật văn hóa Sa Huỳnh… Những gì tìm được tại đây, có thể khẳng định rằng Lai Nghi sẽ là một trung tâm khảo cổ lớn nhất về văn hóa Sa Huỳnh của Việt Nam. A. Reinecke nhận định “Chưa có gì xác nhận có một mối liên hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh muộn với văn hóa Champa sớm, nhưng khả năng đã có một bộ phận cư dân văn hóa Sa Huỳnh tiếp tục sống và phát triển trong văn hóa Champa. Bây giờ chúng tôi chưa có điều kiện so sánh giữa hai nền văn hóa này. Song có một điều chắn chắn là, qua sự tương đồng của một số hiện vật tìm thấy tại đây với di chỉ tại một số hòn đảo trên vùng biển Đông Nam Á (ví dụ khuyên tai ba mấu và hai đầu thú). 2.500 năm trước đã có cư dân từ đó đến miền Trung Việt Nam. Tuy vậy phát hiện trong đợt khai quật khảo cổ này hầu hết là di chỉ mộ táng có niên đại từ thế kỷ 2 trước Công nguyên đến 300 năm sau Công nguyên. Có 3 di chỉ cư trú, nhưng chưa có niên đại chắc chắn, do vậy chưa thể coi đó là của văn hóa Sa Huỳnh. Có thể thời kỳ này người ta làm nhà bằng tranh tre, gỗ nên không để lại vết tích. Quan trọng hơn cả là qua những hiện vật tìm được có thể nói rằng trong thời kỳ này, Hội An đã là một trung tâm kinh tế lớn thu hút từ vùng núi dọc sông Thu Bồn, xuống duyên hải, từ văn hóa Đông Sơn và từ Trung Hoa đến Ấn Độ.” Văn hóa Sa Huỳnh phát triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 2.000 năm đến những thế kỷ trước Công nguyên. Quá trình hội tụ những nguồn gốc khác nhau đã tiến tới giai đoạn phát triển cực thịnh của văn hóa này vào khoảng 2.500 – 2.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau ven biển, được coi là những người Tiền Mã Lai – Đa đảo (Proto Malayo Polynesian). Trong quá trình hình thành văn hóa Sa Huỳnh có những liên hệ với những nhóm cư dân cùng thời là những người “Tiền Môn – Khmer” hay Tiền Nam Á. Ngoài ra suốt quá trình phát triển văn hóa này còn có nhiều mối quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn hóa thời kim khí ở Đông Nam Á. Qua đó có thể thấy chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo hay Malayo Polynesian nhiều hơn yếu tố Nam Á. Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn có sự hiện diện của mộ huyệt đất. Các khu mộ phân bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng trưng”. Trong chum/vò chứa nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng về loại hình: dụng cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức. Đặc trưng về di vật là sự phổ biến của dụng cụ lao động bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí nhiều đồ án hoa văn khắc vạch, đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú… Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với di tích Hậu Xá chẳng hạn). Dù rằng việc sản xuất gốm để xuất khẩu ở Đông Nam Á, đặc biệt là ở Đại Việt và Xiêm, phát triển khá mạnh mẽ vào thế kỷ XIV – XV, thường là với sự khởi đầu bất ngờ của kỹ thuật Trung Quốc và kết thúc với kỹ thuật bản địa. Tuy nhiên, lịch sử hải thương của khu vực Đông Nam Á, kết hợp với những kết quả trong nghiên cứu khảo cổ học ở các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian gần đây, đã phần nào bổ sung cho chúng ta những tư liệu quan trọng về sự xuất hiện của những sản phẩm gốm thương mại có nguồn gốc Đông Nam Á . Về đồ gốm thì hầu như tất cả các ghi chép về Champa trong Chufanchi (1225), Dauyi Zhilue (giữa thế kỷ XIV) và Yingua Shenglan (1416) đều chỉ nói đến việc nhập các đồ sứ Trung Quốc. Những tài liệu trên hầu như không nhắc đến những sản phẩm gốm ở Đông Nam Á. Lệnh cấm hoàn toàn các chuyến đi và buôn bán vải hải ngoại được ban hành năm 1371 (năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ) trong thời kỳ đầu thời nhà Minh. Sau đó, nó lại được tái ban hành vài lần và cuối cùng bị bãi bỏ năm 1471 (năm thứ 6 niên hiệu Long Khánh). Nó ngăn cấm nghiêm ngặt những chuyến đi và buôn bán hải ngoại của người Trung Quốc. Kết quả là, buôn bán gốm từ Trung Quốc bị hạn chế lớn trong thời kỳ này. Gốm Thái Lan, Việt Nam và Champa xuất hiện ở các vùng bờ biển xung quanh biển phía nam Trung Quốc như để thay thế đồ gốm Trung Quốc. Di chỉ tiêu biểu của thời kỳ này là tàu đắm ngoài khơi đảo Palawan, được khai quật năm 1995. Đồ gốm Champa bao gồm đĩa celadon, bát men nâu với thân chiết yêu và các vò men nâu của lò Gò Sành.Trong những năm gần đây, tại các lò gốm Gò Sành và một vài lò gốm khác, tất cả đều ở quanh thủ đô Vijaya thuộc tỉnh Bình Định ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những đồ gốm xuất khẩu như đĩa men và bát men celadon và các hũ sành được sản xuất trong những thế kỷ XIV-XVII mà không hề có sự phát triển trước đó của kỹ thuật bản địa. Những mảnh vỡ của đồ gốm Gò Sành đã được khai quật thấy ở Ai Cập, đảo Tioman ở Ma-lai-xia; Santa Ana và Calatagan ở Philippines… và thường được tìm thấy cùng với những đồ sứ Trung Quốc. Có tiếng vang nhất là việc tìm thấy hàng trăm đồ gốm tráng men celadon của Gò Sành trong con tàu đắm gần hòn đảo Pandaran ở Philippines. Bát gốm Gò Sành, thế kỷ 14th-15th, thời đại Vijaya. Origin: Go Sanh kilns, Binh Dinh province, Central Vietnam Không nghi ngờ gì nữa, những sản phẩm này bắt đầu có trước khi Đại Việt đánh chiếm Vijaya, thế nhưng những người thợ thủ công thuộc tộc người nào thì còn chưa rõ. Chắc hẳn Champa cũng đã bị cuốn vào trào lưu sản xuất đồ gốm thương mại chung ở Đông Nam Á lục địa vào thời kỳ cuối Nguyên (1260-1368) và đầu Minh (1368-1644), khi mà việc xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc bị giảm mạnh vì khủng hoảng kinh tế và do lệnh cấm buôn bán với nước ngoài.Với việc phân phối rộng khắp bằng đường biển qua Ấn Độ Dương, đồ gốm Champa được khai quật từ địa điểm A1-Từ trên bán đảo Sinai ở Hy Lạp, từ thành phố cảng thời trung cổ của Julfar trong phạm vi của Ras al-Khaimab ở tiểu vương quốc Ả Rập, từ di chỉ Juara trên đảo Tioman ở đảo Malaysia và từ di chỉ mộ táng ở bán đảo Calatagan và tàu đắm ở ngoài biển khơi của đảo Pandanan, Philipines. Đồ gốm Champa được xuất khẩu ra nước ngoài vào khoảng thế kỷ XV và việc sản xuất đồ gốm ở Gò Sành phát triển rất rực rỡ vào thời gian ấy. Trong bất kỳ trường hợp nào, thì rõ ràng là kinh đô Champa đã có một mạng lưới buôn bán vào thế kỷ XV, gồm cả Hy Lạp, các Tiểu vương quốc Ả Rập, Malaysia, quần đảo Philippines. Thực tế này đã xác nhận sự rộng lớn của mạng lưới buôn bán của vương quốc Champa trên biển. Đồ gốm không giống với vải lụa, vẫn tồn tại trong các di chỉ mà không bị phân hủy và biến mất, thậm chí ngay cả khi chúng bị vỡ thành từng mảnh nhỏ. Khi các khu vực (lò) và niên đại sản xuất của một số đồ gốm khai quật đã được xác định, chúng sẽ là tư liệu quý giá để làm rõ niên đại và đặc trưng của chính các di chỉNằm ở vị trí trung độ trên con đường giao lưu quốc tế đông-tây, Trung Quốc với Ấn Độ và xa hơn, tới Địa Trung Hải, Đông Nam Á sớm trở thành một đầu mối mậu dịch hàng hải quốc tế. Từ đầu công nguyên, những con thuyền của cư dân trong vùng, thuyền của người Ấn, người Hoa cùng với nền văn hóa của họ đã thường xuyên qua lại vùng Đông Nam Á. Trên con đường giao lưu đó, Champa chiếm lĩnh một trong những vị trí quan trọng và thuận lợi nhất. Các cảng của Champa đóng vai trò như những cảng cuối cùng trước khi những con thuyền vượt qua vịnh Bắc Bộ vào vùng biển Trung Hoa và là nơi dừng chân đầu tiên khi từ Trung Quốc đến Malacca, Vịnh Thái Lan hay gần hơn là tới vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu công nguyên thuộc vương quốc Phù Nam. Có thể thấy hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa hay từ Trung Hoa đi qua Ấn Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một đầu mối giao thông quan trọng, bờ biển Champa đã sớm trở thành một đầu mối giao thương, nơi trao đổi sản vật và sản phẩm với những thuyền bạn bè qua lại. Champa hùng mạnh nhất vào khoàng năm 800 đến năm 1000. Trong khoảng thời điểm đó, Người Chăm rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Nusantara (Indonesia, Malaysia, Brunei ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad (Bá Đa – xứ 1001 đêm).Vào khoảng năm 800, người Chăm được biết đến với tài đi biển rất gỏi và những thương nhân tài ba. Theo ông Tan Sri, Prof. Emeritus Dr. Ismail Hussein, chủ tịch hội nhà văn Malaysia gọi tắt là (GAPENA) có nói. Vùng biển mà ngày nay được gọi là Biển Nam Trung Quốc thật sự trước kia được gọi là Biển Champa, nó từng là một vùng thương mại và vận chuyển quan trọng của người Chăm. Sự hùng cường về thương mại và vận chuyển của đế chế Champa nhanh chóng được nổi tiếng và rất nhiều người biết đến không chỉ ở Nusantara mà là toàn thể thế giới lúc bấy giờ, dẫn đến vùng biển này được gọi với tên Biển Champa. Người Champa “có cái nhìn về biển đúng đắn, biết tham dự và dấn thân tích cực vào luồng thương mại quốc tế”, tận dụng những lợi thế đó để phát triển vương quốc của mình thành một cường quốc trong khu vực. Hoạt động thương mại biển đã góp phần quan trọng vào quá trình tồn tại và phát triển của vương quốc Champa trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ X đến thế kỷ XV. Quan hệ thương mại của vương quốc Champa từ nửa cuối thế kỉ X đến thế kỉ XV Trong suốt quá trình phát triển của mình, vương triều Vijaya đã dày công xây dựng các mối quan hệ với các quốc gia vùng hải đảo. Vương quốc Champa ngày càng dự nhập mạnh mẽ vào sự phát triển chung của lịch sử khu vực. Những mối quan hệ được dày công xây dựng, một mặt nhằm củng cố vị thế của Champa đối với lịch sử khu vực,mặt khác tạo ra những tiền đề thuận lợi để Champa mở rộng thương mại và dự nhập ngày càng mạnh mẽ hơn vào nền hải thương khu vực, nhằm bù lấp cho những thiếu hụt của nền kinh tế trong nước. Các vua Champa rất có ý thức trong việc buôn bán với người nước ngoài, tạo điều kiện lợi dụng và trọng dụng họ. Sau khi Quảng Đông bị phá hủy (758), việc làm ăn với thương nhân người Hoa gặp khó khăn. Trên thực tế, từ 877 đến 951, Champa không có quan hệ bang giao gì với Trung Quốc vì sự hỗn loạn cuối thời Đường. Trong thời gian đó, họ kịp thời mở của làm ăn với thương nhân Hồi giáo Ả Rập đang ngang dọc khắp thế giới Đông-Tây. Khi Quảng Đông được mở cửa lại dưới triều Hậu Chu (951-959) và sau đó là triều Tống (960 –1279), vua Đồng Đường liền xúc tiến lại mối quan hệ giữa hai nước thông qua những nhà buôn Hồi giáo ở Panduranga. Người Hồi giáo là những người quản lý của khu buôn bán ở Panduranga. Những thương nhân Hồi giáo này đã có những liên hệ mật thiết với Vương triều Champa, được tiếp xúc thường xuyên với vua Chăm và được vua Chăm trọng dụng. Những bằng chứng mà P. Y. Manguin (1979) đã đưa ra cho thấy, trong những người thuộc đoàn sứ giả Champa sang Trung Quốc vào năm 951 và những năm sau đó, có người mang tên bắt đầu bằng chữ Pu hay Bu biến âm từ chữ Ả Rập Abu. Năm 958, người đại diện chính thức của vua Champa là người Hồi giáo có tên là Abu Hasan (P’s Ho San ). Ông đã thay mặt vua Champa là Indravarman III (917-960) tặng hoàng đế Trung Hoa nước hoa hồng, cây đèn “ngọn lửa Hy Lạp” và những viên đá quý. Năm 961, Abu Hasan trở lại Trung Hoa mang theo thư của vị vua mới là Java Indravarman I, kèm theo những tặng phẩm được liệt kê ra như gỗ trầm, ngà voi, vải lụa… và đặc biệt có 20 hũ Ả Rập. Tất cả những tặng phẩm trên có những thứ là của Champa, nhưng nhiều tặng phẩm như “nước hoa hồng”, “đèn Hy Lạp” là hàng của Ả Rập thì chắc chắn là sản phẩm thương mại được các thương nhân Hồi giáo Ả Rập đem đến trao đổi ở các cảng Chăm. Đó đều là những sản phẩm thương mại có được từ các thương cảng của Champa .Về những mặt hàng buôn bán xuất khẩu của Champa trong thời kỳ này, chúng ta có thể tham khảo các loại hàng hóa đã được trao đổi và mua bán tại cảng -thị Hội An và các cảng–thị khác ở miền Trung như Thanh Hà (Thừa Thiên- Huế ), Nước Mặn, Thị Nại (Bình Định )… trong các thế kỷ XVII-XVIII; vì sự phồn vinh của các cảng–thị này đương thời có thể được xem như sự tái sinh của các cảng – thị Champa vào những thế kỷ trước đó. Về các loại sản vật ở miền Trung Việt Nam vào thế kỷ XVI có thể tham khảo trong Ô Châu Cận Lục: “… ngà voi, sừng tê, trầm hương, bạch ngọc hương, tô nhủ hương, biện hương, thổ cẩm trắng, thổ cẩm xanh, da trâu, nhựa thông, sừng trâu, da hươu, nhung nai, da hươu cái, lông đuôi chim công. Lông đuôi chim trĩ, hồ tiêu, mật ong, sáp vàng, dây mây …” Những loại sản vật này, mà phần lớn đều là lâm sản nên có thể được xem là những đặc sản của Champa vào những thế kỷ trước đó, được thu nhập bởi cư dân miền ngược rồi đem trao đổi với cư dân miền xuôi. Điều đó cho thấy mối liên hệ khá chặt chẽ giữa các vương triều Champa với các tộc người miền núi mà sợi dây liên kết có lẽ là những dòng sông chảy từ thượng nguồn ra biển rất phổ biến ở miền Trung Việt Nam. Việc giữ mối liên hệ bền chặt và lâu dài giữa các vương triều Champa với các tộc người miền núi đảm bảo cho vương quốc Champa có thể duy trì được một sự cân bằng tương đối trong việc phát triển kinh tế, giữa kinh tế biển, kinh tế nông nghiệp và kinh tế lâm nghiệp. Điều này còn có ý nghĩa hơn nữa khi chúng có thể đảm bảo những sản phẩm thương mại cho vương quốc Champa, để Champa có thể duy trì những mối quan hệ thương mại, buôn bán với các quốc gia trong khu vực. Các nhà nghiên cứu đã giải thích hệ thống chính trị – kinh tế của vương quốc Champa theo một mô hình được gọi “hệ thống trao đổi ven sông”. Theo mô hình này, “hệ thống trao đổi ven sông”, có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại, thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch hải thương quốc tế và là điểm kết nối giữa các của sông khác của các vùng lân cận. Cũng có những trung tâm thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn hàng có nguồn gốc từ những nơi ở xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản xuất ở các vùng mà các dân cư sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc thượng nguồn không họp chợ. Sau đó nguồn hàng này được tập kết về các trung tâm ở ven biển.Mỗi Mandala có riêng một hệ thống trao đổi ven sông như vậy.Biên niên sử Trung Quốc từ thời kỳ Bắc Tống (960-1127) đã chỉ ra rằng vào cuối thế kỷ X đã hình thành những tuyến đường biển nối liền những địa điểm cư trú vùng biển ở quần đảo Philippines, bờ biển Bắc của Đảo Borneo và Champa. Tống sử cho biết rằng vào năm 977, nhà cầm quyền Brunei đã gửi quà biếu đến đế chế Trung Hoa và sứ giả của phái đoàn thông báo với triều đình của đế chế rằng May-i (đảo Midoro) cách Borneo một khoảng 30 ngày đi thuyền. Năm 1003, phái đoàn được ghi lại sớm nhất mang quà biếu của Philippines đi đến Trung Quốc từ Butuan. Tống sử mô tả chính thể này ở đông bắc Mindanao như là “một đất nước nhỏ trong biển ở phía Đông của Champa, xa hơn May-i, có quan hệ thường xuyên với Champa nhưng rất hiếm khi với Trung Quốc. Nhiều thế kỷ sau, hàng hóa thương mại được chuyên chở từ miền Trung Việt Nam dọc theo tuyến phía Bắc của Borneo, như được
0 Rating 542 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On December 13, 2016
  Ở Quảng Nam, có một làng gần như 100% là người gốc Chăm. Đó là làng Đồng Dương nằm trên địa bàn xã Bình Định, huyện Thăng Bình. Từ thời xa xưa, trong cộng đồng người Chăm Đồng Dương đã lưu truyền truyền thuyết khá hấp dẫn và lý thú về nguồn gốc của làng Chăm độc nhất ở Quảng Nam này! Những di tích còn sót lại của người Chăm ở xứ Quảng. Truyền thuyết thuật lại rằng thời xa xưa, không biết vì lý do gì giữa hai nước Chiêm và Việt nổ ra chiến tranh. Vua Việt tiến đánh quân Chiêm ở tận Đồng Dương. Ở vào thế chống đỡ, không còn cách nào khác, tướng Chiêm mới huy động cả thảy tám mươi con ngựa chiến. Đuôi ngựa được cột thêm vào một tàu lá cau. Bốn chân cột thêm bốn cái lục lạc. Khi hai bên lâm trận, mùa tháng Sáu, trời nắng chang chang nên khói bụi bay mù trời. Rồi lục lạc cũng huyên náo. Sau ba ngày ba đêm, thấy khó có thể cầm cự, quân Chiêm phải kéo cờ trắng đầu hàng. Đặc biệt, trong đám hàng binh, vua Việt phát hiện có một nàng công chúa xinh đẹp. Ngài bèn bắt về để làm vợ cho một vị hoàng tử. Nhưng, ngài hoàn toàn không biết nàng công chúa này đã có thai. Tương truyền rằng vì thế cho nên mới có dòng họ Trà nối nghiệp ở Đồng Dương bây giờ. Người ta kể rằng, sau đó, công chúa về Nghệ An làm vợ hoàng tử và sinh ra một đứa con trai. Tất nhiên, đó là một người Chiêm. "Chim có tổ người có tông", lớn lên, có lẽ do mẹ là công chúa Chiêm cho biết nguồn gốc nên người con mới lần vào Điện Bàn, coi như tìm về quê cha đất tổ. Đầu tiên, ông đến làng La Huân, nay thuộc xã Điện Thọ. Nghề nghiệp chính của ông là làm thầy... phù thuỷ. Tức pháp sư. Tên nôm na của pháp sư là ông Hai Lánh. Đã là pháp sư, dĩ nhiên, theo truyền thuyết ông rất giỏi pháp thuật, có thể kêu mây gọi gió. Làng La Huân bấy giờ nghèo lắm. Dân nghèo nên không có tiền đóng góp. Tất nhiên, đình làng chỉ là đình tranh. Mỗi năm có chuyện họp hội, làm lễ ở đình làng, người dân thường kêu ca về sự nghèo khó, khốn khổ của mình, rằng "Khổ quá, coi cái làng La Qua bên cạnh, họ giàu, đình là đình ngói. Còn mình chỉ đình tranh. Trời mưa gặp cúng lễ thì biết tránh mô cho khỏi ướt". Cứ mỗi lần có chuyện cúng, ông Hai Lánh thường nghe bà con than thở. Thấy vậy, ông mới buột miệng nói "Muốn có đình ngói thì ta đổi đình ngói". Tưởng nói chơi, hoá ra ông lại làm thật. Tối hôm ấy, ông lấy đậu xanh ngâm cho ra mộng. Mộng từ hạt nứt ra, nên còn gọi là cựa. Đến tối, ông đứng trước bàn thờ, khói hương nghi ngút, mới lầm rầm trong miệng làm phép. Tức thì, bao nhiêu hạt đậu đều biến thành âm binh. Ông bèn sai âm binh đi khiêng đình tranh La Huân sang làng La Qua để đổi đình ngói La Qua. Mọi việc diễn ra gần như hoàn hảo. Sáng ra, dân hai làng thức dậy, nghe bảo có chuyện lạ ở đình, kéo nhau rần rần đi coi. "Quái, răng lại thế ni?". Ở La Huân, đình tranh trở thành đình ngói còn ở La Qua đình ngói lại biến thành đình tranh. Lý trưởng và các vị chức sắc trong làng tức lắm, mới nhìn kỹ và phát hiện đình tranh có một dây bầu. "Đình ni đích thị là đình của làng La Huân rồi". Họ bèn đi kiện lên trên. Với chứng cứ rành rành, ông Hai Lánh bị vua bắt giam vào ngục. Các nghệ nhân dân gian người Chăm. Ảnh tư liệu. Không biết ông bị giam bao lâu thì đến ngày lễ quốc khánh năm nọ, triều đình cần làm "phường môn", tức cổng ngõ, sao cho đẹp. Biết ông là thầy phù thuỷ có tài, vua bèn sai quân lính lôi ông từ ngục ra, bảo "Nghe nói nhà ngươi có tài, ngươi phải trổ tài để trẫm xem thử". Ông thưa vua xin thắt hai con rồng gọi là "lưỡng long tranh nguyệt". Vua sai người đem lụa để ông thắt. Thoáng chốc, ông đã thắt xong một con rồng rất đẹp. Ông bảo rồng này chưa làm mắt, làm mũi. Vua thấy ông tài quá, bèn cho ông tự do đi lại, không phải giam vào ngục. Nhưng ngay tối hôm đó, ông lẻn ngồi lên lưng con rồng vừa thắt xong, hô biến. Tức thì con rồng biến thành con rồng thật. Rồng bay lên, đưa ông về đất Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Đến Bình Trung, ông thả chiếc giày bên trái để báo tin. Rồi ông vào Đồng Dương. Cũng từ đây, ông Hai Lánh bắt đầu cuộc đời lang bạt để trốn tránh sự truy lùng của triều đình. Đặc biệt, khi đến Đồng Dương, ông lấy vợ và sinh ra hai người con đặt tên là Trà Huyền An và Trà Huyền Chơn, tên tục gọi là ông Chóng và ông Đụn. Sau đó, ông tiếp tục đến khu vực Hòn Tàu, nay thuộc địa phận huyện Quế Sơn để gầy dựng sự nghiệp. Không ngờ, ông gặp một con cọp dữ. Thế là ông đánh nhau với cọp. Điều trớ trêu là sức người sức cọp gần như ngang bằng với nhau nên hai bên cứ giằng co. Cọp thua thế hơn, chạy lên Trà Linh. Ông đuổi theo. Lần này, ông đánh đến ba ngày ba đêm. Cọp ra máu nhiều, đâm khát nước, mới mò ra bờ suối để uống một hơi dài rồi chết ngay tại chỗ. Ông Hai Lánh bấy giờ cũng sức cùng lực cạn và chết theo. Dân làng Trà Linh tiếc thương, mới chôn thi thể ông. Từ sự tích này mà hiện nay ở Trà Linh còn hai mả, mả ông Hai Lánh và mả... cọp. Tương truyền, mả ông rất thiêng. Đàn bà, con gái không dám đi ngang. Tuy nhiên, có một điều kỳ lạ là họ Trà dù chiếm hơn 90% dân số toàn thôn, tức trên 130 hộ nhưng trong văn tế cùng tiền hiền làng hồi trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, những ông này lại đứng sau hai người Kinh có công lập làng. Nguyên văn văn cúng, theo trí nhớ của ông Trà Díu là "... Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh/ Tiền tổ, hậu tổ/ Tiền năng sư bách nhãn, hậu năng sư bách nhãn/ Tiền quế công chi vị, hậu quế công chi vị/ Châu Văn Tuý, Trịnh Khắc Thiệt, Trà tộc, ông Chóng, ông Đụn, Trà Huyền An, Trà Huyền Chơn, các chư tộc phái...". Trong đó, Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt là hai người đứng đầu đơn lập làng. Càng đặc biệt hơn khi hai ông tiền hiền làng là Châu Văn Tuý và Trịnh Khắc Thiệt đều không có con cháu nối nghiệp. Có thể nói, truyền thuyết nói trên là một trong những truyền thuyết suy nguyên (mythologie étiologique) nhằm suy đoán, giải thích nguồn gốc họ Trà ở làng Đồng Dương hiện nay. Ngay cái tên nhân vật Hai Lánh, thiển nghĩ, đó cũng chỉ là một cách gọi đầy ngụ ý, thể hiện rõ cuộc đời lang bạt của một người có lai lịch đầy bí hiểm mà thôi! Theo news.zing.vn  
0 Rating 533 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 27, 2015
TUYÊN NGÔN CỦA LIÊN HIỆP QUỐC VỀ QUYỀN CỦA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA @Jabuel Campa from facebook.com Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua theo Nghị quyết 61/295 ngày 13 tháng 9 năm 2007 Đại Hội Đồng,Được hướng dẫn bởi các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và lòng tin cao độ vào việc thực hiện những nghĩa vụ theo Hiến chương của các quốc gia,Khẳng định rằng các dân tộc bản địa được bình đẳng với tất cả những dân tộc khác, đồng thời ghi nhận quyền của các dân tộc được khác nhau, được tự coi mình khác và được tôn trọng như vậy,Cũng khẳng định rằng tất cả các dân tộc đều góp phần làm đa dạng làm giàu có những nền văn minh và văn hóa tạo nên những di sản chung cho loài người,Khẳng định thêm rằng tất cả các học thuyết, chính sách và thực tiễn dựa vào hoặc biện hộ cho tính ưu việt của những dân tộc hoặc các cá nhân trên cơ sở nguồn gốc dân tộc, chủng tộc hay những khác nhau về tôn giáo, sắc tộc, hay văn hóa đều là sự phân biệt chủng tộc, giả dối về mặt khoa học, không có giá trị pháp lý, đáng bị lên án về mặt đạo đức và bất công về mặt xã hội,Khẳng định lại rằng các dân tộc bản địa trong khi thực hiện quyền của mình không bị không phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào,Quan ngại rằng các dân tộc bản địa đang phải gánh chịu những bất công của lịch sử do họ bị thực dân hóa và bị chiếm đoạt đất đai, lãnh thổ và tài nguyên ngoài các yếu tố khác, vì vậy các dân tộc bản địa đã bị ngăn cản không thể thực hiện những quyền của họ, cụ thể là quyền phát triển theo các nhu cầu và lợi ích của riêng họ,Công nhận nhu cầu cấp thiết phải tôn trọng và thúc đẩy các quyền vốn có của những dân tộc bản địa xuất phát từ các cơ cấu chính trị, kinh tế và xã hội và từ các nền văn hóa, truyền thống tâm linh, lịch sử và triết học, đặc biệt là từ những quyền của họ đối với đất đai, lãnh thổ và tài nguyên của họ,Cũng công nhận nhu cầu cấp thiết tôn trọng và thúc đẩy những quyền của các dân tộc bản địa đã được khắng định trong những điều ước, hiệp định và các thỏa thuận mang tính xây dựng với các quốc gia,Hoan nghênh việc người bản địa đang tự tổ chức để nâng cao đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nhằm chấm dứt tất cả các hình thức phân biệt đối xử và áp bức đang diễn ra ở bất cứ đâu,Tin tưởng rằng việc các dân tộc bản địa tự kiểm soát những sự phát triển có tác động đến họ, đến đất đai, lãnh thổ và tài nguyên của họ sẽ giúp họ duy trì và củng cố những thiết chế, văn hóa truyền thống của mình và để thúc đẩy sự phát triển của họ theo các nguyện vọng và nhu cầu của họ,Công nhận rằng tôn trọng những tri thức, văn hóa và truyền thống bản địa là đóng góp vào sự phát triển bền vững, công bằng và quản lý tốt môi trường,Nhấn mạnh sự đóng góp của việc phi quân sự hóa đất đai và lãnh thổ của các dân tộc bản địa vào nền hòa bình, tiến bộ và phát triển về kinh tế và xã hội, hiểu biết và quan hệ bạn hữu giữa các quốc gia và dân tộc trên thế giới,Đặc biệt công nhận quyền của các gia đình và cộng đồng bản địa được duy trì sự chia sẻ trách nhiệm trong nuôi nấng, dạy dỗ, giáo dục và hạnh phúc của con cái họ, phù họp với các quyền của trẻ em,Xét thấy rằng các quyền được khắng định trong những điều ước, hiệp định và thỏa thuận khác mang tính xây dựng giữa các quốc gia và các dân tộc bản địa trong một số trường hợp là những vấn đề quan ngại, lợi ích, trách nhiệm và đặc điểm mang tính quốc tế,Cũng xét thấy rằng các điều ước, hiệp định và thỏa thuận mang tính xây dựng khác cùng với những mối quan hệ mà họ đại diện là cơ sở cho sự đối tác được tăng cường giữa các dân tộc bản địa và các quốc gia,Công nhận rằng Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị cũng như Tuyên bố Viene và Chương trình hành động đều khẳng định tầm quan trọng cơ bản của quyền tự quyết của các dân tộc, mà theo đó các dân tộc được tự do quyết định vị thế chính trị và tự do theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của họ,Ghi nhớ rằng không nội dung nào trong Tuyên ngôn này có thể bị sử dụng để chối bỏ quyền tự quyết của bất kỳ dân tộc nào, được thực hiện phù hợp với luật pháp quốc tế,Tin tưởng rằng việc công nhận các quyền của những dân tộc bản địa trong Tuyên ngôn này sẽ giúp làm tăng các mối quan hệ hài hòa và hợp tác giữa quốc gia với những dân tộc bản địa, dựa trên cơ sở các nguyên tắc công bằng, dân chủ, tôn trọng quyền con người, không phân biệt đối xử và lòng tin,Khuyến khích các quốc gia tuân thủ và thực hiện hiệu quả tất cả những nghĩa vụ của họ khi áp dụng cho các dân tộc bản địa theo những văn kiện quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến quyền con người trong tham vấn và hợp tác với những dân tộc có liên quan,Nhấn mạnh rằng Liên Hiệp Quốc đóng vai trò quan trọng và liên tục trong việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền của những dân tộc bản địa,Tin tưởng rằng Tuyên ngôn này là một bước tiến quan trọng hướng tới việc công nhận, thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do của những dân tộc bản địa và trong xây dựng các hoạt động liên quan của hệ thống Liên Hiệp Quốc trên lĩnh vực này,Công nhận và tái khẳng định rằng những cá nhân người bản địa được hưởng tất cả các quyền con người được công nhận trong pháp luật quốc tế mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào, và những dân tộc bản địa có những quyền tập thể vốn là các quyền không thể thiếu được cho sự tồn tại, thịnh vượng và phát triển hợp thành với tư cách là những dân tộc,Cũng công nhận rằng tình hình các dân tộc bản địa là khác nhau giữa các khu vực, quốc gia và tầm quan trọng của những nét đặc thù quốc gia và khu vực, và những cơ sở lịch sử và văn hóa cần phải được xem xét,Long trọng tuyên bố Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền của các dân tộc bản địa sau đây là một chuẩn mực về thành tựu cần phải theo đuổi thực hiện trên tinh thần hợp tác và tôn trọng lẫn nhau:Điều 1Các dân tộc bản địa với tư cách cá nhân hay tập thể có quyền được hưởng thụ đầy đủ tất cả các quyền con người và quyền tự do cơ bản được thừa nhận trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và luật pháp quốc tế về quyền con người.Điều 2Các dân tộc và cá nhân người bản địa được tự do và bình đẳng với tất cả những dân tộc, cá nhân khác và có quyền không bị phân biệt đối xử dưới bất kỳ hình thức nào khi thực hiện các quyền của mình, đặc biệt trên cơ sở nguồn gốc xuất xứ và bản sắc bản địa của họ.Điều 3Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết. Theo quyền đó, họ được tự do quyết định vị thế chính trị và tự do theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa của họ.Điều 4Trong khi thực hiện quyền tự quyết, các dân tộc bản địa có quyền tự trị hay tự quản trong những vấn đề liên quan đến các công việc nội bộ và địa phương của họ, cũng như những cách thức và phương tiện để hỗ trợ về tài chính việc thực hiện những chức năng tự trị của họ.Điều 5Các dân tộc bản địa có quyền duy trì và tăng cường những thiết chế chính trị, luật pháp, kinh tế, xã hội và văn hóa riêng biệt của họ, trong khi vẫn giữ quyền tham gia đầy đủ nếu họ lựa chọn, vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa của quốc gia.Điều 6Mỗi cá nhân người bản địa đều có quyền được có quốc tịchĐiều 7Các cá nhân, người bản địa có quyền sống, được toàn vẹn về thể chất và tinh thần, quyền được tự do và an ninh cá nhân.Các dân tộc bản địa có quyền tập thể là được sống trong tự do, hòa bình và an ninh với tư cách là những dân tộc riêng biệt mà không bị bất cứ hành động diệt chủng nào hay chịu bất cứ hành vi bạo lực nào khác, bao gồm cả việc ép buộc di dời trẻ em từ nhóm này sang nhóm khác.Điều 8Các dân tộc và cá nhân người bản địa có quyền không bị cưỡng ép đồng hóa hay hủy hoại nền văn hóa của họ.Các quốc gia phải có cơ chế hiệu quả để phòng ngừa và khắc phục: Bất kỳ hành động nào có mục đích hoặc tác động để tước đoạt quyền được toàn vẹn là các dân tộc riêng biệt của họ bị hoặc tước đoạt các giá trị văn hóa hay bản sắc dân tộc của họ;Bất kỳ hành động nào có mục đích hoặc tác động để tước đoạt đất đai, lãnh thổ và tài nguyên của họ;Bất kỳ hình thức ép buộc chuyển dân nào với mục đích hoặc tác động nhằm xâm phạm hay tổn hại quyền của họ;Bất kỳ hình thức ép buộc đồng hóa hay hội nhập nào;Bất kỳ hình thức tuyên truyền nào nhằm thúc đẩy hay khuyến khích phân biệt đối xử chủng tộc hay sắc tộc trực tiếp đối với họ.Điều 9Các dân tộc và cá nhân người bản địa có quyền thuộc về một cộng đồng bản địa hay quốc gia, phù hợp với những truyền thống và phong tục tập quán của cộng đồng bản địa hay quốc gia đó. Khi thực hiện quyền này sẽ không được có bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào.Điều 10Các dân tộc bản địa không bị ép buộc di dời khỏi những vùng đất đai hay lãnh thổ của của họ. Không được tiến hành di dời nếu như không có sự đồng thuận tự nguyện và thông báo trước của các dân tộc bản địa và sau khi đã đạt được thỏa thuận đền bù công bằng, thỏa đáng và có khả năng quay trở lại ở nơi cũ khi có thể.Điều 11Các dân tộc bản địa có quyền thực hiện và khơi dậy những truyền thống văn hóa và phong tục tập quán của họ. Điều này bao gồm quyền được duy trì, bảo vệ và phát triển các hình thái văn hóa của họ trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chẳng hạn như những di tích khảo cổ và lịch sử, di vật khảo cổ, thiết kế, lễ hội, công nghệ, nghệ thuật biểu hiện, nghệ thuật trình diễn và văn học.Các quốc gia phải có biện pháp khắc phục thông qua các cơ chế hiệu quả mà có thể bảo gồm việc cùng với những dân tộc bản địa phục hồi nền văn hóa, tri thức, tôn giáo và tài sản tinh thần của họ mà đã bị tước đoạt mà không có sự đồng thuận tự nguyện, có thông báo trước hoặc xâm phạm đến luật pháp, truyền thống và phong tục tập quán của họ.Điều 121. Các dân tộc bản địa có quyền thể hiện, thực hiện, phát triển và giảng dạy những truyền thống tôn giáo và tinh thần, phong tục tập quán, lễ hội của họ; có quyền duy trì, bảo vệ và riêng tư tiếp cận các điểm tôn giáo và văn hóa của họ; có quyền sử dụng và kiểm soát lễ vật của họ và có quyền hồi hương di hài của họ.2. Các quốc gia phải tạo điều kiện để những dân tộc bản địa đuợc tiếp cận và/hoặc hồi huơng những lễ vật và di hài thuộc quyền sở hữu của họ thông qua các cơ chế công bằng, minh bạch và hiệu quả với sự tham gia của các dân tộc bản địa có liên quan.Điều 13Các dân tộc bản địa có quyền khơi dậy, sử dụng, phát triển và truyền lại cho những thế hệ sau về lịch sử, ngôn ngữ, truyền thống truyền miệng, triết học, hệ thống chữ viết và văn học của họ; có quyền tạo lập và duy trì những tên gọi riêng của họ cho các cộng đồng, địa điểm và con nguời.Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hiệu quả để đảm bảo quyền này đuợc bảo vệ và đồng thời đảm bảo để các dân tộc bản địa có thể hiểu và đuợc nhận thức về các thủ tục chính trị, pháp lý, hành chính và qua việc cung cấp phiên dịch hoặc các phuơng tiện hỗ trợ phù hợp khác khi ở nơi cần thiết.Điều 14Các dân tộc bản địa có quyền thiết lập và kiểm soát những hệ thống giáo dục và thiết chế cung ứng giáo dục của họ bằng các ngôn ngữ của riêng họ, theo một cách thức phù họp với những phương pháp văn hoá dạy và học của họ.Các cá nhân người bản địa, đặc biệt là trẻ em có quyền được tham gia vào tất cả các cấp và hình thức giáo dục của quốc gia mà không bị phân biệt đối xử.Các quốc gia phải cùng với những dân tộc bản địa tiến hành các biện pháp hiệu quả để cá nhân người bản địa, đặc biệt là trẻ em kể cả những trẻ em sống ngoài cộng đồng của các em được tiếp cận với giáo dục bằng văn hóa và bằng ngôn ngữ của các em ở những nơi có thể.Điều 15Các dân tộc bản địa có quyền về phẩm giá và đa dạng về văn hóa, truyền thống, lịch sử và nguyện vọng của họ mà phải được thể hiện một cách phù hợp trong giáo dục và thông tin đại chúng.Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hiệu quả, có sự tham vấn và hợp tác của các dân tộc bản địa liên quan, để đấu tranh chống lại định kiến và xóa bỏ phân biệt đối xử, thúc đẩy lòng khoan dung, sự hiểu biết và mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc bản địa và tất cả những thành phần khác trong xã hội.Điều 16Các dân tộc bản địa có quyền thiết lập những phương tiện truyền thông bằng các ngôn ngữ riêng của họ và được tiếp cận tất cả những hình thức thông tin không bản địa mà không bị phân biệt đối xử.Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hiệu quả để đảm bảo các phưong tiện truyền thông của Nhà nước phản ánh được tính đa dạng của văn hóa bản địa. Thông qua sự đảm bảo tự do biểu đạt mà không có sự định kiến nào, các quốc gia cần khuyến khích những phương tiện thông tin của tư nhân phản ánh đầy đủ tính đa dạng của văn hóa bản địaĐiều 17Các cá nhân và dân tộc bản địa có quyền được hưởng thụ đầy đủ tất cả những quyền được ghi nhận trong pháp luật lao động quốc tế và quốc gia được áp dụng.Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp cụ thể với sự tham vấn và hợp tác của các dân tộc bản địa để bảo vệ trẻ em bản địa khỏi bị bóc lột về kinh tế và khỏi bất kể công việc nào gây độc hại hay tổn hại đến việc giáo dục của các em, hay gây nguy hại cho sức khỏe, sự phát triển về thể chất, tinh thần, tâm linh, đạo đức, xã hội của các em, có lưu ý đến tính đặc biệt dễ bị tổn thương của các em và tầm quan trọng của giáo dục đối với việc trao quyền cho các em.Các cá nhân bản địa có quyền không bị phân biệt đối xử về những điều kiện lao động, trong đó có các vấn đề việc làm hay tiền lương.Điều 18Các dân tộc bản địa có quyền tham gia vào việc ra quyết định về các vấn đề có ảnh hưởng tới những quyền của họ, thông qua các đại diện do họ tự lựa chọn theo những thủ tục của riêng họ, cũng như duy trì và phát triển các thiết chế ra quyết định của riêng họ.Điều 19Các quốc gia phải tham vấn và hợp tác một cách thiện chí với những dân tộc bản địa có liên quan thông qua các thiết chế đại diện của riêng họ nhằm đạt được sự thỏa thuận tự nguyện, có thông báo trước của họ trước khi thông qua hay thực hiện những biện pháp lập pháp và hành chính mà có thể ảnh hưởng tới họ.Điều 20Các dân tộc bản địa có quyền duy trì và phát triển những hệ thống hay thiết chế chính trị, kinh tế và xã hội của họ, được bảo đảm thụ hưởng các phương thức tồn tại và phát triển của riêng họ, được tự do tham gia tất cả những hoạt động truyền thống và kinh tế khác của họ.Các dân tộc bản địa khi đã bị tước đoạt những phương tiện tồn tại và phát triển được quyền đền bù công bằng và thỏa đáng.Điều 211. Các dân tộc bản địa có quyền được cải thiện những điều kiện kinh tế và xã hội mà không bị phân biệt đối xử, gồm cả các lĩnh vực giáo dục, việc làm, đào tạo nghề và đào tạo lại, nhà ở, vệ sinh, sức khỏe và an ninh xã hội.2. Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hiệu quả và khi thích hợp, đưa ra các biện pháp đặc biệt để đảm bảo tiếp tục cải thiện điều kiện kinh tế và xã hội. Phải đặc biệt chú ý đến các quyền và nhu cầu đặc biệt của những nguời cao tuổi, phụ nữ, thanh niên trẻ em và nguời tàn tật bản địa.Điều 22Phải đặc biệt chú ý đến những quyền và nhu cầu đặc biệt của nguời cao tuổi, phụ nữ, thanh niên, trẻ em và nguời tàn tật bản địa khi thực hiện Tuyên ngôn này.Các quốc gia phải cùng những dân tộc bản địa tiến hành các biện pháp để đảm bảo cho phụ nữ và trẻ em bản địa đuợc bảo vệ và bảo đảm đầy đủ khỏi tất cả các hình thức thức bạo lực và phân biệt đối xử.Điều 23Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết và xây dựng những ưu tiên và chiến luợc để thực thi quyền phát triển của họ. Đặc biệt họ có quyền chủ động tham gia tích cực vào xây dựng và quyết định các chuơng trình về y tế, nhà ở, những chuơng trình kinh tế và xã hội khác ảnh huởng tới họ và quản lý những chuơng trình đó thông qua các thiết chế riêng của họ càng nhiều càng tốt.Điều 24Các dân tộc bản địa có quyền sử dụng những loại thuốc cổ truyền và duy trì các tập tục y tế của họ, bao gồm việc bảo tồn những loại cây thuốc, động vật và khoáng chất quan trọng làm thuốc. Cá nhân nguời bản địa cũng có quyền tiếp cận tất cả các dịch vụ xã hội và y tế mà không bị phân biệt đối xử.Cá nhân nguời bản địa có quyền bình đẳng đuợc huởng thụ chuẩn mực cao nhất về sức khỏe thể chất và tinh thần. Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm dần thực hiện đầy đủ quyền này.Điều 25Các dân tộc bản địa có quyền duy trì và tăng cuờng những mối quan hệ tâm linh riêng biệt với các đất đai, lãnh thổ, sông nuớc, vùng bờ biển và những tài nguyên khác do họ sở hữu, chiếm giữ, sử dụng từ xưa và nâng cao trách nhiệm của họ cho các thế hệ sau về mặt này.Điều 26Các dân tộc bản địa có quyền đối với những đất đai, lãnh thổ và tài nguyên mà họ sở hữu, chiếm giữ, sử dụng hay có đuợc từ trước.Các dân tộc bản địa có quyền sở hữu, sử dụng, phát triển và kiểm soát những đất đai, lãnh thổ và tài nguyên mà họ đã sở hữu, chiếm hữu hay sử dụng từ xa xưa, cũng như các đất đai, lãnh thổ và tài nguyên mà họ có được.Các quốc gia phải công nhận và bảo vệ về mặt pháp lý đối với những đất đai, lãnh thổ và tài nguyên này. Sự công nhận đó phải được tiến hành với sự tôn trọng thích đáng đối với những phong tục tập quán, truyền thống và hệ thống chiếm hữu đất đai của các dân tộc bản địa liên quan.Điều 27Các quốc gia phải cùng với những dân tộc bản địa liên quan thiết lập và thực hiện một quá trình công bằng, độc lập, không thiên vị, cởi mở và minh bạch, nhằm công nhận thỏa đáng những pháp luật, truyền thống, phong tục tập quán và hệ thống chiếm hữu đất đai của người bản địa, công nhận và xem xét các quyền của những dân tộc bản địa đối với các đất đai, lãnh thổ và tài nguyên của họ, gồm cả những các đất đai, lãnh thổ và tài nguyên mà họ đã sở hữu, chiếm hữu và sử dụng từ trước. Các dân tộc bản địa có quyền tham gia vào quá trình này.Điều 281. Các dân tộc bản địa có quyền được bồi hoàn, theo cách thức mà trong đó có quyền được hoàn trả, hoặc khi không thể hoàn trả thì được đền bù công bằng, thỏa đáng đối với những đất đai, lãnh thổ và tài nguyên thuộc quyền sở hữu của họ theo truyền thống hoặc họ đã sinh sống hay sử dụng, và bị tịch thu, chiếm dụng hoặc gây hư hại mà không có sự đồng thuận tự nguyện và thông báo trước.2. Trừ khi được sự đồng ý của những người liên quan, việc đền bù sẽ được thực hiện dưới hình thức đất đai, lãnh thổ và tài nguyên tương đương về chất lượng, kích thước và địa vị pháp lý hoặc bồi thường tiền mặt hoặc các hình thức bồi đền bù khác.Điều 29Các dân tộc bản địa có quyền được bảo tồn và bảo vệ môi trường và năng suất của những đất đai, hay lãnh thổ và tài nguyên của họ. Các quốc gia phải thiết lập và thực hiện những chương trình hỗ trợ việc bảo tồn và bảo vệ môi trường của các dân tộc bản địa mà không có sự phân biệt đối xử.Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hiệu quả nhằm đảm bảo không có việc lưu trữ hoặc xả các hóa chất độc hại trong phạm vi đất đai, lãnh thổ của những dân tộc bản địa mà không có sự tự nguyện đồng ý và cho phép trước của họ.Các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hiệu quả để đảm bảo khi cần thiết sẽ thực hiện đầy đủ các chương trình giám sát, duy trì và khôi phục sức khỏe cho những dân tộc bản địa được thực hiện như đã thiết lập và thực hiện bởi những người bị ảnh hưởng bởi các các loại vật liệu như vậy.Điều 30Không được triển khai các hoạt động quân sự trên đất đai và trong phạm vi lãnh thổ của những dân tộc bản địa, trừ khi một mối đe doạ to lớn với lợi ích công cộng liên quan, hoặc được sự tự nguyện đồng ý hoặc được yêu cầu bởi chính các dân tộc bản địa liên quan.Các quốc gia phải tiến hành những cuộc tham vấn hữu hiệu với các dân tộc bản địa có liên quan qua những thủ tục đặc biệt và qua các thiết chế đại diện của họ, trước khi sử dụng những đất đai hoặc lãnh thổ của họ cho các hoạt động quân sự.Điều 311. Các dân tộc bản địa có quyền duy trì, kiểm soát, bảo vệ và phát triển những di sản văn hóa, kiến thức truyền thống và các biểu hiện văn hóa truyền thống, cũng như sự thể hiện về khoa học, kỹ thuật và văn hóa của họ, kể cả những nguồn tài nguyên con người và tài nguyên gien, giống cây, thuốc men, kiến thức về tính chất của các quần thể động, thực vật, truyền thống truyền miệng, văn học, hội họa, kiểu dáng, thể thao và trò chơi truyền thống và các hình thức nghệ thuật nghe nhìn và biểu diễn. Họ cũng có quyền duy trì, kiểm soát, bảo vệ và phát triển các tài sản trí tuệ đối với di sản văn hóa, kiến thức và các hình thái văn hóa truyền thống như vậy.2. Cùng với những dân tộc bản địa, các quốc gia phải tiến hành những biện pháp hữu hiệu để công nhận và bảo vệ việc thực thi các quyền này.Điều 32Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết định và xây dựng những ưu tiên và chiến lược để phát triển hoặc sử dụng đất đai, lãnh thổ và các nguồn tài nguyên khác của họ.Các quốc gia phải tham khảo và hợp tác với thiện chí với những dân tộc bản địa liên quan thông qua các thiết chế đại diện của họ để đạt được sự đồng thuận tự nguyện và được thông tin trước khi thông qua bất kỳ dự án nào có ảnh hưởng đến những đất đai hay lãnh thổ, các nguồn tài nguyên của họ, đặc biệt khi có liên quan đến việc phát triển, huy động và khai thác khoáng vật, nguồn nước và các nguồn tài nguyên khác.Các quốc gia phải xây dựng những cơ chế bồi hoàn công bằng và thỏa đáng cho bất kỳ các hoạt động như vậy và phải tiến hành những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu các tác động bất lợi về môi trường, kinh tế, xã hội, văn hóa và tâm linh.Điều 33Các dân tộc bản địa có quyền quyết định bản sắc hay tư cách thành viên của họ theo những truyền thống và tập quán của họ. Điều này không hạn chế quyền của các cá nhân bản địa trong việc có tư cách công dân tại những quốc gia mà họ đang sinh sống.Các dân tộc bản địa có quyền được quyết định những cấu trúc và lựa chọn thành viên của các thiết chế của họ theo với những thủ tục riêng của họ.Điều 34Các dân tộc bản địa có quyền thúc đấy, phát triển và duy trì những cấu trúc thiết chế và các phong tục, tâm linh, truyền thống, thủ tục, tập tục riêng của họ và trong trường hợp có tồn tại thì cả những hệ thống pháp lý hoặc tập quán theo các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.Điều 35Các dân tộc bản địa có quyền quyết định những trách nhiệm của các cá nhân đối với những cộng đồng của họ.Điều 36Các dân tộc bản địa, đặc biệt những dân tộc bị chia cách bởi các biên giới quốc tế có quyền được duy trì và phát triển những mối liên lạc, quan hệ và hợp tác, bao gồm các hoạt động vì những mục đích tâm linh, văn hóa, chính trị, kinh tế và xã hội với riêng các thành viên của họ cũng như với những các dân tộc khác qua biên giới.Các quốc gia thông qua tư vấn và hợp tác với những dân tộc bản địa phải tiến hành các biện pháp để thúc đẩy việc thực hiện và đảm bảo việc thực hiện quyền này.Điều 37Các dân tộc bản địa có quyền công nhận, tuân thủ và thực thi những điều ước, thỏa thuận cũng như các hiệp định mang tính xây dựng khác đã được ký kết với những quốc gia hoặc chủ thể kế tục của họ và được các quốc gia tôn vinh và tôn trọng đối với những điều ước, thỏa thuận và hiệp định khác mang tính xây dựng như vậy.Không có nội dung nào trong Tuyên ngôn này có thể bị hiểu theo nghĩa gây hạn chế hoặc xóa bỏ quyền của các dân tộc bản địa đã được ghi nhận trong các hiệp ước, hiệp định và thỏa thuận mang tính xây dựng khác.Điều 38Các quốc gia phải thông qua tham vấn và hợp tác với những dân tộc bản địa tiến hành các biện pháp thích họp, kể cả những biện pháp lập pháp để đạt được các mục tiêu của Tuyên ngôn này.Điều 39Các dân tộc bản địa có quyền tiếp cận hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật từ những quốc gia và thông qua hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo việc hưởng thụ các quyền đã có trong Tuyên ngôn này.Điều 40Các dân tộc bản địa có quyền tiếp cận quá trình đưa ra quyết định nhanh chóng thông qua những thủ tục công bằng và thỏa đáng để giải quyết các tranh chấp và xung đột với những quốc gia hay các bên khác, cũng như những cơ chế bồi hoàn hiệu quả đối với tất cả các xâm phạm đến những quyền cá nhân và tập thể. Khi đua ra quyết định nhu vậy phải xem xét thỏa đáng đến các tập quán, truyền thống, luật lệ và hệ thống pháp luật của những dân tộc bản địa liên quan và các quyền con nguời quốc tế.Điều 41Các bộ phận và cơ quan chuyên môn trong hệ thống Liên Hiệp Quốc và những tổ chức liên chính phủ khác phải góp phần vào việc hiện thực đầy đủ các điều khoản trong Tuyên ngôn này qua việc huy động hợp tác tài chính và hồ trợ kỹ thuật, bên cạnh những công việc khác. Phải thiết lập các cách thức và biện pháp đảm bảo sự tham gia của những dân tộc bản địa về các vấn đề ảnh huởng đến họ.Điều 42Liên Hiệp Quốc và những cơ quan trực thuộc, bao gồm Diễn đàn thuờng trực về các vấn đề bản địa, các cơ quan chuyên môn, kể cả ở cấp quốc gia và các quốc gia phải thúc đẩy việc tôn trọng và áp dụng đầy đủ những điều khoản của Tuyên ngôn này đồng thời theo dõi tính hiệu quả của nó.Điều 43Các quyền đuợc ghi nhận ở đây tạo thành những chuẩn mực tối thiểu cho sự tồn tại, phẩm giá và thịnh vuợng của các dân tộc bản địa trên thế giới.Điều 44Tất cả những quyền và tự do đuợc ghi nhận ở đây đều đuợc đảm bảo bình đẳng cho các cá nhân nguời bản địa, bất kể nam hay nữ.Điều 45Không có nội dung nào trong Tuyên ngôn này có thể bị hiểu theo nghĩa hạn chế hoặc xóa bỏ các quyền mà những dân tộc bản địa đang có hoặc có thể có trong tuơng lai.Điều 46Không có gì trong Tuyên ngôn này có thể bị hiểu theo nghĩa ngầm cho phép bất kỳ quốc gia, dân tộc, nhóm hoặc cá nhân có quyền tham gia hoặc tiến hành bất kỳ hoạt động nào trái với Hiến chuơng Liên Hiệp Quốc hay đuợc hiểu theo nghĩa cho phép hoặc khuyến khích bất kỳ hành động có thể tách rời hoặc xâm phạm toàn bộ hoặc một phần toàn vẹn về lãnh thổ hay thống nhất về chính trị của các quốc gia độc lập và có chủ quyền.Khi thực hiện các quyền ghi nhận trong Tuyên ngôn này, phải tôn trọng các quyền con nguời và tự do cơ bản. Những hạn chế việc thực hiện các quyền ghi nhận trong Tuyên ngôn này phải do pháp luật quy định và phải phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế về quyền con nguời. Những hạn chế về quyền nhu vậy không đuợc gây nên sự phân biệt đối xử và chỉ đuợc thực hiện khi cần thiết vì mục đích đảm bảo ghi nhận và tôn trọng quyền và tự do của nguời khác và nhằm đáp ứng các yêu cầu về công bằng và bắt buộc nhất của một xã hội dân chủ.Các điều khoản nêu ra trong Tuyên ngôn này phải đuợc giải thích trên cơ sở phù họp với những nguyên tắc công bằng, dân chủ, tôn trọng quyền con nguời, bình đẳng, không phân biệt đối xử, quản lý quốc gia tốt và thiện chí. theo facebook.com  
0 Rating 531 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On April 18, 2018
Minh gi?i ng?n: HI?U ?ÚNG V? RIJA N?GAR   [??t N?n Tri?t H?c ??o AHIÊR-AWAL]     Có vài ý ki?n [r?t ít thôi] cho r?ng Rija N?gar là l? cúng th?n yang mang tính mê tín. Là ý ki?n l? c?n ???c gi?i tán. Xin có ?ôi l?i minh gi?i ng?n và d? hi?u nh? sau:     1. Rija N?gar tên g?i là “l? x? s?”, có m?t t? th?i ti?n tôn giáo Cham, ???c t? ch?c vào ??u n?m l?ch Cham.   ?ó là l? ?ÓN N?M M?I, l? này dành cho t?t c? sinh linh Cham không phân bi?t tôn giáo tín ng??ng.     2. Trong l? Rija N?gar, các bài t?ng ca ???c hát là Damn?i CA NG?I CÔNG ??C vua chúa, anh hùng li?t n? có công v?i non sông ??t n??c, v?i c?ng ??ng.     3. Sau cùng, Rija N?gar tr? v? cúng Th?n Làng là v? có công l?n v?i ??a ph??ng (ví d? Chakleng là Pô Riy?k, Pabbl?p Birau là Pô Kl?ng Kasat...) và NH? ?N ÔNG BÀ T? TIÊN.     C? 3 ?i?u trên: ?ón n?m m?i – Ca ng?i công ??c ng??i có công – Nh? ?n ông bà t? tiên, là cái TH?C c?a l?, và là NHU C?U c?a ??i ?a s? dân t?c trên th? gi?i.   Ta bi?t, không tôn giáo nào “h? vô” nh? Nhà Ph?t: Th? gi?i vô th??ng, hi?n th?c quanh ta là “không”, c? t?m thân t? ??i ta mà m?i ngày ta ch?m bón v? v?i c?ng ch? do ng? u?n h?p thành – là KHÔNG to t??ng. V?y mà khi vào Vi?t Nam, ??o Ph?t c?ng ch?p nh?n t?c th? cúng ông bà t? tiên.   Tín ?? Bà-la-môn bên ?n ?? m?t, thiêu xác, mang h?t xu?ng Sông H?ng là xong n?; nh?ng r?i khi nó qua Cham, Cham d?ng Kut, m?i sinh linh ???c cho ch?a 9 m?nh x??ng trán ??a vào làm d?u v?t ?? con cháu bi?t mà th? cúng, nh? ?n b?c sinh thành, d??ng d?c mình.   Islam vào ??t Cham c?ng h?t. Minh ch?ng rõ nh?t, Ramadan bi?n thành Ram?wan ?? ng??i Cham Bà-ni ???c T?o m?, r?i v? nhà Bbang M?k Kei – cúng ông bà t? tiên; sau ?ó là ti?c tùng [dù là chuy?n ph?] ch? không ch?y t?nh nh? Islam thu?n thành.   Nh?p gia tùy t?c, là v?y.     [1. Không "h? vô" nh? Bà-la-môn ?n, Cham có Kut. 2. Cham Bà-ni Bbang M?k Kei - cúng Ông bà t? tiên trong tháng ??i l? Ram?wan     Inra Sara       Ngu?n: facebook
0 Rating 525 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 30, 2015
theo vovworld.vn   (VOV5) - Dân tộc Chăm thuộc nhóm ngô ngữ Mã Lai - Đa đảo (ngữ hệ Nam Đảo), có quan hệ họ hàng với người Raglai, người Ê Đê, người Chu Ru và người Gia Rai ở Việt Nam. Người Chăm cũng có nhiều nét tương đồng về mặt tộc người với người Indonesia, người Malaisia, người Brunei... ở khu vực Đông Nam Á. Họ là những cư dân bản địa ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ, đã từng kiến tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ. Phụ nữ người Chăm với trang phục truyền thống bên tháp cổ. (Ảnh: vi.wikipedia.org) Nghe nội dung chi tiết tại đây   Dân tộc Chăm ở Việt Nam hiện có hơn 160 nghìn người, sống tập trung ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và một phần ở Phú Yên, Bình Định, An Giang, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh… Người Chăm gồm nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm có những đặc trưng tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa rất khác nhau. Những làng Chăm nằm rải rác ở ven biển Nam Trung Bộ. Có những làng Chăm nằm e ấp bên Thánh đường uy nghiêm. Có làng thâm trầm bên ngôi chùa cổ kính. Có làng thì mọi hoạt động lễ nghi thờ cúng đều được tổ chức ở đền tháp. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy, bởi các làng Chăm này theo các tôn giáo khác nhau. Theo ông Lê Duy Đại, Trưởng phòng Nghiên cứu và sưu tầm văn hóa Việt Nam, bảo tàng Dân tộc học Việt Nam thì người Chăm ở Việt Nam gồm 4 nhóm: Ở Việt Nam, người Chăm, căn cứ theo tôn giáo, người ta phần làm 4 nhóm. Thứ nhất là Chăm Bà La Môn, bây giờ một số nhà khoa học đề nghị gọi là Chăm ảnh hưởng của Bà La Môn giáo, tức Ấn Độ giáo. Nhóm Chăm này chiếm đông nhất. Nhóm Chăm thứ 2 chiếm tương đối nữa là nhóm Chăm Bà Ni, tức là Chăm Hồi giáo cũ. Và nhóm Chăm thứ 3 là Chăm Hồi giáo mới, tức là Chăm Islam. Và nhóm Chăm không theo tôn giáo thế giới nào cả, gọi là nhóm Chăm H’roi.          Nhóm Chăm Bà La Môn và Bà Ni tập trung chủ yếu ở 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Người Chăm Bà La Môn còn tự gọi mình là Chăm gốc, hay Bà Chăm để phân biệt với người Chăm Bà Ni. Người Chăm Bà La Môn theo tín ngưỡng đa thần của Ấn Độ giáo, còn người Chăm Bà Ni theo Hồi giáo, thờ Thánh Ala và thiên sứ Mô-ha-mét. Tuy nhiên, Hồi giáo của người Chăm Bà Ni đã bị bản địa hóa sâu sắc, thống nhất với các yếu tố tín ngưỡng dân gian và cô lập với Hồi giáo thế giới. Nhóm Chăm Islam theo Hồi giáo chính thống, còn gọi là Chăm Hồi giáo mới, để phân biệt với người Chăm Bà Ni theo Hồi giáo cũ. Nhóm này chủ yếu ở An Giang, Tây Ninh, thành phố Hồ Chí Minh… Họ vốn là những người Chăm di cư từ Việt Nam sang Campuchia, và do những nguyên nhân khách quan, họ đã quay trở  về và sinh sống ở khu vực Nam Bộ. Ông Não Đủ, người Chăm Islam ở thôn Văn Lâm 4,  xã Phước Nam, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận so sánh phong tục của người Chăm Bà ni và Chăm Islam: Bên người Hồi giáo Islam, 1 năm là 7 ngày lễ. Trước tháng Ramadan – tháng vào Thánh đường ăn chay và trong 1 tháng đó có nửa tháng, bên Thánh đường có cúng tập thể, đi tạ mộ. Còn bên Bà Ni thì chuẩn bị Tết ăn trong vòng 3 ngày, trước khi ăn tết, họ đi tạ mộ. Đối với ăn chay của Bà Ni là họ ăn chay trong 3 ngày. Sáng sớm họ ăn, rồi nhịn mãi tới 6h chiều mới ăn lại. Chỉ ăn trong 3 ngày. Còn riêng đạo Hồi giáo Islam này là ăn trong vòng 30 ngày. 3h sáng ăn. Tới 4h rưỡi, họ bắt đầu sắm lễ rồi nhịn luôn, nhịn mãi cho tới khoảng 5 rưỡi, 6h, tùy từng ngày, họ mới bắt đầu xả chay. Ban đêm ăn vô tư, thoải mái.           Còn nhóm Chăm H’roi chủ yếu ở Bình Định, Phú Yên, không chịu ảnh hưởng của  tôn giáo nào, họ theo tín ngưỡng nguyên thủy và nhiều nét tương đồng về văn hóa với người Ba Na, người Ê Đê sinh sống xung quanh. Sự khác biệt về tôn giáo đã dẫn đến những khác biệt về văn hóa, phong tục tập quán, đời sống xã hội của các nhóm người Chăm. Ông Lê Duy Đại lấy ví dụ điển hình về sự khác biệt này: Nói chung là về cơ bản, văn hóa truyền thống là giống nhau thôi, còn văn hóa hiện nay có cái khác biệt khá rõ. Ví dụ: nhóm Chăm Bà La Môn và nhóm Chăm Bà Ni theo mẫu hệ, còn nhóm Chăm Islam theo phụ hệ. Cái thứ hai về văn hóa: ăn mặc thì giống nhau thôi, nhưng về nhà cửa thì nhóm Chăm Bà La Môn và Bà Ni ở nhà sàn thấp, nhà truyền thống ấy, hiện nay nhà sàn thấp ở Ninh Thuận và Bình Thuận là không còn nữa đâu. Chúng tôi dựng ở bảo tàng Dân tộc học là theo hồi cố, tức là theo trí nhớ cũ. Sàn thấp cao khoảng 35 – 40 cm thôi. Chăm Islam ở Châu Đốc ở nhà sàn cao. Chăm H’roi cũng ở nhà sàn cao. Những khác biệt này làm nên sự phong phú, đa dạng trong văn hóa, phong tục của người Chăm ở Việt Nam.   Thanh Nga
0 Rating 524 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 30, 2012
Cham Pangdurangga – ngang bướng, đau khổ, kiu hnh v꣠ đầy bất an Văn ha Champa l văn h㠳a đa vui Chịu chơi cả trong đau khổ. Inrasara, Lễ Tẩy trần thng Tư, 2002 顠
0 Rating 510 views 0 likes 0 Comments
Read more
(baobinhdinh.com) Thi Lại hay Thị Nại trn vng biển Quy Nhơn xuất hiện từ thế kỷ X đến XV. Người Champa đ깣 hnh thnh n젪n một thương cảng kh sầm uất ở vng nṠy. Năm 1987, một cuộc khảo st tại vng ngoại vi Quy Nhơn đṣ tm thấy dấu tch th쭠nh Thi Nại cổ – một ta thnh trong lịch sử c⠳ vai tr to lớn trong việc giao thương giữa Champa với bn ngo⪠i. Thnh Thị Nại cổ đng vai trೲ vừa l qun cảng (phࢲng thủ về qun sự) vừa l thương cảng (trao đổi thương mại). Khi vai tr⠲ qun cảng khng cⴲn nữa, người Champa đ xy dựng thương cảng Thi Nại kh㢡 quy m. Tu bu䠴n cc nước trong khu vực đ đến đᣢy bun bn, trao đổi h䡠ng ha với Champa; hng h㠳a Champa cũng từ đy xuất đi cc nước trong khu vực. Tư liệu về những con t⡠u đắm tm thấy tại cc v졹ng biển Pandanan, Borno ở Philippines đ chứng minh điều đ飳. Đ trn 1.000 năm nhưng dấu vết về thương cảng cổ được ghi ch㪩p trong lịch sử vẫn chưa tm thấy. Trn v쪹ng biển Nhơn Hải thuộc TP Quy Nhơn vẫn cn một bờ thnh nằm ch⠬m trong lng biển. Bờ thnh chỉ c⠳ thể thấy được khi thủy triều xuống. Bề mặt bờ thnh phẳng, nhưng độ cao của thnh chưa xࠡc định được. Người dn cho biết, bờ thnh n⠠y đặc nguyn một khối, khng x괢y bằng vật liệu đ hoặc gạch truyền thống m bằng hồ vữa. Điều chưa thể lᠽ giải l lm thế nࠠo trong mi trường nước như vậy, người xưa lại đắp được bờ thnh n䠠y. Hiện bờ thnh vẫn cn khಡ nguyn vẹn v chắc chắn. Đꠢy thật l một kỳ tch v୬ chưa tm thấy ở đu dọc dải miền Trung (v좹ng đất cư tr của người Champa xưa) c loại h곬nh ny. Bờ thnh nối hai bờ vࠡch ni, chnh giữa chừa khoảng trống cho thuyền vꭠo – ra. Tuy chưa trực tiếp khảo st nhưng theo chng tẴi, xt về vị tr th魬 khu vực ny khng cള một yếu tố thuận lợi no cho một cảng v sau lưng lଠ ni dựng đứng, vịnh th quꬡ khim tốn, thuyền vo ra kh꠴ng những qu hẹp m cũng khᠴng thuận lợi. Hay đy l một con đường nối liền giữa hai v⠡ch ni, l c꠴ng trnh phng thủ về qu첢n sự? Nhưng phng thủ sao lại nằm dưới nước? Thật chưa c lời giải đⳡp thỏa đng cho cc nghi vấn đưa ra. Tuy nhiᡪn, dẫu sao đi nữa, đy l một di t⠭ch rất lạ của người Champa. Cng với hệ thống tường thnh bằng đ頡 chạy di trn đỉnh n઺i Phương Mai, dấu tch lạ bờ tường thnh vịnh Nhơn Hải l� một điểm cần ch khi đến thăm quan
0 Rating 509 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On February 18, 2019
L?U D?U CHAMPA T?I C?M L? ?inh Bá Truy?n (ThS., C?u sinh viên ??i h?c Sorbonne (Pháp))và Bùi Ng?c Minh (Phó Giám ??c Trung tâm V?n hóa - Th? thao qu?n C?m L?) Qu?n C?m L?[1], mi?n ??t c? x?a, n?i l?u d?u trong lòng bao ?i?u huy?n bí c?a m?t n?n v?n minh r?c r? ngót 2000 n?m tu?i. N?i ?ây, t? r?t lâu ??i, nh?ng c? dân c?a v??ng qu?c Champa trù phú ?ã bi?t d?n th?y nh?p ?i?n, canh tác lúa chiêm, tr?ng dâu, nuôi t?m, ??m t?, d?t l?a và ?ã ki?n t?o lên nh?ng ??n ?ài, m? tháp nguy nga.[2] Nh?ng th? k? XV trôi qua nh? m?t c?n h?ng th?y, c? h? mu?n nh?n chìm t?t c? m?nh ??t này, ?? r?i ch? còn các ph? tích Chàm r?i rác kh?p n?i. ??n ??u th? k? XX, nh?ng ph? tích Chàm trên ??a bàn qu?n C?m L? ngày nay m?i ???c các nhà Champa h?c l?ng danh nh? Albert Sallet, Henri Parmentier, Edouard Huber… ?? tâm nghiên c?u và chính h? là l?p ng??i ??u tiên vén lên b?c màn bí m?t v? m?t n?n v?n minh c? kính ?ã b? tàn phá, lãng quên. Trong vòng b?n n?m l?n l?i s?u t?m các c? v?t cho B?o tàng Ch?m, t? n?m 1919 ??n 1923, bác s? Sallet ?ã nhi?u l?n ??n C?m L?. T?i thôn C?m B?c (nay thu?c ph??ng Hòa Th? ?ông), ông ?ã phát hi?n ra m?t di ch? Champa khá quan tr?ng. ?ó là Linh S?n, m?t vùng ??i th?p có r?t nhi?u m?nh v?n c? v?t t? m?t ph? tích tháp Ch?m, ??a ?i?m này t?a l?c g?n b?n ?ò ngang C?m L? và kéo dài khá xa.[3] Ngày nay, có th? xác ??nh di ch? Linh S?n n?m trên d?i ??t kéo dài t? Gò Th? lên phía b?c mà ?i?m cu?i c?a nó là Gò Theo. ??a danh Gò Theo là do ??c tr?i t? Gò Thiên, m?t cách g?i v?n t?t c?a Thiên Y A Na, v? Thánh M?u Ponagar c?a ng??i Ch?m.[4] T?i C?m B?c và Hóa Quê[5], Sallet ?ã kh?o sát nh?ng gi?ng c? Ch?m khá b? th?, sâu th?m, thành lát g?ch ?á kiên c?. Các gi?ng n??c này t?n t?i nh? có phép màu, và dùng ?? c?t d?u nh?ng bia ký, nh?ng tác ph?m ?iêu kh?c và c? ?? v?t b?ng vàng.[6] Không may m?n nh? g?ch ?á c?a các gi?ng H?i (H?i là m?t trong nh?ng tên g?i ng??i Ch?m c?a ng??i Vi?t tr??c ?ây, nhi?u phi?n ?á sa th?ch n?n nguyên là b? th? c?a tháp Ch?m C?m B?c b? dân làng xoi th?ng, làm thành lò ?? rang ?? cúng, nhi?u b? Linga mà dân làng cho là “c?i xay m?i” b? ??p ra ?? l?y ?á xây d?ng, g?ch Ch?m t? ph? tích c?ng ???c t?n d?ng làm ???ng.[7] Tuy th?, có m?t s? phi?n ?á H?i t? ph? tích mà dân làng tin là linh thiêng ?ã bi?n thành Th?n Th?ch. Tín ng??ng dân gian th? ?á ph?n ánh quá trình giao l?u, ti?p bi?n v?n hóa Ch?m - Vi?t, nó không ch? ???c b?o l?u t?i C?m L? mà còn hi?u h?u trên nhi?u vùng ??t khác ? Trung k?.[8] Mi?u th? Th?n Th?ch ???c A. Sallet tìm th?y t?i di ch? Linh S?n, trên b? th? có m?t phi?n ?á H?i, hai m?t kh?c ??y ch? Nho, r?t dài, chép rõ danh sách nh?ng ng??i cúng d??ng, ?? niên hi?u D??ng Hòa n?m th? 6 (1648) và niên hi?u Khánh ??c n?m th? 9 (1657), ??u thu?c tri?u vua Lê Th?n Tông.[9] Sallet còn tìm th?y m?t tr? bi?u b?ng ?á c?a tháp Ch?m C?m B?c ?ã tr? thành c?t m?c phân ??nh ranh gi?i gi?a hai làng C?m L? và Hóa Quê, tr? ???c d?ng vào n?m Gia Long th? 12 (1813), ?ang b? vùi ? d??i m??ng. Ông ?? ngh? tr?c nó lên. Tr? ?á này ??t nhiên tr? nên linh thiêng b?i s? ng? nh?n c?a dân làng và nghi?m nhiên tr? thành Ông M?c, ???c dân ??a ph??ng và nh?ng khách qua ???ng dâng h??ng, sùng bái.[10] Ngày nay, tuy ph? tích tháp C?m B?c, Th?n Th?ch t?i mi?u Linh S?n[11] và b? th? Ông M?c ?ã không còn n?a nh?ng tín ng??ng th? ?á v?n còn l?u truy?n t?i C?m L?, b?ng ch?ng là m?m ?á Ông có ??t t??ng Ph?t Bà t?i b? b?c sông C?m L?. ?úng ?êm r?m hay ?êm ba m??i âm l?ch hàng tháng, ??ng trên c?u C?m L? nhìn v? h??ng ??o N?i, ta d? dàng nh?n ra t? h?p m?m ?á Ông - t??ng Ph?t Bà ???c nhi?u tín h?u dùng thuy?n ??n vi?ng, dâng h??ng hoa chiêm bái và th? ?èn hoa ??ng sáng c? m?t sông. ??u nh?ng n?m 80 c?a th? k? XX, do tác ??ng c?a dòng ch?y và s? s?t l? mà m?t m?m ?á ?en tr?i lên t?i v? trí hi?n th?y. Tr?i qua vài mùa l? l?t n?a, m?m ?á v?n ??ng nguyên ch? c?, quá trình “thiêng hóa” di?n ra và th? là dân ??a ph??ng b?t ??u sùng kính m?m ?á. Ban ??u h? ch? ??t m?t l? h??ng lên trên, d?n dà d?ng thêm t??ng Ph?t Bà. Chính quy?n s? t?i th?i ?ó, v?i lý do bài tr? mê tín d? ?oan, ?ã cho di d?i t??ng Ph?t Bà t? m?m ?á v? chùa C?m Nam. Vài n?m sau, th?y không ai ?? ??ng ??n, dân ??a ph??ng th?nh t??ng Ph?t Bà ra l?i m?m ?á, ti?ng lành ??n xa, t? h?p m?m ?á - t??ng Ph?t Bà ngày càng ?ông khách hành h??ng. T?t nhiên, ?? góp ph?n t?ng ?? linh thiêng cho t? h?p này, nh?ng câu chuy?n truy?n mi?ng trong dân chúng, có khi ? ch? hay lúc trà d? t?u h?u, k? v? nh?ng s? không may mà các v? quan ch?c có liên quan ??n v? di d?i g?p ph?i, nh?ng s? th?t ?úng ??n ?âu, ch?ng ai có th? xác minh ???c. Th?t ra mô th?c k?t h?p th? m?m ?á và t??ng Ph?t Bà ? ?ây có ngu?n g?c t? mô th?c th? ?á - th? M?u c?a ng??i Vi?t ? x? ?àng Trong t? th? k? XVI, mà mô th?c th? ?á - th? M?u l?i có ngu?n g?c t? vi?c th? Linga - Yoni.[12] Tóm l?i, hi?n t??ng th? m?m ?á - t??ng Ph?t Bà t?i b? sông C?m L? ngày nay ch?ng qua ch? là s? ph?n ánh m?t cách chính xác quá trình ti?p bi?n v?n hóa tín ng??ng ph?n th?c t? ng??i Ch?m x?a. Nh?ng c?ng qua hi?n t??ng này, m?i th?y tín ng??ng dân gian Ch?m - Vi?t nó có s?c s?ng m?nh m? và b?n lâu ??n nh??ng nào (trong khi ?ó ??n ?ài, m? tháp ??u ?ã bi?n m?t!). Nh?ng di ch? Champa th??ng g?n li?n v?i nh?ng l?i ??n th?i v? các kho vàng ???c ng??i Ch?m ?em táng theo. ?ã có nhi?u tr??ng h?p ghi nh?n tìm ???c vàng H?i. Ch?ng h?n: n?m 1903, t?i M? S?n, Parmentier ?ào ???c m?t cái chum ??ng m?t b? s?u t?p toàn ?? trang s?c b?ng vàng; t?i La Th?, ng??i ta c?ng thu nh?t t? m?t cu?c khai qu?t nhi?u ??a b?c và các món trang s?c b?ng vàng.[13] T?i làng Hóa Quê, ??u th? k? XX, nhà bi ký h?c tr? danh Edouard Huber, giáo s? c?a tr??ng Vi?n ?ông Bác C? (E.F.E.O.), ?i kh?o sát m?t t?m bia Ch?m, ông ta ??nh phát quang xung quanh m?t ngôi mi?u t?a l?c trên “c?n Dàng”[14] ?? tìm c? v?t, t?c thì ti?ng ??n lan tràn, ??n t?n ?à N?ng r?ng ? ?ó có ?? lo?i thú v?t khác nhau ???c làm t? vàng kh?i, nào bò, rùa, nai ???c chôn kh?p d??i ??t, và ng??i ta còn có th? nh?t ???c các qu? th?o m?c làm b?ng kim lo?i quý nh? vàng, b?c.[15 ] Trong kho?ng 25 n?m tr? l?i ?ây, t?i khu v?c Gò Theo thu?c di ch? ph? tích tháp C?m B?c mà Sallet ?ã t?ng kh?o sát, ?ã có b?n tr??ng h?p ghi nh?n là ?ã ?ào ???c vàng Ch?m. Kho?ng n?m 1989, ba anh em H., L., N. r? nhau ?ào nh?ng ngôi m? Chàm có hình mu rùa ?? ki?m ?? tùy táng, bán l?y ti?n. H? ?ào ???c m?t t?m bia m?, bèn thuê ng??i d?ch, ai ng? ?ó là b?n ?? ch? ??n kho báu ???c chôn trong m?t ngôi m? khác n?m cách ??y kho?ng 300 m v? h??ng ?ông b?c. Nh? th?, ba ng??i ?ã tìm ???c r?t nhi?u vàng b?c trong m?. Bi?t tin, nhi?u ng??i n?a c?ng tìm vào bên trong, h? nh?t ???c r?t nhi?u ??ng ti?n th?i x?a còn r?i vãi và 3 chi?c ?èn d?u ph?ng Ch?m. Trúng ???c kho báu, ba anh em H., L., N. tr? nên sung túc. Nh?ng “?n vàng H?i ?t r?i n??c m?t”, ch? ?? vài n?m sau, n?i b? anh em b?t hòa, con cái tr? nên h? h?ng, gia c?nh sa sút và h? ?ã ph?i bán nhà ?i n?i khác. G?n ?ó, anh P. c?ng ?ào ???c h? ??ng vàng chôn ngay d??i kim t?nh kho?ng 20 cm. T? ngày có vàng, cu?c s?ng gia ?ình anh P. có khá lên, nh?ng ch?ng ???c bao lâu anh ta qua ??i trong m?t v? tai n?n. Tr??ng h?p t??ng t?, cách ?ây kho?ng 10 n?m, ông N. trong m?t l?n x?i ??t tr?ng rau, vô tình ?ào trúng m?t bu?ng chu?i b?ng vàng, tuy ông N. ?ã ?em s? vàng ?i làm t? thi?n, nh?ng ít n?m sau ?ó ông ta v?n b? ??ng xe và n?m li?t gi??ng cho ??n nay.[16 ] Nh?ng tr??ng h?p ? Gò Theo làm chúng tôi nh? ??n hoàn c?nh c?a ông Trà V?n X, nhà ông ? ngay trên n?n ph? tích Ph?t vi?n ??ng D??ng (nay thu?c huy?n Th?ng Bình, Qu?ng Nam). N?m 1978, trong lúc ?ang ?ào ??t ?? làm chu?ng heo thì ông Trà phát hi?n ra b?c t??ng B? tát Laks?m?ndra-Loke?vara b?ng ??ng thau.[17] Hai m??i n?m sau, ch?ng nh?ng hai ??a con c?a ông ??u l?n l??t qua ??i vì tai n?n giao thông mà b?n thân ông c?ng b? ??ng xe ch?n th??ng s? não, hi?n nay gia ?ình ch? còn hai v? ch?ng thui th?i s?ng qua ngày trong c?nh cô hàn.[18] Ng?m l?i câu “?n vàng H?i ?t r?i n??c m?t” qu? ch?ng sai. G?n ?ây nh?t, t?i Gò Theo, vào ngày 10.4.2012, ?ã có m?t ng??i ?i rà ph? li?u ?ào ???c vàng H?i. ??a ?i?m phát hi?n h? vàng là lô ??t ?ang xây nhà c?a ch? Nguy?n Th? Thùy T. thu?c t? 34, ph??ng Hòa Th? ?ông. Ng??i rà ph? li?u dùng cu?c ?ào lên m?t n?p ??ng có 5 l?p (m?i l?p dày kho?ng 4 mm) ?ã b? ôxy hóa và m?t h? g?m Ch?m bên d??i ?ã b? v?, bên trong có ch?a 6 kg kim lo?i màu vàng. Ng??i rà ph? li?u thu gom t?t c? và ch? ?i m?t d?ng, ??n nay v?n ch?a rõ tung tích. Khi ng??i này v?a r?i hi?n tr??ng, ng??i dân ?em m?t s? m?nh kim lo?i r?i vãi ?i th? ? ti?m kim hoàn g?n ?ó và b?t ng? nh?n ra ?ó là vàng, nh?ng tu?i vàng còn non. Ngay sau ?ó, ng??i dân xung quanh kéo ??n c? tìm nh?ng m?nh v?n còn l?i và mang ?i bán ???c t?ng c?ng g?n 10 tri?u ??ng.S? vi?c qua ?i, ch? nhà cho làm móng ti?p và ??n nay nhà ?ã xây xong. N?m trên ??a bàn ph??ng Hòa Th? ?ông còn có m?t di tích Champa n?a, ?ó là n?n móng tháp Phong L?. Vào ??u th? k? XX, ph? tích tháp Phong L? l?t th?m trong khu v?c ??n ?i?n chè, cà phê c?a ông ch? Camille Paris.[19] T?i ?ây, n?m 1900, ông ta ?ã s?u t?m ???c khá nhi?u c? v?t Ch?m và ?em bán cho m?t ng??i Pháp, ng??i này bán ti?p cho m?t ng??i Hoa. Tr??c l?i ?? ngh? mua l?i t? ki?n trúc s? Parmentier, ng??i ch? m?i c?a b? s?u t?p ?ã vui lòng hi?n t?ng toàn b? s? c? v?t do Paris thu th?p cho tr??ng Vi?n ?ông Bác C?. Theo Parmentier thì ?a ph?n các c? v?t có ngu?n g?c t? m?t tháp Ch?m b? s?p thành gò nh? trong khu v?c ??n ?i?n và ch? ??n ?i?n ?ã l?y g?ch t? ?ó ?? xây nhà.[20] N?m 1909, Parmentier ?ã th?ng kê ???c h?n 20 món c? v?t mang v? t? Phong L?, trong ?ó có nh?ng tác ph?m ?iêu kh?c tuy?t ??p nh? b? Linga bi?u t??ng d??ng v?t c?a th?n Siva, t??ng bò th?n Nandin, phù ?iêu th?n Siva múa gi?a ?àn r?n th?n Naga theo âm ?i?u thoát ra t? b?n nh?c công, phù ?iêu th?n Vishnu có ?ôi môi dày d??i cánh m?i n? to, phù ?iêu ?oàn tiên n? Apsara thanh tao siêu thoát… C?ng trong n?m ?ó, Parmentier ?ã ??n kh?o sát ph? tích tháp Phong L? và nh?n ??nh t?i ?ây có th? ?ã có m?t qu?n th? g?m nhi?u công trình ki?n trúc khác nhau. Ngoài ra ông còn th?y có r?t nhi?u g?ch Ch?m ?ã ???c dùng ?? xây nhà và lát c? m?t con ???ng d?n ??n b? sông.[21] Hi?n nay, trong s? h?n 20 món c? v?t tìm th?y t?i Phong L? có 9 tác ph?m ?iêu kh?c ???c tr?ng bày t?i B?o tàng ?iêu kh?c Ch?m ?à N?ng. Trong khi b? s?u t?p c? v?t Phong L? ???c nhi?u ng??i bi?t ??n thì n?n móng c?a ph? tích tháp Phong L? b? vùi sâu vào lòng ??t. Nh?ng t??ng nó ?ã m?t tích thì tháng 4.2011, gia ?ình ông Ông V?n T?n và bà Lê Th? Út, trú t?i xóm C?m (t? 3, ph??ng Hòa Th? ?ông) khi ?ào móng làm nhà t?i lô ??t s? 173 và 101 ?ã phát hi?n ra m?t pho t??ng c? ??u ng??i mình chim (t??ng th?n ?i?u Kinnari trong th?n tho?i ?n giáo) và nhi?u g?ch Ch?m. Ngay sau ?ó, B?o tàng ?iêu kh?c Ch?m ?ã th?c hi?n khai qu?t kh?n c?p ??t 1. K?t qu? s? b? xác ??nh ?ây là n?n móng tháp Phong L? trong qu?n th? tháp Ch?m Hóa Quê. ?oàn ?ã khai qu?t 5 h? v?i di?n tích kho?ng 206 m2, phát hi?n ???c tháp c?ng và b?t ??u l? m?t ph?n c?a tháp chính. ??n tháng 8.2012, B?o tàng ?iêu kh?c Ch?m ?à N?ng ph?i h?p v?i các nhà kh?o c? c?a Tr??ng ??i h?c Khoa h?c Xã h?i và Nhân v?n (??i h?c Qu?c gia Hà N?i) ti?n hành khai qu?t ??t 2. Quá trình khai qu?t ?ã làm l? rõ quy mô, c?u trúc chân móng c?a m?t tòa tháp Ch?m r?t l?n, chân móng có hình ch? Th?p, t? c?a ?ông ??n c?a Tây có chi?u dài 23,15 m, và t? c?a B?c ??n c?a Nam có chi?u dài 19,3 m. T? móng t??ng ?ông ??n móng t??ng Tây dài 15,85 m và t? móng t??ng B?c ??n móng t??ng Nam dài 16,15 m. ??c bi?t ?oàn ?ã phát hi?n ra h? thiêng n?i ??t b? th? b? Linga-Yoni bi?u t??ng c?a th?n Siva, ?ây là h? thiêng có kích th??c l?n nh?t trong các h? thiêng c?a ??n tháp Ch?m ???c phát hi?n ??n th?i ?i?m này. Ngoài ra, d??i ph?n tháp chính còn có 8 ô khám, m?i ô ??u có ch?a cát, m?t viên g?ch hình vuông ??t trên m?t hòn ?á cu?i và d??i cùng là hai viên ?á th?ch anh có nhi?u ??u nh?n. Hi?n nay công tác khai qu?t t?i di tích Ch?m Phong L? ?ã t?m d?ng, ch?c s? có m?t d? án khai qu?t, kh?o c? h?c quy mô l?n trên di?n r?ng ?? ti?p t?c gi?i mã nh?ng bí ?n d??i n?n tháp. N?m k? phía ?ông c?a ph??ng Hòa Th? ?ông là ph??ng Khuê Trung, n?i ?ây có m?t di ch? Champa khá n?i ti?ng là ph? tích tháp Hóa Quê (nay thu?c t? 20, Bình Hòa). ??u th? k? XX, ông Rougier, tham tá h?ng 2 tòa Công s? H?i An, ?ã tìm ra di ch? này t?i “c?n Dàng”, ??ng th?i phát hi?n m?t t?m bia Ch?m b?n m?t.[22] Ngay sau ?ó, giáo s? Huber ?ã ??n nghiên c?u, phiên âm Latinh và d?ch v?n bia Hóa Quê ra Pháp ng?, toàn b? công trình này sau ?ó ???c ??ng trên t?p san c?a tr??ng Vi?n ?ông Bác C?, s? XI, n?m 1911. Bia Hóa Quê làm b?ng ?á sa th?ch, cao 120 cm, r?ng 63 cm và dày 30 cm, b?n m?t bia ??u có v?n kh?c: M?t A (?ông) có 17 dòng ch? b?ng Ph?n ng?, hành v?n theo th? thi k?.- M?t B (Tây) có 19 dòng ch? b?ng Ph?n ng?, theo th? thi k? và v?n xuôi.- M?t C (B?c) có 17 dòng ch? b?ng Ph?n ng?, theo th? v?n xuôi.- M?t D (Nam) có 19 dòng ch? b?ng Ch?m ng? c? ??i theo th? v?n v?n. Theo nh? v?n bia, vào cu?i th? k? th? IX, ??u th? k? th? X, m?t gia ?ình Ch?m quy?n quý ?ã d?ng lên ba ngôi tháp, m?t t?i ??a ?i?m d?ng bia và hai cái còn l?i t?i vùng ??t lân c?n xung quanh ?ó. Trên bia có kh?c b?n m?c th?i gian, ?ó là n?m 820, 829, 830 và 831 niên l?ch Saka. Ng??i Ch?m dùng l?ch Saka, m?t lo?i l?ch c? ?n ??. K? nguyên Saka so v?i Công l?ch b?t ??u tính sau Thiên Chúa giáng sinh 78 n?m, v?y b?n m?c th?i gian t??ng ?ng là n?m 898, 907, 908 và 909 Công nguyên. M?c th?i gian ??u tiên là d??i tri?u vua Jaya Sim?havarman I, và ba m?c còn l?i thu?c tri?u vua Bhadravarman II. M?t ??u tiên v?n bia kh?c ??y m?t l?i c?u kh?n dài ??n th?n Siva, r?i ??n b?n kh? th? ca ng?i công ??c v? vua ?ang tr? vì Bhadravarman, ng??i ???c sánh ngang v?i v? vua Yudhis?t?hira trong thiên anh hùng ca Mahbh?rata c?a ng??i Hindu. Nh?ng m?t ti?p theo là nh?ng l?i tán t?ng ??n m?t gia ?ình hoàng thân có quan h? r?t g?n v?i hoàng gia và có quê quán ? khu v?c xung quanh n?i ??t bia (C?m L? ngày nay), ?ây là môn phi?t ?ã d?ng lên c?m tháp Hóa Quê. Ng??i ch?ng có t??c hi?u ?jñ? (Hoàng thân), tên là S?rthav?ha, ?ã k?t hôn v?i bà Pu Po Ku Rudrapura. Hoàng thân S?rthav?ha là em v? vua Indravarman II c?a v??ng tri?u ??ng D??ng hùng m?nh, và c?ng là cháu ru?t c?a vua Rudravarman (ông n?i c?a vua Indravarman II). V? hoàng thân S?rthav?ha có m?t cô con gái, v??ng h?u Ugradev?, ng??i ?ã k?t hôn v?i v? vua ?ang tr? vì Bhadravarman II, và có ba công t?: Mah?s?manta, Narendranr?pavitra, Jayendrapati (xem Ph? h? v??ng tri?u ??ng D??ng - Indrapura ? d??i ?ây). T?t c? ba v? công t? này ??u ?ang gi? nh?ng ch?c v? cao c?p bên c?nh vua Bhadravarman II. V? tam công t?, quan Th??ng th? Jayendrapati, là m?t h?c gi? uyên bác. Chính ông là ng??i ?ã so?n ra nh?ng bài thi k? và v?n xuôi cho chín t?m bia ???c d?ng tr??c các tháp Ch?m: hai t?m ???c d?ng b?i vua Jaya Sim?havarman I và b?y t?m t? vua Bhadravarman II.[23] V?n bia còn cho chúng ta bi?t ?? th??ng công so?n chín bài ký, vua Bhadravarman II ?ã ban cho Th??ng th? Jayendrapati m?t c? ki?u, m?t cái l?ng b?ng lông công, m?t bao ki?m b?ng vàng, nhi?u bình s? có quai và bình g?m l?n, m?t cái ??a b?ng b?c, m?t ?ai th?t l?ng, nhi?u khuyên tai và vòng tay b?ng vàng, m?t c?p váy b?ng l?a ....[24] Theo nh? v?n bia, v? c?a Hoàng thân S?rthav?ha có t??c hi?u là Pu Po Ku (N? Thánh ch?) và mang tên Rudrapura (thành ph? th?n Bão t?), Pu Po Ku Rudrapura có ngh?a là N? Thánh ch? thành ph? th?n Bão t?, mà b?n quán c?a gia ?ình S?rthav?ha và Pu Po Ku Rudrapura là khu v?c lân c?n xung quanh ??a ?i?m d?ng bia Hóa Quê, t? ?ó th? bi?t r?ng vào cu?i th? k? th? IX, ??u th? k? th? X vùng ??t C?m L? có danh x?ng là Rudrapura - thành ph? Th?n Bão t?.[25] Tr?i qua h?n ngàn n?m, khu ??t n?i tháp Hóa Quê t?a l?c nay tr? thành Khu di tích l?ch s? v?n hóa Khuê Trung bao g?m ph? tích tháp Hóa Quê, mi?u Bà, gi?ng Ch?m, nhà th? Ti?n Hi?n và ngh?a tr?ng Hòa Vang. G?n ?ây, khi phát quang khu v?c này ng??i ta l?i tìm th?y m?t b? Yoni kích th??c 1 m x 0,8 m và m?t t??ng th?n Gane?a ?ã m?t m?t tay cao 55 cm, hi?n nay b? và t??ng ???c tr?ng bày t?i B?o tàng L?ch s? ?à N?ng. Sau mi?u Bà 100 m, có m?t ph?n b? th? Linga ch?m kh?c nh?ng d?i xo?n theo phong cách ??ng D??ng. Ch?c ch?n là dân làng ?ã t?n d?ng g?ch ?á t? ph? tích ?? xây mi?u, r?t có kh? n?ng móng tháp n?m ngay d??i mi?u. Trong mi?u Bà, th?y th? b?n pho t??ng Ch?m có ngu?n g?c ?n giáo ?ã ???c Vi?t hóa b?ng cách ??p th?ch cao, tô màu, ??i mão, choàng y ?? tr? thành Th?n M?u. May còn m?t pho t??ng bên trái ngoài cùng mà ??u ch?a b? tô màu, chúng tôi nh?n ra ngay là ??u th?n Kum?ra (con trai th?n Siva), m?t v? nam th?n Ch?m ?ã ???c s?c phong thành Bà Th? (!). ?i?u k? l? là trong mi?u ch? có b?n pho t??ng mà l?i có bài v? kèm s?c phong ??n n?m Bà t??ng ?ng v?i Ng? Hành. T?i sao m?t nam th?n Ch?m l?i bi?n thành m?t n? th?n Vi?t? ?ó là do tín ng??ng th? M?u c?a ng??i Vi?t. Vào th? k? XV, XVI, trên ???ng nam ti?n, h? th?y m?t pho t??ng Ch?m nào có khuôn m?t gi?ng ph? n? thì ng??i Vi?t s? ??t ngay lên bàn th? và nó tr? thành nh?ng Bà Vú, Bà H?i, Bà M?, Bà Ph?t, Bà ?á, Bà L?i, Bà Vàng, Bà Ng?c, Bà Thiên, Bà Thai D??ng…[26] và tr??ng h?p ? làng Hóa Quê là Bà Ng? Hành. Tr??c mi?u, ngay phía bên trái, có m?t gi?ng Ch?m vuông v?c tuy?t ??p, tr? gi?ng và thành gi?ng ???c ghép t? các phi?n ?á sa th?ch m?t cách tinh x?o. Vì ng??i Ch?m c?n dùng n??c ?? làm nghi l? th? t?y Linga nên niên ??i c?a gi?ng ?t ph?i trùng v?i tháp Hóa Quê, h?n ngàn n?m. Nh? nh?ng dòng Ph?n ng? trên v?n bia Hóa Quê do quan Th??ng th? tri?u ??ng D??ng Jayendrapati so?n, và nh? b?n d?ch sang Pháp ng? c?a giáo s? Huber nên chúng ta có th? bi?t vào cu?i th? k? th? IX, ??u th? k? th? X, gia ?ình Hoàng thân S?rthav?ha và N? Thánh ch? Rudrapura, ch? nhân c?a m?nh ??t trù phú Rudrapura - thành ph? th?n Bão t? [27] - mà ngày nay mang tên C?m L?, ?ã d?ng lên c?m tháp Hóa Quê. C?m g?m ba tháp g?n nhau, ?ó là tháp ?r?-Mah?rudra (C?m B?c) th? Hoàng thân S?rthav?ha vào n?m 898, tháp ?r?-Mah??ivalin?ge?vara (Phong L?) th? Parame?vara vào n?m 907 và tháp Bhagavat? (Hóa Quê) th? N? Thánh ch? Rudrapura vào n?m 908.[28] Nh?ng ti?c thay, t?t c? ??u ?ã s?p ?? hoàn toàn. C?n c? m?c th?i gian kh?c trên bia và trên c? s? nghiên c?u các di tích, có th? kh?ng ??nh c?m tháp Hóa Quê ???c xây d?ng theo phong cách ??ng D??ng. ??n nay, chúng ta ?ã xác ??nh chính xác v? trí n?n tháp Hóa Quê là mi?u Bà, t? 20 Bình Hòa, ph??ng Khuê Trung và n?n tháp Phong L? là lô ??t s? 173, 101, xóm C?m, t? 3, ph??ng Hòa Th? ?ông, nh?ng v?n ch?a bi?t ?ích xác v? trí n?n móng tháp C?m B?c, nó v?n n?m ?âu ?ó trong lòng ??t Linh S?n. Ngoài di tích c?m tháp Hóa Quê, ??u th? k? XX, t?i làng Hòa An (nay thu?c ph??ng Hòa An, qu?n C?m L?), Parmentier còn tìm th?y m?t t??ng ?á có t? th? ng?i x?m và nh?ng ??ng ?? nát t? g?ch ?á xây vòm c?a m?t tháp Ch?m.[29] Ngày nay, m?t s? ph? tích c?a tháp Hòa An v?n còn ???c l?u gi? t?i chùa An S?n (t? 15, ph??ng Hòa An, qu?n C?m L?). V? trí c?a chùa n?m ngay d??i chân núi Ph??c T??ng[30] và chùa ???c d?ng trên n?n m?t tháp Ch?m vào kho?ng gi?a th? k? XIX. B?ng qua tam quan, ??n gi?a sân chùa còn th?y hai tr? c?a b?ng ?á sa th?ch có ch?m kh?c nh?ng d?i xo?n theo phong cách ??ng D??ng ?ang ???c t?n d?ng làm hai tr? t?a cho m?t c?t c? (!). Bên trái chùa, th?y có m?t b? th? Linga hình vuông, trên m?t có xu?t hi?n v?t n?t, c?nh ?ó có hai tr? bi?u b?ng ?á và nh?ng phi?n ?á dày dùng làm ?? cho các tr? bi?u. B? th? và nh?ng phi?n ?á này ???c nhà chùa b? trí thành m?t b? bàn gh? ?á dùng ?? ti?p khách th?p ph??ng (!). Cách ?ó không xa v? h??ng tây b?c là m?t gi?ng Ch?m hình tròn, thành gi?ng ???c ghép t? nh?ng viên ?á sa th?ch hình ch? nh?t. Trong s? các ph? tích còn l?i, ??c bi?t còn có m?t t??ng nam th?n, ???c th? trong m?t ngôi mi?u nh?, nh?ng t??ng ?ã m?t ??u và b? ??p xi m?ng t?o thành ??u c?a m?t v? hòa th??ng nào ?ó (!). T? th? ng?i c?a pho t??ng này làm ta liên t??ng ??n t??ng nam th?n ?ang tr?ng bày trên ?ài th? thu?c Ph?t vi?n ??ng D??ng (Vih?ra Loke?vara) t?i B?o tàng ?iêu kh?c Ch?m ?à N?ng. Nh?ng gì còn sót l?i ? chùa An S?n cho th?y tháp Hòa An có cùng niên ??i v?i c?m tháp Hóa Quê, cu?i th? k? th? IX, ??u th? k? th? X. Qua vi?c kh?o sát nh?ng ph? tích tháp Ch?m t?i qu?n C?m L? ngày nay, chúng ta có th? hình dung ra di?n m?o và quy mô c?a thành Rudrapura. “Sông Thiêng” c?a thành là sông C?m L?, “núi Thiêng” c?a thành là núi Ph??c T??ng. Trung tâm tôn giáo c?a thành ??t t?i Hòa An và trung tâm chính tr? t?i khu v?c C?m B?c, Phong L?, Hóa Quê (ph??ng Hòa Th? ?ông và ph??ng Khuê Trung ngày nay). Theo motif c?a nh?ng thành ph? (pura) ???c hình thành trên các l?u v?c sông nh?, ch?y trên tri?n d?c ??ng, ng?n cách b?i núi non t?i vùng ?ông Nam Á th?i ti?n s? do Bennet Bronson ?úc k?t[31], thì thành Rudrapura ?t có m?t c?ng th? ?óng vai trò trung tâm kinh t? - th??ng m?i. Ch?c ch?n c?ng th? này ph?i n?m g?n ??a ?i?m h?p l?u c?a ba con sông C?m L?, V?nh ?i?n và C? Cò. R?t có kh? n?ng ?ó là Hiên c?ng[32], m?t c?ng c? n?m t?i làng N?i Hiên Tây (nay thu?c ph??ng Bình Hiên, qu?n H?i Châu) và có th? có thêm m?t ti?n c?ng ?óng t?i làng N?i Hiên ?ông (nay thu?c ph??ng N?i Hiên ?ông, qu?n S?n Trà). Nh? v?y thành Rudrapura vào cu?i th? k? th? IX, ??u th? k? th? X có ??a gi?i khá r?ng, nó b?t ??u t? làng Hòa An d??i chân núi Ph??c T??ng tr?i xu?ng C?m L?, r?i kéo dài ??n t?n N?i Hiên.[33] ?ã có m?t tòa thành Ch?m t?n t?i cách ?ây h?n 1000 n?m mà nh?ng ph? tích c?a nó ?ang n?m r?i rác kh?p n?i trên ??a bàn qu?n C?m L?. Hy v?ng vào m?t ngày nào ?ó, t?t c? các chân móng tháp s? ???c phát l?, ??n lúc ?ó chúng ta l?i có d?p khám phá thêm nhi?u ?i?u k? di?u v? m?t n?n v?n minh huy?n bí này. Nh?ng l?u d?u Champa t?i C?m L? ngày nay ?âu ch? có nh?ng phi?n ?á, t??ng ?á hay móng g?ch H?i ?? chói mà còn là ni?m tin dai d?ng trong dân gian v? th?n linh, ma qu? và n?i ám ?nh tri?n miên v? nh?ng l?i nguy?n ??n t? cõi h? vô. Cái tín ng??ng thu?n c?m tính v? m?t quá kh? H?i ??y bí nhi?m d??ng nh? v?n t?n t?i mãi trong tâm th?c c?a m?i m?t con ng??i vùng “C?m giang L? th?y” này… Chú thích 1 C?m L? nay là danh x?ng c?a m?t qu?n thu?c thành ph? ?à N?ng. C?m L? (? ?) theo Hán Vi?t t? ?i?n trích d?n (www.hanviet.org) thì ch? C?m (?) trong t? c?m tú (? ?: t??i ??p) và ch? L? (?) trong t? l? chi (? ?: cây v?i), C?m L? ngh?a là “Cây v?i t??i ??p”. T??ng truy?n, danh x?ng C?m L? b?t ngu?n t? “C?m giang L? th?y” (? ? ? ?). N??c sông C?m ng?t nh? trái cây v?i hay là hai bên b? sông C?m có nhi?u cây v?i mà có tích này ch?ng? Theo Ô châu c?n l?c c?a D??ng V?n An (Hu?: Thu?n Hóa, 1992), vào ??i vua Lê Anh Tông, n?m Tân d?u, niên hi?u Chính Tr? th? 4 (1561), C?m L? là m?t trong 66 xã c?a huy?n ?i?n Bàn. Tr??c n?m 1796, làng C?m L? hoàn toàn n?m phía nam sông C?m L?. Sau tr?n l?t n?m Bính Thìn (1796), lý tr??ng làng C?m L? th?y vùng ??t nam sông C?m L? ?m th?p bèn ?i xin lý tr??ng làng Bình Kh??ng (Bình Thái ngày nay) ? phía b?c sông, cho dân làng C?m L? ??n ?ó c? trú. ???c s? ??ng ý c?a làng Bình Kh??ng, dân làng C?m L? t? phía nam v??t sông sang phía b?c, khai phá 3 gò ??t hoang là Gò Th?, Gò Tràm và Gò Theo ?? “tái ??nh c?”. T? ?ó làng C?m L? chia thành C?m L? Nam thôn và C?m L? B?c thôn. 2 Maspéro, Le Royaume de Champa, (Paris et Bruxelles: Les Éditions G. Van Oest, 1928), 35-41.3 Nguyên v?n: “Linh-S?n ? ?, de C?m-L? B?c-Thôn ? ? ? ?, canton de Bình-Thái ? ? ?, huy?n de Hòa-Vang ? ? ?. Cette colline qui s’arrête auprès du bac de C?m-L?, s’étend fort loin: les débris qu’elle montre témoignent d’un important emplacement”. D?n theo: Sallet, “Les Souvernirs Chams dans le Folk-lore et les Croyances Annamites du Quang-Nam”, Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H.), No. 2/1923, 204. ??a danh này ngày nay có tên Trung S?n x?, chúng tôi nghi ng? Sallet chép Linh S?n là ch?a ?úng, b?i t? th? k? XVIII, vùng ??t này ?ã có tên Trung S?n. D?n theo: Phan Khoang, Vi?t S? x? ?àng trong, (Hà N?i: V?n h?c, 2000), 209.4 ?ào Thái Hanh, “La déesse Thiên-Y-A-Na”, B.A.V.H., No. 2/1914, 163. Gò Theo, ?i?m cu?i c?a di ch? Linh S?n, là vùng ??t có t? c?n: phía ?ông giáp x? ??t B?c Thu?n, phía b?c giáp ?ông Ph??c, phía tây giáp qu?c l? 1A, phía nam giáp thôn Phong B?c (nay là các t? t? 34 ??n 37, ph??ng Hòa Th? ?ông).5 Hóa Quê (? ?), ??i thành Hóa Khuê (? ?, theo Ô châu c?n l?c c?a D??ng V?n An, vào ??i vua Lê Anh Tông, n?m Tân d?u, niên hi?u Chính Tr? th? 4 (1561), Hóa Khuê là m?t trong 66 xã c?a huy?n ?i?n Bàn, v? sau chia thành ba làng Hóa Khuê ?ông, Hóa Khuê Tây và Hóa Khuê Trung (Khuê Trung).6, 7, 9, 13, 15, 26 Sallet, “Les Souvernirs Chams dans le Folk-lore et les Croyances Annamites du Quang-Nam”, B.A.V.H., No. 2/1923, 207, 209, 209, 220, 220, 213.8 Cadière, “Croyances et Practiques religieuses des Annamites dans les environs de Hué. Le Culte des Pierres”, Bulletin de l'École Française d'Extrême-Orient (B.E.F.E.O.), Vol. XIX, No. 2/1919, 30.10 V?i gi?ng v?n khá m?a mai, Sallet thu?t l?i s? tích b? th? Ông M?c ? C?m L?: “J’apporte ici une petite contribution à l’étude du culte des pierres en Annam. La pierre de C?m-L? était couchée dans un fossé, et comme son examen pouvait présenter quelque intérêt, je demandai aux autorités provinciales de vouloir bien la faire relever (au surplus cette pierre ne portait-elle pas les caractères “l?p th?ch” ???). Le village crut devoir faire mieux, et, quelques semaines après, je retrouvai la pierre dressée sur son socle maçonné. Un mois plus tard, sur ce socle étaient disposés des chapelets de fleurs, des papiers votifs et le vase habituel garni de sable où, piqués, achevaient de se consumer des bâtonnets d’encens : le vieux piédroit cham, la pierre-limite des Annamites, etait devenu “Ông-M?c” ? ?, “Monsieur le Terme”, et était honoré par les gens du village et plus encore par les voyageurs. Peut-être doit-on penser que les habitants de C?m-L? à cause de cet ordre venu de hauts fonctionnaires, avaient pu croire que puisque de grands mandarins lettrés et sérieux s'intéressaient au sort de cette pierre et réclamaient pour elle une attitude plus noble, il fallait bien qu’elle possédât une vertu et un pouvoir particulier”. D?n theo: Sallet, “Les Souvernirs Chams dans le Folk-lore et les Croyances Annamites du Quang-Nam”, B.A.V.H. No. 2/1923, 210.T?m d?ch: “? ?ây, tôi xin ?óng góp ph?n nh? cho vi?c nghiên c?u phong t?c th? ?á ? Trung k?. Phi?n ?á t?i C?m L? b? vùi d??i m?t cái m??ng, và th?y có th? dùng ?á vào vi?c gì ?ó h?u ích, tôi yêu c?u chính quy?n t?nh nên tr?c nó lên (v? l?i phi?n ?á này ?âu có mang ch? “l?p th?ch” ???). Làng s? t?i tin r?ng c?n ph?i dùng nó vào vi?c t?t h?n, và vài tu?n sau ?ó, tôi th?y tr? ?á ???c d?ng trên b? có tô vôi h?n hoi. M?t tháng sau ?ó, trên b? th?y bày nh?ng bó hoa, gi?y vàng mã và m?t cái l? ??ng cát quen thu?c mà h??ng c?m ?ã cháy h?t ch? còn tr? c?ng: tr? bi?u c? c?a Ch?m, c?t ?á làm ranh gi?i c?a ng??i An Nam, ?ã tr? thành “Ông-M?c” ? ?, ???c dân làng và c? khách qua ???ng sùng bái. Ph?i ch?ng dân làng C?m L? vì t? m?nh l?nh c?a các quan trên, yên trí các quan trên v?n l?m ch?, nghiêm túc ?ã xem tr?ng phi?n ?á và ?ã ?? c?p v? nó v?i m?t thái ?? r?t l?ch lãm, nên ch?c m?m r?ng nó ph?i ?n ch?c m?t t? ??c và m?t quy?n n?ng ??c bi?t”. Tr??c n?m 1980, tr? Ông M?c v?n còn, n?m g?n b?n ?ò Nga, ranh gi?i gi?a Khuê Trung và C?m L?, trên tr? có dòng ch?” ??????????? (Gia Long th?p nh? niên, th?t nguy?t, nh? th?p ng? nh?t: ngày 25 tháng 7 n?m Gia Long th? 12).11 Mi?u Linh S?n ngày nay ???c g?i là mi?u Bà, thu?c t? 33 ph??ng Hòa Th? ?ông. Sau n?m 1975, Th?n Th?ch không còn n?a.12 Cadière, Bài ?ã d?n, 4 - 5. Quá trình “thiêng hóa” m?m ?á Ông bên b? sông C?m L? ngày nay di?n ra y chang nh? nh?ng gì mà linh m?c L. Cadière miêu t? v? m?m “?á n?i” bên b? sông Th?ch Hãn ?o?n ch?y qua làng Trinh Th?nh h?n 90 n?m v? tr??c. Hi?n nay, t?i C?m L? và m?t s? n?i khác n?a, ng??i ta tin r?ng linh h?n c?a n?n nhân ch?t n??c s? trú l?i m?m “?á ?en” và do ?ó m?m ?á s? r?t linh thiêng. Thân nhân c?a n?n nhân ch?t n??c th??ng ??n ?ây th?p h??ng kh?n vái. ??t trên m?m ?á m?t t??ng Ph?t Bà, ng??i ta tin r?ng Ph?t Bà s? phù h? ?? trì cho linh h?n c?a n?n nhân ch?t n??c s?m ???c siêu thoát. Tóm l?i, các linh h?n c?a nh?ng n?n nhân ch?t n??c xem m?m ?á là nhà và Ph?t Bà là ng??i ?? trì (!). V? ph?n pho t??ng Ph?t Bà ???c ??t trên m?m ?á, chúng tôi ?ã nghe vô s? tin ??n th?i v? s? linh thiêng c?a pho t??ng này. Ch? bi?t nó thiêng c? nào? Nh?ng ?i?u ?ó không thu?c ph?m vi c?a bài vi?t, chúng tôi không ti?n nêu ra. ??n tháng 12.2012, t??ng Ph?t Bà ?ã ???c di d?i v? chùa C?m Nam.14 “C?n Dàng” là tên th??ng g?i nh?ng vùng ??t cao có ph? tích Chàm. Ngày nay, v? trí “c?n Dàng” là Khu di tích l?ch s? v?n hóa Khuê Trung bao g?m ph? tích tháp Hóa Quê, gi?ng Ch?m, mi?u Bà, nhà th? Ti?n Hi?n và ngh?a tr?ng Hòa Vang t?i t? 20 Bình Hòa, ph??ng Khuê Trung.16 Ph?ng v?n ông Hu?nh Bá Hoàng, t? tr??ng t? 34, ph??ng Hòa Th? ?ông. Tr??ng h?p th? t? m?i x?y ra g?n ?ây, nên chúng tôi ch?a có ghi nh?n gì v? s? “báo ?ng” c?a vàng H?i.17 B?c t??ng B? tát Laks?m?ndra-Loke?vara hi?n ?ang ???c tr?ng bày t?i B?o tàng Ch?m ?à N?ng và ?ã ???c công nh?n là B?o v?t qu?c gia.18 Tr??ng h?p c?a ông Trà V?n X., chúng tôi tr?c ti?p ch?ng ki?n, n?u có quý v? ??c gi? nào mu?n xác minh thì có th? theo chúng tôi ??n g?p ông Trà, nhà ông ch? cách v? trí Tháp Sáng c?a Ph?t vi?n ??ng D??ng 2 km.19 ??u th? k? XX, khu v?c lân c?n Tourane (?à N?ng) có m?t s? ??n ?i?n c?a các ông ch?: Tây Kho b?c anh (Camille Paris) ? Phong L?, Tây béo ? Hóa Quê, Tây Kho b?c em (Gravelle Paris) ? Nghi An, Tây Bertrand, Tây Hãng ? Ph??c T??ng ….20 Nguyên v?n: “Peu de temps après, l'ancienne propriété de C. Paris à Phong-l?, vendue d'abord à un Français, passait a un Chinois. Sur notre demande d'achat il fit aimablement don à l'Ecole des sculptures que C. Paris y avait rassemblées; elles provenaient pour la plupart des décombres d'un monument ?am qui formait une butte dans les limites de sa concession et qui lui fournit les briques de l'habitation”. D?n theo: Parmentier, “Catalogue du Musée ?am de Tourane”, B.E.F.E.O., Vol. XIX, 1919, 5.21 Parmentier, “Inventaire Descriptif des Monuments ?ams de l’Annam”, Vol.1, (Paris: Presses de l'École Française d'Extrême-Orient (P.E.F.E.O..), Ernest Leroux, 1909), 319-324.22, 23, 24, 28 Huber, “Études Indochinoises”, B.E.F.E.O, Vol. XI, 1911, 285, 286, 296, 297.25 Theo kinh V? ?à, th?n Bão t? Rudra là ti?n thân c?a th?n Siva, v? th?n t?i cao trong ?n giáo.27 Vào ??u th? k? th? X, trên m?nh ??t Amar?vat? (Qu?ng Nam, ?à N?ng ngày nay) có các thành ph?: Indrapura - kinh thành Th?n S?m sét (??ng D??ng); Simhapura - thành ph? S? t? (Trà Ki?u); ?amp?pura - thành ph? Chiêm Bà (Thanh Chiêm, ?i?n Bàn); Và nh?ng tác gi? bài vi?t này phát hi?n ra thêm m?t thành ph? n?a, ?ó là Rudrapura - thành ph? Th?n Bão t? (C?m L?).29 Parmentier, “Notes d'Archéologie Indochinoise I-VI”, B.E.F.E.O, Vol. XXIII, 1923, 274.30 ??i Nam nh?t th?ng chí (quy?n XIII) do Qu?c s? quán tri?u Nguy?n biên so?n, chép núi Ph??c T??ng ? ?là C?m L? S?n? ? ?.31 Bronson, “Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes Toward a Functional Model of the Coastal State in Southeast Asia”, Economic Exchange and Social Interaction in Southeast Asia: Perpectives from Prehistory, History, and Ethnography (Ann Arbor, 1977), 39-52.32 T??ng truy?n, n?m 1471, vua Lê Thánh Tông trên ???ng nam chinh ?ã cho ??u thuy?n t?i b?n N?i Hiên ?? l?y n??c ng?t t? gi?ng B?ng (gi?ng có niên ??i th? k? X) [Theo gia ph? t?c Nguy?n Thanh - N?i Hiên Tây do anh Nguy?n Thanh ??nh cung c?p]. Mu?n nh?t là t? cu?i th? k? XV, ng??i Trung Hoa ?ã g?i b?n N?i Hiên (và c? khu v?c ?à N?ng) là Hiên c?ng.33 Làng N?i Hiên x?a bao g?m ba làng N?i Hiên ?ông, N?i Hiên Tây và N?i Hiên Nam (N?i Nam). Ngu?n: Facebook
0 Rating 508 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On April 17, 2015
DAK RAI TUEI THUN RAI RAH Thien Sanh Phan
0 Rating 502 views 1 like 0 Comments
Read more
Du lịch văn ho Chăm Những điệu ma truyền thống do thiếu nữ Chăm duyẪn dng biểu diễn lm say lᠲng người thưởng ngoạn. Ninh Thuận- vng đất giu truyền thống văn ho頡 dn tộc Chăm đang mở lng mời gọi du khⲡch gần xa. Thăm th lng xꠣ: (NTO)Ninh Thuận l vng đất duy nhất trong cả nước c cộng đồng d鳢n tộc Chăm gần 70.000 người sinh sống ở 22 lng cn giữ được bản sắc văn hoಡ độc đo. Đời sống tm linh của cư dᢢn địa phương gắn liền với đền thp, lễ hội dn gian, lᢠng nghề truyền thống, tập qun sinh hoạt lng xᠣ. Về Ninh Thuận, du lịch văn ho Chăm l cuộc hᠠnh trnh mang đậm tnh nh쭢n văn. Thp Pklong Garai thu hᴺt đng đảo du khch đến tham quan v䡠o dịp lễ hội Ka t Huyện Ninh Phước c đồng b고o Chăm sinh sống đng nhất tỉnh Ninh Thuận. Ton huyện c䠳 gần 40.000 người Chăm sinh sống tại 20 thn, khu phố, chiếm 30% dn số địa phương. C䢡c x c đ㳴ng người Chăm sinh sống l Phước Hữu, Phước Thi, Phước Dࡢn, An Hải. Ninh Phước c hai lng nghề truyền thống l㠠 dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp v gốm Bu Tr࠺c được Nh nước đầu tư trn 20 tỉ đồng xઢy dựng kết cấu hạ tầng v nh trưng bࠠy sản phẩm. Lng gốm Bu Tr࠺c nằm cch TP. Phan Rang- Thp Chᡠm khoảng 10 km về hướng Nam. Về Bu Trc, du khມch được chim ngưỡng nt đẹp của những người phụ nữ Chăm lꩠm ra sản phẩm đất nung phục vụ sinh hoạt gia đnh. Đồng thời lm gốm mỹ nghệ phục vụ nhu cầu mua sắm qu젠 lưu niệm với hng trăm loại sản phẩm. Du khch trong vࡠ ngoi nước khen ngợi sự kho l੩o ti hoa của phụ nữ Chăm đ tạo ra những t࣡c phẩm đất nung độc đo. Cc nhᡠ nghin cứu văn ha cho rằng B고u Trc l lꠠng gốm cổ xưa nhất Đng Nam . Nghề l䁠m gốm mỹ nghệ của phụ nữ Chăm lng Bu Tr࠺c Du khch tham quan, mua sản phẩm gốm Bu Trᠺc Liền kề với Bu Trc lຠ lng Chăm Mỹ Nghiệp nổi tiếng với nghề dệt thổ cẩm truyền thống ngy đࠪm lch cch tiếng thoi đưa. Thấp thoᡡng sau những khung cửi rực rỡ sắc mu l hࠬnh ảnh xinh đẹp của cc thiếu nữ Chăm cần mẫn đường tơ sợi chỉ lm say lᠲng du khch. Sản phẩm thổ cẩm của Mỹ Nghiệp l sự kết hợp hᠠi ho giữa sự kho tay của người phụ nữ với những n੩t hoa văn được cc nghệ nhn Chăm kế thừa vᢠ pht triển. Khăn thổ cẩm, ti xạch, trang phục truyền thống của lng dệt Mỹ Nghiệp đ theo ch࣢n du khch đi khắp trời u đất ႁ. Du khch tham quan khung cửi v cᠡch dệt thổ cẩm tại lng Chăm Mỹ Nghiệp Lễ hội đền thp: Từ Mỹ Nghiệp đi về hướng Tࡢy- Nam khoảng 10 km đến lng Hậu Sanh, du khch ngỡ ngࡠng trước ngi thp thờ vua P䡴rm (1595- 1615) toạ lạc tr䪪n ngọn đồi cao hơn 50 mt. Ngi th鴡p hnh trụ c kiến tr쳺c độc đo xy dựng từ thế kỷ XVI. Đến ngᢠy hội Ka t, đồng bo cꠡc lng Chăm quanh vng đến c๺ng lễ ghi ơn vị vua c cng x㴢y dựng đập Ma rn đưa nước về tưới cho cnh đồng Hữu Đức mꡠu mỡ. Năm 1992, Thp Prᴴm được Bộ Văn ha- Thể thao- Du lịch xếp hạng di t곭ch kiến trc nghệ thuật quốc gia. Nh nước vừa đầu tư tr꠪n 30 tỉ nng cấp thp P⡴rm bảo tồn di t䪭ch văn ha v đ㠡p ứng nhu cầu tn ngưỡng của nhn d�n. Nghi thức rước y trang ln thp P꡴kolong Garai trong ngy hội Ka t P઴klong Garai (1151-1205) vị vua c cng lớn trong việc dẫn thuỷ nhập điền, hướng dẫn n㴴ng dn lm ăn no ấm. Khi P⠴klong Garai qua đời được cư dn xy th⢡p vo cuối thế kỷ XIII tn thờ ഴng tại đồi Trầu thuộc phường Đ Vinh, TP. Phan Rang-Thp Ch䡠m. Thp Pklong Garai được Bộ Văn hoᴡ- Thể thao- Du lịch xếp hạng di tch kiến trc nghệ thuật cấp quốc gia v�o năm 1979. Nh nước đầu tư gần 11 tỉ đồng xy dựng khu văn hࢳa du lịch tại chn thp P⡴klong Garai trn diện tch 7,8 ha. Cꭴng trnh bao gồm 3 ngi nh촠 trưng by hiện vật văn ha Chăm. Sೢn lộ thin biểu diễn văn nghệ v cꠡc tr chơi dn gian. D⢣y nh ở truyền thống lưu giữ cc hiện vật văn minh lࡺa nước. Cc nghệ nhn biểu diễn trống ghi năng vᢠ kn saranai cho mừng lễ hội Ka t蠪 Cc lng Chăm đang nᠴ nức diễn ra lễ hội Ka t năm 2011. Cả sư Hn Đ꡴ trụ tr thp P존rm cho biết lễ hội Ka t䪪 hng năm diễn ra tại cc đền thࡡp vo ngy m࠹ng một thng bảy Chăm lịch (khoảng cuối thng 9 đến đầu thᡡng 10 dương lịch). Đy l lễ hội truyền thống quan trọng nhất của đồng b⠠o Chăm Blamn. Cഡc vị chức sắc v cc gia đ࡬nh dng lễ tưởng nhớ cng ơn tổ ti⴪n, cầu cho mưa thuận nắng ha, ma m⹠ng tốt tươi, mọi nh hạnh phc. Lễ hội Ka tສ diễn ra đồng loạt ở bốn đền thp với cc nghi lễ rước y trang, mở cửa thᡡp, tắm tượng thần, mặc y phục cho tượng thần mang đậm sắc thi tn ngưỡng t᭢m linh. Điệu ma dn gian Chăm độc đꢡo lm say lng người thưởng ngoạn Trong cuộc hಠnh trnh đến với Ninh Thuận, du khch được sống trong kh존ng gian sinh hoạt văn ho lng đầm ấm của cộng đồng dᠢn cư Chăm. Vo dịp lễ hội Ka t, du khડch được thưởng thức tiếng ht dn ca trữ t᢬nh ho quyện tiếng trống ghi năng, trống baranưng, kn baranai do cਡc nghệ nhn dn gian Chăm t⢠i hoa thể hiện. Đặc biệt, những điệu ma truyền thống do thiếu nữ Chăm duyn dꪡng biểu diễn lm say lng người thưởng ngoạn. Ninh Thuận- vಹng đất giu truyền thống văn ho dࡢn tộc Chăm đang mở lng mời gọi du khch gần xa.
0 Rating 500 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On January 19, 2012
Tại sao gọi là biển Nam Trung Quốc mà không gọi là biển Champa? Biên dịch từ bài báo tiếng Malaysia : Putra Champa Lưu ý: Khu vực Biển Đông (Tức vùng biển nằm trang khu vực Việt Nam, Philppin, Malaysia, Indonesia…) được thế giới gọi là “South China Sea” tức "Biển Nam  Trung Quốc”. Nếu ta gọi là “biển Nam Trung Quốc” thì tất cả mọi người trên thế giới sẽ hiểu đó là phần biển ở vùng Đông Nam của Châu Á, được bao bọc bởi các quốc gia như Malaysia và đảo Borneo. Phía bắc của nó được tính từ đảo Đài loan và kết thúc cực nam ở Singapore, diện tích của nó vào khoảng 3,500,000 km². Bản đồ chung của Khu vực Đông Nam Á Hiện nay vùng biển này được gọi là “ biển Nam Trung Quốc”. Nhưng ít có ai biết rằng vùng biển rộng lớn này đã có thời được biết đến với tên “Biển Champa”. Đều này nói lên sẽ khiến không ít những người nghe được phải giật mình, nhưng đó là sự thật. Tại sao người ta lại gọi nó là biển Champa? Biển Champa ( trong tiếng Mã Lai, Laut(la-ut) có nghĩa là biển) Trước tiên ta hãy giải thích danh từ “Champa”. Champa thật ra là tên của một vương quốc vốn được xây dựng  bởi sắc dân Malayo-poynesian ( Mã Lai- Đa Đảo) hay chúng ta có thể gọi tắt là tộc người Mã Lai. Đế chế Mã Lai này được biết đến với tên gọi Campa nagara ( vương quốc Champa), họ đã từng kiểm soát một vùng đất đai rộng lớn ở phía nam Đông Nam á ngày nay. Đế chế này được hình thành vào thế kỉ thứ 2 và kết thúc vào năm 1832. Trong quá trình tồn tại vương quốc này đã bao phen giãn, co phần đất đai của mình . Điều này đã dẫn đến kinh đô của vương quốc được di dời rất nhiều lần, cụ thể là Indrapura (875-978M), Vijaya (978-1485M) và cuối cùng là Pandurangga (1485-1832M) cho đến khi bị xóa sổ hẳn bởi tộc người phương bắc ( nam Trung Hoa). Đế chế Champa hùng mạnh nhất vào khoàng năm 800 đến năm 1000. Trong khoảng thời điểm đó, Người Chăm rất nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị và tơ lụa với các nước như Trung Quốc, Nusantara ( Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở Baghdad (Bát Đa- xứ 1001 đêm). Vào khoảng năm 800, người Chăm được biết đến với tài đi biển rất gỏi và những thương nhân tài ba. Theo ông  Tan Sri Prof. Emeritus Dr. Ismail Hussein,chủ tịch hội nhà văn Malaysia gọi tắt là (GAPENA) có nói. Vùng biển mà ngày nay được gọi là Biển Nam Trung Quốc thật sự trước kia được gọi là Biển Champa, nó từng là một vùng thương mại và vận chuyển quan trọng của người Chăm. Sự hùng cường về thương mại và vận chuyển của đế chế Champa nhanh chóng được nổi tiếng và rất nhiều người biết đến không chỉ ở Nusantara mà là toàn thể thế giới lúc bấy giờ, dẫn đến vùng biển này được gọi với tên Biển Champa. Biển Champa có thể được xem là “sân chơi” của các tộc người Mã Lai. Dấu vết của sự kiện này vẫn được tìm thấy ở những vùng đất đai mà ngay nay người Mã Lai vẫn đang nấm quyền sở hữu, cụ thể là tiểu bang Kelantan của Malaysia. Sự nổi tiếng về thông thương qua lại giữa Champa và Malaysia lúc bấy giờ mạnh đến nổi khiến vùng đất này (bang Kelantan)được gọi là “ nơi dừng chân của Chepa”. “ Chepa” ở đây là Champa phát âm theo giọng địa phương của người Kelantan-Pattani. Có lẽ chúng ta hãy nên trả lịch sử về cho lịch sử. Và những đứa con Melayo-polynesian(cụ thể là sắc dân Chăm) chúng ta nên tự hào và trách nhiệm với tên gọi này. *Theo nguồn nguyên bản tiếng Malaysia : http://putrachampa.blogspot.com/2011/02/kenapa-laut-china-selatan-kenapa-tidak.html
0 Rating 497 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 14, 2014
Glang Anak (Danlambao) - Trong buổi Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam, ngày 5/2/2014, tại Geneva, Đại diện Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam trả lời: “Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán bảo vệ quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng của người dân. Hiến pháp mới đã công nhận các quyền này”. Trong buổi thuyết trình và trao đổi của phái đoàn dân sự độc lập vận động cho nhân quyền Việt Nam với EU vào ngày 29/1/2014, Đại diện Italy hỏi: "Những vi phạm nhân quyền đang diễn ra ở nước các bạn, những đạo luật hà khắc và mọi sự trấn áp, có ảnh hưởng như thế nào tới cộng đồng những người thiểu số, người yếu thế, người dễ bị tổn thương, ở Việt Nam?" Blogger Nguyễn Anh Tuấn khẳng định... đây là những nhóm bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì những chính sách vi phạm nhân quyền của Nhà nước, và đưa ra các ví dụ về người H’Mông và các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Hôm nay, chúng tôi thông tin thêm về một trường hợp về người dân tộc bản địa bị tước đoạt quyền tự do tôn giao và tín ngưỡng ngay trên vùng đất tổ tiên của họ và đặt vấn đề “Hãy trả lại Tháp cho các chức sắc và người Chăm thờ tự và quản lý.” Mỗi tôn giáo đều có nơi để thờ tự và hành lễ; nếu Phật tử có chùa chiền; tín đồ công giáo có Nhà thờ; thì tín đồ Bà La Môn ảnh hưởng Ấn giáo của người Chăm phải có Tháp. Tín ngưỡng này đã có từ thời Champa còn là một quốc gia độc lập và duy trì mãi cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên hiện nay, tín đồ Bà La Môn của người Chăm đã không còn được tự do đến Tháp để thực hiện các nghi lễ theo tín ngưỡng vì tất cả các Tháp Chăm đã bị Nhà nước quản lý. Đối với người Chăm, “tháp là nơi linh thiêng chỉ mở cửa cho những ngày hành lễ. Hàng năm theo lịch Chăm, người Chăm Ahier có lễ "mở cửa tháp" đặt dưới sự chủ trì của Po Adhia, Po Bac, Basaih cùng Ong Camnei, Muk Pajuw và Ong Kadhar. Phải hội tụ đủ những vị chức sắc trên, lễ mở cửa tháp mới được tiến hành và cửa tháp mới được mở”. Trước năm 1975, dưới thời VNCH, các Tháp Chăm đều do chức sắc Chăm quản lý và thực hiện các nghi lễ thờ cúng một cách trang nghiêm và đúng lễ tục. Tuy nhiên, sau năm 1975, tất cả các Tháp Chăm bị Nhà nước thu hồi, giao cho các công ty du lịch khai thác, quản lý. Chức sắc hoặc người Chăm muốn lên Tháp thờ cúng phải có đơn xin phép và qua nhiều thủ tục hành chính rờm rà; người Chăm muốn vào viếng Tháp theo tín ngưỡng cũng phải mua vé vào cổng như những khách du lịch thông thường. Sự kiện xảy ra tại tháp Po Klaong Garai vào ngày 4.2.2014 (Mùng 5 Tết Giáp Ngọ) là một minh chứng cho việc chính quyền Ninh Thuận đã xúc phạm tín ngưỡng của người Chăm. Vụ việc xảy ra khi đoàn chức sắc Chăm đến Tháp để làm "lễ mở cửa tháp" (Peh Ba-mbeng Yang), thì cửa chính đã bị mở toang phục vụ cho khách du lịch nhân dịp tết Nguyên Đán mặc dù ban Tôn giáo Bà La Môn đã hoàn thành các thủ tục hành chính trước đó và có yêu cầu Tháp phải được đóng trước khi hành lễ. Và lễ mở cửa Tháp chỉ diễn ra trong khoảng 1 giờ đồng hồ. Các chức sắc còn hết sức bất bình trước “những vị khách với những trang phục và thái độ vô văn hóa đến tạo dáng trên những ngôi tháp linh thiêng và vô tư đi qua đi lại trên những khu vực hành lễ.” Cửa tháp bị mở toang trước giờ hành lễ. Người Chăm đã cho rằng: “Đây là hành động “vô văn hóa”, đã làm tổn thương đến truyền thống tâm linh của dân tộc Chăm, chà đạp lên di sản tín ngưỡng của dân tộc bản địa mà cộng đồng người Chăm không thể chấp nhận”. Nghi lễ Chăm trên đền tháp (Ph. Gulpataom) Trong tâm trạng đau buồn và giận dữ, một tác giả Chăm viết: “Qua những quá trình tiếp biến của lịch sử người Chăm đã mất tất cả, chỉ còn lại vài ngôi tháp để thờ tự và cúng kiếng cho trọn đạo hiếu với các bậc tiền nhân Chăm vậy mà những người ăn nhờ ở đậu trên các ngôi tháp Chăm lại là những kẻ vô văn hóa, ăn cháo đá bát khi hàng năm họ thu tiền vé hàng trăm triệu đồng trên những ngôi tháp Chăm vậy mà chỉ vài giờ đóng cửa tháp để người Chăm làm lễ họ lại không quan tâm, không màng đến những tiếng nói của Ban phong tục, cũng như vị Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai.” Ong Camnai trao đổi với bảo vệ tháp  vì đơn đã được gởi nhưng tháp vẫn mở toang trước giờ hành lễ. Hãy trả lại công bằng và đảm bảo tự do tín ngưỡng cho người Chăm:  1. Nếu người Việt được tự do đến Chùa theo tín ngưỡng Phật giáo, đến nhà thờ theo tín ngưỡng Công giáo thì người Chăm cũng phải được tự do thăm viếng Tháp mà không phải mất tiền mua vé vào cổng như hiện nay.  2. Nếu các Sư và đạo hữu Phật tử được trụ trì, quản lý các chùa chiền; các Linh mục được quản lý các nhà thờ thì các Tháp Chăm phải giao lại cho các chức sắc Chăm quản lý, thờ tự và cúng kính theo nghi lễ tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm.  3. Nếu Nhà nước muốn khai thác du lịch thì phải có thỏa thuận với các chức sắc và người dân Chăm, nhưng phải ưu tiên đảm bảo cho việc bảo tồn các nghi lễ thờ cúng Tháp;  4. Nếu chính quyền Hà Nội còn tiếp tục “cưỡng bức” Tháp Chăm cho du lịch như hiện nay là “xâm phạm” nơi thờ tự của người Chăm; làm ngăn cản và hạn chế quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của người Chăm. Như vậy là vi phạm Nhân quyền.  5. Ban Tôn giáo và chính quyền địa phương nơi có các Tháp Chăm tọa lạc phải có trách nhiệm giải quyết vấn đề này để trả lại quyền tự do tín ngưỡng và quyền quản lý Tháp cho chức sắc Chăm.  Những yêu cầu và đề nghị chính đáng trên đây của người Chăm là góp phần xây dựng một xã hội công bằng, tự do và dân chủ ở Việt Nam. 8/2/2014 Glang Anak danlambaovn.blogspot.com
0 Rating 489 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On January 10, 2018
T? tiên c?a nh?ng ng??i Cham ? Vi?t Nam ?ã xây d?ng m?t trong nh?ng ?? ch? l?n ? ?ông Nam Á.  Theo National Geographic b?i Adam Bray, 18-6/2014 Tình tr?ng c?ng th?ng ? Bi?n Nam H?i h?i tháng tr??c, khi Trung Qu?c tri?n khai giàn khoan d?u do chính ph? s? h?u trong m?t khu v?c mà Vi?t Nam ?ã tuyên b? ch? quy?n ? phía nam qu?n ??o Hoàng Sa. Nh?ng ng??i bi?u tình ch?ng Trung Qu?c xông vào và ??t cháy các nhà máy Trung Qu?c, ?ài Loan và Hàn Qu?c ? mi?n nam Vi?t Nam. Theo báo cáo c?a các ph??ng ti?n truy?n thông, có ??n 21 ng??i ch?t trong v? h?n lo?n, và h?n m?t tr?m ng??i ?ã b? th??ng. Hàng ngàn công nhân Trung Qu?c ?ã tr?n kh?i Vi?t Nam. Các tranh ch?p di?n ra ? qu?n ??o Tr??ng Sa và Hoàng Sa, h?u nh? là n?i không có ng??i ?, và ? khu v?c trung tâm c?a Bi?n ?ông, n?i n?y sinh các yêu sách ch?ng chéo gi?a Trung Qu?c, Vi?t Nam, ?ài Loan, Malaysia, Brunei và Philippines. Nh?ng, tranh ch?p gi?a Vi?t Nam và Trung Qu?c thu hút s? chú ý nhi?u nh?t. C? hai ??u liên quan ??n các m?i quan h? l?ch s? v?i các hòn ??o, ??i v?i Trung Qu?c thì có t? tri?u ??i Hán (206 tr??c CN ??n n?m 220 sau Công nguyên) , ?? ch?ng minh cho yêu sách c?a mình trong khu v?c. Trong khi ?ó, t?i Vi?t Nam kho?ng 160.000 ng??i dân t?c Cham, t?c ng??i ?ã t?ng th?ng tr? Bi?n ?ông trong h?n m?t thiên niên k?, l?ng l? ??ng bên l? cu?c xung ??t leo thang. Hai th? k? sau khi quy?n l?c b? gi?m-sút-sau-?ó ?ã ch?m d?t do s? ?àn áp tàn b?o c?a Hoàng ?? Minh M?ng, v?i ng??i Cham h? v?n còn c?nh giác v?i nh?ng tranh ch?p nh? v?y, tình c?nh hi?n t?i là m?t s? nh?c nh? v? t?m quan tr?ng mang tính bi?u t??ng và kinh t? c?a Bi?n ?ông và v? v?n hoá Cham, m?t n?n v?n hóa t?ng giàu có b?ng th??ng m?i trên bi?n ?ông. V??ng Qu?c Champa Trong nhi?u th? k?, bi?n ?ông ???c các nhà hàng h?i trên kh?p châu Á bi?t ??n nh? là Bi?n Champa, ???c ??t tên theo tên ?? ch? v? ??i ki?m soát toàn b? mi?n trung Vi?t Nam, t? biên gi?i phía b?c c?a t?nh Qu?ng Bình ngày nay cho ??n g?n biên gi?i phía Nam c?a t?nh Bình Thu?n. Vào th?i kì ??nh cao c?a ?? ch? Champa, t? kho?ng th? k? th? 6 ??n th? k? 15, các v??ng qu?c khác nhau c?a Champa, ?ã ???c tr? b?i các hoàng gia theo vùng, bao g?m c? ph?n l?n phía ?ông c?a Campuchia và Lào. Các ?? t?o tác lâu ??i nh?t c?a n?n v?n minh Cham – g?ch, ?á sa th?ch, và ?? g?m ???c tìm th?y ? Trà Ki?u ? t?nh Qu?ng Nam – có t? th? k? th? hai. M?t di s?n Champa ?áng chú ý là các tháp Cham ???c làm b?ng g?ch ??, tháp lâu ??i nh?t ???c tìm th?y vào th? k? th? 7 và th? 8. Thánh ??a M? S?n, g?n H?i An, ???c b?o t?n nh? m?t di s?n th? gi?i c?a UNESCO, có ??n g?n 70 công trình riêng bi?t. Các nhà kh?o c? ?ã xác ??nh ???c m?t s? thành l?y Cham và kho?ng 25 ngôi ??n (m?i ?i?m có s? l??ng tháp khác nhau) v?n còn n?m d?c theo b? bi?n c?a Vi?t Nam. Các cu?c th?m dò g?n ?ây cho th?y hàng tr?m ?i?m ?? nát có th? d?n các con sông vào Tây Nguyên và xa h?n n?a ??n phía ?ông c?a Campuchia và Lào. Nh?ng b?ng ch?ng sâu r?ng Các v? t? tiên nói ti?ng Malayo-Polynesian c?a ng??i Cham ???c cho là ?ã ??n Vi?t Nam b?ng ???ng bi?n t? Borneo. H?u h?t các h?c gi? ??u tin r?ng ng??i Cham là h?u du? c?a Sa Hu?nh, ng??i ?ã chi?m cùng m?t khu v?c t? kho?ng 1000 TC. ??n th? k? th? hai sau CN, khi v?n hoá Cham b?t ??u phát tri?n. Nh?ng di tích c?a Sa Hu?nh ???c tìm th?y các n?i xa nh? ?ài Loan, Philippines, và Malaysia, ?ã ch? ra r?ng ng??i dân ?i thuy?n, buôn bán và ??nh c? xung quanh Bi?n Champapa. Sa Hu?nh trang ?i?m cho ng??i ch?t b?ng ?á mã não, ?á carnelian và h?t th?y tinh t? ?n ?? và Iran, c?ng nh? b?ng nh?ng h?t vàng và th?y tinh quý hi?m t? ??a Trung H?i - có th? t?t c? ??u ???c giao d?ch b?ng ???ng bi?n - và chôn vùi nh?ng thân xác trong nh?ng chi?c bình b?ng ??t sét l?n. Nh?ng hoa tai l?ng l?y ???c chôn c?t mang phong cách g?m m?t thanh treo ??u ??ng v?t có s?ng ? c? hai ??u. Hoa tai th??ng ???c làm b?ng th?y tinh, ?á quý ho?c ng?c bích t? ?ài Loan. Các cu?c khai qu?t g?n ?ây ?ã khám phá ra r?ng nh?ng b?ng ch?ng v? các di tích ???c chôn c?t Sa Hu?nh (và di tích Cham) không ch? có ? các ??o chính c?a Vi?t Nam và các hòn ??o ngoài kh?i nh? Phú Quý mà còn n?m trên các ??o Hoàng Sa và Tr??ng Sa – vùng bình ??a trong khu v?c tranh ch?p ngày nay. T?m ?nh H??ng C?a Champa  Ng??i Cham t?ng có m?t m?ng l??i th??ng m?i kh?ng l? v?i các tuy?n ???ng m? r?ng ??n ?ông b?c Trung Qu?c, ?ài Loan, Nh?t B?n và v? phía nam ??n Malaysia và Indonesia. S? giàu có c?a h? - vàng b?c, ?á quý, gia v?, tr?m h??ng, ??ng v?t quý hi?m và nô l? - ?ã n?i ti?ng kh?p vùng ?n ??, Trung ?ông, và th?m chí là vùng xa nh?t c?a B?c Phi. Trong th?i kì vàng son c?a Champa, m?t nhà ??a lí H?i giáo ?ã vi?t r?ng các hòn ??o này ?ã s?n xu?t ngà voi, long não, h?t nh?c ??u kh?u, cây ?inh h??ng, tr?m h??ng, b?ch qu?, và các th? khác. Các v? ??m tàu là b?ng ch?ng v? th??ng m?i gi?a Champa và Philippines thông qua qu?n ??o Tr??ng Sa. M?t chi?c tàu - xác tàu Pandanan, ?ã ???c tìm th?y trên ??o Palawan c?a Philippines - ???c cho là ?ã r?i b? Bi?n Champa vào kho?ng n?m 1450 và 1470, mang nh?ng ?? g?m màu xanh l?c ???c làm t? v??ng qu?c Vijaya c?a Cham. N?m 1997, chính quy?n Philippines ?ã c?u m?t con tàu hàng tr?m n?m tu?i trên ??o Thitu thu?c Tr??ng Sa ch?a kho?ng m?t nghìn ?? ch?m kh?c b?ng ?á granit d??ng nh? là có t? các ??a ?i?m không rõ c?a Champa. Nhi?u hòn ??o sinh s?ng ? phía tây c?a Bi?n Champa c? ?ã t?o các c?ng ??ng Cham. Các tàn tích tháp Cham, ?? g?m, ?? trang s?c, g?ch ?ã ???c tìm th?y ? Phú Quý. Ng??i dân trong vùng ngày nay, m?c dù ???c coi là ng??i dân t?c thi?u s? Vi?t Nam, nói m?t ph??ng ng? khác v?i ng??i mi?n Nam, và ngh? th? công và v?n hoá c?a h? l?i gi?ng ng??i Cham h?n ng??i Vi?t Nam. Xa h?n v? phía b?c, các hòn ??o Lý S?n và Cham c?ng là nh?ng v? tinh l?n c?a Cham. S? Pha Tr?n Ni?m Tin Ng??i Cham b?t ??u ti?p thu ?n ?? giáo t? s?m, có kh? n?ng ?ã ???c chuy?n ??i b?i các th??ng gia ?n ??, và pha tr?n nó v?i ni?m tin truy?n th?ng c?a h?. Hindu Cham ???c g?i là Balamôn. Tr??c khi k?t thúc thiên niên k? ??u tiên, các th??ng gia H?i giáo ?ã gi?i thi?u H?i giáo, và gi? ng??i H?i giáo Cham ???c bi?t ??n v?i tên g?i ng??i Bani (ch? ng??i Cham theo ??o H?i). Ngay t? n?m 986, các tài li?u c?a Trung Qu?c ?ã ?? c?p ??n các c?ng ??ng trên ??o H?i Nam g?m nh?ng ng??i H?i giáo Cham, h?u du? c?a h? ngày nay là ng??i Utsul. Ngoài các ho?t ??ng H?i giáo và Hindu riêng bi?t, ng??i Balamon và Bani ??u th? cúng t? tiên, các v? vua và các v? th?n Cham. Ng??i Bani, và m?t s? ng??i Balamôn, ti?n hành l?, m?t bi?n th? c?a l? Ramadan, g?i là Ramawan. Nh?ng Tàn Phá C?a Chi?n Tranh ?? ch? Champa là ??i th? chính c?a ?? qu?c Khmer, ? Cam-pu-chia, và ??i Vi?t, m?t v??ng qu?c Vi?t Nam ? phía b?c. Cu?c xung ??t c?a Champa v?i ??i Vi?t d??ng nh? ?ã b?t ??u vào cu?i th? k? th? m??i, khi ng??i Vi?t Nam nam ti?n vào V??ng qu?c Cham Vijaya (ngày nay là Quy Nh?n). Nh?ng b?c t??ng ch?m n?i ? m?t ngôi ??n ? Angkor miêu t? m?t tr?n ?ánh h?i quân s? thi gi?a Khmer và Champa vào th? k? 12. H?i quân Cham không có ??i th?, nh?ng trên m?t ??t ng??i Cham l?i ph?i ch?u ??ng nhi?u th?t b?i t?n kém. Cu?c xung ??t v? lãnh th? ti?p t?c cho ??n n?m 1471, khi Vijaya cu?i cùng b? thu gi?, và vào gi?a nh?ng n?m 1600, ?? ch? Champa b? gi?m sút thành v??ng qu?c Panduranga (nay là Ninh Thu?n và Bình Thu?n), n?i mà h?u h?t con cháu Cham c?a Vi?t Nam s?ng ngày nay. Do ?ó, có m?t c?ng ??ng Cham ?ã di c? sang Campuchia, H?i Nam, Philippines và Malaysia. N?m 1832, Hoàng ?? Minh M?ng b?t ??u ?è b?p các d?u tích cu?i cùng c?a n?n t? tr? Cham và ?óng d?u v?n hóa, ??t làng Cham và ??t nông nghi?p và phá h?y các ??n th? c?. Nhi?u ng??i Cham ?ã tr?n sang Cam-pu-chia, ngày nay n?i con cháu h? ?ã ? v?i s? l??ng hàng tr?m ngàn. M?t N?n V?n Hoá ?? S? Nh?ng B? ?e Do? B?ng ch?ng v?t lí v? v?n hoá Cham ? Vi?t Nam ?ang bi?n m?t. T?i t?nh Bình Thu?n và các n?i khác, các ngôi ??n Cham và ngôi m? c? b? xâm chi?m b?i các cánh ??ng lúa, r?ng r?m và các trang tr?i nuôi tôm. T?i t?nh Qu?ng Ngãi, các ngôi ??n ?ã b? h? h?ng ho?c b? phá h?y do khai thác s?i. Ng??i Vi?t Nam ti?p t?c xây d?ng các ??n th? Ph?t giáo trên nh?ng tàn tích c?a các di tích tôn giáo Cham và s? d?ng g?ch t? các thành Cham ?? xây nhà c?a h?. Các t?c ng??i mi?n núi di chuy?n t? xa phía B?c c?a Vi?t Nam hi?n ?ang s?ng ? th? ?ô cu?i cùng c?a Champa, Sông L?y, b? ??a xu?ng trong quá trình thanh tr?ng c?a vua Minh Mang. Không có ?? c?p nào ??n Sông L?y trong sách l?ch s? Vi?t Nam, và nó b? b? qua trong các tài li?u du l?ch chính th?c, m?c dù g?n v?i khu ngh? mát l?n nh?t c?a n??c này, ? M?i Né. H?i An là thành ph? c?ng n?i ti?ng nh?t c?a Vi?t Nam. Tuy nhiên, l?ch s? ph? bi?n và nh?ng t? thông tin v? du l?ch ngày nay l?i b? bê t?i g?c r? Cham c?a nó. Ng??i Cham n?i ti?ng v?i hàng d?t may, d?t b?ng tay trên khung d?t. V?i c?a h? ???c xu?t kh?u (và th??ng ???c b?t ch??c), sau ?ó ???c chuy?n thành hàng hoá ??a ph??ng và bán t?i các th? tr??ng du l?ch c?a các b? l?c ??a ph??ng ? các thành ph? nh? Louangphabang (Lào), Siem Reap (Campuchia), Chiang Mai (Thái Lan) và, g?n h?n ? Vi?t Nam, Sa Pa. Sau khi Vi?t Nam chinh ph?c các v??ng qu?c Champa, h? th??ng ch?n nh?c s? c?a Cham, phong cách c?a h? ?ã có ?nh h??ng ?áng k? ??n nhã nh?c Vi?t Nam. Ngày nay, h?u h?t các khu ngh? d??ng và nhà hàng l?n ??u có các ngh? s? Cham làm vi?c (m?c dù ch? có hai gia ?ình còn l?i, nh?ng ng??i t?o ra các nh?c c? Cham truy?n th?ng - tr?ng b?ng g? và nh?c c? b?ng g? nh? kèn Clarinet). Ng??i Cham là m?t trong s? ít ng??i dân t?c thi?u s? ? ?ông D??ng ?ã phát tri?n h? th?ng ch? vi?t riêng d?a trên ti?ng Ph?n. R?t ít ng??i Cham v?n có th? ??c và vi?t ???c ti?ng m? ?? c?a mình, và ngôn ng? nói c?ng có nguy c? b? khai t?, b?i vì chính sách c?a chính ph? yêu c?u s? d?ng ti?ng Vi?t trong tr??ng h?c, th??ng m?i và các ho?t ??ng công c?ng. ?i?u ki?n s?ng c?a ng??i Cham th??ng th?p h?n nh?ng ng??i ? các làng dân t?c thi?u s? ? Vi?t Nam. Nh?ng ngôi nhà ???c làm b?ng bùn v?i nh?ng vách ?á s?p ?? là ph? bi?n, và h?u h?t ng??i Cham không có n??c máy, hu?ng h? gì là nói ??n ?i?n l?nh. ?i?n thì không liên t?c. Chính ph? Vi?t Nam không còn cho phép ng??i Cham ch?t mà ?? n?m trong nhà vài tu?n tr??c khi chôn c?t. M?t s? ng??i Cham ti?n hành"chôn c?t l?n th? hai", bao g?m vi?c khai qu?t x??ng c?t vào d?p t??ng ni?m ngày ch?t c?a ai ?ó và làm m?t b?a ti?c cho b?n bè, gia ?ình và hàng xóm b?ng nh?ng l?i c?u nguy?n, nh?c l?n và l? nghi tôn giáo. Nh?ng S? Nh?y C?m Chính Tr? B?ng ch?ng rõ ràng và lâu dài v? ?nh h??ng c?a Cham ??i v?i Bi?n ?ông là t?i sao bây gi? Vi?t Nam l?i không s? d?ng c?n c? v? l?ch s? Champa ?? c?ng c? cho các yêu sách lãnh th? c?a mình trong khu v?c? M?i quan h? gi?a chính quy?n Hà N?i và các dân t?c thi?u s? r?t nh?y c?m. Trong n?m 2001 và 2004, các cu?c bi?u tình nhân quy?n c?a t?c ng??i mi?n núi d?n ??n t? hình và án tù chung thân. M?t th?i gian sau ?ó, Tây Nguyên c?m nh?ng ng??i n??c ngoài. Các cu?c bi?u tình l? t? và b?o lo?n ? quy mô nh? h?n v?n x?y ra, và các cáo bu?c v? vi ph?m nhân quy?n c?a chính ph? v?n ph? bi?n ? các khu v?c thi?u s?. M?c dù là công dân Vi?t Nam ??y ??, ng??i Cham v?n là nh?ng ng??i b? chinh ph?c. N?u h? t? ??t ra v?n ?? ch? quy?n l?ch s? c?a Champa ??i v?i Bi?n ?ông, t? ?ó s? ??t câu h?i v? quy?n t? tr? b? m?t c?a h? trong m?nh ??t c?a mình, ?i?u này có th? s? gây phi?n hà cho chính ph? Vi?t Nam. Ng??i Cham và c? chính ph? Vi?t Nam ??u không mu?n làm ??o l?n s? cân b?ng hi?n t?i. ?ôi nét v? tác gi?: Adam Bray ?ã ?óng góp g?n 40 cu?n sách v? du l?ch ? ?ông Nam Á. Ông là c?u c? dân Phan Thi?t, Vi?t Nam, n?i ông h?c v?n hoá và l?ch s? Cham,, h?c ??c và vi?t ch? Cham hi?n ??i. Anh ?ã tìm và khám phá nhi?u di tích c?a ng??i Cham. Link bài vi?t: https://news.nationalgeographic.com/news/2014/06/1...          
0 Rating 476 views 2 likes 0 Comments
Read more
By: On May 4, 2016
Quân Champa xâm lược Angkor (ảnh mô phỏng phù điêu) Trà Thanh Toàn A-VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT XÃ HỘI CHAMPA TRONG QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ Trong bất cứ lịch sử của một quốc gia nào, vấn đề xã hội luôn luôn là một đề tài quan trọng trong cơ cấu tổ chức của một cộng đồng. Mọi yếu tố, dù vô tình hay cố ý, nhằm đưa đẩy dân tộc đến sự xung đột và hiềm thù lẫn nhau, sẽ có một tác dụng vô cùng tai hại trong cơ cấu tổ chức xã hội đó. Và mọi xung đột xã hội là động cơ thúc đẩy một tập thể dân tộc đi vào con đường diệt vong. Trong quá trình lịch sử Champa, vấn đề xung đột xã hội đã trở thành một đề tài mà nhiều nhà nghiên cứu thường nêu ra. Ða số đã nhận định rằng, sự xung đột liên tục trong nội bộ Champa mà lịch sử đã từng đề cập là nguyên nhân chính đã đưa vương quốc này đến chỗ diệt vong. Có 5 nguyên nhân mà lịch sử champa để lại: -: Tranh giành quyền lực giữa hai hòang tộc cau và dừa ngày càng lớn -: Các tôn giáo lớn trong khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo lộn trật tự xã hội champa có từ lâu đời. Xung đột giữa ấn giáo, đạo hồi và nho giáo lên đến đỉnh điểm. Phân biệt tôn giáo đã làm mất đi tính tự hào dân tộc, mất đi sự đoàn kết thiết yếu để bảo vệ dân tộc champa. -: Chênh lệch giàu nghèo giữa hoàng tộc và các tiểu vương -: Sai lầm quân sự khi đẩy mạnh tàu thuyền giao thương xa bờ nhưng không cũng cố phòng thủ quân sự, khi dân số ít và thưa thớt. -: Nội bộ trong cộng đồng nhân dân không đoàn kết. các tiểu vương chưa thống nhất, nhất quán trong chính tri, kinh tế và cả quân sự B-XÃ HỘI CHAMPA TRƯỚC THẾ KỶ 15 Từ ngày lập quốc đến 1471, năm đánh dấu sự thất thủ thành Vijaya, vấn đề chiến tranh nội bộ vẫn là một yếu tố quan trọng trong tiến trình lịch sử của vương quốc Champa. Trải qua hằng thế kỷ, tư liệu lịch sử cũng đã ghi nhận biết bao biến cố xã hội trong vương quốc này. Tuy nhiên, những tư liệu đó, nhất là các bản văn viết trên bia đá đã được tìm thấy ở Champa, chỉ cho phép chúng ta kết luận rằng mọi xung đột xã hội trước thế kỷ thứ 15 chỉ do một nguyên nhân chính yếu, đó là việc tranh chấp chính trị nhằm độc quyền cai trị trên vương quốc Champa giữa hai dòng tộc của các vua Champa thời trước: dòng tộc cây Cau nắm quyền cai trị tiểu vương quốc Panduranga (Phanrang-Phanri) và Kauthara (Khánh Hòa- Phú Yên) ở miền nam; dòng tộc cây Dừa, nắm quyền cai trị ở phía bắc Champa, đó là Vijaya (Bình Ðịnh) Amaravati (Quảng Nam và Quảng Ngải) và Indrapura (Huế). Chính vì sự khác biệt nguồn gốc giữa hai dòng tộc cây Cau và cây Dưà này mà các nhà lãnh đạo thường dùng chiến tranh hay vũ lực để tìm lối thoát cho những vấn đề liên quan đến sự sống còn của liên bang Champa (một thể chế chính trị rất gần với thể chế liên bang Mã Lai hôm nay). Ðứng trên phương diện lịch sử mà nói, chiến tranh này chỉ là một phương thức nhằm giải quyết sự xung đột chính trị giữa hai tiểu vương quốc ở miền nam và ba tiểu vương quốc ở miền bắc, chứ không phải là vấn đề nội chiến phát xuất từ mối hiềm thù giữa dân tộc Champa. Chính vì thế, một khi chiến tranh đã chấm dứt, lãnh tụ dòng tộc nào may mắn được làm chủ tình hình quân sự sẽ trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Champa, gọi là vị vua của các vua Champa (Raja diraja Campa) nắm quyền cai tri trên toàn lãnh thổ của vương quốc này mà bia đá đã ghi là Po Tanah Raya “Quyền làm chủ trên toàn diện lãnh thổ›. Ngược lại, dòng tộc nào kém may mắn, thì phải chấp nhận sự yếu thế với tất cả lòng hãnh diện: không hiềm khích với dòng tộc khác và cũng không tìm cách trả thù vì sự thất bại của mình. Ðiều đáng nêu ra, là hai dòng tộc Champa này có một ý thức hệ rất đặc biệt về tư tưởng đấu tranh chính trị của họ. Một khi đã thành công, chính quyền trung ương Champa thường khắc lên bia đá điều giải thích nguyên nhân chính yếu của biến cố đã xảy ra và tuyên bố rõ rệt kết quả của phía thất trận và phía thắng trận. Mặt dù bị thất trận, dòng tộc thua kém này, nhất là dòng tộc ở miền nam, không bao giờ tìm cách để xóa bỏ những dòng chữ trên bia đá. Ngược lại, họ coi đó là những kỷ niệm cao cả và thiêng liêng trong quy luật đấu tranh chính trị: ăn làm vua nhưng không vì thua mà làm giặc. Trong quá trình lịch sử Ðông Nam Á, quy luật đấu tranh chính trị này chỉ xuất hiện ở vương quốc Champa mà thôi. C-KHỞI ĐẦU CỦA SỰ CÁCH BIỆT NAM BẮC CHAMPA Sự xung đột xã hội đầu tiên trong lịch sử Champa đã xảy ra vào những năm cuối cùng của thế kỷ 11.Sau ngày từ trần của vua Champa Jaya Simhavarman đệ nhị vào năm 1044, một tướng tài xuất thân từ gia đình quan chức trong triều đình Champa, nổi lọan chiếm ngôi ở thủ đô Vijaya, và tự tôn mình lên làm vua Champa lấy tên là: Jaya Paramesvara varman đệ nhất (1044-1060). Vì không đồng ý với chính sách dùng sức mạnh quân sự để chiếm đoạt ngôi vua Champa, tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vùng dậy tuyên chiến chống lại chính quyền của Jaya Paramesvaravarman đệ nhất vào năm 1050, nhưng không thành công. Trong một bản văn viết trên bia đá hiện còn ở trên tháp Po Klaong Garai (Phan Rang), vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất chỉ trích kịch liệt nhân dân Panduranga là những “kẻ ngu muội, những người vô tôn chỉ luôn luôn có thái độ hiềm thù… chống lại vua Campa”. Bản văn kết tội nhân dân Panduranga trên bia đá này cũng có nghĩa là kết tội dòng cây Cau ở miền nam chỉ tìm cách xen lấn vào nội bộ Champa ở miền bắc thuộc dòng cây Dừa. hiến tranh nội bộ này, mặc dù xuất phát từ sự tranh chấp quyền hành cai trị vương quốc Champa giữa hai dòng tộc, đã gây rạng nứt xã hội rất nghiêm trọng giữa dân tộc Champa ở miền nam vốn tôn thờ giai cấp lãnh đạo dòng cây Cau và dân tộc Champa ở miền bắc, trung thành với cấp lãnh đạo quốc gia thuộc dòng cây Dừa. May thay, cuộc xung đột này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn ngủi, bởi vì các giới lãnh đạo quốc gia giữa hai miền, cũng vì ý thức đến tầm quan trọng của sự xung đột này, đã tìm cách giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng. Ðể chấm dứt biến cố này, vua Panduranga chấp nhận sự thất bại của chiến tranh do mình tạo ra và sẳn sàng ra lệnh, thể theo lời yêu cầu của vua Jaya Paramesvaravarman đệ nhất, để bắt mỗi người dân Panduranga phải mang vài cục đá đem nộp cho đền tháp mỗi khi có cơ hội đi ngang qua khu vực này. Truyền thống này vẫn còn lưu truyền cho đến hôm nay, nhất là cho những ai thường đi ngang đèo Cậu, trên đường đi từ Phanrang lên Dalat. D-NGUYÊN NHÂN SỰ XUNG ĐỘT GIỮA NAM VÀ BẮC CHAMPA Sự thành công của cuộc hòa giải dân tộc vào năm 1050 vẫn là điều đáng chú ý, nhưng vấn đề xung đột xã hội vẫn là một hiện tượng lịch sử có một tác động tâm lý sâu đậm trong quần chúng. Và chỉ cần có một yếu tố nhỏ nhoi, biến cố này cũng có thể trở lại trên bàn cờ chính trị. 1-Tình hình 1145-1160 Năm 1145, vua Kampuchea là Suryavarman gởi một đoàn quân hùng mạnh sang thủ đô Vijaya và giết được vua Champa là Jaya Indravarman đệ tam (1139-1145) trên chiến trường. Ðể thay thế vua này, một hoàng tử xuất thân từ một gia đình hoàng gia khác, tự tôn mình là vua Champa, lên ngôi ở Vijaya lấy tên là Rudravarman đệ tứ Vì thủ đô Vijaya bị quân campuchia chiếm đóng hay là vì sự vùng dậy của nhân dân Champa ở miền Vijaya chống lại chính quyền cướp ngôi này, vua Rudravarman đệ tứ phải chạy sang ẩn náu ở tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam vào năm 1147, cùng với đứa con trai của mình, tức là hoàng tử Sivanandana. Trước tình thế này, tiểu vương quốc Panduranga rất ân cần với gia đình hoàng gia từ miền bắc đến xin tị nạn trong lãnh thổ của mình. Một vài tháng sau, Rudravarman thoái vị và xin hậu thuẫn của tiểu vương quốc Panduranga để tôn hoàng tử trẻ tuổi Sivanandana hiện có mặt tạm thời trên lãnh thổ của mình lên làm vua Champa vào năm 1147, lấy tên là Jaya Harivarman đệ nhất. Khi đã lên ngôi, mặc dù còn ở trong lãnh thổ miền nam, Jaya Harivarman đệ nhất đã có danh chánh ngôn thuận để đòi hỏi quân xâm lược Kampuchea phải rời khỏi thủ đô Vijaya của Champa. Khi nghe tin này, vua Kampuchea Suryavarman vô cùng phẫn nộ và quyết định gởi một đoàn quân sang tàn phá vùng Phan Rang vào năm 1148. Sẳn dịp thắng trận, vua campuchia đưa em rể của mình là Harideva lên làm vua Champa ở Vijaya, bất chấp phản ứng của người dân Champa.Năm 1148 đánh dấu sự chia đôi đầu tiên của vương quốc này: Miền bắc Champa đặt dưới quyền cai trị của một ông hoàng tử gốc campuchia. Miền nam, đó là chính quyền của vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất, gốc người Vijaya. Một năm sau, tức là 1149, vua Jaya Harivarman đệ nhất, với sự hổ trợ của đoàn quân hùng mạnh Panduranga, sang đánh Vijaya, giết được hoàng tử Harideva của campuchia. Sau khi thắng trận, ông tự tôn mình là vua của vua Champa (Raja diraja Campa) trên toàn lãnh thổ của vương quốc này. Tiếc rằng, đối với nhân dân miền bắc Champa, Jaya Harivarman đệ nhất chỉ là một công cụ của tiểu vương quốc Panduranga ở miền nam. Vì không chấp nhận chính sách của vua Jaya Harivarman đệ nhất nhằm dùng vũ lực để chiếm đoạt ngôi báu Champa, nhân dân Champa ở miền bắc và dân tộc Tây nguyên là Radê và Mada (Bahnar?) vùng dậy kêu gọi một hoàng tử khác, gốc hoàng gia Champa ở Vijaya, đó là Vangsaraja, em vợ của vua Harivarman đệ tứ (1114-1129) đứng ra làm lãnh tụ của phong trào kháng chiến này. Năm 1150, Jaya Harivarman đệ nhất cho lệnh tấn công hàng ngũ cách mạng của hoàng tử Vangsaraja, nhất là nhóm Radê và Mada ở Tây nguyên. Bị thất bại, hoàng tử Vangsaraja chạy sang Ðại Việt để xin viện trợ quân sự nhằm chiếm ngôi lại, nhưng không thành.Năm 1151, nhân dân vùng Amaravati cũng vùng dậy đứng sau lưng hoàng tử Vangsaraja để phản đối lại sự chiếm ngôi của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Bốn năm sau, tức là vào năm 1155, tiểu vương quốc Panduranga, không biết vì lý do gì, cũng đứng ra để truất phế vua này. Thế là chiến tranh giữa nam và bắc bùng nổ trong suốt năm năm trường. Phải chờ cho đến năm 1160, vua Jaya Harivarman đệ nhất mới có thời cơ để dẹp tan sự xung đột quân sự với Panduranga.Chiến tranh vào năm 1150 giữa vua Champa Jaya Harivarman đệ nhất và nhóm Tây Nguyên trung thành với Vangsaraja, một hoàng tử mà người Radê và Mada coi như là dòng chính thống có quyền lên ngôi Champa của họ, đã bị thêu dệt một cách phi khoa học bởi một số nhà sử học nước ngoài và Việt Nam như một chiến tranh của người Chăm nhằm đô hộ cao nguyên. Nếu Champa không dính dáng gì với họ, tại sao dân tộc Radê và Mada lại tình nguyện đem quân giúp hoàng tử Vangsaraja để chống lại vua Jaya Harivarman đệ nhất từ Panduranga đến cai trị miền bắc. Sự thành công trong việc chiếm ngôi ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất đã từng tị nạn ở Panduranga không phải là sự thành công của cá nhân ngài, nhưng là sự thành công của toàn dân tộc cây Cau Champa ở miền nam trong công cuộc chiếm đoạt quyền cai trị ở miền bắc. Ngược lại, dòng cây Dừa cũng có lý do riêng để phản đối sự hiện diện ở Vijaya của vua Jaya Harivarman đệ nhất. Nguyên nhân chính đó là Jaya Harivarman đệ nhất, con của vua Rudravarman đệ tứ, không phải là dòng hoàng gia Champa, chạy sang Panduranga ở miền nam nhằm cầu cứu sự hỗ trợ chính trị và quân sự để chinh phục ngôi vua. 2-Tình hình 1190-1220 Sau cuộc nội chiến 1145-1160, tình hình nội bộ Champa trở lại bình thường, nhưng vấn đề cách biệt giữa dân tộc ở phía nam và bắc Champa vẫn còn là một hiện tượng đáng lo ngại. Bằng chứng rằng, sau 30 năm kể từ ngày cướp ngôi của vua Jaya Harivarman đệ nhất (1147-1160), vương quốc Champa đã lâm vào cuộc xung đột xã hội vô cùng bi đát chưa bao giờ có trong lịch sử Champa. Biến cố này phát xuất từ sự tranh chấp quyền lực giữa những hoàng tử ở miền bắc Champa, nhằm tạo cho mình một tư thế với bất cứ giá nào để được toàn quyền làm vua trên đất nước này. Nếu một số hoàng tử Champa ở miền bắc dùng chính sách kêu gọi nhân dân miền bắc vùng dậy để yểm trợ cho phe phái mình, cũng có một số hoàng tử không ngần ngại mời gọi quân ngoại lai nhằm giải quyết việc nội bộ trong vương quốc này. Vào năm 1182, tức là bốn mươi năm sau ngày dẹp tan quân Khmer ở Vijaya, một hoàng tử Champa khác tên là Sri Vidyanandana, gốc người Vijaya, chạy sang campuchia để tìm hậu thuẫn của vua Jayavarman đệ thất. Trong những năm lưu vong ở đây, ông ta xin vua Khmer phong tước cho mình là hoàng tử nối ngôi (Yuvaraja) của vương quốc Champa, bất chấp cả qui luật tổ chức chính trị trong vương quốc này. Vì rằng, chỉ có hội đồng hoàng gia có quyền phong chức hoàng tử nối ngôi của Champa. Với hậu thuẫn của một đoàn quân Khmer hùng mạnh, hoàng tử Vidyanandana sang tấn công thủ đô Vijaya vào năm 1190, bắt được vua Jaya Indravarman đệ tứ (1167-1190) để đem giao nạp cho vương quốc campuchia. Cũng nhờ hậu thuẫn chính trị và quân sự của vua Khmer là Jayavarman đệ thất mà hoàng tử Champa Sri Vidyanandana đã làm chủ tình hình chiến tranh ở miền bắc. Ðể tạ ơn vua campuchia hay là không đủ quyền lực chống lại sự thống trị của vương quốc láng giềng này, hoàng tử Champa Sri Vidyanandana , một khi đã thắng trận, xin đề nghị (hay là bị buộc phải đề nghị) em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất lên làm vua Champa ở Viajaya lấy tên là Suryajayavarman. Sau đó, ông ta tự xưng vua của tiểu vương quốc Panduranga, lấy tên là Suryavarman. Sự cầu cứu quân sự ngoại lai để giải quyết nội bộ Champa đã phân chia vương quốc này thành hai khu vực rõ rệt: Miền bắc đặt dưới sự cai trị của một ông vua ngoại lai từ Khmer sang. Miền nam lại lọt vào trong tay của một ông hoàng tử Champa không phải gốc Panduranga, nhưng là gốc người miền bắc. Vấn đề tự xưng vương ở Panduranga của vua Suryavarman, gốc Vijaya đã biến tình hình xã hội miền nam thành một ung nhọt không chữa trị được. Ðây là lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Champa miền nam cảm thấy mình không còn làm chủ trên lãnh thổ của mình nữa. Trước biến cố chính trị này, nhân dân Panduranga tìm cách vùng dậy, vào năm 1190 không phải để chống xâm lược ngoại lai, nhưng chống lại hoàng tử Champa gốc miền bắc, mặc dù không thành công. Trong khi đó, dân tộc Champa miền bắc cũng vùng dậy vào năm 1191 dưới quyền chỉ đạo của hoàng tử Rasupati để đánh đuổi ông vua ngoại lai ở thủ đô Vijaya. Khi đã thắng trận, hoàng tử Rasupati lên ngôi lấy tên là Jaya Indravarman đệ ngũ.Trước tình thế này, vua Khmer không ngần ngại vuốt ve Jaya Indravarman đệ tứ, một ông vua Champa bị bắt giam ở Khmer vào năm 1190. Ðó cũng là một chiến thuật mới: dùng người Champa để chống lại với vương quốc Champa. Nhưng đối với vua Champa là Jaya Indravarman đệ tứ đang tù đày ở Khmer, đây cũng là một dịp may mắn để chiếm lại ngôi vàng của mình.Cũng vào năm 1191, vua Jaya Indravarman đệ tứ, đem quân từ Khemer sang hợp tác với vua Panduranga là Suryavarman để tiến đánh Vijaya. Mặc dù mang danh là người đứng ra để giúp đỡ Jaya Indravarman đệ tứ để chống lại chính quyền Vijaya, vua Suryavarman của tiểu vương quốc Panduranga, khi đã thắng trận, tự xưng mình là vua trên toàn vẹn lãnh thổ Champa. Cảm thấy mình bị lừa bịp trong chiến tranh này, Jaya Indravarman đệ tứ quyết định tập trung lực lượng của mình từ Khmer sang để tấn công vua Suryavarman, một nhân vật cướp ngôi, nhưng không thành.Nghe tin này, vua campuchia Jayavarman đệ thất tức tốc gởi quân sang để trừng trị Suryavarman ở Vijaya vào văm 1193. Thế là chiến tranh giữa Campuchia và Champa bắt đầu bùng nổ, một chiến tranh vô cùng khủng khiếp làm đảo lộn hoàn toàn bao công trình kinh tế và cơ cấu xã hội. Quân Champa cướp phá Angkor Trong suốt 10 năm chiến tranh, vua Khmer, vì không thể nào chống lại vua Champa, chỉ còn cách là nhờ ông Dhanapati Grama, là cậu ruột của vua Suryavarman, tìm cách cô lập vua Champa này. Thế là vào năm 1203 chính quyền vua Suryavarma bị lật đổ bởi cậu ruột của mình là ông Dhanapati Grama, dưới sự yểm trợ của đoàn quân campuchia. Sau trận chiến này, Champa đã trở thành một thuộc địa của Campuchia trong suốt 17 năm, tức là từ năm 1203-1220. Ðứng trên phương diện lịch sử mà nói, vào những năm 1190-1220, xã hội Champa đã trở thành hai bãi chiến trường mà dân tộc Champa là nạn nhân chính của chiến cuộc này. Một bên là chiến trường tranh chấp quyền hành giữa các hoàng tử Champa ở miền bắc để làm bá chủ vương quốc Champa, còn chiến trường thứ hai dành cho sự tranh chấp uy quyền giữa hai nước láng giềng Champa và campuchia. Từ năm 1182 đến năm 1220, nhân dân Champa đang chứng kiến một vở bi kịch lịch sử với bao nhiêu nhân vật chính trị tranh giành quyền làm Po Tanah Raya: – Hoàng tử Sri Vidyananda chạy sang lánh nạn ở Khmer vào năm 1182, rồi sau trở thành vua tiểu vương quốc Panduranga, lấy tên là Suryavarman. – Vua Indavarman ở Vijaya bị quân campuchia bắt đày sang campuchia vào năm 1190.- Em rể của vua Khmer Jayavarman đệ thất tự xưng vương ở Vijaya Champa lấy tên là Suryajayavarman. 3-Chiến tranh với Mông cổ 1283-1285 Sáu mươi ba năm về sau, tức là năm 1283, tiểu vương quốc Champa Vijaya lại bị quân Mông Cổ chiếm cứ liên tục trong hai năm liền. Vua Champa Indravarman đệ ngũ, vì không thể đứng ra để đối chọi với đoàn quân hùng mạnh Mông Cổ trong khu vực đồng bằng, dùng chiến thuật nhà không đồng trống để kháng chiến, quyết định rút toàn bộ quân sự của mình về phòng thủ ở Tây Nguyên.
0 Rating 475 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On August 24, 2017
(Thethaovanhoa.vn) - Trong chuy?n ?i Bangkok vào cu?i tháng t? này, tôi ???c m?t nhà s?u t?p ng??i Thái cho xem ba chi?c bình ??ng Champa. Có nhi?u chuy?n thú v? t? nh?ng chi?c bình c? này. Bình ??ng Champa, kho?ng th? k? 7, v?i hai vòi hình hoa, s?u t?p ? Bang Kok V? ngu?n g?c, nhà s?u t?p không nói có ???c ba chi?c bình này t? ?âu, nh?ng ông cho tôi xem  m?t cu?n sách c?a ng??i Pháp v? ngh? thu?t Champa có in m?t s? ?? ??ng t??ng t?, ??c bi?t là chi?c bình rót n??c có hai vòi. Hai vòi n??c làm g?n nhau, mi?ng xòe ra ???c trang trí thành hình hoa v?n, xung quanh hai vòi c?ng có di?m hoa v?n lá ??.  Chi?c bình ??ng này làm tôi liên t??ng t?i hình t??ng con chim hai ??u, ho?c hai ??u ng??i th?y trong ngh? thu?t Ph?t giáo Bút Tháp. ? chùa Bút Tháp, con chim hai ??u (và chim hai ??u ng??i g?n trên ??nh lá ?? t??ng Ph?t Tam th? và t??ng Quan th? âm b? tát Ngàn m?t ngàn tay) chính là con chim Ca l?ng t?n già, ti?ng kêu c?a nó ???c coi gi?ng ti?ng nói c?a ??c Ph?t, nên con chim là t??ng cho âm thanh c?a Ph?t.  Tuy nhiên c? ba chi?c bình này ???c ch? nhân s?u t?p kh?ng ??nh là có ít nh?t t? th? k? 7, t?c là tr??c th?i k? Ph?t giáo ??i th?a ??ng D??ng (th? k? 9), th?i k? Ph?t giáo duy nh?t trong l?ch s? Champa, nên không th? coi chi?c bình chim hai vòi là m?t bi?u t??ng liên quan ??n Ph?t giáo. B?t lu?n th? nào, ?ây c?ng là nh?ng di v?t quý c?a v?n hóa c? Champa, vô cùng hi?m th?y và nay l?u l?c sang x? ng??i. Chi ti?t chi?c bình hai vòi. Ch?t l??ng ??ng ? c? ba chi?c bình ??ng ?ó r?t khác v?i nh?ng ?? ??ng ?ông S?n và ?? ??ng Vi?t Nam th?i phong ki?n. Chúng r?t nh? và sáng, có màu xanh l?c m?n màng nh? là l?p men tráng lên ?? ??ng v?y và ???c làm b?ng k? thu?t ?úc (?? khuôn) ch? không ph?i gò. K? thu?t ?úc c?ng r?t hoàn h?o, cho th?y chúng thu?c lo?i ?? c?a cung ?ình Champa, ch? không ph?i ?? gia d?ng thông th??ng. Khác v?i ng??i Vi?t, ng??i Champa không phát tri?n ?? gia d?ng b?ng g?m.  ?? g?m Champa ch? y?u là vài ?? bình vò, bình vôi ??ng thông th??ng, ch?t l??ng và t?o dáng không có gì ?? so sánh v?i ?? g?m Sa Hu?nh tr??c ?ó và ??i Vi?t sau này. ?i?u này c?ng d? hi?u, v?n minh Champa v?n theo ?n ?? giáo, cách th?c ?n b?c truy?n th?ng c?a ng??i ?n ?? ch?c ch?n c?ng ???c ti?p thu và do ?ó không nh?t thi?t ph?i có quá nhi?u lo?i hình ?? g?m.  Tuy nhiên gi?i quý t?c và hoàng gia c?ng dùng nh?ng ?? ??ng ?m th?c nh?t ??nh, b?ng ??ng, b?c và vàng, ??c bi?t là các chi?c bát ??ng thông th??ng và bát t??c cúng b?ng vàng, k? ngh? làm ?? dùng vàng b?c c?a ng??i Champa c?ng ??t t?i ?? tuy?t ??nh không thua kém m?t n?n th? công m? ngh? vàng b?c Trung Á nào. Ba chi?c bình ??ng Champa mà tôi ???c th?y c?ng cho th?y m?t m?c ?? th? công kim lo?i hoàn h?o, mà ít th?y m?t ?? ??ng ??i Vi?t nào so sánh ???c. Chúng không ch? cho bi?t m?c ?? công ngh?, mà c?t y?u cho th?y chúng ch? có th? ra ??i trong m?t xã h?i ??t ??n trình ?? phát tri?n v?n minh r?t cao và toàn di?n t? ki?n trúc, ?iêu kh?c, trang trí ??n ?? th? công m? ngh?. Bình ??ng mi?ng ba góc hình hoa, kho?ng th? k? 7, s?u t?p ? Bang Kok V? ba chi?c bình c? th? nh? sau: Chi?c bình th? nh?t cao ch?ng 32cm, c? cao mi?ng xòe r?ng và b?ng, ?áy thu h?p và n? v? chân ??, có hai vòi rót n??c, ho?c r??u, cách ?i?u thành hình hoa, xung quanh vòi ? than bình có vòng hoa v?n ch?y quanh hình lá ??. Chi?c bình th? hai nh? h?n, cao ch?ng 25cm thân n? nh? m?t trái cây, thu v? c? bình r?i loe ra mi?ng thành ba góc nh? m?t hoa v?n cách ?i?u, ? ph?n quai có g?n hình ??u ng?a. Chi?c bình th? ba l?n nh?t có l? cao ??n 40cm thân n? thu v? chân ?? nh? m?t cái c?t, c? bình c? n?p ??y nh? chóp tháp, m?t vòi nh? g?n vào thân. C? ba chi?c bình ??u ???c ?úc r?t cân ??i, t?o hình g?i ý t? nh?ng qu? d?a l?n và qu? d?a, ki?u th?c r?t g?n v?i ?? g?m Nam Á và Trung Á. Chi ti?t miêng ba góc hình hoa và ??u ng?a ? quai Chúng tôi ch?a có ?i?u ki?n ?? nghiên c?u sâu h?n v? ?? ??ng c?a ng??i Champa, thông qua ba chi?c bình này. ?i?u d? nh?n th?y chúng là s?n ph?m c?a m?t n?n công ngh? th? công r?t phát tri?n và ??t ??n trình ?? t?o dáng, ?úc kim lo?i hoàn h?o, ch? th?y ???c ? nh?ng qu?c gia, dân t?c ?ã ??t ??n trình ?? v?n minh cao - ?i?u v?n có ? ng??i Champa xa x?a, dù hi?n nay h? co l?i nh? m?t s?c t?c ít ng??i. Ba chi?c bình này có l? không thu?c v? ??i s?ng bình dân mà là ?? dùng c?a gi?i quý t?c, n?u dùng trong tôn giáo có th? ???c ??ng n??c cúng r??u th?. Chúng cho th?y m?i liên quan nào ?ó gi?a v?n minh Champa và v?n minh Trung Á có quan h? th??ng m?i qua l?i ??n m?c ?nh h??ng l?n nhau v? dáng v? và th?m m?. Nh?ng câu h?i mà còn ??i quá kh? l?n khu?t tr? l?i. Bình ??ng cao, chân tr?, m?t vòi, kho?ng th? k? 7, s?u t?p ? Bang Kok Tôi có h?i ngay m?t nhà khoa h?c tr? v? h?p kim ??ng nh? t? ba chi?c bình này và ???c tr? l?i nguyên v?n nh? sau: G?i bác Th??ng  H?p kim c?a ??ng g?m có r?t nhi?u lo?i. ??ng - chì, ??ng thi?c, ??ng - niken, ??ng m?ngan... còn r?t nhi?u lo?i bác ?. Nh?ng ph?n l?n nh?ng k? thu?t ?úc ??ng c? ??i ng??i ta s? d?ng h?p kim ??ng thi?c, lý do là nó d? ?? k?t h?p v?i ??ng thành h?p kim ??ng thi?c (hai kim lo?i này r?t h?p v?i nhau), th? 2 là nhi?t ?? nóng ch?y c?a thi?c khá th?p nên d? ?i?u ch?nh. T? l? gi?a 2 kim lo?i này là 75 - 90% ??ng: 10 - 25% thi?c. Tác d?ng là ?? khi m?i ?úc xong thì cho hi?u ?ng gi?ng nh? vàng và r?t bóng. Cái mà cháu ???c xem trên ?nh ?? bóng có th? do thi?c t?o nên ho?c ng??i ta phun s?n trong bóng ?? b?o qu?n. Nh?ng thi?c c?ng là nguyên t? không h? nh? cho nên có th? tr?ng l??ng nh? mà bác c?m nh?n ???c có th? là do h? ?úc m?ng. Bác nên ki?m tra l?i ?? dày c?a nó. H?p kim ??ng tr?ng l??ng nh?. H?p kim ??ng tr?ng l??ng nh? là ??ng - silic và ??ng - berili, nh? nh?t là ??ng - berili nh?ng mà ??ng berili và ??ng - silic là h?p kim ??ng hi?n ??i ra ??i vào kho?ng ??u th? k? 20. Cho nên khó có th? là berili ???c. Theo phán ?oán c?a cháu thì có th? là ??ng silic l?n trong t? nhiên c?a quá trình ?úc. Ch? không ph?i do th? ?úng ?úc ??ng h? ch? ??ng ??a silic vào. Nh?ng hàm l??ng t? nhiên cháu ngh? c?ng không nhi?u nên. Nói là nh? do silic c?ng không h?n. Nh?ng có l? nó là nghi can s? 1. Bài Phan C?m Th??ng. ?nh: Nguy?n Anh Tu?n  Th? thao & V?n hóa Cu?i tu?n Theo thethaovanhoa.vn
0 Rating 471 views 0 likes 0 Comments
Read more
N?m trên d?i cát ven bi?n thu?c xã Phú Diên, huy?n Phú Vang, tháp Ch?mpa ???c phát hi?n, khai qu?t vào n?m 2001 sau nhi?u th? k? b? vùi l?p trong cát. ?ây là m?t trong nh?ng ki?n trúc ??c ?áo c?a dân t?c Ch?mpa, là di tích có giá tr? l?n v? khoa h?c, l?ch s?, v?n hóa và du l?ch.   ??n Phú Diên, men theo con ???ng cát d?n ra bi?n, khu di tích tháp Ch?mpa Phú Diên hi?n ra v?i tòa tháp c? rêu phong, tr?m m?c ???c bao b?c c?n th?n b?i m?t nhà kính khung s?t, g?i m? nhi?u ?i?u v? n?n v?n hóa c?a dân t?c Ch?m. Tháp n?m l?t th?m, cách m?t ??t kho?ng 10m, có hình ?? ki?n trúc hình ch? nh?t h??ng ?ông - Tây. M?t b?ng l?p d??i cùng c?a tháp dài 8,22m, r?ng 7,12m, càng lên cao càng gi?t c?p thu nh? d?n v?i các ph?n khác nhau: móng, chân tháp, thân và di?m mái…Theo k?t qu? nghiên c?u, tháp Ch?mpa Phú Diên thu?c nhóm tháp lùn trong ngh? thu?t ki?n trúc Ch?mpa. ?ây là nhóm tháp kh?i ??u c?a ki?n trúc tôn giáo Ch?mpa tr??c khi chuy?n sang xây d?ng b?ng v?t li?u có tính b?n v?ng. V?i niên ??i thu?c th? k? th? VIII, c?m ki?n trúc tháp Ch?mpa xã Phú Diên ???c coi là có niên ??i s?m nh?t trong l?ch s? ki?n trúc tháp Ch?mpa hi?n nay. ?ó là d?u n?i quan tr?ng ch?ng minh cho s? xuyên su?t, phát tri?n có h? th?ng trong ngh? thu?t ki?n trúc tháp Ch?mpa – m?t n?n v?n hóa phát tri?n r?c r?.N?m trên ??a bàn ???c coi là vùng ??t c? c?a c? dân Ch?mpa, c?m ki?n trúc tháp Ch?mpa Phú Diên ?ã cung c?p thêm nh?ng hi?u bi?t khác nhau nh? v?t li?u ki?n trúc, k? thu?t xây d?ng, ngh? thu?t trang trí ki?n trúc... ?ây là ?i?m ??n thú v? cho du khách, ??c bi?t là nh?ng ai quan tâm ??n v?n hóa, l?ch s? Ch?mpa. ??n ?ây, du khách s? hi?u thêm s? ??c ?áo c?a tháp c? và càng m?n ph?c bàn tay tài hoa c?a các ngh? nhân, nh?t là nh?ng ???ng nét c?a k? thu?t ch?m kh?c trên g?ch c?a ng??i Ch?m x?a.  
0 Rating 464 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 31, 2015
Ngày 13 tháng 5/2015 tại Đại sứ quán Thụy sĩ ở Hà nội có diễn ra một cuộc hội thảo về văn hóa và lịch sử Champa do nhà thơ Inrasara trình bày. Kết thúc buổi hội thảo nhà thơ dành cho Kính Hòa buổi phỏng vấn sau đây. Đầu tiên ông nói về buổi hội thảo. Nhà thơ Inrasara: Có thể nói là buổi nói chuyện thành công. Thứ nhất là lượng người tham dự, phòng họp nhỏ chỉ khoảng 60 người hết chổ, có người phải đứng bên ngoài. Thứ hai là đề tài hấp dẫn đối với các nhà văn, nhà báo, những vị đại sứ, những nhà trí thức ở Hà nội, về những điều mới, những điều chưa biết. Thứ ba nữa là những câu hỏi người ta đặt ra rất trí tuệ. Kính Hòa: Những điều mà nhà thơ nói là chưa được biết là những điều gì ạ? Nhà thơ Inrasara: Tôi đặt tên cho buổi nói chuyện là: “Người Chăm đóng góp gì vào nền văn hóa đa dân tộc Việt nam?” Đó là đề tài mà ít được sách báo nhắc đến, nhất là sách báo chính thống. Ví dụ như nền hải sử của Champa đã đóng góp, bổ khuyết vào lịch sử Việt nam. Hoặc là văn hóa biển của Champa nó làm cho văn hóa Việt nam đầy tràn. Hoặc là văn học của Chăm cũng vậy, nó có nhiều điều mà văn học Việt nam không có. Ngoài ra còn các đặc trưng văn hóa khác như giếng Chăm hình vuông, gốm Chăm, ngôn ngữ, thổ cẩm, đương nhiên không thể không nhắc tới các đền tháp, các lễ hội và điệu múa, đóng góp vào nền văn hóa đa dân tộc Việt nam. Kính Hòa: Theo chiều hướng đó thì nhà thơ có thấy rằng việc học lịch sử Chăm, đặc biệt là lịch sử biển của dân tộc Chăm ở Việt nam hiện nay là chưa đầy đủ không ạ? Nhà thơ Inrasara: Đúng rồi, lịch sử chính thống ở Việt nam chưa nhắc nhiều về người Chăm. Chưa in sách nhiều về lịch sử Chăm, nhất là nền hải sử của Champa xưa cũ. Người Chăm đi biển sớm và đi xa, trong khi người Việt chưa có truyền thống viễn dương. Cho nên điều đó rất là cần thiết đối với lịch sử Việt nam. Nhưng mà theo tôi biết thì những trí thức lớn, những chuyên gia cũng chưa nhận diện được hết sự đóng góp của nền hải sử Champa đóng góp vào sự toàn vẹn của lịch sử Việt nam. Đó là một điều đáng tiếc. Kính Hòa: Cũng có ý kiến cho rằng là thế hệ trẻ Việt nam hiện nay nên học ngoài các triều đại ở Thăng Long cũng nên học về các triều đại ở Đồng Dương, Bình định… Nhà thơ Inrasara: Cái đó là hoàn toàn đúng vì nước Việt nam ngày nay được hình thành từ hai Vương quốc cổ là Đại Việt và Champa, và một phần Thủy Chân lạp. Và mỗi Vương quốc có một nền văn minh riêng, chính điều đó làm cho nền văn minh của Việt nam nó giàu sang hơn. Cho nên nếu học lịch sử Việt nam mà chỉ học các triều đại ở đồng bằng Bắc bộ, của Đại Việt, thì nó không đầy đủ và nó thiếu sót rất lớn. Bởi vậy, sinh viên Việt nam sẽ hỏi là nước Việt nam hiện hình chữ S đầy như vậy, từ đâu ra? Thì giáo sư sẽ trả lời như thế nào? Nếu mà trong sách giáo khoa, trong giáo trình không có những triều đại ở miền Trung như Đồng Dương, Vijaya, hoặc các triều đại ở miền Nam, thì nền sử học đó thiếu sót rất là lớn. Và nó tạo một lỗ hổng về sự nhận diện của thực tại Việt nam hôm nay. Kính Hòa: Thế thì cái gì trở ngại làm cho chương trình sử Việt nam chưa bao gồm các triều đại Champa hay Chân Lạp? Nhà thơ Inrasara: Thứ nhất, quan trọng nhất là người ta sợ sự thật. Đó là một điều rất quan trọng. Tại sao lại sợ sự thật lịch sử? Lịch sử đã qua rồi, và khi Việt nam bây giờ tạo thành một đất nước thống nhất như thế này, thì chúng ta học quá khứ để có thể nhận diện được thực tại hôm nay nó chính xác hơn và nó toàn vẹn hơn. Đó là tâm lý sợ hãi, một sự sợ hãi hoàn toàn không cần thiết. Nếu chúng ta giấu đi sự thật lịch sử, đừng nói là sự thật hôm nay, mà là sự thật hôm qua, mà chúng ta giấu đi, thì chỉ thiệt hại cho chúng ta. Chẳng những chúng ta không nhận diện được sự thật toàn vẹn mà chúng ta còn lừa dối thế hệ trẻ, theo tôi đó là điều đáng tiếc. Kính Hòa: Vài ngày tới đây tại California sẽ diễn ra một cuộc hội thảo về cộng đồng Champa trên toàn thế giới, trong đó có rất nhiều bạn trẻ. Với tư cách một thành viên của cộng đồng Champa trong nước, nhà thơ nhận xét như thế nào về sự phát triển và sức sống của cộng đồng Cham trên toàn thế giới? Nhà thơ Inrasara: Cộng đồng người Chăm lưu vong là có suốt trong quá trình lịch sử, đi rất xa. Người Chăm có sống ở Hải nam bên Trung quốc, ở Thái Lan, Campuchia, Mã Lai, và sau 75 thì còn sống ở Mỹ và các quốc gia Tây phương, Người Chăm vẫn nhớ về cội nguồn, vẫn tổ chức được đại hội toàn thế giới thì đó là một điều đáng mừng. Tôi có theo dõi nhiều đại hội khác nhau, mặc dầu ở những đại hội trước có nhiều trục trặc không nên, nhưng điều mà người Chăm vẫn nhớ về nhau, để đoàn kết, để tạo thành một đại hội, hướng về nơi mà họ từng ra đi thì đó là điều rất vui sướng đối với tôi. Kính Hòa: cám ơn nhà thơ đã giành cho chúng tôi thời gian tực hiện cuộc phỏng vấn này. "Nước Việt nam ngày nay được hình thành từ hai Vương quốc cổ là Đại Việt và Champa, và một phần Thủy Chân lạp. Và mỗi Vương quốc có một nền văn minh riêng, chính điều đó làm cho nền văn minh của Việt nam nó giàu sang hơn Nếu chúng ta giấu đi sự thật lịch sử, đừng nói là sự thật hôm nay, mà là sự thật hôm qua, mà chúng ta giấu đi, thì chỉ thiệt hại cho chúng ta. Chẳng những chúng ta không nhận diện được sự thật toàn vẹn mà chúng ta còn lừa dối thế hệ trẻ, theo tôi đó là điều đáng tiếc" Nhà thơ Inrasara theo rfa.org
0 Rating 464 views 0 likes 0 Comments
Read more
Tác phẩm đoạt giải BT- Kết quả cuộc thi ảnh kỹ thuật số quốc tế tại Budapest (Hungary) do Liên đoàn Nhiếp ảnh nghệ thuật thế giới (FIAP) bảo trợ vừa được công bố. Cuộc thi thu hút 543 tác giả của 49 quốc gia tham dự, với 5.009 ảnh cho 3 thể loại ảnh màu, ảnh đen trắng và thể nghiệm. Từ ngày 30/10 - 13/11/2011 hội đồng giám khảo gồm các thành viên FIAP đã tiến hành chấm, chọn ảnh để trưng bày triển lãm, và trao giải thưởng cho các tác phẩm xuất sắc. Tại cuộc thi này, các nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam đã đoạt 2 HCV ở thể loại ảnh đen trắng và ảnh màu. Nghệ sĩ Ngô Đình Hòa với tác phẩm Gốm sứ Chăm pa (HCV ảnh màu); tác giả Hùng Hoa Lư (Daklak) với tác phẩm Về nhà (HCV ảnh đen trắng). Ban tổ chức còn trao bằng danh dự cho các tác phẩm: Hai chị em (Ngô Đình Hòa); Chơi (Trương Hữu Hùng); Khói (Trương Hữu Hùng); Buổi chiều mùa đông (Hùng Hoa Lư).   Nguồn tin: Binhthuanonline
0 Rating 461 views 1 like 0 Comments
Read more
By: On March 20, 2013
BBT Gulpataom xin giới thiệu đến quý độc giả bài viết về “lễ tục Rija Nagar” của ông Quảng Văn Đại thôn Chất Thường, ông là người miệt mài nghiên cứu, tìm hiểu các lễ tục cũng như văn hóa Chăm. Đây là một bài viết mang tính khái quátvề Rija Nagar mà chúng tôi muốn giới thiệu đến bạn đọc.  Khi tiếng ve bắt đầu ngân vang, cái nắng bắt đầu lên đỉnh điểm khắc nghiệt khắp các thôn làng người Chăm chuẩn bị cho một lễ tục đầu năm có tên gọi là  Rija nâgar Rija nâgar là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời, theo quan niệm của người Chăm đây là một lễ cầu xin sự bình an, cho mưa thuận gió hòa khi bắt đầu một năm mới, đồng thời cũng là dịp tẩy uế những gì không may mắn của năm cũ. Qua lễ tục này người Chăm thể hiện niềm tin vào thế lực siêu nhiên mang một ý niệm về mặt tinh thần, cùng các bái khấn tế nói lên một cái gì đó của lịch sử dân tộc. Ong Ka-ing đang làm lễ Có thể chia lễ tục Rija nâgar ở phần chính: thứ nhất là lễ chung của cả cộng đồng cùng góp làm, thứ hai là lễ cá nhân của mỗi gia đình còn gọi là ba ahar mah. ba ahar mah Về lễ chung của palei (làng) : Bắt đầu vào ngày thứ năm ( thượng tuần tháng 1 Chăm lịch) cả làng tập chung tại nhà làng ( sang palei), mỗi người một nhiệm vụ riêng do một người lớn trong làng am hiểu về văn hóa, phong tục hướng dẫn. Thời gian lễ:  Buổi chiều thứ năm là ngày vào, ngày vào theo quan niệm của người Chăm là ngày cúng cho thần Yang mới, về lễ vật chính của ngày này là ba con gà và trứng, sáng ngày thứ sáu là ngày ra là ngày cúng cho thần Yang cũ, lễ vật là một con dê. Người Chăm có câu tamâ manuk tabiak pabaiy. Tuy người Chăm có quan niệm là ngày vào cúng cho thần Yang mới và ngày ra cúng cho thần Yang cũ những trong nội dung bài cúng của ông Maduen thì có sự hòa hợp giữa thần Yang cũ và mới không phân biệt. Đó là một sự khôn khéo của dân tộc Chăm trong việc hòa hợp tín ngưỡng Bàlamôn và Bani. Phần lễ mah : là lễ của gia đình đêm lễ vật của gia đình để bày tỏ lòng thành của mình với thần Yang. ( Lưu ý: tùy thuộc vào làng người ta có thể cúng lễ vật là hoa qua hay hay gà…). Phần lễ này người ta đem vật cúng đến trước cổng làng hay đến khu vực có thờ các thần ( danaok). Chức sắc làm lễ bao gồm : Ông ka-ing, ông maduen Bên cạnh đó có các nghệ nhân đánh trống Gineng và thổi kèn Saranai. Trong quá trình hành lễ, chức sắc chủ lễ là ông Ka-ing làm trung tâm, ông là người đại diện cộng đồng liên lạc với thần Yang bằng những lời khấn vái và các điệu múa cũng như lúc lên đồng. Còn chức sắc ông Maduen với cái trống Baranâng vừa vỗ vừa hát các bài nói lên công ơn của các vị thần đối với trần thế cũng như cộng đồng, bên cạnh đó các nghệ nhân gineng và saranai cũng hòa nhịp vào làm cho không khí lễ càng thêm phần linh thiên và rộn ràng hơn.  Các lễ vật và các món dùng để cúng trong Rija nâgar bao gồm : Một con dê, ba con gà, một mâm cơm ( lisei thap). Chiều thứ năm ( ngày vào) người ta cúng ba con gà. Riêng Po Haniim Par người ta đặt một mâm cơm (lisei thap), một quả trứng gà và một con gà luộc còn các thần Yang khác là thịt gà xé nhỏ và xương gà bầm nhỏ để làm mâm lễ talai lisei hop (hộp cơm), bốn mâm cơm và ba cambah raba (dĩa thịt và chén canh). Sáng thứ sáu là ngày ra người ta làm một con dê lấy thịt thái nhỏ, xương bầm nhỏ để làm mâm lễ talai lisei hop, patuy, bốn mâm cơm và ba cambah để cúng thần Yang. Ngoài ra còn có các món như : Canh gà, canh môn thịt dê, aia tanut thịt dê. Trong lễ tục nhất định phải có: trầu, rượu, gạo nổ, xôi và hoa quả  ( dừa, chuối, mía…). Đặc biệt quả lựu và bông điệp là hai thứ rất quan trọng nó mang một ý niệm sâu xa, cây mía dùng để ông Ka-ing múa bài chèo thuyền nói về Po Tang Haok. Các vị thần trong lễ tục bao gồm : Po Haniim Par, Po Tang Haok, Po Tang, Po Gihluw, Po Than, Po Riyak. Đó là các vị thần theo người Chăm quan niệm là thần Yang mới. Ngoài ra còn có : Po Thun Girai (Po Klaong), Po Girai Bhaok, Po Rame, Po Sah inâ, Po Klaong Kasat, Po Cei Tathun, Cei Dalim, Cei Sit, Cei Praong, Po Patra và Po Nai. Người Chăm vốn là dân tộc có tín ngưỡng thờ đa thần vì vậy trong các lễ tục người Chăm có thể mời gọi tất cả các thần Yang mà họ cho là quan trọng trong lễ tục đó. Có thể nói trong lễ tục Rija nâgar việc múa lửa là rất đặc biệt ông Ka-ing đạp lên đốnglửa đang lừng cháy, múa lửa là một điệu múa thể hiện ý chí và tinh thần bất khuất của dân tộc, nhưng thời gian càng trôi về sau này thì tinh thần ấy không còn nữa. Ngày trước ông Ka-ing múa lửa khiến cho bao người phải kinh ngạc và cuốn hút người xem, phải chăng lúc đó tinh thần của dân tộc Chăm vẫn còn dâng trào?, còn ngày nay thì ngược lại điều đó làm mất đi tính chất linh thiêng của ngày lễ. Ngày trước Po Riyak vượt trùng khơi biết bao hiểm nguy để đi học hỏi văn hóa nước bạn về truyền đạt cho thần dân Champa, Po Tang Haok chèo thuyền đi chinh chiến để bảo vệ quê hương xứ sở. Tuy đó là sự hư cấu của dân gian nhưng cho chúng ta một bài học đó là tinh thần bất khuất. Nói chung Rija nâgar của dân tộc Chăm nó là lễ tục mang đậm bản sắc Champa,trong cùng thời gian này các nước ở khu vực Đông Nam Á điều diễn ra nhiều lễ hội và Rija Nagar Chăm cũng nằm trong ngày đó. Quảng Văn Đại theo Gulpataom.com
0 Rating 460 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On March 20, 2014
Trong suốt chặng đường của hàng ngàn năm giữ nước và dựng nước, dân tộc Việt Nam đã phải bao nhiêu lần phải đối đầu với các quốc gia lân bang bên ngoài: một Trung Hoa lúc nào cũng mưu toan thôn tính Đại Việt, một Chăm Pa, Chân Lạp… lúc nào cũng đánh phá, gây khó khăn cho nước Việt. Đó cũng chính là bấy nhiêu lần các vương triều Đại Việt phải kháng chiến chống nước lớn, bịnh định yên nước nhỏ và thực hiện các chính sách cầu than và giao hảo với các dân tộc lân bang, để mang lại sự trường tồn và hưng thịnh cho quốc gia. Nói đến mối bang giao của Đại Việt với các nước, chúng ta không thể không nói về mối bang giao với Trung Quốc, quốc gia mà không khi nào từ bỏ “mộng” xâm lược Đại Việt: năm 214 TCN nhà Tần xâm lược nước Văn Lang, An Dương Vương lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến thành công; năm 111 TCN nhà Hán lại xâm lược và thống trị nước ta và từ đó suốt một ngàn năm ta phải chịu sự đô hộ của các triều đại Hán, Tùy, Đường, Tống… và trong suốt những năm tháng đó dân tộc ta luôn nổi dậy chống lại ngoại xâm, giành độc lập, từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (40-43). Đến cuộc khởi nghĩa của Lý Bôn năm 541, nhưng mãi đến năm 938 khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên song Bạch Đằng thì nước Việt mới khội độc lập chính thức; cho dù vậy các triều đại phong kiến Trung Hoa không khi nào từ bỏ xâm lược Đại Việt đó cũng chính là bấy nhiêu lần dân tộc ta phải đứng lên kháng chiến bảo vệ độc lập: Nhà Tống hai lần sang xâm lược vào các năm 980, 1076 nhưng đều thất bại trước các cuộc kháng chiên do Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt lãnh đạo; trong các năm 1358, 1385, 1388 quân dân Nhà Trần ba lần đánh bại giặc Nguyên-Mông xâm lược; từ năm 1407-1427 nhà Minh lại xâm lược và đô hộ nước ta, Lê Lợi lãnh đạo nhân dân kháng chiến 10 năm mới giành lại độc lậọ, năm 1789 quân Thanh lại sang thôn tính nước Đại Việt, nhưng họ lại một lần nữa thất bại trước cuộc tiến công do Nguyễn Huệ lãnh đạo… Đó là những trang sử oanh liệt nhất trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm và bang giao với lân bang, dân tộc Việt Nam cho dù bao nhiêu lần bị xâm lược trước đế quốc Trung Hoa lớn mạnh nhưng chưa một lần khuất phục ngoại xâm. Những chiến tháng lớn đó trong lịch sử đã được truyền tụng mãi đến ngày hôm nay và trở thành bản anh hùng ca bất diệt, niềm tự hào của nhân dân ta Việt Nam tự bao đời. Thế nhưng lịch sử chống ngoại xâm và bang giao của nước Việt không chỉ có thế, lịch sử Đại Việt còn cho thấy những nước lân bang liên tục giao tranh, hay hòa hiếu, kết thân với nước ta tùy theo các thời kì lịch sử khác nhau: quan hệ với Chân Lạp, Ai Lao, Xiêm, Chăm Pa… Những mối bang giao này ghi vào lịch sử có thể là qua chiến tranh hay các lần sứ giả sang cầu phong trao đổi, hôn nhân (chúa Sãi gả công chúa cho Chân Lap, Chăm Pa hay trước đó nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chăm Pa Chế Mân…) Trong số các mối quan hệ lân bang này, thì mối quan hệ với Chăm Pa là nổi bật hơn cả, tầm quan trọng của mối quan hệ này trong sử Việt Nam là không kém gì quan hệ với Trung Hoa ở phía bắc. Sở dĩ tôi mạo muội nhận định như vậy là vì: + Chăm Pa là quốc gia nằm ở phía nam Việt Nam, chính là thế lực nhiều lần cường phá và tấn công Đại Việt, Trong lịch sử phong kiến của nước ta, thì Trung Hoa và Chăm Pa là hai nước duy nhất gây chiến với Đại Việt mà tiến sâu vào kinh thành Thăng Long, chút nữa là lật đổ nhà Trần vào thế kỉ 14, đó là sự thật lịch sử không thể chối cải được. + Mặt khác Có thể thấy mối bang giao này còn có phần rất quan trong vì trong quá trình sinh tồn và phát triển của nềm văn minh Đại Việt đòi hỏi dân tộc này phải mở rộng cương vực và khai phá các vùng đất màu mỡ ở miền nam. Trước sức ép ngày càng lớn từ phương bắc, không còn cách nào khác để trường tồn và phát triển, thì chúng ta cần phải nam tiến mở rộng cương thổ trên phần lãnh thổ của Chăm Pa ở miền trung, tiền đề để tiến xa hơn xuống tận Nam Bộ ngày nay. Trước sức ép của dân số ngày càng đông, tài nguyên ngày càng eo hẹp. + Mở rộng lãnh thổ đến ba lần lúc xưa, và khai phá được các vùng đất vô cùng trù phú. Chính việc mở cõi về Nam đó, của các bậc tiền nhân, đã làm cho sức mạnh và địa thế của Đại Việt với các nước lân bang trước thế kỉ 18  rất lớn. Nó làm cho  vương quốc Đàng Trong của Chúa Nguyễn đã hùng cường và uy danh khấp khu vực khiến các nước lân bang phải triều cống… +  Cho dù ngày hôm nay nước Chăm Pa đã mất, nhưng vẫn còn đó những tộc thiểu số ở miền trung như Chăm, Raglai, ChuRu… là hậu duệ của vương quốc này đang tồn tại ngày ngày sống và lao động trong dòng chảy chung của dân tộc Việt. Họ đã đóng góp không nhỏ vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. + Trong quá trình đó xu thế giao lưu, tiếp xúc văn hóa giữa hai dân tộc là tất yếu, mà sự ảnh hưởng của nó mãi ngày hôm nay vẫn còn tồn tại trong mọi đời sống, lao động và lễ hội của người Việt. Góp phần làm phong phú thêm văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc. Đó chính là những nguyên nhân khiến cho lịch sử mối quan hệ bang giao Việt-Chăm trở nên rất là quan trọng. Nhưng xét thấy lịch sử Việt Nam vẫn chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của mối quan hệ này. Cụ thể khi nghiên cứu về vấn đề này, giới khoa học hay các chuyên gia vẫn thường xếp mối quan hệ này chỉ ngang hàng với mối quan hệ với các nước lân bang chư hầu như Chân Lạp, Ai Lao…thậm chí là như mối quan hệ với các tiểu quốc và các bộ lạc dân tộc Tày, Mường, Mán. Bằng chứng là hiện nay trong sử phổ thông chỉ có vài dòng ngắn ngủi để nói về lịch sử các cuộc chiến tranh, hay hòa hiếu giữa hai nước và nhất là quá trình mở cõi của cha ông, trong khi đó các cuộc kháng chiến chống bắc phương thì lại được thuật rất chi tiết và dạy rất bài bản. Bên cạnh đó có rất  nhiều tác phẩm nghiên cứu lớn thường chỉ nghiên cứu về mối quan hệ trong lịch sử với Trung Hoa, cũng như các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm phương bắc. Điều này làm cho những người học và đọc sử nắm rất cơ bản và kĩ càng về các sự kiên lịch sử với Trung Hoa từ các chiến thắng đến các nhân vật liên quan đến các sự kiện của cả hai bên, từng diễn biến khái quát (ở đây chỉ là khái quát tức là không chi tiết vì họ không phải nhà nghiên cứu chuyên ngành), mốc thời gian như: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 giết chết Hoàng Thao, hay Quang Trung đánh bại quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm binh với chiến thắng Ngọc Hồi-Đống Đa năm 1789… Nhưng họ lại ít biết về các cuộc giao tranh với Chăm Pa những năm 982, 1069, 1471,1692… về tên tuổi những nhân vật như Chế Củ, vương phi Mỵ Ê, hay Chế Năng, Chế Chí, Chế Bồng Nga, Bà Tấm, Bà Trang… thì họ lại ít biết đến và sự giao lưu, hôn nhân hai nước giữa vua Chế Mân và công chúa nhà Trần Huyền Trân, hôn nhân giữa công chúa Ngọc Khoa và vua Po rome (1631)… Những sự kiện như vua Chế Bồng Nga mấy lần tiến công tàn phá kinh đô Thăng Long, thậm chí giết chết vua Trần Duệ Tông hay những sự kiện vua Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông mấy lần đích thân xuất binh chinh phạt kinh đô của Chăm Pa…nhiều người Việt Nam cũng ít biết đến như các cuộc chiên chông Tống, Nguyên, Minh…ngoài những người quan tâm nghiên cứu. Mặc khác khi nói đến chủ đề này nhiều người trong chúng ta chưa dám nhìn thẳng vào lịch sử, đánh giá đúng lịch sử, mang tư tưởng đề cao vai trò “thượng quốc” của Đại Việt đối với đối phương (thật sự trong những sách sử viết vào thời phong kiến các sử gia Việt thường sử dụng những từ ngữ khinh miệt với người Chăm Pa như khi nói các lần sứ Chăm Pa sang chầu thì dung từ “ sang dâng cống”, hay thường ghi chép rằng nguyên nhân của mọi cuộc chiến tranh hai nước đều xuất phát từ phía Chăm Pa, trong khi đó cũng có khi nguyên nhân chiến sự từ phía Đại Việt, thậm chí ta còn thấy có lúc Đại Việt làm tổn hại đến mối quan hệ hai nước như sự kiện nhà Trần cướp công chúa Huyền Trân về nước năm 1307…). Bên cạnh đó nói đến chủ đề này chúng ta vẫn còn chưa biết nhiều đến những giao lưu giữa hai nước trên các lĩnh vực văn hóa, đời sống cho dù trên thực tế người Việt khi vào cư ngụ tại miền Trung đã tiếp thu và học hỏi rất nhiều kinh nghiệm lao động, phong tục, tín ngưỡng của người Chăm. Thậm chí dấu ấn những ảnh hường mà ta vây mượn của Chăm Pa còn hiện diện ở Miền Bắc, ngay tại inh thành Thăng và góp phần quan trọng tạo nên bản sắc Việt Nam Đây thực sự là tổn thất rất lớn của lịch sử đề về mối quan hệ ngoại giao Đại Việt – Chăm Pa thật sự là một vấn đề hay, chứa đựng nhiều kiến thức thú vị những còn nhiều bí ẩn cần nghiên cứu. Sự nghiên cứu nó cũng cần phải có những cái nhìn khách quan và tôn trọng sự thật, chỉ có những nỗ lực, của những “bàn tay” thiện chí, mới có thể trả lại được vai trò, tầm vóc, ý nghĩa quan trọng, mang tính lịch sử của vấn đề này. Nhận thấy tầm quan trọng đó của mối quan hệ này, mà vẫn chưa có nhiều những nghiên cứu trực tiếp và tổng hợp nhiều khía cạnh, bình diện về chủ đề này. Đó chính là lý do mà chúng tôi chọn đề tài này. Nghiên cứu “Mối Quan Hệ Đại Việt – Chăm Pa” hy vọng cùng góp phần làm sống lại những trang “khuất”, bị nhìn nhận sai lệch của tiến trình lịch sử của cả hai dân tộc, nỗ lực đánh giá lại những vấn đề, sự kiện một cách chính xác và khách quan. Nghiên cứu “Mối Quan Hệ Đại Việt – Chăm Pa” sẽ giúp chúng ta biết được nhiều chi tiết quan trọng trong nhiều khía cạnh khác nhau ngoại giao, chiến tranh và giao lưu, hội nhập của hai bên từ đó đánh giá đúng vai trò của Chăm Pa trong việc hình thành nền Văn Hóa Việt phong phú và đa dạng. JASHAKLIKEI
0 Rating 459 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On May 31, 2015
  Tại cuộc hội thảo về Champa tại UC Davis ngày 24/5/2015 có một diễn giả chính đến từ Pháp là Tiến sĩ Po Dharma, một chuyên gia về lịch sử Champa. Ông dành cho Kính Hòa cuộc phỏng vấn liên quan đến các vấn đề của dân tộc Chăm hiện nay. Trước tiên ông cho biết Tiến sĩ PoDharma: Dân tộc Chăm hôm nay có hai vấn đề quan tâm nhất. Thứ nhất là người thanh niên Chăm sống tại hải ngọai này làm thế nào để họ có một vai trò trong di sản của họ, trong tiếng nói của họ. Hầu hết họ sang bên Mỹ hay bên Pháp đều không biết tiếng Việt, không biết tiếng Chăm, cho nên chúng tôi muốn làm cách nào đưa đến cho họ di sản văn hóa Champa, những tác phẩm về Champa bằng tiếng Anh. Người Chăm hôm nay có khỏang 100 ngàn người ở Việt nam, 400 ngàn người ở Cam Pu Chia, 5 hay 6 chục ngàn ở Mã Lai, vấn đề của họ là thế kỷ 21 này họ có còn sống được hay không. Kế đến là dân tộc Chăm hiện nay ở Việt nam với vấn đề dân tộc bản địa, có thể duy trì văn hóa của họ trong một chế độ mà chúng tôi gọi là độc tài đảng trị hay không. Không phải họ muốn đòi lại độc lập quê hương, đó không phải là vấn đề của họ. Vấn đề duy nhất của họ là đòi hỏi chính phủ Việt nam công nhận họ là một phần của dân tộc Việt nam, lịch sử của họ là lịch sử Việt nam chứ không nằm bên lề lịch sử Việt nam. Kính Hòa: Về mặt chính thức chính phủ Việt nam lúc nào cũng nói rằng Việt nam gồm 54 dân tộc trong đó có dân tộc Chăm. Ở đây có thể nói gì về điều đó? Tiến sĩ Po Dharma: Chính phủ Việt nam cứ cho chúng tôi là một dân tộc phản động, đòi hỏi quá đáng, rồi tay sai bên ngòai. Không chúng tôi không đòi hỏi quá đáng. Dưới thời Thiệu Trị, Tự Đức, Khải Định, Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, rồi Đệ nhất, Đệ nhị cộng hòa, nhà nước Việt nam công nhận dân tộc Chăm là dân tộc bản địa, hay là thổ dân, có đất đai riêng, phong tục tập quán riêng, có lãnh tụ riêng, do nhà nước Việt nam chỉ định nhưng phải đuợc sự đồng ý của nhân dân Chăm. Sau năm 1975 chế độ chính trị của Hà nội hòan tòan phủ nhận mọi qui chế đặc biệt đó. Vậy nên chúng tôi yêu cầu nhà nước Việt nam hôm nay công nhận chủ quyền của người Chăm trên đất đai của họ, trên đền tháp của họ, trên di sản văn hóa của họ do người Chăm quản lý. Dân tộc Chăm có quyền mở cửa hành lễ trên đền tháp của họ, vậy mà mỗi lần hành lễ cũng phải xin phép. Đây là đền tháp của chúng tôi.   Tiến sĩ Po Dharma đến từ Pháp . Photo RFA   Kính Hòa: Về phía nhà nước Việt nam thì người ta cũng nói là có đại biểu quốc hội là đại diện cho người Chăm. Tiến sĩ Po Dharma: Chúng tôi cám ơn nhà nước Việt nam đã cho chúng tôi một cái ghế gọi là dân biểu Chăm. Chúng tôi không phủ nhận cái đó. Vấn đề là họ đại diện cho chúng tôi để làm cái gì trong Quốc hội? Dân biểu của chúng tôi do nhà nước chỉ định làm theo nhà nước, chứ không có giai trò gì hết. Kính Hòa: Thưa những suy nghĩ, kiến nghị, hay là những mong muốn đó từ những tổ chức người Chăm độc lập ở trong nước cũng như hải ngọai đã được đưa đến nhà nước Việt nam chưa? Tiến sĩ Po Dharma: Nói thật ra cho đến hôm nay chúng tôi có tiếp xúc với dân biểu từ Hà nội xuống tiếp xúc cử tri, nhưng họ chỉ nói nhũng gì đảng và nhà nước muốn. Trước khi nói thì chế độ bảo không được nói cái này, không được nói cái kia. Mặc dù cùng sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa Việt nam nhưng chúng tôi như ở ngòai lề, không có tiếng nói gì hết. Đó là những vấn đề chúng tôi muốn người Việt ở hải ngọai, người Việt trên tòan thế giới giúp đỡ chúng tôi, một dân tộc đang bị khó khăn trở ngại. Một mình chúng tôi không làm được, chúng tôi muốn người Việt ở cộng đồng hải ngọai lên tiếng giúp đỡ chúng tôi, một trong những dân tộc anh em.   Cụm tháp Po Klong Garai của người chăm xây dựng vào thế kỷ thứ 13   Kính Hòa: Xin Tiến sĩ câu hỏi cuối là trở lại với lịch sử Champa thì có ý kiến cho rằng học sinh Việt nam ngày nay từ miền Bắc cho đến miền Nam, ngòai những triều đại ở Thăng Long cũng nên học các triều đại Simhapura, Indrapura (Quảng Nam.) Ý kiến đó cũng được nhiều trí thức Chăm trong nước ủng hộ, Tiến sĩ đánh giá thế nào về việc đó? Tiến sĩ Po Dharma: Vấn đề hôm nay tôi thấy đối với người trí thức trẻ, không chỉ người Chăm mà còn cả người Việt, ai cũng thấy là có một dân tộc Chăm. Chính phủ Việt nam cũng cho xây một cái đền Chăm y hệt ngay tại Hà nội, một hành động công nhận dân tộc Chăm. Tiếc rằng nhà nước Việt nam không đề cập đến lịch sử Champa, hoặc chỉ có hai hàng thôi trong sách giáo khoa, trong khi đó nhà nước lại chuẩn bị đưa tiếng Tàu vào trường học. Cái điều đó người ta không hiểu. Mà khi nói đến lịch sử Việt nam thì phải có lịch sử Champa trong đó, từ Quảng bình, quãng Ngãi, Bình định,… Lịch sử Việt nam không thể tách rời khỏi lịch sử Champa. Kế đến là hôm nay nhà nước Việt nam luôn chủ trương dâ tộc đòan kết, Việt Chăm đòan kết. Vậy mà đòan kết thì đòan kết, nhà nước Việt nam quên mất lịch sử Champa trong sách Việt nam. Cái đó chúng tôi không hiểu là tại sao bỏ lịch sử Champa ra ngòai? Dân tộc Việt nam cần biết lịch sử Champa, người Chăm cần biết lịch sử Việt nam rõ rang. Như vậy cả hai mới sống với nhau được, không nghi ngờ, chia rẽ nhau. Lịch sử là một yếu tố quan trọng đối với con gười như một yếu tố tâm linh vậy, cần biết lịch sử để mà hiểu nhau. Đó là một vấn đề mà chúng tôi mong muốn các trí thức người Việt lên tiếng để lịch sử Champa được giảng dạy trong trường học, đó là một vấn đề mà chúng tôi sẽ luôn luôn tranh đấu để đạt được. "Tiếc rằng nhà nước Việt nam không đề cập đến lịch sử Champa, hoặc chỉ có hai hàng thôi trong sách giáo khoa, trong khi đó nhà nước lại chuẩn bị đưa tiếng Tàu vào trường học. Cái điều đó người ta không hiểu" Tiến sĩ Po Dharma Kính Hòa: Xin cảm ơn Tiến sĩ đã giành thời giờ cho chúng tôi thực hiện cuộc phỏng vấn này. Theo rfa.org
0 Rating 457 views 0 likes 0 Comments
Read more
By: On February 8, 2014
Ngày 4.2 vừa qua người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp theo đúng phong tục truyền thống của đồng bào Chăm, tiếc rằng tháp chưa được làm lễ mở cửa mà đã bị mở toang để phục vụ cho khách du lịch trong dịp tết Nguyên Đán của người Kinh. Đoàn chúng tôi gồm các chức sắc Chăm phục vụ cho buổi lễ mở cửa tháp như Po Adhia, Po Bac, Paxeh cùng Inra Jaka, Jayam Padra đến phụ giúp cho nghi lễ và tìm hiểu thêm những phong tục truyền thống của người Chăm. Lúc 7h 30 sáng đến tháp chúng tôi ngỡ ngàng khi cửa tháp đã bị mở toang, một vài khách du lịch người Kinh cũng đã có mặt, ngoài những vị khách sẵn dịp tìm hiểu thêm phong tục và văn hóa Chăm thì còn có những vị khách với những trang phục và thái độ vô văn hóa đến tạo dáng trên những ngôi tháp linh thiêng và vô tư đi qua đi lại trên những khu vực hành lễ. Cửa tháp mở toang trước giờ hành lễ. Đối với người Chăm, tháp là nơi thực hiện những lễ nghi tôn giáo như lễ Yuer Yang (tháng 4 Chăm lịch) lễ Katé (tháng 7 Chăm lịch) lễ Cambur (tháng 9 Chăm lịch) và lễ Peh Pabah Mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch) và là nơi linh thiêng, bất khả xâm phạm đối với đời sống tâm linh của họ. Theo đúng phong tục truyền thống, người Chăm có 4 lần làm lễ mở cửa tháp trong một năm theo lịch Chăm như trên và chỉ có Po Adhia cùng Ong Camnai, Muk Pajuw và Ong Kadhar, phải hội tụ đủ 4 vị chức sắc trên lễ mở cửa tháp mới được tiến hành và cửa tháp mới được mở. Ngày hôm nay, được sự quan tâm của Nhà Nước nên tháp Po Klaong Garai đã được tu bổ và tôn tạo, trở thành điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Ninh Thuận và giao cho Bảo tàng tỉnh Ninh Thuận quản lý. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển du lịch, tăng thu nhập cho tỉnh qua nguồn du lịch thì cơ quan chủ quản tháp cũng cần chú trọng vào việc tạo điều kiện cho người Chăm thực hiện nghi lễ cúng tế trên tháp, tôn trọng phong tục tập quán, tín ngưỡng của người Chăm trên tháp này. Ong Camnai trao đổi với bảo vệ tháp vì đơn đã được gởi nhưng tháp vẫn mở toang trước giờ hành lễ. Theo đúng lịch Chăm ngày 4.2 vừa qua là ngày người Chăm tiến hành làm lễ Mở cửa tháp- Peh Pabah mbang Yang (tháng 11 Chăm lịch), biết trước là trùng với dịp tết của người Kinh nên Ban phong tục Chăm và Hội đồng chức sắc đã gởi đơn đề nghị đóng cửa tháp trước 1 ngày cho Ban quan lý di tích tháp Po Klaong Garai, đơn do chính Ban phong tục viết và ngài Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai Đổng Bạ ký gởi trước một ngày, vậy mà đến tháp lúc sáng sớm đoàn người làm lễ vẫn thấy cửa tháp mở toang, điều đó cho thấy rằng tiếng nói của Cả Sư trụ trì tháp và Ban phong tục tế lễ không được coi trọng trên chính ngôi tháp của người Chăm vào đúng ngày người Chăm làm những nghi lễ quan trọng trên đền tháp. Với người Chăm tháp là một quần thể thiêng liêng của dân tộc, là nơi trú ngụ của Thần Yang Chăm, là nơi để tổ chức các nghi lễ tôn giáo của dân tộc, là niềm tự hào của những người con Champa và là chứng nhân lịch sử còn tồn tại suốt chiều dài lịch sử dân tộc, ngoài tháp Chăm Po Adhia còn là vị Cả Sư mà người Chăm kính trọng, là một vị lãnh đạo tinh thần cao quý. Vậy mà tiếc thay những người và tháp mà cả dân tộc Chăm bày lòng kính trọng, ngưỡng mộ và có vai trò quan trọng nhất trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người Chăm thì Ban quản lý di tích tháp và bảo vệ tháp những người được coi là “ăn nhờ ở đậu” trên di sản thiêng liêng của dân tộc Chăm lại bày tỏ thái độ vô văn hóa, không tôn trọng lời nói của những vị ấy, xem thường nghi lễ, lễ tục của người Chăm trên chính tháp Chăm. Chức sắc Chăm chuẩn bị làm lễ Mở cửa tháp. Qua những quá trình tiếp biến của lịch sử người Chăm đã mất tất cả, chỉ còn lại vài ngôi tháp để thờ tự và cúng kiếng cho trọn đạo hiếu với các bậc tiền nhân Chăm vậy mà những người ăn nhờ ở đậu trên các ngôi tháp Chăm lại là những kẻ vô văn hóa, ăn cháo đá bát khi hàng năm họ thu tiền vé hàng trăm triệu đồng trên những ngôi tháp Chăm vậy mà chỉ vài giờ đóng cửa tháp để người Chăm làm lễ họ lại không quan tâm, không màng đến những tiếng nói của Ban phong tục, cũng như vị Cả Sư trụ trì tháp Po Klaong Garai. Mong rằng những cơ quan đại diện cho Chăm, mang danh là Chăm dám nói và dám thể hiện những chính kiến để bảo tồn những di sản văn hóa Chăm đang bị cưỡng bức trong hôm nay và mai sau. Putra Jatrai Nguon: Gulpataom.com
0 Rating 454 views 0 likes 0 Comments
Read more