• Facebook
  • Yahoo
  • Google
  • Live
  • Twitter
  • Live
admin
by On April 3, 2014
425 views

1. Chủ trương, chính sách đối ngoại của hai bên.

          Năm 1226 nhà Lý sụp đổ, Trần Thủ Độ ép Lý Chiêu Hoàng là nữ hoàng cuối cùng của triều Lý, nhường ngôi lại cho Trần Cảnh (chồng của Chiêu Hoàng)  tức là Thái Tông nhà Trần ông vua đầu tiên khai sáng ra nhà Trần, sau đó Trần Thủ Độ còn bức tử vua Lý Huệ Tông. Tiếp tục đưa Đại Việt bước lên đỉnh cao thịnh trị như nhà Lý đã làm, nhà Trần ghi tên mình vào lịch sử với ba lần kháng chiến chống Mông Cổ hùng mạnh.

           Nước Chăm Pa về Phía Nam cũng bước vào những năm tháng ổn định, sau một thể kỷ chiến tranh đẫm máu với người láng giềng Chân Lạp và chịu sự đô hộ kéo dài từ năm 1203-1220 của người Khrme. Năm 1220 vì không thể đủ sức áp đặt tiếp nền thống trị Chăm Pa và bận đối phó với nước Xiêm người Chân Lạp buộc phải rút quân khỏi Chăm Pa kết thúc cuộc chiến dài giữa hai nước. Jaya Paramecvaravarman II lên ngôi vua Chăm Pa, khôi phục lại nền độc lập của vương quốc, ông và sau đó người kế ngôi là Jaya IndravarmanVI đã ra sức tái thiết lại quốc gia[1].

          Ngay từ khi Nhà Trần vừa thành lập, vua Chăm Pa đã hai lần cử sứ giả sang đưa lễ vật vào các năm 1028, 1042. Nhưng điều này không thể làm cho Trần Thái Tông vị vua khai sáng nhà Trần bỏ qua việc người Chăm Pa thường sang cướp phá Đại Việt, đã mấy lần Thái Tông yêu cầu Chăm Pa phải ngừng các cuộc đột kích đó[2]. Nhưng thay vào đó, vua Chăm Pa yêu cầu Nhà Trần phải trả lại những vùng bị mất năm 1069. Điều này khiến Trần Thái Tông phải cầm quân chinh phạt Chăm Pa[3].T ừ sau đó Chăm Pa liên tục triều cống Đại Việt từ năm 1265 đến 1282[4].

          Như vậy thì trong thời điểm đầu của Nhà Trần thái độ của Chăm Pa không còn như đầu thời Lý nữa, cho dù vua Chăm Pa đã hai lần cử sứ giả sang nhưng cũng liên tục sang đánh phá Đại Việt. Họ còn chủ trương bỏ qua thái độ của vua Trần và yêu cầu phía Đại Việt phải trả lại đất, đó là một thái độ cứng rắn của vua Chăm Pa, nhầm đòi lại vùng đất đã mất. Về phía Đại Việt họ chủ trương nói chuyện ôn hòa, nhưng khi vua Chăm Pa khiêu khích thì vua Trần liền cho quân đi chinh phạt, đó là lý do để họ khẳng định sức mạnh của mình với các nước lân bang.

          Từ sau năm 1252 vua Chăm Pa Indravarman V (lên ngôi năm 1257) đã cử nhiều đoàn ngoại giao gửi sang Đại Việt vào các năm 1265, 1266, 1267,1269,1270… để nhầm thắt chặt tình đoàn kết với Đại Việt[5]. Kể từ đó hai bên chủ trương giao hảo với nhau.

          Sau đó không lâu cả hai nước Đại Việt và Chăm Pa phải cùng đối phó với một kẻ thù chung đó là đế quốc Nguyên – Mông ở phía bắc. Đế quốc này đã làm mưa làm gió cả lục địa Á-Âu, bành trướng đến tận Đông Âu, Trung Đông, thôn tínhcác nước ở Á Đông như Đại Kim, Đại Lý và Nhà Tống thống trị toàn Trung quốc rộng lớn lập nhà Nguyên mà Hốt Tất Liệt là ông vua đứng đầu. Khu vực Đông Nam Á chính là mục tiêu tiếp theo của quân Mông – Nguyên.

          Năm 1258, 1285 và 1288 nhà Nguyên đã ba lần xâm lược Đại Việt nhưng tính thần kháng chiến bất khuất, đồng lòng của vua, tôi nhà Trần quân Mông Cổ đều thảm bại trở về[6]. Năm 1283 quân nhà Nguyên cũng sang thôn tính Chăm Pa, nhưng dân Chăm Pa dưới sự lãnh đạo của vua Indravarman V và thái tử Harijit đã kháng chiến anh dũng làm thất bại tham vọng của địch, cầm chân quân địch[7].

          Biến cố đặc biệt này buộc hai nước phải liên kết với nhau để cùng chống lại kẻ thù chung, nếu Chăm Pa bị chiếm thì Đại Việt sẽ bị Nhà Nguyên bao ở hai đầu, sau khi thất bại ở Chăm Pa nhà Nguyên liền tạo ra kế sách mượn đường sang Đại Việt mà đánh xuống Chăm Pa, nếu Đại Việt đồng ý thì không những cuộc kháng chiến của nhân dân Chăm Pa sẽ thất bại, mà nước Đại Việt còn có thể bị Nhà Nguyên thừa cơ chiếm lấy, hoặc là khi đi qua lãnh thổ Đại Việt thì quân Nguyên đã thừa cơ chiến Đại Việt trước rồi.

          Chính vì thế, hai nước trong giai đoạn này chủ trương liên kết vào hợp tác với nhau cùng chống lại kẻ thù chung hùng mạnh này, bỏ qua những mâu thuẫn tồn tại trong quá khứ. Đây là giai đoạn mà mối quan hệ hai nước trở nên rất mặn nồng, các ông vua hai bên (IndravarmanV với Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông).

           Vua Chăm Pa Indravarman V mất vì tuổi già vào năm 1285, thái tử Harijit người có công lớn trong cuộc chiến vừa qua, lên ngôi hoàng đế mà vương hiệu Phạn ngữ là Jaya sinhavarman III mà sử Việt gọi là Chế Mân. Cũng như vua cha ông người mà luôn luôn có thái độ giao hảo với các nước láng giềng, nước lớn như nhà Nguyên thì ông tỏ ra thần phục, còn đối với Đại Việt thì họ luôn giữ tình thân hữu[8]. Ông thường sai sứ giả sang sứ Đại Việt vào năm 1293 và 1301[9].

          Về phía Đại Việt thì vào năm 1293 Trần Nhân Tông truyền ngôi lại cho vua Trần Anh Tông về làm thượng hoàng và đi tu ở núi Yên Tử. Trong giai đoạn này Thượng Hoàng Nhân Tông cũng như vua Anh Tông đều chủ trương giao hảo với Chăm Pa, hai bên thường đưa sứ giả qua lại.Thượng Hoàng còn sang thăm Chăm Pa vào năm 1301[10].

          Để cho mối bang giao này càng thêm bền vững cả thượng hoàng Nhân Tông đã gả công chúa Huyền Trân cho vua là Jaya sinhavarman III (Chế Mân),cho dù có bao nhiêu phản đối từ hai phía nhưng xuất phát từ tinh thần coi trọng hòa bình và quyết tâm xây dựng quan hệ thân thiện hơn của Nhân Tông và Jaya sinhavarman III (Chế Mân), cuộc hôn nhân vẫn diển ra vào năm 1306 cho dù lễ vật cưới công chúa này của vua Chăm Pa là hai châu Ô và Lý (Nam Quảng trị và Thừa Thiên huế)[11].

     Nhưng cái chết của vua Jaya sinhavarman III (Chế Mân) vào năm 1307 và sự kiện nhà Trần đưa người sang cướp Huyền Trân công chúa về nước đã làm sụp đổ tất cả mối bang giao thân thiện mà Indravarman V, Jaya sinhavarman III và thượng hoàng Trần Nhân Tông đã dầy công xây dựng bị đổ vở, nó làm cho mối quan hệ thân thiện vốn chỉ được chấp vá này, lại càng rạn nức thêm và khó mà không còn hàn gắn được nữa. Vì sau đó hai bên liên tục chiến tranh cho đến năm 1471.

          Các quốc vương Chăm Pa sau đó liên tục thi hành các chính sách thù địch với Đại Việt và phát động phong trào bài trừ Đại Việt ở hai châu Ô và Lý. Từ vua Chế Chí, Chế Năng, Chế A-Nan và Chế Bồng Nga liên tục phát động các cuộc chiến tranh để Bắc tiến mà mục địch là lấy lại những đất đai mà người Việt đã chiếm đoạt. Nhưng kết quả cuối cùng của các cuộc chiến này thường là chiến thắng giành cho phía Đại Việt[12].

           Đại Việt đã gả công chúa Huyền Trân đổi lấy cả hai châu Ô, Lý nhưng sau đó họ lại cướp công chúa về mà không trả lại hai châu đó. Chúng ta chỉ biết lý do là sợ công chúa bị đưa lên giàn hỏa thiêu. Sau đó Đại Việt đã phải luôn đối phó lại với các cuộc tấn công từ phía Chăm Pa, nhưng chính từ những lần này uy thế của Nhà Trần lại càng mạnh họ, thừa thắng Đại Việt đã hai lần can thiệp vào ngôi vua Chăm Pa và tham vọng đô hộ Chăm Pa[13]. Cho đến khi mà nhân vật Chế Bồng Nga (lên ngôi năm 1360) xuất hiện trong suốt 30 năm sau đó nhân lúc mà Nhà Trần đang suy yếu ông liên tục phát quân đánh phá Đại Việt và bốn lần tấn công vào kinh thành Thăng Long đánh phá, chủ trương của ông là trừng phạt Đại Việt và giành lại được những đất đai đã mất.

          Về phía Đại Việt, họ cũng tiến hành khánh chiến chống quân Chăm Pa từ các đờinhưng nước Đại Việt liên tục thua trận, kinh thành bị tàn phá, dân chúng bị đánh giết, vua Trần Duệ Tông tử Trận. Nhà Trần đang suy yếu: vua, quan lại, tướng sĩ bất tài chỉ biết tháo chạy mỗi khi mà quân Chăm Pa đánh đến.

            Năm 1390 Nhà Trần tưởng như đang đứng trước nguy cơ sụp đổ, thì Chế Bồng Nga bị tử Trận, vương quốc Chăm Pa không có người lãnh đạo, suy yếu nhanh chống, sức mạnh của đất nước do vua Chế Bồng Nga tạo nên tan vở. Nhân thời biến động đó Tể Tướng Nhà Trần Hồ Quý Ly liền cho quân đánh Chăm Pa (vào các năm 1391 và 1396) giành lại thế chủ động trước Chăm Pa[14].

          Như vậy có thể thấy từ khi mới Nhà Trần Thành lập, phía Chăm Pa chủ trương đối đầu với Đại Việt, nhưng sau năm 1252 Chăm Pa lại thực hiện chính sách ngoại giao tốt đẹp với Đại Việt, hai nước cùng kháng chiến chồng Mông-Nguyên, gắn chặt tình cảm bằng cuộc hôn nhân giữa vua Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa. nhưng mọi thứ đều thay đổi từ sau năm 1307, các vua Chăm Pa liên tục phát binh đánh Đại Việt cho đến năm 1390 mới thôi.

          Về phía Đại Việt thì lúc đầu vua Trần Thái Tông chủ trương, giao thiệp với người Chăm Pa nhưng những hành động đánh phá của Chăm Pa, buộc ông phải lên tiếng nhắc nhở Chăm Pa, cuối cùng thì phát động chiến tranh trừng trị Chăm Pa. Sau sự kiện đó cũng như phía Chăm Pa hai bên chủ trương thuận hòa, các vua nhà Trần thi hành nhiều chính sách thúc đẩy mối quan hệ hai nước. Nhưng từ sau khi Đại Việt cướp công chúa Huyền Trần về nước thì mọi sự đã thay đội Nhà Trần từ đó luôn đối chọi với các cuộc trả thù của Chăm Pa, nhân đó các vua Trần lại thừa cơ chinh phạt Chăm Pa bắt vua Chế Chí, nhúng tay vào ngôi vua Chăm Pa mà mục tiêu là biến nước này thành nước phụ thuộc vào Đại Việt.

           Cho đến khi mà Chế Bồng Nga xuất hiện thì Đại Việt lại liên tục phải đối phó với các cuộc đánh chiếm của Chăm Pa, cho dù vua tôi nhà Trần đã cố gắn kháng chiến nhưng liên tục thất bại, nhà Trần không có một giải pháp nào để đối phó. Vua, tôi nhà Trần chỉ biết tháo chạy, để dân chúng bị quân Chăm Pa đánh giết.Mãi đến khi Chế Bồng Nga chết, Nhà Trần mới dần dần khôi phục lại thế chủ động của mình trước Chăm Pa.

     2. Các sự kiện bang giao tiêu biểu.

      Hợp tác cùng khánh chiến chống Nguyên-Mông:

            Như có nói ở trên vào thời Indravarman V, năm 1882 quân nhà Nguyên sang xâm lược Chăm Pađể làm chủ khu vực hàng hải trọng yếu ở Đông Nam Á và tạo bàn đạp gọng kiềm, bao vây Đại Việt ở hai hướng Bắc và Nam trả thù cho sự thất bại năm 1258[15].Trước sức mạnh của quân Nguyên, quân và dân Chăm Pa rút vào núi rừng thực hiên cuộc kháng chiến lâu dài chống lại nhà Nguyên dưới sự lãnh đạo của ông vua Indravarman V và thái tử Harijit anh hùng. Quân Nguyên sĩ nhiều năm chiếm đóng ở Chăm Pa không quen thủy thổ, thường xuyên bị quân Chăm Pa dùng chiến thuật du kích mà đánh, nên quân Nguyên cũng bị tổn thất nặng nề[16], buộc phải thu quân về phía Bắc mà đánh Đại Việt.

          Trong lúc này nhầm chi viện cho Toa Đô đang đánh Chăm Pa ở phía Nam thì vua Nguyên quyết định mượn đường sang Đại Việt, rồi đánh xuống Chăm Pa, vua tôi nhà Trần không đồng ý. Điều này khiến cho Nguyên Thế Tổ phải cử Trấn Nam Vương Thoát Hoanmượn cớ đánh Chăm Pa mà sang đánh Đại Việt vào năm 1284. Ở Phía nam đám tàn quân từ Chăm Pa của Toa Đô đánh lên phối hợp với cánh quân ở Phía bắc, tạo gọng kiềm đánh Đại Việt từ hai phía[17]. Nhà Trần trước sức mạnh của kẻ thù đã rút quân bảo toàn lực lượng mà kháng chiến lâu dài nhờ đó mà kháng chiến thắng lợi[18].Cuộc kháng chiến chống đế chế Mông – Nguyên hùng mạnh của nhân dân hai nước thắng lợi.

Cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên của cả hai dân tộc trên là vấn đề có tính tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc nhau một cách chặt chẽ. Vì rằng mục tiêu lúc đầu của cuộc chiến tranh này chính là Chăm Pa chứ không phải là Đại Việt.Nếu như Chăm Pa một nước ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á bị thôn tính thì nhà Nguyên sẽ bắt đầu bành trướng xa hơn trên toàn Đông Nam Á, bắt đầu nắm được khu vực địa chiến lược quan trọng ở giữa Biển Đông, nắm được con đường thương mại quan trọng từ Trung Nguyên, đến khu vực Nam Á và xa hơn là Trung Đông và Bắc Phi.

           Đối với Đại Việt nếu như không có Cuộc kháng chiến của nhân dân Chăm Pa thì khi mà nước này bị thôn tính, thì nhà Nguyên có thể bao vây Đại Việt từ phía nam, lẫn phía bắc.Chính cuộc kháng Chiến của Chăm Pa cũng làm suy yếu đám tàn quân của tướng Toa Đô âm mưu đánh lên Đại Việt từ phía Nam.

           Mặt khác cuộc kháng chiến của Đại Việt thành công tạo điều kiện cho Chăm Pa hoàn toàn giải phóng, và cũng chính nhờ thái độ cương quyết không cho nhà Nguyên mượn đất sang đánh Chiêm Thành mà nhân dân Chăm Pa kháng chiến thành công. Đó đúng là một dấu ấn đáng ghi nhận trong tình thân hữu và bang giao tốt đẹp của hai nước, hai dân tộc.

Hôn nhân giữa vua Chế Mân và Huyền Trân Công Chúa:

           Ngay sau cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên cả hai bên đều quyết tâm xây dựng mối quan hệ giao hảo và thân thiện giữa hai dân tộc,với quyết tâm thắt chặt thêm tình đoàn kết và giao hảo tốt đẹp giữa hai quốc gia.Năm 1301 vua Chế Mân đã cử sứ giả sang tặng lễ vật cho thượng Hoàng Nhân Tông và vua Anh Tông, nhân đó đoàn sứ giả cũng mời thượng hoàng Nhân Tông sang thăm Chăm Pa[19].

          Thượng hoàng sang Chăm Pa thăm thú mọi nơi, tìm hiểu phong tục tập quán của Chăm Pa, được vua Jaya sinhavarman III (Chề Mân) và nhân dân tiếp đãi nồng hậu. Thượng hoàng ở lại đó khoảng 9 tháng rồi về, trước khi về có hứa gả cho vua Chăm Pa một người con gái của mình[20]. Cho dù chịu  phản ứng của các quan  đại thần trong triều và dân chúng Đại Việt, vì thế cuộc hôn nhân này đã phải trải qua một quá trình thương thuyết lâu dài.Cho dù vậy với quyết tâm xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa bang giao hai nước, thượng hoàng Nhân Tông vẫn gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế Mân.Nhưng để có cuộc hôn nhân này thì vua Chăm Pa đã phải đánh đổi hai châu Ô và Lý[21][22].

           Huyền Trân Công Chúa khi sang Chăm Pa được Vua Chế Mân phong là Paramecvari, khoảng một năm sau thì vua Jaya sinhavarman III (Chế Mân) qua đời[23]. Năm 1307 vua Anh Tông sai Trần Khắc Chung và sang Chăm Pa cướp Công Chúa Huyền Trân về nước vì sợ công chúa bị đưa lên giàn hỏa thiêu cùng với vua Chăm Pa theo phong tục, Đến một năm sau thì công chúa và thế tử Đa Da mới về đến Đại Việt[24]. Hôm nay sự kiện này vẫn còn nhiều tranh luận[25].

           Điều này chính là lý do khiến cho mối quan hệ hữu nghị mà các vua Chăm Pa Indravarman V, Jaya sinhavarman III và vua Trần Nhân Tông đã dầy công xây dựng bị sụp đổ mà nguyên nhân chính tử Đại Việt. Chính từ đó mà mối quan hệ hai nước lại càng căng thẳng thế thì sao tránh khỏi việc Chăm Pa thường oán hận, nuôi chí báo thù và sang đánh phá Đại Việt. 

 Giao tranh giai đoạn 1307-1360:

          Sau khi mà vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân) từ trần thì Chế Chí lên nối ngôi, quyết tâm trả thù Đại Việt.Chế Chí thường xuyên sang đánh phá,kích động dân chúng Chăm Pa ở hai châu Ô, châu Lý nổi lên chống lại Đại Việt. năm 1212 Vua Anh Tông thân chinh đi đánh Chăm Pa, kết quả là vua Chăm Pa bị bắt và đêm về Đại Việt và chết tại Gia Lâm (Hà Nội) năm 1313. Tiếp theo đó một ông vua chưa rỏ tên Phạn ngữ mà sử Việt gọi là Chế Năng lên nối ngôi[26].

           Năm 1313 nhân lúc vua Anh Tông nhường ngôi cho Trần Minh Tông, Chế Năng lại tiếp tục sang đánh Đại Việt, cố gắng chiếm lại các các khu vực ở phía Bắc, nhưng bị đánh bại vào năm 1318. Chế Năng phải sang lánh nạn tại Java (nay là Inđônêxia). Chính lúc này vua Đại Việt lại lập Chế A-nan lên ngôi vua, sự kiện này khẳng định sự can thiệp trực tiếp của nhà Trần vào chính sự của vương quốc Chăm Pa, biến Chăm Pa thành thuộc quốc. Nhưng cũng chính Chế A- nan đã có ý định lợi dụng nhà Nguyên để thoát khỏi sự ảnh hưởng của Đại Việt và vào năm 1326 nhờ đánh bại được quân đội Đại Việt mà Chăm Pa khôi phục được nền độc lập và chấm dứt nghĩa vụ chư hầu với nước Việt[27].

          Năm 1342 vua Chăm Pa là Chế A-nan mất, người con rể và là tể tướng của ông là Trà Hoa Bồ Đề đã cướp quyền của người thừa kế ngôi vua là Chế Mổ ( con của Chế A-nan). Chế Mổ sang quy phụ Đại Việt và nhờ vua Trần giúp giành lại ngôi vương[28].

Thế là năm 1353 vua Trần Dụ Tông (lên ngôi năm 1341) cử đại binh đưa Chế Mổ về nước giành lại quyền lực nhưng không thành công, đua Chế Mổ về lại Đại Việt. Sau đó thì Chế Mổ chết ở nước Việt ít lâu sau đó. Thấy quân Việt bỏ về Trà Hoa Bồ Đề liền vào đánh Hóa Châu giành lại những vùng đất mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt nhưng không được, vua Trần đưa Trương Hán Siêu vào Hóa Châu[29].

Như vậy sau năm 1307 Chăm Pa liên tục tấn công Đại Việt, giành lấy những gì đã mất.Nhưng bấy nhiêu lần đều thất bại trước quân đội Đại Việt, vua Nhà Trần có điều kiên can thiệp vào công việc Chăm Pa cho đến khi Chế A-Nan giành lại tự chủ.

Chế Bồng Nga mấy lần chinh phạt Đại Việt-chiếm cứ Thăng Long:

Trần Dụ Tông (1336 – 1369) được thượng hoàng Minh Tông lập nên, làm vua từ năm 1341 đến 1369.Sau khi ông lên ngôi Thái thượng hoàng Trần Minh Tông nắm mọi quyền bính, do đó đất nước ổn định. Nhưng sau khi Thượng hoàng qua đời, Dụ Tông đích thân chấp chính từ đó Nhà Trần dần suy yếu (vua, quan thì lo hưởng khoái lạc, chính trị sa sút, dân chúng khổ sở)[30].

     Về phía nước Chăm Pa thi năm 1360, vua Trà Hoa Bồ Đề qua đời, Chế Bồng Nga được triều thần tôn lên làm vua.Có người cho rằng Chế Bồng Nga là Po Binswar trong Biên Niên Sử Hoàng Gia Chăm. Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ huy nhiều trận đánh vào lãnh thổ nhà Trần[31]. Vừa lên ngôi, ông liền tổ chức lại quân đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần, khi đó đã suy yếu rất nhiều vì những ông vua hôn quân vô đạo như Trần Dụ Tông, nhằm tái chiếm những phần lãnh thổ đã từng nhượng cho nhà Trần (1306).

          Một loạt các biến cố dồn dập đã tạo ra một hố sau càng ngăn cách sự gắn kết của hai dân tộc: Cái chết của vua Chế Mân, người Việt dùng kế cướp Huyền Trân Công Chúa về nước, hai lần can thiệp vào ngôi vua Chăm Pa đầu tiên là đánh đuổi  Chế Năng và lập Chế A- nan, sau đó là đưa quân sang đánh Chăm Pa mưu lập Chế Mổ lên ngôi. Nhưng Nguyên nhân sâu xa hơn của cuộc chiến tranh giữa Đại Việt và Chăm Pa, được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu từ cái chết của vua Chăm Pa Chế Mân năm 1307. Họ cũng cho rằng từ việc nhà Trần cướp lại công chúa Huyền Trân và giam Chế Chí tới chết,từ đó Đại Việt và Chăm Pa từ đó kết thù oán mãi[32].

             Năm 1361 Chế Bồng Nga phát động cuộc chiến tranh với Nhà Trần và sau đó trong những năm 1362, 1365,1266 Chăm Pa cũng sang đánh phá Đại Việthttp://jashaklikei.wordpress.com/2014/04/01/128/#

Posted in: Lịch sử Champa
Be the first person to like this.